Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hiện nay, xây
dựng con người mới trở thành một nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đã đạt được thì sự nghiệp xây dựng con người mới tồn tại không ít
những hạn chế. Trong đó, đáng chú ý là sự suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ nhân
dân và sự yếu kém của nền giáo dục nước nhà. Điều này ảnh hưởng tiêu cực tới sự nghiệp
đổi mới đất nước. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu kế thừa các giá trị truyền thống để khắc phục
những hạn chế và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng con ng ười mới.
89 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3784 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trị nước, cứu đời, cải tạo xã hội. Theo ông, mục đích cao nhất của tu
thân là để giúp nước, giúp người, để tự lập rồi lập nhân, tự đạt rồi đạt nhân. Mỗi con
người là một phần tử xã hội nhưng không hề thụ động mà còn là một chủ thể đầy năng
động, tích cực tham gia vào quá trình vận động của xã hội.
Chính tư tưởng nhập thế, học để làm quan, của Khổng Tử đã có ảnh hưởng lớn tới
tư tưởng giáo dục của Trung Quốc và nhiều nước châu Á khác, trong đó có Việt Nam.
Dưới ảnh hưởng to lớn của tư tưởng giáo dục Khổng Tử, trong suốt nhiều thế kỷ trong xã
hội phong kiến, không biết bao nhiêu lớp người Việt Nam đã lấy học tập và quan trường
làm mục đích sống của mình. Chính những lớp người này đã có công to lớn trong việc
xây dựng và bảo vệ đất nước, làm nên lịch sử huy hoàng của dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, chúng ta đang xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, đây
là một mô hình xã hội tốt đẹp, một xã hội mà quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Hơn nữa
đây là một mô hình kinh tế - xã hội chưa có tiền lệ trong lịch sử cho nên chúng ta gặp
không ít khó khăn. Điều này đòi hỏi mọi người trong xã hội cùng toàn Đảng chung vai
gánh vác nhiệm vụ xây dựng đất nước. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy những hiện tượng
đáng phải lo lắng. Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm cho một bộ phận không nhỏ
nhân dân mất phương hướng, không xác định được lý tưởng, trong đó, nghiêm trọng nhất
là một bộ phận cán bộ. Sự “thoái hoá về chính trị và phẩm chất, đạo đức, lợi dụng chức
quyền để tham ô, lãng phí, quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, cơ hội, thực dụng” đã làm cho
không ít cán bộ quên mất lý tưởng người cách mạng là công bộc của nhân dân, phục vụ nhân
dân, phục vụ tổ quốc. Đối với họ, địa vị cán bộ quản lý lãnh đạo là chỗ kiếm tiền nhanh và
nhiều bằng tham nhũng, đục khoét, vơ vét của cải của nhà nước, của nhân dân.
Bên cạnh sự thoái hoá của không ít cán bộ, đảng viên, thì sự suy đồi về đạo đức,
lối sống của một bộ phận thanh niên cũng đang trở thành nỗi lo của toàn xã hội. Sự du
nhập của lối sống phương Tây như sống gấp, sống vội, sống tự do, coi đồng tiền là trên
hết,… đang làm cho giới trẻ hiện nay mất phương hướng, không còn nhận ra đâu là giá
trị đích thực của cuộc sống. Trong Báo Thanh niên ngày 20/4/2006, đồng chí Đào Ngọc
Dung - Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã thừa
nhận: “một bộ phận thanh niên còn ít quan tâm hoặc ngại tham gia vào các sinh hoạt
chính trị và các hoạt động xã hội, có nhận thức chính trị non kém, chưa xác định được lý
tưởng sống đúng đắn, coi nhẹ những giá trị truyền thống, nhân văn cao đẹp của dân tộc,
bị ảnh hưởng xấu bởi lối sống ngoại lai, sự xâm lăng văn hoá và những tiêu cực mặt trái
của cơ chế thị trường,…”. Thống nhất với quan điểm trên, Đảng cũng thừa nhận: “một bộ
phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống
thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước” [21,
tr.24].
Với mục tiêu là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phát triển về mọi mặt
thì không thể là con người thiếu lý tưởng, thiếu hoài bão như Đảng đã đánh giá. Do đó,
để xây dựng thành công con người mới xã hội chủ nghĩa, cũng như thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới đòi hỏi chúng ta phải tăng cường giáo dục lý tưởng chính trị đúng đắn.
Chỉ khi có lý tưởng đúng đắn con người mới có niềm tin, có động lực để phấn đấu vươn
lên. Như vậy, có thể khẳng định rằng, tích cực chính trị trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử vẫn còn nhiều ý nghĩa trong xã hội ta ngày nay. Tuy nhiên, sự kế thừa tư
tưởng đó không phải là rập khuôn máy móc, mà cần phải có sự chọn lọc, bổ sung và phát
triển cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Vì mục đích chính trị cũng như do nhiều hạn
chế về mặt lịch sử, lý tưởng chính trị mà Khổng Tử là truyền đạt cho học trò chỉ là trở
thành tầng lớp quan lại. Nhưng hiện nay, xã hội đã phát triển về mọi mặt, có rất nhiều
lĩnh vực cần sự đóng góp công sức và cống hiến của mọi người chứ không chỉ là làm
quan, làm cán bộ. Hơn nữa, số lượng vị trí cán bộ thì có hạn, không thể đáp ứng nhu cầu
của tất cả mọi người, trong khi đó nhiều lĩnh vực như khoa học kỹ thuật, sản xuất kinh
doanh,… đều đang rất cần người tài giỏi. Do đó, chỉ cần xác định được lý tưởng cống
hiến cho nhân dân, cho đất nước thì có rất nhiều công việc để thực hiện lý tưởng đó.
Nhà triết học Đi-đờ-rô đã từng nói, bạn sẽ không làm được gì nếu bạn không có
mục đích, bạn cũng không làm được gì vĩ đại nếu mục đích của bạn tầm thường. Do vậy,
thiết nghĩ việc giáo dục cho giới trẻ một lý tưởng đúng đắn là điều hết sức cần thiết. Cần
giúp họ nhận ra được ý nghĩa của cuộc sống là được cống hiến cho xã hội, cho đất nước,
tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đây
cũng là một nội dung quan trọng trong sự nghiệp xây dựng con người mới hiện nay ở
nước ta.
- Đề cao vai trò của gia đình và giáo dục gia đình: Trong những cơ sở hình thành
tư tưởng Nhân của Khổng Tử, thì Hiếu, Đễ là một trong những cơ sở rất quan trọng.
