Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân, 
do dân và vì dân rất rộng, bao quát những vấn đề trọng yếu nhất, cốt lõi nhất. Trong đó 
đáng chú ý là quan niệm về bản chất dân chủ của Nhà nước, Nhà nước do nhân dân là 
chủ và do nhân dân làm chủ được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
- Nhà nước dân chủ là tổ chức chính trị của nhân dân, do nhân dân bầu ra.
- Nhà nước dân chủ là nhà nước đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước 
và quản lý xã hội.
- Nhà nước dân chủ là nhà nước trong đó nhân dân có quyền bãi miễn những 
người không xứng đáng trong bộ máy nhà nước.
- Nhà nước dân chủ là nhà nước trong đó nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát, 
nhận xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà 
nước.
- Nhà nước dân chủ là nhà nước hết lòng vì nhân dân, thực hiện và bảo vệ 
quyền và lợi ích của nhân dân.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 86 trang
86 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2584 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của nhà nước và sự vận dụng trong đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 nhân tồn tại và giải pháp khắc phục. 
Thứ ba, được cử tri hết sức hoan nghênh và quan tâm. Qua theo dõi truyền 
hình trực tiếp phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn, cử tri nắm bắt rõ hơn những 
vấn đề quản lý nhà nước, những tồn tại và giải pháp khắc phục. Từ đó có thể tham 
gia giám sát tốt hơn hoạt động của các cơ quan Nhà nước, giám sát và đánh giá đầy 
đủ hơn, đúng hơn hiệu quả hoạt động của HĐND và các đại biểu HĐND. 
- Tiến hành chấm điểm hoạt động của đại biểu HĐND. Đây là một hình 
thức nhằm đánh giá công khai hiệu quả hoạt động của đại biểu và khích lệ việc thi 
đua trong hoạt động của HĐND. Việc chấm điểm và thông báo cho từng đại biểu 
biết thể hiện dân chủ, công khai hiệu quả hoạt động của đại biểu. Mặt khác, việc 
chấm điểm còn dựa trên cơ sở các báo cáo tổng hợp ý kiến cử tri về đại biểu và về 
hoạt động của HĐND, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên giữa đại biểu 
HĐND với cử tri, với nhân dân nhằm phản ánh kịp thời, chính xác ý chí, nguyện 
vọng của cử tri tới chính quyền các cấp. Bên cạnh đó, với hình thức tiếp xúc cử tri 
trước và sau kỳ họp, tiếp xúc cử tri theo nhóm vấn đề, lĩnh vực, giới, cử tri nơi cư 
trú và đặc biệt là ở cấp tỉnh, thành phố đã tổ chức đối thoại với cử tri. Chính những 
hoạt động của đại biểu vừa là những cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của đại 
biểu, vừa thể hiện yêu cầu mở rộng dân chủ để cử tri giám sát hoạt động của đại 
biểu HĐND, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước 
nhân dân. 
- Một vấn đề nữa hết sức quan trọng, thể hiện quyền lực thực sự của 
HĐND, thể hiện tính dân chủ, công khai các hoạt động của HĐND đó là vấn đề 
quyết định ngân sách địa phương và vấn đề quyết định nhân sự chủ chốt của các 
cấp chính quyền cũng như việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do HĐND bầu. 
Về quyết định ngân sách địa phương. Trước đây, ngay từ Sắc lệnh đầu tiên 
ngày 22/11/1945 về tổ chức HĐND và UBHC do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban 
hành đã quy định: "Kỳ họp bàn về ngân sách có thể dài 15 ngày". Như vậy, vấn đề 
quyết định ngân sách của HĐND một cách thực chất đã được trù liệu trước ngay từ 
khi có Sắc lệnh về tổ chức chính quyền địa phương. Tuy nhiên, do điều kiện kháng 
chiến chống thực dân Pháp và chiến tranh kéo dài nên các quy định này chưa được 
thực hiện trong thực tiễn. Cho đến gần đây, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn sửa đổi 
Luật ngân sách đáp ứng yêu cầu nâng cao vai trò quyết định ngân sách của Quốc 
hội và HĐND các cấp thì vấn đề này đã được thực thi trong hoạt động của Quốc 
hội và HĐND. Mặc dù đây mới chỉ là bước đi đầu tiên, việc thực hiện ở HĐND các 
cấp không khỏi lúng túng, hình thức, chủ yếu dựa vào dự toán của UBND và thẩm 
tra của Ban Kinh tế - Ngân sách để HĐND biểu quyết. Còn vai trò của HĐND, của 
các ban của HĐND và của đại biểu HĐND trong việc quyết định ngân sách còn mờ 
nhạt. 
Việc HĐND quyết định ngân sách của địa phương đã phản ánh vai trò thực 
chất của Hội đồng, từng bước công khai cụ thể các khoản thu, chi ngân sách địa 
phương, đóng góp của nhân dân, mục đích, mục tiêu và hiệu quả sử dụng ngân 
sách, việc hỗ trợ ngân sách của Trung ương và động viên huy động các nguồn vốn 
tại địa phương cho sự nghiệp phát triển của địa phương. Tuy nhiên, với đội ngũ 
chuyên gia, chuyên viên của HĐND, các Ban của HĐND còn mỏng, nghiệp vụ 
chuyên sâu còn nhiều hạn chế. Mục tiêu và thời gian xem xét, quyết định ngân sách 
ở địa phương là có giới hạn nên việc xem xét, quyết định ngân sách địa phương ở 
HĐND vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là làm rõ hiệu quả sử dụng ngân sách ở địa 
phương, các khoản chi, tiêu, huy động vốn để nhân dân biết và giám sát. 
