Luận văn Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - Thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc

Trong thời gian chín năm qua, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục với nhiều hình thức hợp tác phong phú. Cùng với đà phát triển đó, quan hệ thương mại giữa hai nước đã phát triển vượt bậc với tổng kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng tăng. Nhưng bên cạnh đó, còn tồn tại một số vấn đề cần phải giải quyết trong quan hệ thương mại: trốn thuế, lậu thuế, cán cân thương mại không cân bằng.

pdf69 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2384 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - Thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các bên. - Tỷ lệ các vụ tranh cấp, khiếu nại trong quan hệ buôn bán hai nước ngày càng giảm. Cùng với việc hai nước công bố hàng loạt các biện pháp quản lý và hỗ trợ các loại hình mậu dịch đi vào nề nếp, các đối tác tham gia trao đổi mậu dịch giữa hai nước cũng thay đổi về thành phần. Tỷ lệ các tư thương, công ty tư nhân ngày càng giảm, nhường chỗ cho các đơn vị ngoại thương nhà nước có tiềm lực, có kiến thức kinh nghiệm buôn bán quốc tế và các xí nghiệp, đơn vị sản xuất lớn trực tiếp tham gia trao đổi hàng hóa giữa hai nước. 6. Những vấn đề tồn tại - Vấn đề nhập siêu của phía Việt Nam từ khi mở cửa buôn bán với Trung Quốc, phía Việt Nam hầu như luôn ở tình trạng nhập siêu. Chẳng những như vậy, kim ngạch nhập siêu cũng có chiều hướng tăng dần năm sau cao hơn năm trước; còn nhập khẩu của phía Việt Nam sang Trung Quốc thì ngược lại, có xu hướng giảm dần hàng năm. Dưới đây là mấy con số cụ thể chứng minh cho vấn đề này: 1993 1994 1995 1996 1999 Việt Nam xuất sang TQ 43,4% 3,5% 31,4% 25% (5 tháng đầu năm) 44 22,3% Trung Quốc sang Việt Nam 56,6% 65% 68,6% 75% 77,7% Tổng kim ngạch hai chiều 100% 10-0% 100% 100% 100% Việt Nam nhập siêu 13,2% 30% 37,2% 50% 55,4% Nguyên nhân dẫn đến tình hình Việt Nam nhập siêu của Trung Quốc với tỷ lệ khá cao như trên đã nêu ra trong bảng trên chính là ở chỗ: + Về mặt số lượng mà nói, nhóm hàng và mặt hàng mà phía Trung Quốc xuất sang Việt Nam nhiều gấp 2 lần số nhóm hàng và mặt hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc. + Các loại hàng hóa mà Việt Nam xuất sang Trung Quốc thì đa số là nguyên vật liệu và sản phẩm dưới dạng thô, số đã gia công chế biến còn ít, hơn nữa sản phẩm là máy móc hầu như không có, do đó lượng giá trị càng thấp hơn nhiều so với lương giá trị hàng hóa của Trung Quốc xuất sang Việt Nam. Việt Nam nhập siêu với tỷ lệ khá cao cũng có nghĩa là trong quan hệ buôn bán với Trung Quốc hiện nay, phia Trung Quốc được lợi nhiều hơn phía v gây ra những khó khăn nhất định trong việc thanh toán với các bạn hàng Trung Quốc. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta phải chủ động thương lượng với phía Trung Quốc sao cho họ hiểu rõ vấn đề, tăng thêm việc nhập khẩu nhiều hơn nữa hàng hóa của Việt Nam đồng thời hạn chế mức xuất khẩu hàng hóa sang Việt Nam. Tất nhiên đây là việc làm không đơn giản, vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích thiết thân của phía Trung Quốc. - Tỷ lệ trao đổi mậu dịch chính ngạch giữa hai nước chưa cao lắm. Từ sau khi bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, trao đổi mậu dịch giữa hai nước được thực hiện theo hai phương thức là mậu dịch chính ngạch và mậu dịch tiểu ngạch. Diễn biến và phát triển của kim ngạch và tiểu ngạch giữa hai nước trong mấy năm qua như sau: Năm Kim ngạch XNK chính ngạch Kim ngạch XNK tiểu ngạch Tổng kim ngạch XNK hai chiều Kim ngạch XNK chính ngạch chiếm trong tổng kim ngạch XNK hai chiều 199 97 150 247 trên 39% 45 1 199 2 90 222 312 trên 28,8% 199 3 221,35 92,65 314 trên 70% 199 4 436,61 176,39 613 trên 71% 199 5 638,10 314,50 997,6 trên 68% 199 6 810 340 1150 trên 70% 199 7 1240 khoảng 70% Căn cứ vào số liệu cụ thể nêu ra trong bảng trên, có thể thấy rằng, trong các năm 1991-1992, kim ngạch xuất nhập khẩu chỉnh ngạch ít hơn kim ngạch xuất nhập khẩu tiểu ngạch, chỉ chiếm khoảng trên 39% và 28,8% của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều mà thôi. Bắt đầu từ năm 1993 trở đi cho đến năm 1997, tình hình đã thay đổi so với trước đó, kim ngạch xuất nhập khẩu chính ngạch đã lớn hơn kim ngạch xuất nhập khẩu tiểu ngạch, nhưng vẫn chỉ chiếm khoảng từ 68% đến 71% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều. Trong quan hệ buôn bán với Trung Quốc từ sau ngày 5-11-1991, phía Việt Nam chủ trương đẩy mạnh phát triển mậu dịch chính ngạch, tỷ lệ càng lớn càng tốt. Còn phía Trung Quốc thì ngược lại, mốn đẩy mạnh và phát triển mậu dịch tiểu ngạch ưu tiên ưu đãi về thuế xuất khẩu thấp (hoặc miễn thuế)... Vì chủ trương chính sách của hai phía khác nhau, nên nguyên vọng của phía Việt Nam mong muốn nâng tỷ lệ xuất nhập khẩu chính ngạch cao hơn con số trên dưới 70% gặp nhiều khó khăn. Vấn đềnày đã được nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười nêu ra với các đồng chí lãnh đạo cấp caoc ảu Trung Quốc trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc vào giữa tháng 7 năm 1997 là:hai nước cần tăng cường buôn bán chính ngạch hơn nữa, như thế là có lợi cho cả hai bên. Phía Trung Quốc đã ghi nhận đề nghị đó của phía Việt Nam. Chúng ta hy vọng thời gian tới, tỷ lệ buôn bán chính ngạch giữa hai nước có thể tăng cao hơn con số 70-71%. 46 - Hoạt động buôn lậu hàng hóa qua biên giới hai nước (cả biên giới trên đất liền lẫn trong vịnh Bắc Bộ), gây nhiều thiệt hại cho phía Nam. Loại hoạt động buôn lậu bất hợp pháp này xuất hiện ngay từ khi biên giới hai nước được mở cửa vào cuối năm 1988, kéo dài liên tục cho đến nay. Hoạt động buôn lậu hàng hóa qua biên giới diễn ra theo hai cheieù, từ Trung Quốc sang Việt Nam và từ Việt Nam sang Trung Quốc. Bọn buôn lậu mua hàng hóa từ Trung Quốc đem qua biên giới hai nước trốn lậu thuế rồi đưa vào nội địa Việt Nam để tiêu thụ. Hàng hóa buôn lậu từ Trung Quốc đưa vào Việt Nam, gồm nhiều thứ như vải các loại, hàng dệt kim và quần áo may sẵn, xe đạp và phụ tùng, quạt điện các loại, đồ dùng nhà bếp, đồ điện dân dụng và hàng điện tử, linh kiện đồng hồ điện tử, kính dân dụng và đồ dùng bằng thủytinh, đồ sứ, gạch men các loại, bánh kẹo, rượu ngoại, giầy da, băng video, đĩa C.D, tân dược, đồ chơi trẻ em (như súng ống, kiếm, xe tăng, máy bay),... Có tài liệu cho biết: có đến 70-80% số hàng hóa nhập lậu tránh được sự kiểm tra ngăn chặn của hải quan và cơ quan quản