Hiếu, Đễ là những chuẩn mực đạo đức trong gia đình. Chính vì vậy, Khổng Tử rất coi
trọng mối quan hệ trong gia đình đối với việc làm hình thành đạo đức con người. Khổng
Tử cho rằng mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi 5 mối quan hệ (ngũ luân): Vua -
tôi, cha - con, chồng- vợ, anh - em, bạn - bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của
cuộc sống hiện thực đó là quan hệ trong gia đình và quan hệ ngoài xã hội. Trong năm mối
quan hệ đó, Khổng Tử đề cập đến 3 mối quan hệ trong gia đình (cha - con, chồng - vợ,
anh - em), đã cho chúng ta thấy được tầm quan trọng như thế nào của gia đình trong tư
tưởng Khổng Tử.
Đạo đức Khổng Tử chính là những chuẩn mực trong đối nhân xử thế giữa người
với người, mà trước hết là từ trong gia đình rồi tới xã hội. Khổng Tử xem Từ, Hiếu, Đễ là
gốc của Nhân, cũng là cái gốc của đạo đức con người. Nếu người nào đến cha mẹ, anh
em mình mà không yêu thương thì làm sao mà có thể thương yêu và kính trọng người
khác trong xã hội. Do vậy, người nào giữ được Hiếu, Đễ sẽ xây dựng được gia đình tốt,
và gia đình tốt thì xã hội sẽ tốt đẹp. Ngược lại, gia đình tốt sẽ là nền tảng để xây dựng
những con người tốt.
Có thể nói, gia đình có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục con người.
Đây chính là môi trường định hướng nhân cách, đạo đức, lối sống; là ngôi trường đầu
tiên dạy cho mỗi cá nhân những bài học đầu tiên về cách làm người, đồng thời là chỗ dựa
tinh thần cho mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Đảng ta khẳng định: “Gia đình là tế bào
của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục
nếp sống và hình thành nhân cách”. Chính vì vậy, nhiệm vụ xây dựng con người mới phải
được bắt đầu từ xây dựng gia đình mới. Bởi “Một con người muốn phát triển tốt, có đạo đức,
nhân cách tốt phải trên một nền tảng giáo dục gia đình tốt” [32, tr. 44].
Xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững là nền tảng cho sự ổn định xã hội, tạo
điều kiện cho sự phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc, là nơi phòng chống có hiệu quả
nhất mọi tệ nạn xã hội đang làm phương hại đời sống tinh thần của con người. Gia đình
còn là nơi có khả năng nhất trong việc bảo lưu, giữ gìn những bản sắc truyền thống văn
hoá của dân tộc. Ngoài ra gia đình còn là nơi cung cấp những công dân mới có đức, có tài
cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Xây dựng gia đình hoà thuận chính là thành trì để
ngăn chặn sự xâm hại của những tư tưởng thực dụng, vị kỷ, lối sống gấp chỉ biết hôm nay
không biết ngày mai. Chính vì vậy, sự tốt xấu của mỗi gia đình đều ảnh hưởng tới sự ổn
định của xã hội, tới nhiệm vụ thực hiện thành công công cuộc đổi mới và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trong công cuộc đổi mới
và sự thay đổi tiến bộ của con người cũng như gia đình Việt Nam, thì trong thời gian qua, gia
đình Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mới và thách thức mới không dễ vượt
qua. Một trong những vấn đề lớn về gia đình nảy sinh trong quá trình đổi mới của nước ta
hiện nay là vấn đề biến đổi tiêu cực của văn hoá và đạo đức gia đình. Quá trình đổi mới và
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá “cùng lúc kéo theo những biến đổi trong văn hoá,
đạo đức xã hội cũng như đạo đức gia đình. Những đợt sóng biến đổi nhiều mặt của xã hội đã
dội vào gia đình, tác động đến đạo đức gia đình. Không ít những giá trị đạo đức gia đình
đang bị vi phạm, thể hiện lệch lạc” [51, tr.20].
Những vấn đề mà các gia đình Việt Nam gặp phải hiện nay là tỷ lệ ly hôn tăng cao
và tỷ lệ trẻ em vi phạm pháp luật ngày càng tăng. Đây là hậu quả của nhiều biến đổi tiêu
cực khác trong gia đình. Có 4 nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ ly hôn tăng là mâu thuẫn về lối
sống; ngoại tình, kinh tế, và bạo hành gia đình. Theo số liệu điều tra gia đình Việt Nam
năm 2008 do Bộ Văn hoá - Thông tin và Du lịch, phối hợp với Tổng cục Thống kê, với
sự hỗ trợ của UNICEF cho thấy, trong 4 nguyên nhân dẫn đến ly hôn trong gia đình, thì
mâu thuẫn về lối sống: (chiếm 27,7%); ngoại tình (25,9%); kinh tế (13%); và bạo lực gia
đình (6,7%). Nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ trẻ em vi phạm pháp luật là do sự giáo dục không
đến nơi đến chốn, cha, mẹ không dành thời gian chăm sóc, dạy dỗ con cái. Cũng theo số
liệu thống kê: có tới 80% trẻ em trong độ tuổi 15-17 khi được hỏi đã nói rằng cha mẹ cho
phép chúng tự đưa ra quyết định về mọi vấn đề liên quan tới cuộc sống của mình. Vì
nhiều lý do, trong đó có việc bận kiếm sống, 20% số ông bố và 7% số bà mẹ hoàn toàn
không dành thời gian cho việc chăm sóc, dạy dỗ con cái. Nỗi lo thường xuyên của các
ông bố, bà mẹ hiện nay là việc trẻ hỗn láo, bỏ học, cờ bạc, sử dụng ma tuý và đi chơi qua
đêm nhưng có đến 8,8% trong số họ làm ngơ trước lỗi lầm của con mình và 0,5% cảm
thấy hoàn toàn bất lực,…
Những thực trạng trên không chỉ là vấn đề của mỗi gia đình mà còn là vấn đề của
toàn xã hội, nó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển toàn diện và hài hoà của trẻ em -
người chủ tương lai của đất nước. Chính vì vậy, xây dựng gia đình mới bền vững và hạnh
phúc chính là chúng ta đang xây dựng nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và phát
triển con người toàn diện và hài hoà. Chính những yêu cầu của việc xây dựng gia đình
mới càng đặt ra vấn đề kế thừa đạo đức Khổng Tử một cách nghiêm túc và cấp bách hơn.
Nếu chúng ta “lấy chữ “Nhân Từ” để dạy cho bậc làm cha mẹ; lấy chữ “Hiếu” dạy cho
con cháu; lấy chữ “Nghĩa” dạy cho kẻ làm chồng; lấy chữ “Đoan chính” dạy cho người
làm vợ; lấy chữ “Lương” (hiền lành) dạy cho anh, chị; lấy chữ “Đễ” (nhún nhường) dạy
cho các em” [96], thì chắc chắn chúng ta sẽ xây dựng được gia đình hạnh phúc, bền vững
và xã hội sẽ tốt đẹp, và quan trọng hơn con người Việt Nam sẽ có nền tảng làm người
vững chắc, góp phần thực hiện thành công mục tiêu:
Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm
của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá
truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc [29, tr.103-104].
Như vậy, cùng với tư tưởng lấy đạo đức làm gốc, Khổng Tử còn để lại cho chúng
ta nhiều bài học giá trị về phương pháp tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Trước những tác
động của mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự suy đồi về mặt đạo đức ngày càng
nghiêm trọng ở nước ta hiện nay, thì những bài học mà Khổng Tử để lại vẫn còn nhiều ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc. Chúng ta không khẳng định việc kế thừa những giá trị đạo đức
của Khổng Tử sẽ giải quyết được triệt để tình trạng suy thoái đạo đức hiện nay ở nước ta
nhưng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi
xuống và cũng không nảy sinh từ một mảnh đất trống không. Đạo đức cách mạng chỉ có
thể ra đời trên cơ sở của nền đạo đức truyền thống, là sự nối tiếp và phát huy đạo đức
truyền thống lên một tầm cao mới. Chính vì vậy, chúng ta cần có phương pháp khoa học,
tiếp thu và phát triển những tư tưởng tích cực nhưng đồng thời cũng phải khắc phục
những những hạn chế trong tư tưởng giáo dục đạo đức của Khổng Tử.
Một trong những hạn chế trong nội dung đạo đức của Khổng Tử là ông chỉ giới
hạn đạo đức trong phạm vi đạo đức cá nhân. Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của
xã hội, những chuẩn mực đạo đức không chỉ bó hẹp trong phạm vi đạo đức cá nhân, mà
nó được mở rộng ra nhiều lĩnh vực như: đạo đức môi trường, đạo đức sinh học, đạo đức
trong kinh doanh, đạo đức trong chính trị, đạo đức trong nhà trường, đạo đức trong tôn
giáo… mỗi khía cạnh đạo đức này nói lên một khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Giá
trị của chúng khác nhau, nhưng chúng có một điểm chung là con người. Chính vì vậy,
trong giáo dục đạo đức cần mở rộng phạm vi đạo đức để con người được phát triển được
toàn diện và hài hoà hơn.
Một vấn đề nữa đặt ra là chúng ta sẽ làm thế nào để kế thừa được đạo đức trong tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử vào nhiệm vụ xây dựng con người mới hiện nay. Đây là một
vấn đề không dễ, mặc dù đạo đức là một hình thái ý thức xã hội chịu ảnh hưởng của truyền
thống rõ nét hơn các hình thái ý thức khác nhưng đó lại là một quá trình diễn ra lâu dài và
không kém phần phức tạp. Hơn nữa, đối tượng giáo dục hiện nay rất đa dạng với nhiều lứa
tuổi, nghề nghiệp,… chúng ta không thể áp dụng chung một kiểu giáo dục cho tất cả mọi đối
tượng. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, giải pháp có tính khả thi trong việc kế thừa đạo
đức trong tư tưởng Khổng Tử nói riêng và Nho giáo nói chung, cũng như đạo đức trong
truyền thống dân tộc là học tập đạo đức Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức của Người là di sản quý báu của
dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng của Người thấm đẫm tinh thần của Nho giáo, trong đó
có tư tưởng triết học Khổng Tử. Đặc biệt là tư tưởng đạo đức của Khổng Tử. Chủ tịch Hồ
Chí Minh không chỉ kế thừa một cách sâu sắc tư tưởng đạo đức của Khổng Tử mà còn
vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện và hoàn cảnh nước ta và xây dựng nó thành
nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng như Người thường gọi. Người chỉ ra đạo đức mới
của con người mới là nhân, lễ, trí, dũng, liêm.
- Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà
kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân.
- Nghĩa là ngay thẳng, không có tâm tư. Lúc Đảng giao việc, thì bất kỳ nhỏ to,
đều ra sức làm cẩn thận, thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người
ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn đúng đắn.
- Trí là đầu óc trong sạch sáng suốt, biết xem người, biết xét việc. Vì vậy, biết làm
việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng
người gian.
- Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa
chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng… nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho
Đảng, cho tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.
- Liêm là không tham địa vị. không tham tiền tài. Không ham người tâng bốc
mình. Quang minh chính đại không bao giờ hủ hoá. Chỉ có ham học, ham làm và ham
tiến bộ [68, tr.252].
Thông qua việc tìm hiểu tư tưởng và tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh,
chúng ta không chỉ kế thừa được giá trị đạo đức truyền thống nói chung, Khổng Tử nói
riêng mà chúng ta còn rút ra được những chỉ dẫn có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc
trong việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
2.3.2. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc phát huy vai trò của giáo dục
trong xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay
Theo Khổng Tử, để xây dựng một quốc gia thái bình, thịnh trị, thì người trị vì đất
nước phải chăm lo ba việc lớn: làm cho dân đông, làm cho dân giàu và dạy cho dân biết
lễ nghĩa. Chính vì vậy, giáo dục là một lĩnh vực được Khổng Tử đặc biệt coi trọng. Ông
xem đó là phương tiện chính trị hữu hiệu để cải biến xã hội từ “loạn” thành “trị”, và là cái
gốc sâu xa, lâu bền để đào tạo ra con người có nhân nghĩa, làm cho đạo trời, đạo người
hoà hợp trong một xã hội thanh bình.
Thực tiễn cũng cho thấy, giáo dục có vai trò rất lớn trong xây dựng và phát triển
con người. Bởi giáo dục là “nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ
năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và
phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối
tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội” [74, tr.50]. Từ vai trò đó, giáo dục góp
phần:
Biến những giá trị văn hoá của xã hội thành tài sản của mỗi cá nhân và
của cả cộng đồng. Từ những tài sản riêng đó, mỗi người lại góp phần nhân lên
những tài sản văn hoá của xã hội, nâng cao trình độ trí tuệ cho cả cộng đồng.