lý thị trường của nhà nước lọt vào nội địa tiêu thụ với giá rẻ hơn giá cả hàng hóa cùng loại sản xuất ở trong nước. Trong số những mặt hàng nhập lậu nêu trên thì có nhiều thứ Việt Nam đánh thuế nhập khẩu cao và không khuyến khích nhập khẩu vì ở trong nước đã sản xuất được, có một số mặt hàng phía Việt Nam cấm nhập khẩu,... Khối lượng và giá trị của số hàng hóa nhập lậu từ Trung Quốc đưa vào Việt Nam là khá lớn, bằng 1/3 kim ngạch xuất khẩu chính ngạch và tiểu ngạch của các năm 1990-1993 hoặc lớn hơn, bằng 1/3 kim ngạch xuất khẩu chính ngạch và tiểu ngạch của các năm 1990-1993 hoặc lớn hơn, như năm 1996 lên đến 500 triệu USD (gần 1/2 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều năm đó). Những mặt hàng Việt Nam bị buôn lậu đưa sang bán tại Trung Quốc (chủ yếu là ở khu tự trị, dân tộc Choang Quảng Tây) gồm có: gạo, kim loại màu, gỗ quý cấm xuất khẩu (như gỗ Pơmu, gỗ nghiến), vàng, ngoại tệ mạnh (USD), đặc biệt là nhiều loại thú rừng quý hiếm là tài sản quốc gia cần được bảo vệ và nuôi dưỡng, cấm săn bắt và xuất khẩu ra nước 47 ngoài. Số lượng của loại "thú rừng quý hiếm" bị bắt đem sang Trung Quốc trong mấy năm qua là khá lớn không thống kê được. Ở đây xin nêu ra một vài ví dụ cụ thể: Vào tháng 3-1997, công an và quản lý thị trường của ta bắt được một xe ô tô chở động vật quý hiếm xuất lậu sang Trung Quốc, bao gồm: 653 kg rắn các loại, 535 tê tê, 24 con rùa, 11 con kỳ đà, 60 con chim móng két..., vào tháng 10-1997, hải quan Móng Cái bắt được 1 xe ô tô chờ động vật hoang dã quý hiếm đang trên đường xuất lậu sang Trung Quốc, bao gồm: tê tê, kỳ đà, chồn, cào cào, cầy, rùa, rắn,... tổng cộng đến 2.900 kg, trị giá khoảng 400 triệu đồng Việt Nam. Có đến hàng trăm vụ buôn lậu như thế này đã trốn tránh được sự kiểm soát và ngăn chặn của phía Việt Nam ddưa sang Trung Quốc bán kiếm lời. Trong nhiều năm qua, hoạt động buôn lậu qua biên giới hai nước đã gây thiệt hại to lớn cho phía Việt Nam: + Số lượng thếu xuất nhập khẩu mà Nhà nước thất thu là khá lớn, nw năm 1996 chẳng hạn, giá trị số hàng xuất nhập lậu qua biên giới khoảng 500 triệu USD, nhưng số lượng bị các lực lượng quản lý thị trường và liên ngành của Việt Nam tịch thu và xử lý chỉ vào khoảng 30 tỷ đồng Việt Nam (chưa đến 3 triệu USD) quả thật là rất ít. + Hàng hóa của Trung Quốc nhập lậu vào Việt Nam bán với giá rẻ đã ảnh hưởng nhiều đến sản xuất ở trong nước, nhất là mấy năm đầu sau khi quan hệ hai nước bình thường hóa, quy mô sản xuất bị thu hẹp, người lao động mất việc làm... Có người nước ngoài đã đưa ra nhận xét như sau: "ở Việt Nam mới vừa bắt đầu chính sách đổi mới và mở cửa, thì các spc ảu Trung Quốc cũng đã bắt đầu bóp chết nhiều ngành công nghiệp của nước này". + Bọn buôn lậu dùng tiền bạc để mua chuộc đã khiến cho một số cán bộ trong các ngành hải quan thuế vụ, quản lý thị trường... bị thoái hóa biến chất cho hàng hóa nhập lậu của chúng ta biên giới lọt vào nội địa. 48 Thời gian gần đây, để chống buôn lậu và gian lận thương mại, phía Việt Nam đã thi hành một số biện pháp khá kiên quyết như thực hiện việc dán tem đối với một số hàng mặt hàng nhập của nước ngoài, như xe đạp, quạt điện, rượu ngoại, ti vi, tủ lạnh, đầu video, động cơ nhỏ, gạch men các loại... Biện pháp nói trên đã thu được một số kết quả ban đầu. Thiết nghĩ, cần phải thực hiện một số biện pháp cứng rắn hơn nữa thì mới hy vọng có thể ngăn chặn được hoạt động buôn lâụ nói chung và qua bên giới Việt - Trung. - Thời gian qua, trong buôn bán xuất nhập khẩu với Trung Quốc, nhất là buôn bán xuất nhập khẩu tiểu ngạch do chúng ta quá tin tưởng vào các bạn hàng Trung Quốc, còn thiếu kinh nghiệm trong buôn bán xuất nhập khẩu với nước ngoài, đặc biệt là khâu tổ chức và quản lý vĩ mô của chúng ta chưa được tốt, còn mang tính tự phát và cục bộ, có nhiều đối tượng thuộc các thành phần kinh tế của các địa phương tham gia vào buôn bán xuất nhập khẩu qua biên giới với Trung Quốc theo kiểu "mạnh ai nấylàm" và tranh nhau khách hàng... cho nên phía Việt Nam đã bị thua thiệt về nhiều mặt, một số doanh nghiệp của chúng ta đã mua phải hàng hóa chất lượng thấp và thiết bị máy móc cũ và không đồng bộ với giá caó, mang về nước phải sửa chữa lại mới sử dụng được. Một số doanh nghiệp Việt Nam khi bán hàng hóa cho phái đối táng Trung Quốc, đã bị họ hạ cấp và ép giá để mua rẻ, lấy hàng trước trả tiền sau chiếm dụng vốn, nợ đọngkéo dài thua đơn thiệp kép. Đó là những biểu hiện mua bán qua biên giới không lành mạnh, không chính đáng và bất bình đẳng, không có lợi cho việc trao đổi mậu dịch chung giữa hai nước. Muốn khắc phục tình trạng nói trên, thì cần phải tăng cường sự quản lý và chỉ đạo thống nhất của các cơ quan có thẩm quyền đối với mục hoạt động mua bán xuất nhập khẩu tiểu ngạch qua biên giới thực hiện nghiêm túc việc thanh toán mua bán xuất nhập khẩu qua biên giới thông qua ngân hàng của hai nước đặt tại vùng biên giới, tăng cường mậu dịch chính ngạch, hạn chế mậu dịch tiểu ngạch... Mức tăng của kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc vài năm lại đây diễn ra chậm và ở mức thấp như: kim ngạch xuất 49 nhập khẩu hai chiều của năm 1996 chỉ tăng hơn mức của năm 1995 là 100 triệu USD, năm 1997 chỉ tăng hơn mức của năm 1996 là 90 triệu USD. Có tài liệu nói rằng: kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc trong hai tháng đầu năm 1998 đã giảm 20% so với cùng kỳ của năm ngoaí. Đây có thể là do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ diễn ra ở một số nước Đông Nam Á và Đoong Á. Tin chắc là mức kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc sẽ tăng mạnh vào những tháng cuối năm. Về khách quan mà nói, hai nước còn có những tiềm năng để mở rộng và phát triển xuất nhập khẩu song phương. Hy vọng rằng chuyến thăm Trung Quốc gần đây của Thủ tướng Phan Văn Khải thành công tốt đẹp và việc ký kết Hiệp định buônb án hàng hóa ở vùng biên giới, sẽ mở ra một bước phát triển mới của quan hệ Việt - Trung, nhất là quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong thời gian tới, phấn đấu kim ngạch buôn bán 2 tỷ USD vào năm 2000 trong đó có sự cân đối giữa xuất và nhập khẩu. II. QUAN HỆ ĐẦU TƯ 1. Hạng mục và cơ cấu đầu tư Từ năm 1991 đến năm 1998 hai bên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các xí nghiệp lớn tích cực tham gia hợp tác kinh tế. Đến cuối năm 1997, các đơn vị Trung Quốc đã đầu tư 41 hạng mục công trình ở Việt Nam với tổng kim ngạch ước tính 102 triệu USD, đứng thứ 21 trong