Chính vì thế mà có thể nói rằng, giáo dục và đào tạo là khuôn đúc con người,
là nguyên nhân trực tiếp quyết định chất lượng nguồn lực con người [42, tr.4].
Với tư cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo chuẩn
bị con người cho sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực, cho lợi ích hiện tại và lợi ích
tương lai của đất nước.
Trong thời đại của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức hiện nay,
giáo dục và đào tạo là phương tiện hữu hiệu và quan trọng nhất để xây dựng và phát triển
con người toàn diện nhất. Nó không chỉ giáo dục, rèn luyện cho con người nhân cách,
đạo đức, lối sống, tính nhân văn,… mà nó còn mang lại cho con người tri thức về mọi
lĩnh vực. Trong đó, giáo dục và đào tạo đóng vai trò rất lớn đối với việc hình thành tri
thức. Bởi vì, giáo dục và đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động đến việc nâng cao trí tuệ,
nâng cao sự hiểu biết và vận dụng những tri thức khoa học và kỹ thuật vào sản xuất của
con người. Trong thời đại ngày nay, giáo dục và đào tạo là con đường tốt nhất để con
người luôn tiếp cận kịp thời những thông tin mới nhất, làm giàu thêm nguồn tri thức và
năng lực sáng tạo của mình; chỉ có thông qua giáo dục và đào tạo mới tạo dựng, động viên
và phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực trong xã hội, trước hết là nguồn lực con người cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, để xây dựng con người mới về mặt tri thức cần phải dựa
trên cơ sở phát triển giáo dục và đào tạo. Đó là “động lực của sự phát triển kinh tế tri thức, là
vấn đề có ý nghĩa sống còn trước xu thế toàn cần hoá”.
Thực tế lịch sử thế giới, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ
hiện nay đã chứng minh rằng, trong các yếu tố tạo nên sự thành công của một quốc gia,
nền giáo dục và đào tạo của quốc gia đó là yếu tố cơ bản. Nhật Bản là một ví dụ điển
hình. Coi giáo dục là cái gốc để dựng nước, Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo,
bồi dưỡng nguồn lực con người, khai thác và sử dụng triệt để nguồn tiềm lực trí tuệ và đã
rất thành công. Thật ra, hiện nay không riêng gì Nhật Bản, mà nhìn chung tất cả các quốc gia
- dân tộc đều coi trọng vấn đề giáo dục - đào tạo, nhiều nước nhờ có chiến lược, chính sách
giáo dục và đào tạo thích hợp mà có sự phát triển thần kỳ. Các nhà khoa học trên thế giới đã
khẳng định một trong ba yếu tố then chốt mà mỗi quốc gia phải có để chuẩn bị cho thế kỷ
XXI là nâng cao vai trò của giáo dục.
Ở nước ta, trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã sớm ý
thức được vai trò của giáo dục và đào tạo, đã xây dựng nên truyền thống hiếu học, trọng
hiền tài, vì "hiền tài là nguyên khí của quốc gia". Lê Quý Đôn, nhà bác học Việt Nam thế
kỷ XVI thì khẳng định rằng một quốc gia mà phi trí thì bất hưng. Quốc Tử Giám với tư
cách là trường đại học đầu tiên của nước ta ra đời năm 1070 với khoa thi đầu tiên được tổ
chức vào năm 1075 là mốc son chính thức đánh dấu điểm khởi đầu cho quá trình đào tạo
bậc cao qua con đường khoa bảng của Nhà nước phong kiến Việt Nam.
Kế thừa, phát huy truyền thống trọng giáo dục, trọng nhân tài của dân tộc, ngay
sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân đấu tranh chống
giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm - ba kẻ thù nguy hiểm của dân tộc ta. Người cho rằng,
trong thời kỳ hoà bình thì giặc dốt là nguy hiểm hơn cả, vì giặc dốt sinh ra biết bao sai lầm,
tai hoạ cho xã hội; chống được giặc dốt thì giặc đói, giặc ngoại xâm sẽ bị đẩy lùi và một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu. Do vậy, Bác đã coi việc nâng cao dân trí là một trong những công
việc phải cấp tốc thực hiện. Người kỳ vọng rất nhiều ở thế hệ trẻ Việt Nam và ở vai trò của
giáo dục và đào tạo khi khẳng định: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân
tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em" [64, tr.33]. Đồng chí Phạm
Văn Đồng trong cuốn sách "Về vấn đề giáo dục - đào tạo" đã khẳng định: "…giáo dục là
một nhân tố có tầm quan trọng bậc nhất, góp phần làm nên không chỉ sự nghiệp của một
con người, mà còn là động lực làm nên lịch sử của một dân tộc..." [19, tr.59]. Trong
những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã từng nhắc nhở tầng
lớp thanh niên nước Nga phải chăm chỉ học hành, bởi việc điện khí hoá không phải là do
những người mù chữ thực hiện, mà điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền
học vấn hiện đại, và nếu không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là nguyện
vọng mà thôi.
Trải qua hơn nửa thế kỷ độc lập, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về "trồng
người", Đảng ta đã rất chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Từ năm 1945 đến nay
chúng ta đã thực hiện ba chiến dịch diệt dốt, ba cuộc cải cách giáo dục, hơn 10 năm đổi
mới giáo dục,… Vì vậy, sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở nước ta đã đạt được những
thành tựu nhất định trong việc nâng cao dân trí, chăm sóc, bồi dưỡng, đào tạo, phát huy
nguồn lực trí tuệ của đất nước. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
hiện nay, giáo dục và đào tạo được Đảng và Nhà nước ta coi là "quốc sách hàng đầu,
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài" [27, tr.107]. Nói cách khác,
giáo dục và đào tạo được coi là con đường cơ bản để chúng ta xây dựng con người mới,
tạo nên và tăng cường năng lực nội sinh để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Trong sự nghiệp xây dựng con người mới hiện nay, mục tiêu của giáo dục và đào
tạo là dạy làm người, nghĩa là rèn luyện đạo đức và nhân cách con người, đồng thời cung
cấp kiến thức, kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn minh. Luật
Giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 11/12/1998 ghi rõ: mục tiêu của giáo dục là đào
tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tuy nhiên, sự nghiệp giáo dục những năm vừa qua cho thấy, mặc dù đã có sự phát
triển về nhiều mặt nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém và hạn chế, ảnh
hưởng tới mục tiêu xây dựng con người và phát triển đất nước.
Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, nền giáo dục nước ta đang đi chệch hướng.
Thay vì trang bị cho người học kỹ năng lao động, kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, đức
tính trung thực, năng lực sáng tạo, năng lực tưởng tượng, để phát triển thành những người
tốt, có ích cho xã hội thì chúng ta lại đi vào con đường cực kỳ nguy hiểm là coi trọng
bằng cấp và thi cử, khiến thi cử và bằng cấp lôi cuốn toàn xã hội, gây ra nhiều lãng phí
lớn, và nhiều tiêu cực như học giả, bằng thật; chạy theo số lượng bỏ qua chất lượng;...
Chỉ chú trọng tới việc dạy chữ mà không chú trọng dạy làm người, dẫn đến việc môi
trường sự phạm bị xuống cấp, suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bạn bè; một bộ
phận không nhỏ học sinh, sinh viên rơi vào lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi,
nghiện ma tuý,… coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ. Bên cạnh đó, trình độ kiến thức,
khả năng thực hành, phương pháp tư duy khoa học, trình độ ngoại ngữ và thể lực của đa
số học sinh, sinh viên còn yếu. Ở nhiều học sinh ra trường, khả năng vận dụng kiến thức
vào sản xuất và đời sống còn hạn chế. Số đông sinh viên tốt nghiệp chưa có khả năng
thích ứng với những biến đổi nhanh chóng trong ngành nghề và công nghệ.
Thực trạng đó có nguyên nhân trực tiếp từ sự yếu kém của hệ thống giáo dục của
nước ta. Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nhận định,
nền giáo dục nước ta yếu kém một cách toàn diện thể hiện trên 5 phương diện: yếu kém về
quy mô và cơ cấu; chất lượng và hiệu quả thấp; thiếu kỷ cương, nền nếp; công bằng xã hội
trong giáo dục chưa được thực hiện đầy đủ; đội ngũ giáo viên vừa thiếu, vừa yếu. Bên
cạnh đó, phải kể đến nguyên nhân ở phương diện quản lý. Dự thảo chiến lược giáo
dục 2009 - 2020 đã chỉ ra rằng: quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa thực
sự được quán triệt đúng mức ở các cấp quản lý và chỉ đạo. Trong nhiều năm qua Đảng
ta đã luôn luôn nhấn mạnh quan điểm “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá trình phát triển”. Tuy nhiên trong
thực tiễn, quan điểm này chưa được cụ thể hoá để hiểu một cách đầy đủ và triển khai
một cách thực sự hiệu quả ở mọi lĩnh vực. Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa nhận
thức đầy đủ về vai trò của giáo dục, chưa thấy hết trách nhiệm đối với giáo dục nên
chưa dành ưu tiên thoả đáng tạo điều kiện phát triển giáo dục. Một số địa phương còn
sử dụng ngân sách giáo dục vào những hoạt động không phục vụ mục đích giáo
dục,… Tất cả những yếu kém và nguyên nhân đó làm cho công tác giáo dục - đào tạo
chưa đáp ứng được những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về con người cho công cuộc
đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Chính vì vậy, để có thể hoàn thành mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện
như đã đề ra thì tất yếu phải đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Xem giáo dục là cái
“gốc” để xây dựng và phát triển con người, là một trong những nhân tố góp phần quyết
định sự thành công của sự nghiệp đổi mới.
Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử là một trong những nhân tố có vai trò chủ đạo
trong việc hình thành, triển khai và phát triển nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến qua
nhiều thế kỷ và nền giáo dục này đã đóng vai trò to lớn trong việc xây dựng và phát triển
đất nước về nhiều mặt. Mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và nền giáo dục chịu
ảnh hưởng của tư tưởng đó còn không ít hạn chế, nhưng cho đến nay nó vẫn còn những
giá trị hết sức tích cực để cho chúng ta kế thừa vào việc phát triển nền giáo dục nước nhà.
Một trong những giá trị đó là tư tưởng hiếu học. Khổng Tử cho rằng, trong xã hội
ít có kẻ không học mà biết, tất cả mọi người đều phải học, phàm là con người ai ai cũng
phải học, vua phải học để làm vua, quan phải học để làm quan, dân phải học để làm dân.
Bản thân Khổng Tử cũng khẳng định, ông không phải là người sinh ra đã biết tất cả mà là
“sinh nhi tri chi”, tức là nhờ học mà biết. Suốt đời Khổng Tử đã thể hiện một tấm gương
về “học không biết mệt, dạy không biết mỏi”. Trong lịch sử, có lẽ chỉ ở Khổng Tử việc
dạy và học mới trở thành những đức tính cơ bản của con người. Khổng Tử nói: "Học
không chán là trí đấy; dạy không mỏi là nhân đấy". Điều này khẳng định tầm quan trọng
của việc dạy và học ở Khổng Tử .
Theo Khổng Tử, học là để làm người. Học tập là ngọn nguồn của trí, mang lại
cho con người sự minh mẫn, sáng suốt, có thể phân biệt được cái đúng, cái sai từ đó hành
xử cho đúng. Ông cho rằng, người ưa làm điều nhân mà không chịu học hỏi sẽ bị che lấp
bởi ngu muội; người ham đức trí mà không học thì bị che lấp bởi phóng đãng; người ham
đức tín mà không học thì bị che lấp bởi sự tổn hại; người ưa sự ngay thẳng mà không
ham học thì bị che lấp bởi sự gắt gao, mất lòng người; người ham đức dũng mà không
ham học thì bị che lấp bởi sự phản loạn; người ham cương quyết mà không ham học thì
bị che lấp bởi sự cuồng loạn. Chính vì vậy, theo Khổng Tử người nào muốn làm điều
nhân, đức, trí, tín, dũng, cương cho đúng đắn thì phải người đó trước hết phải học.
Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ đã làm biến đổi thế
giới về nhiều mặt, trong đó có nhận thức về giáo dục. Mọi quốc gia, dân tộc cũng như
bản thân mỗi người nếu muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng nâng cao tri thức
của mình. Con đường để nâng cao tri thức hiệu quả nhất chính là thông qua giáo dục.
Nếu con người là nhân tố quyết định sự phồn vinh của xã hội, thì giáo dục là nhân tố
quyết định sự phát triển của mỗi người. Hiện nay, nhân loại đang xây dựng nền kinh tế tri
thức, lượng tri thức tăng lên từng giờ, từng ngày. Do đó, được giáo dục, được học tập
không chỉ là yêu cầu của thời đại mà còn là nhu cầu thiết yếu của mỗi người. Bất cứ một
sự thoả mãn nào về tri thức đều đồng nghĩa với tụt hậu và đào thải. Chính V.I.Lênin đã
từng đưa ra phương châm: "học, học nữa, học mãi”.
Cha ông ta xưa đã chủ động tiếp nhận tư tưởng này của Khổng Tử và của Nho
giáo, xây dựng nền giáo dục Nho học rực rỡ, đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước,
gây dựng trong nhân dân sự hiếu học, ham học. Nhiều người cho rằng tâm lý ham học
không chỉ là của riêng Việt Nam mà là hệ quả tất yếu của những nước chịu ảnh hưởng
của tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng và Nho giáo nói chung.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, với mục tiêu
xây dựng con người mới phát triển toàn diện cả về tri thức, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ
thì hơn lúc nào hết, đòi hỏi con người phải luôn học tập, xem học tập như là nhu cầu tồn
tại và phát triển của mình. Nghị quyết Trung ương năm (khoá VIII) cũng cho rằng: "thường
xuyên học tập nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn" là một trong những đức tính cần
có của con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Bên cạnh tư tưởng hiếu học, chúng ta cũng có thể kế thừa tư tưởng đào tạo mẫu
người lý tưởng. Mẫu người lý tưởng mà Khổng Tử hướng đến xây dựng là người quân tử.
Người quân tử không chỉ được xây dựng về mặt lý thuyết như là sự khái quát những
phẩm chất được coi là hoàn thiện, toàn mĩ mà còn được hiện thực hoá thông qua những
con người cụ thể, có khả năng lôi kéo, cuốn hút mọi người. Họ là mẫu người vừa có tính
khái quát cao, vừa có tính phổ biến. Trong ý thức mọi người - họ là hình ảnh cần phải
hướng tới để hoàn thiện mình.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, con người mới phát triển toàn diện mà chúng ta
hướng đến xây dựng cũng chính là một mẫu người lý tưởng. Xét ở một góc độ nào đó, có
thể nói, người quân tử và con người mới hiện nay có nhiều điểm tương đồng. Đó là, cả
người quân tử và con người mới là hình ảnh tiêu biểu, là niềm tự hào đại diện cho xã hội
trong một giai đoạn nhất định của lịch sử; họ là những con người có đầy đủ năng lực và
phẩm chất mà xã hội cần; lý tưởng mà họ theo đuổi là đưa xã hội phát triển,… Tuy nhiên,
do những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau cho nên hai mẫu người này có sự khác
nhau căn bản. Chẳng hạn, do từ yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử, tính toàn diện, hoàn thiện
của người quân tử chỉ trong lĩnh vực đạo đức, trong khi đó, con người mới của nước ta là
con người phát triển toàn diện trên tất cả các mặt đạo đức, tri thức, thể chất, thẩm mỹ;
nếu ở người quân tử, lý tưởng họ theo đuổi là đạo lý thánh hiền thì ở con người mới phải
là mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;… Đây là những điểm chúng ta cần chú ý
khi kế thừa tư tưởng đào tạo mẫu người lý tưởng của Khổng Tử.
Như vậy, mặc dù có những sự khác biệt căn bản nhưng trong tư tưởng đào tạo
người quân tử của Khổng Tử có nhiều điểm tích cực để chúng ta có thể kế thừa vào sự
nghiệp xây dựng con người mới hiện nay.
Hướng tới mẫu hình con người lý tưởng là mục tiêu của giáo dục đào tạo trong
mọi thời kì. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giáo dục đào tạo được coi là
quốc sách hàng đầu, con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất, là nhân tố cơ bản
tạo nên nội lực để phát triển xã hội thì xây dựng mẫu người lý tưởng có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Nó góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng con người mới trong thời kỳ
đổi mới.
Bên cạnh những giá trị đã được nói ở trên, chúng ta cũng cần khắc phục một số hạn
chế lớn trong nội dung giáo dục của Khổng Tử. Những điểm đó là:
Một là, cần khắc phục lối giáo dục chủ yếu thiên về dạy đạo đức, “duy đạo đức”,
coi thường giáo dục tri thức về đời sống sản xuất, về khoa học tự nhiên. Đây là hạn chế
lớn trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, và là một nguyên nhân làm con người trong
chế độ phong kiến hàng ngàn năm ở Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước châu Á là con
người phiến diện, hụt hẫng về tri thức, xã hội không phát triển được về kinh tế, khoa học
kỹ thuật.
Hai là, cần khắc phục sự phân biệt đẳng cấp trong giáo dục của Khổng Tử, nhất là
tư tưởng coi thường phụ nữ. Đây là một trong những hạn chế mang tính lịch sử. Ngày nay,
cùng với việc lấy trình độ giải phóng con người, nhất là giải phóng người phụ nữ làm tiêu
chí đánh giá sự tiến bộ của xã hội, thì chúng ta cũng cần lấy mức độ xã hội hoá giáo dục
làm tiêu chí đánh giá sự tiến bộ của nền giáo dục, của xây dựng con người mới và tiến bộ
xã hội.
Như vậy, một lần nữa có thể khẳng định rằng, việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục
của Khổng Tử để thấy được ý nghĩa của nó trong việc phát triển nền giáo dục Việt Nam
cũng như xây dựng con người mới hiện nay là một vấn đề hết sức quan trọng. Đây là điều
kiện tiên quyết để xây dựng một nền giáo dục Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, với mục đích cao cả là tạo ra những con người phát triển một cách toàn diện, có đủ
đức, đủ tài, tham gia đắc lực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, thời
đại ngày nay đã khác xa so với thời mà tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ra đời và phát
triển, do vậy bên cạnh những giá trị tích cực cần được kế thừa và phát huy, thì vẫn còn
không ít những tư tưởng lạc hậu, không còn phù hợp thậm chí có thể trở thành lực cản
đối với sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Đó là lý do tại sao chúng ta
phải có một cái nhìn biện chứng trong việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
KẾT LUẬN
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, khi nói đến vấn đề con người và giáo dục con
người, không ai quên tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Mặc dù ra đời ở Trung Hoa cổ đại
nhưng tầm ảnh hưởng của những tư tưởng ấy vượt xa ra khỏi phạm vi của một dân tộc, của
một khu vực. Ông để lại cho nhân loại những bài học quý giá về giáo dục - đào tạo con
người và phát triển xã hội.