số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Trong đó dự án đầu tư lớn nhất là xây dựng khu chế xuất Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh với vốn đầu tư cả hai bên là 14 triệu USD, tiếp đó là nhà máy thép Hải Phòng với vốn đầu tư là 9,7triệu USD. Tính đến cuối quý III năm 1999 Trung Quốc đã đầu tư vào 56 công trình (không tính số dự án đã hủy bỏ) với tôngr số vốn hơn 100 triệu đô la Mỹ, tập trung vào một số ngành dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng và sản phẩm nông nghiệp như: xây dựng văn phòng, nhà ở, giáo dục, y tế nhân dân, thủy tinh, đồ chơi, thuốc lá, kem, thuốc trừ sâu... để tiêu dùng tại thị trường Việt Nam. Trong các hạng mục đầu tư của Trung Quốc phải kể đến 50 hai công trình lớn là khu chế xuất Linh Trung và chợ Sắt ở Hải Phòng 915,5 triệu USD). Cơ cấu đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam có những điểm giống với đầu tư của Trung Quốc trên thế giới và tại các nước ASEAN khác: chủ yếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng do Trung Quốc có kinh nghiệm tích luỹ về lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng tại otj số nước đang phát triển về kinh tế, có đội ngũ kỹ sư và công nhân xây dựng tinh thông nghiệp vụ được tôi luyện trong những năm cải cách kinh tế. Hiện nay hơn 5.000 doanh nghiệp Trung Quốc đang hoạt động tại 120 nước và khu vực với tổng số vốn đầu tư trực tiếp là hơn 5 tỷ đô la Mỹ, tập trung vào lĩnh vực xây dựng các cơ sở hạ tầng, một số nhà máy chế biến nguyên liệu và sản phẩm nông nghiệp. Tại các nước ASEAN có hơn 300 dự án do Trung Quốc đầu tư, chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng. Hiện nay Trung Quốc đứng thứ 24 trong tổng số các nước vào vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với hình thức phong phú: xí nghiệp 100% vốn nước ngoài xí nghiệp liên doanh và hợp doanh và cá ở 3 miền Bắc, Trung, Nam. Tuy với số vốn ít và hạng mục hạn chế trong một số ngành, nhưng các dự án đầu tư của Trung Quốc đã tạo công ăn việc làm cho trên 1.500 lao động trực tiếp tại Việt Nam. Về phía mình, do năng lực còn hạn chế nên số lượng đầu tư của Việt Nam và Trung Quốc không nhiều, chỉ tập trung tại 2 tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Tại Vân Nam, đầu tư của Việt Nam chỉ là 240.000 đô la Mỹ. 2. Những đặc điểm trong quan hệ đầu tư Việt - Trung - Quan hệ đầu tư Việt - Trung chủ yếu là quan hệ một chiều từ Trung Quốc sang Việt Nam do năng lực tài chính của Việt Nam quá nhỏ bé so với Trung Quốc. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam chỉ ở mức khiêm tốn trong khi Trung Quốc có dự trữ ngoại tệ hơn 154 tỷ đô la Mỹ đứng thứ hai thế giới. - Đầu tư của Trung Quốc chiếm tỷ trọng nhỏ cả về số lượng dự án và tổng sốvốn đầu tư (khoảng 2% dự án và 3% số vốn đầu tư trong tổng số 51 dự án và tổn số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam). Sở dì có tình trạng như vậy là do: (a) Các doanh nghiệp lớn của Trung Quốc chưa thật sự coi trọng thị trường Việt Nam; (b) Các công ty vừa và nhỏ của Trung Quốc thường không đủ năng lực cạnh tranh với các công ty khác trong việc đấu thầu đối với các cộng trình gọi thầu tại Việt Nam; (c) Tác động của khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á, từ năm 1977 Việt Nam giảm bớt xây dựng các công trình hạ tầng - mặt mạnh trong đầu tư của Trung Quốc; (d) Lĩnh vực xây dựng mà Trung Quốc mong muốn đầu tư là lĩnh vực mà Việt Nam có nhiều năng lực; (e) Một số thủ tục hành chính ở Việt Nam còn phiền hà. - Quy mô đầu tư của một số dự án ở mức thấp nhất, 60% các công trình có tổng số vốn không quá 1 triệu đô la Mỹ. Bình quân một số dự án đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam chỉ có mức vốn là 2,3 triệu đô la Mỹ, thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân 16,6 triệu đô la Mỹ trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sở dĩ có tình trạng như vậy do đầu tư của Trung Quốc chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với năng lực tài chính hạn chế so với các công ty nước ngoài khác. - Các xí nghiệp đầu tư của Trung Quốc đều nhằm tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt Nam, không xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba. Sở dĩ như vậy là do: (a) Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước có hàng hóa xuất khẩu dựa trên lợi thế so sánh và giá nhân công rẻ; (b) Như trên đã phân tich chủ đầu tư Trung Quốc tại thị trường Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ - những người quan tâm đến cung cấp hàng tại chỗ, thay thế hàng nhập khẩu tại Việt Nam, chưa đủ sức tới việc xuất khẩu hàng hóa ra bên ngoài. 3. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam Hạng mục đầu tư liên doah đầu tiên giữa một doanh nghiệp Trung Quốc với một doanh nghiệp Việt Nam được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam là nhà ăn Trung Quốc mang tên "Hoa Long" tại phố Hàng Trống Hà Nội (Giấy phép số 274, cấp ngày 25-11-1991, tổng số vốn đầu tư 200.000 USD). Như vậy là, ngay sau khi quan hệ hai được được bình thường hóa thì doanh nghiệp của Trung Quốc đã đầu tư trực tiếp vào Việt 52 Nam. Trong những năm tháng tiếp theo, số hạng mục đầu tư trực tiếp của xí nghiệp và công ty Trung Quốc vào Việt Nam tăng dần. Dưới đây là một số tình hình và con số cụ thể: * Tính đến tháng 12 năm 199: Tổng số dự án: 1 - Tổng vốn đầu tư: 2.000.000 USD. * Tính đến tháng 12 năm 1992: Tổng dự án: 10 - Tổng vốn đầu tư: 3.044.143 USD. * Tính đến tháng 12 năm 1994: Tổng số dự án: 22 - Tổng vốn đầu tư: 60 triệu USD. * Tính đến tháng 6 năm 1997: Tổng số dứan: 42 - Tổng vốn đầu tư 66 triệu USD. * Tính đến quý III năm 1999: Tổng số dự án: 56 - Tổng vốn đầu tư: hơn 100 triệu USD. Tính đến giữa năm 1997, các địa phương sau đâycủa Trung Quốc đã có xí nghiệp và công ty đầu tư trực tiếp vào Việt Nam: Quảng Tây, Quảng Đông (Tham Quyến, Chu Hải...) Hải Nam, vùng Đông Bắc Trung Quốc, Hà Bắc, Vân Nam, Bắc Kinh... Trong số các địa phwong Trung Quốc nói trên thì khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây là nơi có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhất tại Việt Nam, thí dụ trong tổng số 33 dự án đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam tính đến cuối năm 1995 thì trong đó có 18 dự án là của Quảng Tây, chiếm trên 54%. Cũng tính đến giữa năm 1997, các tỉnh, thành phố và thị xã sau đây của Việt Nam đã tiếp nhận dự án đầu tư trực tiếp của phía Trung