Việc Khổng Tử quan tâm đến con người và sự nghiệp giáo dục - đào tạo con
người không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của ông mà nó phản ánh những tất yếu
khách quan của lịch sử. Chính trong thời đại mà Khổng thuyết ra đời, hình thành và phát
triển, xuất hiện những chuyển biến hết sức căn bản và lớn lao về mọi mặt của xã hội.
Những điều kiện lịch sử đó, một mặt, tạo tiền đề khách quan cho sự phát triển của triết
học, mặt khác, đặt ra nhiều vấn đề cấp bách đòi hỏi các nhà triết học phải giải quyết,
trong đó có việc giáo dục cho mọi người.
Mặc dù còn nhiều hạn chế bởi điều kiện lịch sử cụ thể và tính chất sơ khai, nhưng
tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, trở thành một hệ
thống lý luận chặt chẽ. Trong đó ông đã nêu ra mục đích, đối tượng, nội dung và phương
pháp giáo dục khá sâu sắc, phong phú và sinh động. Theo Khổng Tử, giáo dục cho mọi
người biết đạo, hiểu đạo, có đầy đủ nhân, lễ, nghĩa, hiếu, tín, mẫn, huệ… nhằm phục vụ
cho trật tự cương thường của xã hội phong kiến là mục tiêu của giáo dục. Từ mục đích
đó, Khổng Tử đưa ra tư tưởng “hữu giáo vô loài”, tức là mọi người đều được giáo dục,
giáo dục là quyền lợi của mọi người, không phân biệt đẳng cấp, giai cấp, tầng lớp. Về nội
dung giáo dục, Khổng Tử đã đưa ra những nội dung đạo đức hết sức sâu sắc như nhân, lễ,
nghĩa, chính danh,… Để truyền dạy một cách có hiệu quả Khổng Tử đã đề xuất một hệ
thống phương pháp giáo dục khá chặt chẽ với những kiến giải sinh động và sâu sắc. Tuy
nhiên, cùng với những tư tưởng tích cực trên, thì Khổng Tử bộc lộ nhiều hạn chế mang
tính giai cấp. Trong đó, ông phân biệt giữa người quân tử với thường dân, tiểu nhân, và
ông đề cao người quân tử và đánh giá thấp vai năng lực và năng lực của thường dân, đặc
biệt, phụ nữ không được xem là đối tượng được giáo dục. Từ đó, ông dành hết tâm huyết
cho việc đào tạo người quân tử. Ngoài ra, việc tuyệt đối hoá nội dung đạo đức, hạ thấp tri
thức khoa học, sản xuất vật chất,.. cũng là một hạn chế lớn trong tư tưởng giáo dục của
ông. Tuy vậy, đánh giá một cách đầy đủ thì tư tưởng giáo dục Khổng Tử là một cống
hiến to lớn đối với sự nghiệp văn hoá giáo dục Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói
chung, trong đó có Việt Nam, nhất là đối việc giáo dục và đào tạo con người.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hiện nay, xây
dựng con người mới trở thành một nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đã đạt được thì sự nghiệp xây dựng con người mới tồn tại không ít
những hạn chế. Trong đó, đáng chú ý là sự suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ nhân
dân và sự yếu kém của nền giáo dục nước nhà. Điều này ảnh hưởng tiêu cực tới sự nghiệp
đổi mới đất nước. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu kế thừa các giá trị truyền thống để khắc phục
những hạn chế và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng con người mới.
Xuất phát từ yêu cầu và thực trạng của việc xây dựng con người mới để đặt vấn đề
kế thừa tư tưởng giáo dục của Khổng Tử là việc làm thiết thực, có tính chủ động, sáng tạo
trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, thời đại của chúng ta ngày nay đã khác xa so với
thời kỳ mà Khổng học ra đời và phát triển, vì vậy, khi kế thừa, tiếp thu những nội dung
trong tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục chúng ta cần có cái nhìn và thái độ biện chứng,
đối với những gì còn có ý nghĩa tích cực, chúng ta cần kế thừa, tiếp thu; còn những gì đã
trở nên lỗi thời, lạc hậu cần kiên quyết gạt bỏ. Trên hết, chúng ta phải thấy được rằng,
trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử vẫn còn nhiều bài học có ý nghĩa thiết thực trong
việc xây dựng con người mới - nhân tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Do đó, việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử để từ đó thấy được ý nghĩa
của nó đối với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay là một việc làm hết sức
cần thiết.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Ngọc Anh (1999), “Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam”. Triết học, (3).
2. Nguyễn Ngọc Ánh (2009), “Khổng Tử và Hồ Chí Minh: những tương đồng và khác
biệt trong tư tưởng đạo đức”, Triết học, (4).
3. Ban Khoa giáo Trung ương (2002), Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Tư tưởng văn hoá - Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu kết luận Hội nghị
lần thứ X, Ban chấp hành trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và hoàn thiện
con người”, Giáo dục lý luận, (5).
6. Nguyễn Thanh Bình (2001), “Đôi điều suy nghĩ về đối tượng giáo dục giáo hoá của
Nho giáo”, Giáo dục lý luận, (10).
7. Nguyễn Ngọc Bảo (1997), “Bước đầu suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi với
hành, lý luận đi đôi với thực tế”, Nghiên cứu giáo dục, (5).
8. Phan Văn Các (dịch chú) (2002), Luận Ngữ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, tập 1, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
10. Doãn Chính (chủ biên) (2004), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
11. Trịnh Doãn Chính (2005), Triết lý Phương Đông giá trị và bài học lịch sử, Nxb,
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Doãn Chính (chủ biên), Vũ Tình, Trương Văn Chung, Nguyễn Thế Nghĩa (2003),
Đại cương lịch sử triết học Phương Đông cổ đại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
13. Nguyễn Trọng Chuẩn - Phạm Văn Đức - Hồ Sỹ Quý (chủ biên) (2002), Tìm hiểu giá
trị văn hoá truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đại Doãn (1999), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
15. Đinh Xuân Dũng (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Ban Tư
tưởng - Văn hoá Trung ương, Hà Nội.
16. Dương Ngọc Dũng, Lê Anh Minh (2003), Triết giáo Đông Phương, Nxb Đại học
quốc gia Tp.Hồ Chí Minh.