Quốc: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Hà (cũ), Thái Bình, Hòa Bình, Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Nguyên, Sơn Tây, Thanh Hóa, Sông Bé, thành phố Hồ Chí Minh... Trong đó, Hà Nội, Quảng Ninh là hai nơi tiếp nhận nhiều dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc hơn những nơi khác. 53 Các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong thời gian qua, chủ yếu nhằm vào các lĩnh vực sau đây: Khách sạn và nhà hàng các món ăn của Trung Quốc, in mác nhãn bao bì thực phẩm, tráng gương và gia công các loại kính, gia công chế biến xuất khẩu, vận tải quá cảnh bằng ô tô, sản xuất kinh doanh thuốc trừ sâu, sản xuất giấy dầu lợp nhà, sản xuất lắp ráp máy đến tiền và các thiết bị có liên quan đến ngân hàng, sản xuất đầu lọc thuốc lá, sản xuất thức ăn gia súc, khai thác sản xuất ván sàn và các sản phẩm từ tre nứa, chế biến thực phẩm, sản xuất nước tinh lọc và nước giải khát từ hoa quả, may mặc quần áo quy mô nhỏ, sản xuất và bán rượu trắng, khai thác quặng cromít (Cổ Định, Thanh Hóa), đấu thầu xây dựng nền móng công trình có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, sản xuất gạch men sứ, sản xuất giấy vệ sinh, đầu tư xây dựng chợ thương mại (chợ Sắt ở Hải Phòng), sản xuất đèn nê-ông quảng cáo và đèn ánh sáng trắng, sản xuất và bán thuốc bắc của Trung Quốc, sản xuất tôm cua cá giống,... Tổng cộng trên dưới 25 lĩnh vực sản xuất và ngành nghề kinh doanh khác nhau. Từ tình hình nêu ra trên đây, chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét ban đầu về đặc điểm và tính chất trong hoạt động đầu tư trực tiếp của một số doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam từ cuối 1991 đầu 1992 đến nay. + Tốc độ đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp và công ty Trung Quốc vào Việt Nam còn chậm, số lượng hạng mục đầu tư ít, tổng số vốn đầu tư cũng chưa nhiều, khiến cho đến nay Trung Quốc vẫn đứng ở vị trí trong tổng số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam tính đến nay. + Quy mô của các dự án đầu tư nhỏ bé, vốn đầu tư trung bình cho đến 1 dự án chỉ trên dưới 1 triệu USD. Điều đáng lưu ý là, trong đó có một số dự án có số vốn đầu tư quá nhỏ, chỉ trên dưới 100.000 USD. Xin đơn cử một số dự án cụ thể: * Công ty liên doanh khách sạn: "Hưng Giang" tại thị xã Bắc Giang (giữa doanh nghiệp của Hà Bắc với doanh nghiệp của Quảng Tây, giấy phép số 329 cấp ngày 26-2-1992, tổng vốn đầu tư là 80.000 USD). 54 * Xí nghiệp liên doanh kính Long Giang tại Hà Nội (giữa nhà máy của Hà Nội với một công ty của Nam Ninh - Quảng Tây, Trung Quốc, giấy pép số 342, cấp ngày 26-3-992, tổng vốn đầu tư là 99.463 USD). * Công ty liên doanh chè Việt - Hoa, tại Quảng Ninh (giữa nhà máy của Quảng Ninh với công ty xuất nhập khẩu thô súc sản của Khôm Châu - Quảng Tây, giấy phép số 344, cấp ngày 14-4-1992, tổng số vốn đầu tư là 107.680 USD)... Số dự án liên doanh có tổng vốn đầu tư từ 1 triệu USD trở lên cũng không nhiều, trong tổng số 42 (hoặc 46) dự án liên doanh Trung Quốc - Việt Nam đã được Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam cấp giấy phép tính đến giữa năm 1997, trong đó, số liệu cụ thể về tổng số vốn đầu tư của 33 dự án, thì chỉ có 12 dự án có tổng vốn đầu tư là trên 1 triệu USD chiếm hơn 36%, trong đó chỉ có 1 dự án đầu tư theo đăng ký là trên 7 triệu USD, một dự án trên 5 triệu USD, 3 dự án trên 4 triệu USD, 1 dự án trên 3 triệu USD, 2 dự án trên 2 triệu USD, số còn lại là 1 triệu và dưới 1 triệu USD. Như thế cũng có nghĩa là các dự án liên doanh nói trên tuy cũng có những đóng góp nhất định cho xây dựng và phát triển kinh tế của Việt Nam tạo ra một số công ăn việc làm mới cho người lao động Việt Nam trong mấy năm qua, nhưng phải nói rằng tổng góp đó còn nhỏ bé và bị hạn chế nhiều, chưa tương xứng với tầm vóc kinh tế của Trung Quốc hiện nay. * Tuyệt đại đa số các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam trong thời gian qua là dự án liên doanh với phía doanh nghiệp, công ty của Việt Nam. Trong số đó có cả thành phần của Hồng Kông như: - Công ty liên doanh xây dựng Hà Nội - Bắc Kinh; giấy phép số 1362, cấp ngày 29-8-1985, vốn đầu tư 2.000.000 USD, gồm: Công ty xây dựng thuộc Sở xây dựng Hà Nội, tập đoàn xây dựng thành phố Bắc Kinh và Công ty du lịch Bắc Kinh, Công ty Ebim Development Ltd. Hồng Kông. - Công ty liên doanh vận tải Việt-Quế, vốn đầu tư 500.000 USD, gồm: Công ty vận tải đường ông I của Việt Nam, Công ty Hợp tác kinh tế kỹ thuật Nam Định - Trung Quốc và Công ty hữu hạn Hán Hãn của Hồng 55 Kông, thời gian liên doanh nói chung ngắn (từ 5 năm, 8 năm, 10 năm đến 20 năm là cao nhất). Tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh Trung - Việt nhìn chung xê dịch trong khoảng 40/50, 50/50. Cho đến nay mới chỉ có một vài dự án là 100% vốn của Trung Quốc, trong đó có cả liên doanh với phái nước ngoài khác. Ví dụ: Công ty "Hồng Dương" 100% vốn đầu tư (997.670 USD) là của công ty trách nhiệm hữu hạn mậu dịch Hoàng Dương - Nam Ninh, Trung Quốc, tiến hành sản xuất kinh doanh nước giải khát chế biến từ hoa quả, sản xuất kem, nước uống tinh khiết; xí nhiệp Hằng Tín (ở Hải Phòng) là 100% vốn của Trung Quốc, liên doanh với Singapore, tiến hành sản xuất lắp ráp máy đèn tiền và lắp đặt các thiết bị liên quan đến ngân hàng. - Các Công ty liên doanh Trung Quốc - Việt Nam tiến hành sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như đã nêu ra ở phần trên, song nhiều nhất vẫn là nhà hàng ăn Trung Quốc và khách sạn (riêng ở thành phố Hà Nội đã có đến bốn năm nhà hàng và khách sạn Trung Quốc, như: Hoa Long, Hà Quảng, Hải Yến, Ngọc Khánh, Kinh Đô,..., sản xuất công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng hàng ngày, vốn đầu tư ít, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, kỹ thuật và công nghệ sản xuất thuộc loại thông thường, không tiên tiến và hiện đại giống như của các nước ASEAN Nhật Bản và phương Tây khác đầu tư trực tiếp ở Việt Nam. Cho đến nay chưa thấy có những công ty và tập đoàn kinh tế lớn của phía Trung Quốc đầu tư những dự án quy mô lớn có vốn đầu tư trên 10 triệu USD vào trong các lĩnh vực khai thác nông, công nghiệp hoặc tham gia xây dựng công trình hạ tầng cơ sở mà phía Việt Nam rất cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ nay đến năm 2020. Trái lại, như đã nêu ở phần trên, nhiều công ty xí nghiệp của Trung Quốc đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thời gian qua là của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, mà Quảng Tây thì lại là một trong những tỉnh, khu tự trị dân tộc và thành phố nghèo nhất của Trung Quốc thực lực kinh tế có hạn, trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất chưa tiên tiến và hiện đại bằng Bắc Kinh, Thượng hải, Thiên Tân, Quảng Đông... 56 Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam trong mấy năm qua còn ít về số lượng dự án đầu tư, quy mô của mỗi dự án cũng rất nhỏ như đã nêu ra ở trên, đây là mộtt ựhc tế phái Trung Quốc có ý kiến cho rằng: "Trung Quốc - Việt Nam từ sau những năm 70 đến đầu những năm 90, luôn luôn ở trong tình trạng cách biệt, đến lúc quay lại hợp tác tốt với nhau thì thế giới đã có những thay đổi sâu sắc, cả hai nước đều cần có một quá trình tìm hiểu và giải thích trở lại. Việt Nam vốn cho rằng Trung Quốc sẽ giúp đỡ và đầu tư kinh tế kỹ thuật lớn, nhưng vì Trung Quốc đang xây dựng hiện đại hóa quy mô lớn, thiếu vốn, không thể đáp ứng yêu cầu của phía Việt Nam. Trung Quốc lại đang ở trong thời kỳ quá độ từ kinh tế kế hoạch chuyển sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đầu tư không còn là việc của chính phủ nữa. Trong khi đó, đa số các xí nghiệp lại chưa được quyền tự chủ về đầu tư. Vì thế, Trung Quốc đến Việt Nam khảo sát thì nhiều, nhưng thực hiện các dự án thì ít". Giải thích trên của học giả Trung Quốc chỉ đúng một phần, cần phải xem xét vấn đề từ những khía cạnh khác nữa với những ý kiến và cách nhìn khách quan. - Khi phía Trung Quốc tiến hành đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thì ở Việt Nam đã có nhiều công ty xí nghiệp của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Âu - Mỹ... đã và đang triển khai hoạt động đầu tư của họ. Những nước này có nhiều tiền vốn, kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến hiện đại, lại có tầm nhìn xa và lâu dài hơn, dám bỏ ra hàng chục triệu, hàng trăm triệu USD hoặc nhiều hơn nữa vào các dự án có quy mô lớn, thời gian hoạt động dài từ 30 năm đến 50 năm. Trong tình hình đó, các doanh nghiệp Trung Quốc buộc phải tính toán kỹ lưỡng, đầu tư vào những lĩnh vựuc sản xuất kinh doanh nào mà hiện nay Việt Nam có nhu cầu nhưng lại không phải cạnh tranh với các nước tư bản chủ nghĩa nói trên, hơn nữa phải phù hợp với mục tiêu đầu tư vốn ra nước ngoài của Trung Quốc. Về vấn đề, một học giả Mỹ đã đưa ra ý kiến như sau: "Mức độ đầu tư và mậu dịch của Trung Quốc tại Việt Nam là phù hợp với nhau, nói chung đều là quy mô nhỏ... Mục đích đầu tư chủ yếu của Trung Quốc (tại Việt Nam) là thúc đẩy mậu dịch...". Có thể lý giải ý kiến nêu ra trên đây với nội dung cụ thể như sau: Đầu tư trực tiếp của các xí nghiệp và công ty của Trung Quốc 57 tại Việt Nam: một mặt, sản phẩm sản xuất ra phải bán tại thị trường Việt Nam (có một số thứ mà Trung Quốc cần đến, như quặng crômit ở Thanh Hóa thì xuất sang Trung Quốc); mặt khác phải tìm cách để mở rộng được thị trường Việt Nam để cho hàng hóa của Trung Quốc bán sang đó càng nhiều càng tốt. Nhìn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của các liên doanh Trung -Việt đã triển khai trong mấy năm qua ở Việt Nam mà chúng tôi đã liệt kê ở phần trên, thấy đúng như ý kiến nhận định của học giả Mỹ nêu ra. Chẳng hạn, các liên doanh tráng gương và gia công các loại kính, sản xuất giấy dầu lợp nhà, sản xuất đèn nê-ông trang trí quảng cáo, sản xuất mua bán đông dược, may mặc, khai thác quặng crômit ở Cổ Định Thanh Hóa (sản phẩm do phía Trung Quốc bao tiêu), sản xuất gạch men sứ, sản xuất giấy vệ sinh... đều là những ngành sản xuất kinh doanh mà phía Trung Quốc có thế mạnh, đại bộ phận những thứ cần cho sản xuất kinh doanh đều từ Trung Quốc chuyển sang. Như thế đúng là "nhất cử lưỡng đắc". Có người đã gọi đó là loại "đầu tư mở đường cho xuất khẩu của phía đầu tư". Phải nói rằng, đây là một trong những đặc điểm nổi bật trong hoạt động đầu tư trực tiếp của xí nghiệp và công ty của Trung Quốc tại Việt Nam trong thời gian đã qua. 4. Viện trợ phát triển Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1992, ngoài việc hai nước ký kết hai hiệp định "Hiệp định khyến khích và đảm bảo đầu tư" và "Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật". Thủ tướng Lý Bằng đã thay mặt Chính phủ Trung Quốc hứa cho Việt Nam vay 80 triệu NDT (tương đương với 20 triệu USD theo tỷ giá hối đoái của thời điểm đó) không lấy lãi thời gian sử dụng là 5 năm, từ năm 1993 đến 1997, thời gian trả nợ từ 1-1-2003 đến 31-12-2012. Số tiền vay này dùng để mua thiết bị và phụ tùng của Trung Quốc phục vụ cho việc đổi mới và trang thiết bị lại nhà máy Phân đạm Hà Bắc, Nhà máy đệt 8-3 ở Hà Nội, xây dựng một số nhà máy thủy điện cỡ nhỏ ở 5 tỉnh biên giới phía Bắc (tiếp giáp với Trung Quốc) và xây dựng một số hạng mục nhằm giải quyết nước sạch cho nhân 58 dân trong các tỉnh nói trên. Sau đó Chính phủ Trung Quốc lại hứa cho Việt Nam vay tiếp khoản tiền lớn hơn, là 170 triệu USD với lãi suất 6% một năm, thời hạn trả là 12 năm (để bù vào số tiền lãi phải trả, Chính phủ Trung Quốc đồng ý viện trợ thêm cho Việt Nam 10 triệu USD không phải trả lại). Số tiền vay mới sẽ được sử dụng vào việc mua thiết bị và phụ tùng của Trung Quốc để đổi mới và mở rộng nhà máy gang thép Thái Nguyên (Trung Quốc giúp đỡ xây dựng trong những năm 60), nâng sản lượng của nhà máy lên tới 348.000 tấn/năm, trong đó có 220.000 tấnn là thép tấm; số tiền còn lại dự kiến sẽ xây dựng một nhà máy luyện thép mới ở Quảng Ninh. Ngoài ra, có tài liệu cho biết: trong năm 1996, một công ty của Trung Quốc đã đồng ý chó "Công ty phát triển khoáng sản 6" (LIDLSACO) thuộc Tổng công ty khoáng sản Việt Nam (Bộ Công nghiệp) vay một số vốn bằng thiết bị của Trung Quốc với lãi suất là 6%/năm trong thời hạn 10 năm, để xây dựng một nhà máy chế biến quặng Ilmênít đặttại khu công nghiệp Long Thành (Bà Rịa - Vũng Tàu), công suất 4.000 tấn Pioxit titan/năm (tổng số vốn đầu tư là 20 triệu USD), sản phẩm Dioxit titan chất lượng cao (99% Ti2O) là phụ gia không thể theieú được trong các ngành sản xuất sơn, cao su, giấy, men công nghiệp,... mà hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu của nước ngoài đến 20.000 - 50.000 tấn). Ngoài ra, có thể còn có một số viện trợ phát triển (ODA) khác nữa của Trung Quốc đã và sẽ dành cho Việt Nam. Số tiền viện trợ phát triển (ODA) của Chính phủ Trung Quốc dành cho Việt Nam trong mấy năm qua như đã nêu ra ở trên tuy chưa phải là nhiều, song vẫn rất quý và có giá trị, bởi vì Trung Quốc tuy là nước lớn có số dân đông