17. Lê Duẩn (1984), Về xây dựng nền văn hoá mới con người mới xã hội chủ nghĩa, Nxb
Sự Thật, Hà Nội.
18. Đại học - Trung Dung (1950), Nxb Trí đức, Sài Gòn, (Đoàn trung còn dịch).
19. Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
20. Đảng Lao động Việt Nam (1977), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương
Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành
Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
31. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
Tp.Hồ Chí Minh.
32. Vũ thị Minh Hạ (2009), “Vai trò gia đình trong giáo dục đạo đức và nhân cách của
trẻ em”, Lý luận chính trị và truyền thông, (4).
33. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp
hoá - hiện đạo hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển
- kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Phạm Minh Hạc (2003), Về giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Lý Tường Hải (2006), Khổng Tử, Nxb Văn học, Hà Nội, Bản dịch của Nguyễn Quốc
Thái.
39. Đỗ Đình Hàng (2001), “Xây dựng con người mới đáp ứng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”, Giáo dục lý luận, (11).
40. Nguyễn Hùng Hậu (chủ biên) (2006), Triết học, Lịch sử triết học, Phần 1, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
41. Nguyễn Huy Hoan (1995), Về xây dựng con người mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
42. Nguyễn Văn Hoà (2009), “Phát triển giáo dục và đào tạo - một động lực để phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay”, Triết học, (4).
43. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2001), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Lương Vị Hùng - Khổng Khanh Hoa (2008), Triết học giáo dục hiện đại, Nxb,
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đặng Hữu (2008), “Phát triển nguồn lực con người cho công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trên cơ sở tiếp tục đổi mới giáo dục - đào tạo”, Khoa học xã hội, (1).
46. Trần Đình Hượu (2007), Các bài giảng về tư tưởng Phương Đông, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
47. Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà
Nội.
48. Trần Trọng Kim (2001), Đại cương triết học Trung Quốc - Nho giáo, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
49. Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
50. Trần Trọng Kim (2003), Nho Giáo, (Trọn bộ), Nxb Văn học, Hà Nội.
51. Nguyễn Thị Khoa (2002), “Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường”, Triết học,
(4).
52. Phạm Văn Khoái (2004), Khổng phu tử và Luận ngữ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
53. Liên hiệp Hội Thanh niên Việt Nam (2004), Văn kiện Đại hội sinh viên Việt Nam lần
thứ VII, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
54. Phan Huy Lê (1996), "Truyền thống và hiện đại: vài suy nghĩ và đề xuất", Tạp chí
Cộng sản, (18).
55. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
56. Nguyễn Hiến Lê (1992), Nhà giáo Họ Khổng, Nxb, Tp Hồ Chí Minh.
57. Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam - giáo dục và thi cử, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
58. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 4, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva.
59. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
60. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
61. Phan Ngọc Liên - Nguyên An biên soạn (2002), Bách khoa toàn thư Hồ Chí Minh sơ
giản: Hồ Chí Minh với giáo dục và đào tạo, Tập 1, Nxb Từ điển bách khoa, Hà
Nội.
62. Luận Ngữ (1950), Nxb Trí Đức, Sài Gòn (Đoàn Trung Còn dịch).
63. Mác - Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo (2007), Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
70. Mạnh Tử (tập thượng) (1968), Trung tâm học liệu xuất bản, (bản dịch của Nguyễn
Thượng Khôi).
71. Mạnh Tử, hạ (1950), Nxb Trí Đức, Sài Gòn (Đoàn Trung Còn dịch).
72. Sào Nam (1998), Khổng học đăng, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
73. Nguyễn Thị Nga - Hồ Trọng Hoài (2003), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (2005), Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên theo
đạo đức cách mạng, phong cách tư duy khoa học Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
75. Nhóm biên soạn (2001), Từ điển giáo dục học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
76. Trần Sỹ Phán (2008), “Mấy vấn đề đạo đức người cán bộ, đảng viên trong Văn kiện
Đại hội X của Đảng”, Triết học, (5).
77. Phạm Hồng Phong (chủ biên) (2008), Lược khảo về kinh nghiệm phát hiện và đào
tạo nhân tài trong lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Hoàn Nha Phương (2008), Khổng Tử - Tinh hoa trí tuệ qua danh ngôn, Nxb Văn
hoá thông tin, Hà Nội.
79. Đào Duy Quát (2004), Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Bùi Thanh Quất - Vũ Tình (chủ biên) (2000), Lịch Sử triết học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
81. Hồ Sỹ Quý (2005), “Nghiên cứu con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước”, Cộng sản, (17).
82. Lê Thanh Sinh (2003), “Khổng giáo với vấn đề hiện đại hoá xã hội”, Khoa học xã
hội, (1).
83. Hà Thiên Sơn (1998), Lịch sử triết học, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
84. Tứ Thư (2006), Trần Trọng Sâm - Kiều Bách Vũ Thuận (biên dịch), Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
85. Lê Văn Tuấn (1999), Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển con người
trong sự nghiệp đổi mới, Luận văn thạc sĩ triết học, Viện Triết học.
86. Trí Tuệ (2003), Luận Ngữ Tinh hoa, Nxb Mũi Cà Mau, Tp.Hồ Chí Minh.
87. Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Bùi Ngọc Thanh (2008), Một số vấn đề về xây dựng Đảng và công tác cán bộ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sức văn hoá dân tộc Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
90. Tuân Tử (1994), Nxb Văn hoá, Hà Nội, (Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi dịch).
91. Nguyễn Tài Thư (2005), Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
92. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1998), Nho giáo với Văn hoá Việt Nam hiện nay, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
93. Nguyễn Khắc Viện (2000), Bàn về Đạo Nho, Nxb, Thế giới, Hà Nội.
94. Trịnh Xuân Vũ (1998), “Phương pháp dạy học của Khổng Tử”, Nghiên cứu giáo
dục, (2).
95. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (2003), Giáo trình lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
96. Website: Báo điện tử Dân trí, Trần Huy Thuận "Vai trò của gia đình và văn hoá gia
đình", ngày 12/03/2009.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ 7
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử 7
1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử 18
1.3. Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử 47
Chương 2: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG
TỬ VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY 53
2.1. Một số vấn đề xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay 53
2.2. Sự cần thiết khách quan của việc kế thừa các giá trị truyền thống
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay 60
2.3. Những giá trị trong tư tưởng giáo dục của Khổng tử với việc xây
dựng con người mới ở nước ta hiện nay 65
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay.pdf