nhất thế giới nhưng vẫn còn là nước đang phát triển chứ chưa phải là nước phát triển, giàu có. III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT Nhìn chung, quan hệ mậu dịch, hợp tác kinh tế và đầu tư giữa hai nước kể từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay có bước phát triển ổn định và mở rộng trên nhiều lĩnh vực, phản ánh nguyện vọng tăng cường hợp tác và khai thác tiềm năng bổ sung lẫn nhau của nền kinh tế hai nước. Những thành tựu và kết quả đạt được trong giai đoạn này là to lớn và cơ 59 bản, góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của khu vực biên giới giữa hai nước, bước đầu tạo ra những cửa ngõ quan trọng trong giao lưu kinh tế - kỹ thuật và hợp tác toàn diện giữa các nước vùng biên giới hai nước, giữa các tỉnh biên giới hai nước. Tuy nhiên, trong quan hệ kinh tế và thương mại hợp tác đầu tư giữa hai nước còn tồn tại một số vấn đề lớn cần khắc phục trong thời gian tới là: - Phương thức buôn bán giữa hai nước chưa linh hoạt, chưa thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh của hai nước. Các chính sách quản lý xuất nhập khẩu của hai nước chưa phản ánh và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hai nước tăng cường buôn bán. - Các hạng mục đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam thường làhạng mục nhỏ, chủ yếu là cải tạo, sửa chữa các công trình viện trợ trước đây. Trong nông nghiệp, việc đầu tư vào 13 nhà máy đường gặp nhiều khó khăn, máy móc, thiết bị thiếu đồng bộ, làm chậm thời gian đưa hạng mục vào sử dụng. Việc cải tạo nhà máy gang thép Thái Nguyên và phân đạm Hà Bắc, hai bên tuy có tích cực nhưng do nguyên nhân khách quan nên tiến độ rất chậm. - Việc hợp tác kinh tế trên một số lĩnh vực mà hai bên có nhiều khả năng chưa được quan tâm đúng mức như lĩnh vực nông nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng, vật liệu xây dựng. - Vấn đề thông tin thương mại, tiếp xúc giữa doanh nghiệp hai nước chưa được quan tâm đúng mức đã hạn chế các doanh nghiệp hai nước trong việc nghiên cứu, khảo sát xây dựng các quan hệ buôn bán làm ăn giữa hai bên. Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại nêu trên, chủ yếu gồm: - Hai bên chưa chủ động đánh giá đầy đủ tầm quan trọng và hướng lâu dài của các mối quan hệ mậu dịch hợp tác kinh tế - đầu tư giữa hai bên, từ đó chưa đề ra các chiến lược phát triển quan hệ kinh tế toàn diện trong từng giai đoạn. Các địa phương giáp biên giới mới quan tâm đến lợi ích trước mắt, chưa có tính toán đến quy hoạch phát triển lâu dài. 60 - Các chính sách, quy chế, biện pháp quản lý và khuyến khích phát triển kinh tế mậu dịch giữa hai nước chưa đồng bộ, chưa kịp thời; có chính sách ban hành không sát với tình hình thực tế nên không khuyến khích việc giao lưu kinh tế giữa hai bên. - Đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành tham gia thực hiện triển khai các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế giữa hai bên còn thiếu, yếu kém về năng lực và kiến thức, kinh nghiệm cũng như phẩm chất dẫn đến tình trạng buôn lậu, trốn thuế... thường xuyên xảy ra ở các cửa khẩu. Để có những chủ trương, biện pháp thực hiện tốt việc giao lưu kinh tế trong giai đoạn tới, về nhận thức chúng ta nên thống nhất một số đặc điểm sau: - Hai bên cần xác định Việt Nam và Trung Quốc là hai thị trường trọng điểm. Trong đó Trung Quốc là một thị trường láng giềng rộng lớn, có tiềm năng về hàng hóa, năng lưượng, nông nghiệp. Ngược lại Việt Nam là một thị trường giàu nguồn nguyên, nhiên vật liệu có thể cung cấp cho các ngành công nghiệp Trung Quốc, đồng thời Việt Nam cũng là thị trường cửa ngõ để Trung Quốc tăng cường buôn bán với các nước Đông Nam Á. Do vậy việc đẩy mạnh quan hệ thương mại và hợp tác giữa hai nước không những có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế thương mại, mà còn tạo ra môi trường quốc tế ổn định cần thiết để chúng ta thực hiện đường lối mới mở cửa xây dựng và phát triển kinh tế. Xuất phát từ đó chúng ta cần vận dụng tốt tính nguyên tắc và linh hoạt, giải quyết thỏa đáng quyền lợi của cả hai bên một cách có lý có tình. - Các thỏa thuận cấp cao, các Hiệp định Chính phủ về viện trợ, hợp tác đầu tư cần được coi trọng và triển khai nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của lãnh đạo, nhân dân hai nước tránh tình trạng như hiện nay việc triển khai các hạng mục thuộc viện trợ hai nước quá chậm không có tính thời gian và hiệu quả kinh tế. - Để giải quyết một cách tích cực vấn đề thâm hụt cán cân mậu dịch, một mặt cần tăng cường quản lý nhập khẩu hàng từ Trung Quốc, nâng cao hiệu quả nhập khẩu, mặt khác tăng cường xuất khẩu các mặt hàng 61 có tiềm năng sang Trung Quốc cũng như từng bước cải tiến cơ cấu hàng xuât,s nâng cao hiệu quả xuất khẩu. 62 Chương 3 TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC I. TRIỂN VỌNG Triển vọng quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung là vô cùng to lớn. Mối quan hệ này sẽ phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế và tiến từ hợp tác song phương đến hợp tác đa phương. Trong thời gian những tháng tới hai nước sẽ cố gắng làm hết sức mình với những biện pháp cụ thể thỏa thuận trong chuyến đi thăm Việt Nam của Thủ tướng Chu Dung Cơ mới đây nhằm vượt qua mức 2 tỷ đô la Mỹ giá trị thương mại hai nước trong năm nay, từ đó tạo đà cho việc phát triển hơn nữa quan hệ thương mại giữa hai nước trong những năm tiếp theo. Hiện nay hai bên đang thúc đẩy buôn bán hàng đổi hàng, tăng cường hợp tác giữa ngân hàng quốc doanh để thúc đẩy buôn bán qua biên giới, tăng cường trao đổi các đoàn kinh tế của các tỉnh biên giới. Về đầu tư, hai bên nhất trí sẽ cổ vũ các doanh nghiệp có thực lực của Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam, thực hiện các dự án hợp tác lớn có hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh các dự án hợp tác song phương, hai nước có điều kiện thuận lợi thúc đẩy hợp tác kinh tế đa phương thông qua hợp tác ASEAN - Trung Quốc, tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương APEC mà hai nước là thành viên chính thức tổ chức thương mại thế giới WTO khi hai nước trở thành thành viên. Triển vọng hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung là tươi sáng bởi vì triển vọng này dựa trên những cơ sở vững chắc về chính trị, pháp lý, kinh tế và những lợi thế về địa lý. Trong chuyến đi thăm Trung Quốc tháng 3/1999 của đồng chí Lê Khả Phiêu, hai đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của hai nước đã thỏa thuận về những nguyên tắc chỉ đạo trong quan hệ Việt - Trung trong thời gian tới là: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai. Những nguyên tắc này có ý nghĩa vô 63 cùng (quan trọng) to lớn, tạo khung quan hệ Việt - Trung có tác dụng tích cực đối với việc thúc đẩy quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực giữa hai nước, trong đó có quan hệ kinh tế - thương mại. Bên cạnh ý nghĩa chính trị, Hiệp ước biên giới trên bộ ký kết ngày 30/12/1999 còn có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý tốt mậu dịch biên giới theo thỏa thuận giữa hai đồng chí Thủ tướng tháng 10 năm 1998, từ đó góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại chính ngạch nhằm đạt mục tiêu phấn đấu 2 tỷ đô la Mỹ trong năm nay. Trong chuyến đi thăm Việt Nam mới đây, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ và Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải đã đạt được những thỏa thuận cụ thể thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Đây là quyết tâm to lớn của lãnh đạo hai nước, thể hiện ý chí chính trị cũng như mong muốn của cả hai bên giải quyết những khó khăn, đẩy mạnh hơn nữa quan hệ kinh tế - thương mại song phương. Về mặt pháp lý, Việt Nam và Trung Quốc đã ký nhiều Hiệp định hợp tác kinh tế thương mại. Tháng 10/1998 hai nước đã ký hiệp định về mậu dịch biên giới, nhằm chấn chỉnh những hiện tượng không lành mạnh: trốn thuế, lậu thuế ở vùng biên giới giữa hai nước, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại chính ngạch phát triển và tháng 12/1999 hai bên đã ký Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư nhằm thúc đẩy hơn nữa hợp tác đầu tư giữa hai nước. Năm 1995, Ủy ban hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung được thành lập. Đặc biệt là những thỏa thuận cụ thể giữa hai đồng chí Thủ tướng trong tháng 12/1999 và những chỉ đạo khẩn trương sát sao của Chính phủ hai nước nhằm nghiên cứu và đưa những dự án hợp tác đi vào cuộc sống đang tạo điều kiện rất thuận lợi cho hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung phát triển. Phát triển quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung là phù hợp với nhu cầu khách quan và chiến lược kinh tế đối ngoại của cả hai nước. Ba vùng tam giác trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của Trung Quốc là: tiểu tam giác (chỉ Trung Quốc đại lục, Hồng kông và Đài Loan) trung tam giác (chỉ các nước láng giềng: ASEAN và Hàn Quốc), và các đại tam giác (chỉ các nước Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và các nước phát triển về 64 kinh tế). Trung Quốc xác định rõ chiến lược thúc đẩy quan hệ kinh tế với tiểu tam giác, liên hợp với trung tam giác và quan hệ với đại tam giác. Như vậy việc phát triển quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam sẽ tạo cơ sở cho Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào những hoạt động kinh tế quốc tế, thể hiện việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại với các nước phát triển kinh tế. Đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc chẳng những phù hợp với đường lối đối ngoại "làm bạn với các nước", mà còn phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước: Việt Nam chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng nhằm tạo ra môi trường xung quanh hòa bình ổn định, góp phần giữ vững an ninh của đất nước và tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới được tiến hành thuận lợi. Về kinh tế, mục tiêu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm tăng sức sản xuất của cả xã hội, trong đó có các nhà máy công nghiệp nhẹ sử dụng một số nguyên liệu nhập từ Trung Quốc. Việc Trung Quốc và Việt Nam trở thành thành viên của WTO không ảnh hưởng nhiều đến quan hệ thương mại giữa hai nước do cơ cấu thương mại (loại hàng và chất lượng hàng) giữa hai nước hoàn toàn khác với cơ cấu thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam với các thành viên WTO khác. Thêm vào đó, hàng hóa của Trung Quốc và Việt Nam xuất sang thị trường của nhau có lợi thế hơn so với hàng hóa các nước khác do có lợi thế về giá vận chuyển thấp. Về địa lý, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần gũi do đó có những thuận lợi về giao thông vận tải, trong quan hệ thương mại không cần thanh toán bằng ngoại tệ mạnh mà có thể thanh toán bằng đồng địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh buônb án hàng hóa. Tóm lại, dựa trên cơ sở vững chắc về chính trị, pháp lý, kinh tế, và điều kiện địa lý, với quyết tâm cao của cả hai nước trong thời gian tới quan hệ kinh tế - thương mại Việt -Trung sẽ phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều 65 sâu, góp phần vào sự phát triển kinh tế của mỗi nước sự thịnh vượng chung của cả khu vực. II. NHỮNG GIẢI PHÁP Mặc dù các hạot động kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian vừa qua là khá sôi động, nhưng những kết quả đạt được trong lĩnh vực kinh tế thương mại chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Để có thể phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc là một tầm cao mới, cần phải tiếp tục giải quyết những vấn đề sau đây: Thứ nhất, cần xác định về mặt chiến lược Việt Nam và Trung Quốc là hai thị trường trọng điểm của nhau. Trung Quốc với ưu thế về kỹ thuật và công nghệ có thể tham gia đấu thầu các công trình sử dụng vốn ODA của Việt Nam trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, năng lượng, vật liệu xây dựng, nông nghiệp... Việt Nam là thị trường cửa ngõ để Trung Quốc tăng cường buôn bán với các nước Đông Nam Á đồng thời Việt Nam với tiềm năng về các nguồn nguyên nhiên liệu, khoáng sản có thể cung cấp cho các ngành công nghiệp Trung Quốc. Do đó hai bên cần đánh giá đầy đủ tầm quan trọng và chiến lược phát triển lâu dài của mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước để có chính sách phù hợp. Thứ hai, mặc dù tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng nhanh, nhưng tỷ trọng kim ngạch trong tổng số kim ngạch xuất nhập khẩu của mỗi nước còn thấp (Trung Quốc chưa đạt 1%, Việt Nam trên 10%). Cán cân giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn mất cân đối nghiêm trọng, theo hướng nhập siêu từ phái Việt Nam ngày càng tăng không có lợi cho việc thúc đẩy quan hệ thương mại phát triển cân bằng, đồng đều giữa hai nước. Do đó hai nước cần sớm xây dựng thỏa thuận khung và danh mục cân đối những mặt hàng chủ lực xuất nhập khẩu, có các chính sách và biện pháp để khuyến khích xuất khẩu, cân bằng cán cân thương mại, nâng tỷ trọng hàng hóa xuất nhập khẩu theo con đường chính ngạch lên ít nhất từ 70% - 80%. 66 Thứ ba, hoạt động kinh tế thương mại tại các cửa khẩu biên giới Việt - Trung trong thời gian qua rất sôi động, đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước và phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, chính sách quản lý và phát triển kinh tế biên mậu giữa hai nước chưa kịp thời, chưa đồng bộ, một số chính sách không sát thực tế, chưa quan tâm đến lợi ích lâu dài cũng gây ảnh hưởng đến việc giao lưu kinh tế giữa hai bên. Trong thời gian tới, hai bên cần tiếp tục trao đổi thống nhất về chính sách mậu dịch biên giới nhằm đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp hai nước trong trao đổi hàng hóa và hợp tác kinh doanh, chống buôn lậu, hàng giả... Thứ tư, qua khảo sát thực tế cho thấy, thông tin về thị trường, đối tác và các mối quan hệ kinh doanh lâu dài, ổn định giữa doanh nghiệp hai bên, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn còn rất hạn chế. Vì vậy, cần tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đầu tư nhằm giúp doanh nghiệp hai nước có thêm sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng mối quan hệ hợp tác lâu dài, tiếp cận các cơ hội đầu tư, kinh doanh để thực hiện các dự án đầu tư, các hợp đồng kinh tế mới ở quy mô lớn hơn, hiệu quả hơn trong lĩnh vực có nhiều tiềm năng. Ngoài những vấn đề phải giải quyết ở trên, trong phần giải quyết này, chúng ta cần phải xét đến ba trở ngại lớn nữa trong quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung và đưa ra những hướng đi phù hợp đó là: Thứ nhất, các doanh nghiệp hai nước chưa hiểu biết nhau nhiều như đã nêu ở trên. Do vậy, thay vì trao đổi hàng hóa theo nghị định thư là việc mở rộng buôn bán theo cơ chế thị trường, các bên cần tổ chức nhiều hội chợ triển lãm và tăng cường tiếp xúc để tìm ra phương pháp buôn bán vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đúng với luật pháp của mỗi quốc gia. Thứ hai, một số vấn đề thuộc về nghiệp vụ - kỹ thuật thương mại và đầu tư quốc tế chưa được giải quyết, trước hết là kỹ thuật thanh toán và vận tải quốc tế. Các doanh nghiệp ở miền Nam Trung Quốc vẫn chưa quen 67 với phương thức thanh toán L/C giữa các cảng Việt Nam và cảng Trung Quốc chưa có sự hợp tác theo đúng thông lệ hàng hải quốc tế. Thứ ba, chưa thực hiện được việc kiểm tra và đánh giá chất lượng hàng hóa qua biên giới. Dù sao, đây cũng chỉ là những trở ngại về mặt kỹ thuật, sẽ được khắc phục dần dần, từng bước. Theo chúng tôi, điều đáng quan tâm hơn là những trở ngại do đặc thù phát triển kinh tế và chính sách kinh tế đối ngoại của Trung Quốc đối với triển vọng phát triển kinh tế của Việt Nam. Người ta thấy rõ là hầu hết các chủng loại hàng hóa của Trung Quốc hoàn toàn giống với Việt Nam, nước ta hoàn toàn có đủ khả năng để sản xuất chúng và sự có mặt của chúng trên thực tế đã thu hẹp, thậm chí tiêu diệt một số ngành sản xuất trong nước. Đây còn là vấn đề sẽ có phương hại trực tiếp đến định hướng xuất khẩu của Việt Nam hàng Trung Quốc vào Việt Nam như một hồi chuông dóng lên báo hiệu sự hiện diện của một địch thủ cạnh tranh đáng sợ không chỉ trên thị trường khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà còn ở ngay trên thị trường Việt Nam. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, những yêu cầu về vốn, thị trường, kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý của Trung Quốc thường trùng hợp với Việt Nam và dĩ nhiên cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ diễn ra cả trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ và hợp tác về khoa học - kỹ thuật. Tuy nhiên, xu hướng hợp tác cùng phát triển sẽ trở thành hành động chung cho cả hai nước. Những cuộc viếng thăm của các lãnh tụ cao nahát hai nước trong những năm gần đây đã khẳng định điều này. Con đường phát triển quan hệ giữa hai nước chỉ mới bắt đầu. Dù sao những kinh nghiệm cải cách ở Trung Quốc là rất gần vào có ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam. Sự bổ sung của hai nền kinh tế như vốn một thời gian đã phát huy hiệu quả chắc chắn sẽ khiến cho ngươì ta dự cảm tới những triển vọng tốt đẹp về sự hợp tác tương lai giữa hai nước. 68 KẾT LUẬN Trong thời gian chín năm qua, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục với nhiều hình thức hợp tác phong phú. Cùng với đà phát triển đó, quan hệ thương mại giữa hai nước đã phát triển vượt bậc với tổng kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng tăng. Nhưng bên cạnh đó, còn tồn tại một số vấn đề cần phải giải quyết trong quan hệ thương mại: trốn thuế, lậu thuế, cán cân thương mại không cân bằng... Nhìn chung, tỷ trọng giá trị thương mại Việt - Trung còn thấp, chưa thể hiện hết tiềm năng của cả hai bên, chưa tương xứng với quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cơ sở phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung là vững chắc, trong đó có cả những nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Trong số các nhân tố chủ quan, nhân tố ý chí chính trị của cả hai bên là nhân tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định đối với việc phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới. Triển vọng quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung là xán lạn, chứng tỏ mối quan hệ Việt - Trung ngày càng phát triển. 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. "Tăng cường thúc đẩy sự phát triển của quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung". Phạm Hoàng Chương - tham luận tại Hội thảo Quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung lần thứ 2, Hà Nội, 18-20/1/1999. [2]. Nghiên cứu Trung Quốc: số 6(22)-1998, số 1(29)-2000, số 5(10)- 1997. [3]. Nghiên cứu quốc tế: số 31, số 32/2000. [4]. Nghiên cứu kinh tế: số 230 tháng 7/1997. [5]. Thương mại, số 5 năm 1999, số 19-1999, số 2-1997. [6]. Tuần báo Quốc tế, số 29, 16-7-1997, số 11-27/9/1999, số 15, 26-10- 1998. [7]. Đầu tư ngày 6-2-1997. [8]. Nguyễn Minh Hằng: Quan hệ kinh tế đối ngoại Trung Quốc thời kỳ mở cửa. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996. [9]. Báo Hà Nội mới: 6-4-1997, 11-3-1997, 31-12-1997, 6-4-1997. [10]. Firancial Times tại Hà Nội trong tin TKTG, gnày 27-4-1998. [11]. Tạp chí châu Á - Thái Bình Dương (tháng 3-2000)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc (2).pdf
Luận văn liên quan