Về vấn đề quyết định nhân sự chủ chốt của chính quyền các cấp thường tiến 
hành vào kỳ họp đầu nhiệm kỳ của HĐND, một số trường hợp có thay đổi sẽ quyết 
định vào trong các kỳ họp thường kỳ của HĐND các cấp. Đây là vấn đề cần khẳng 
định vai trò lãnh đạo cao nhất của Đảng. Tuy nhiên, phương thức lãnh đạo của 
Đảng với Thường trực HĐND trong vấn đề bầu, phê chuẩn các nhân sự chủ chốt 
của chính quyền địa phương cần phát huy vai trò của HĐND, đại biểu HĐND trong 
việc quyết định nhân sự, nhất là khi chúng ta có một Đảng lãnh đạo tuyệt đối và 
toàn diện. Vì vậy, trên thực tế thực hiện còn nhiều vướng mắc, bất cập không rõ vai 
trò thực sự của HĐND. Nhiều nơi, vai trò của HĐND còn mờ nhạt, bị động, hình thức, 
các đại biểu HĐND không được cung cấp đầy đủ thông tin, kịp thời khi xem xét, quyết 
định vấn đề nhân sự nên việc xem xét, quyết định nhân sự tại kỳ họp HĐND còn mang 
tính hình thức. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu khắc phục. 
5. Đại biểu Hội đồng nhân dân thực hiện vai trò là người đại diện cho ý chí, 
nguyện vọng của nhân dân địa phương thông qua hoạt động của mình 
Luật tổ chức HĐND và UBND, cũng như quy chế hoạt động của HĐND 
các cấp đã quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND như sau: 
Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của 
HĐND, tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn 
của HĐND; đại biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình, 
chịu trách nhiệm giám sát của cử tri, phải thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, 
nguyện vọng của cử tri... thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri; đại biểu HĐND có quyền 
chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND và các thành viên khác của UBND, 
Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND và Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn 
thuộc UBND cùng cấp. 
Sau khi kết quả bầu cử đại biểu HĐND các cấp được công bố, theo quy định của 
Luật bầu cử HĐND, kỳ họp đầu tiên của HĐND các cấp đã họp và bầu được Thường trực 
HĐND các Ban HĐND, UBND, các chức danh khác. Đại biểu HĐND các cấp chính thức 
bước vào thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. 
Qua khảo sát 860 đại biểu HĐND xã, 420 đại biểu HĐND huyện cho thấy 
kết quả thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 1999-
2004 và nhiệm kỳ 2004-2009 (tính đến tháng 7 năm 2005) trên các mặt cụ thể như 
sau: 
- Thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc cử tri: 
ở nhiệm kỳ 1999-2004 các đại biểu tham gia tiếp xúc cử tri do MTTQ Việt 
Nam cùng cấp tổ chức là 11 lần, tham gia tiếp xúc cử tri do tổ đại biểu HĐND tổ chức 
là 5 lần, thực hiện tiếp xúc cử tri với tư cách cá nhân là 10 lần. Trong đó tiếp xúc cử tri 
trước các kỳ họp là 14 lần và sau kỳ họp là 12 lần. 
Trong nhiệm kỳ 2004-2009 (tính đến tháng 7/2005) các đại biểu tham gia 
tiếp xúc cử tri do MTTQ Việt Nam cùng cấp tổ chức là bốn lần, tham gia tiếp xúc 
cử tri do tổ đại biểu HĐND tổ chức là hai lần, thực hiện tiếp xúc cử tri với tư cách 
cá nhân là năm lần. 
Qua tiếp xúc cử tri các đại biểu HĐND đã thông báo với cử tri tình hình 
kinh tế - xã hội ở địa phương; nắm bắt được nguyện vọng của nhân dân; tiếp thu 
những kiến nghị và đề xuất của cử tri để thảo luận và đi đến quyết định những vấn 
đề quan trọng tại các kỳ họp. 
Tuy nhiên, còn nhiều đại biểu HĐND chưa tự tổ chức các cuộc tiếp xúc cử 
tri với tư cách cá nhân. 
- Thực hiện nhiệm vụ tại kỳ họp. 
ở nhiệm kỳ 1999 - 2004, đại biểu HĐND tham gia kỳ họp đạt 96,5%. 
Nhiệm kỳ 2004-2009 (tính đến tháng 7/2005) tỷ lệ đại biểu tham gia kỳ họp đã tăng 
lên là 97,8%. Trong các buổi làm việc tại kỳ họp, đa số đại biểu HĐND đã phát huy 
tốt tinh thần trách nhiệm của mình, tìm hiểu để nắm vững kết quả hoạt động trên 
các mặt kinh tế - xã hội của địa phương thông qua báo cáo của UBND và các ngành 
tư pháp cùng cấp. Tích cực thảo luận tham gia đóng góp ý kiến nhằm sửa chữa 
những thiếu sót, khắc phục những tồn tại và xây dựng phương hướng phát triển 
kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. 
Nhiều đại biểu, trong suốt cả nhiệm kỳ không tham gia phát biểu tại các 
buổi thảo luận, không có ý kiến chất vấn tại kỳ họp, chưa phát huy được vai trò đại 
biểu trong việc thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương. 
- Thực hiện mối liên hệ giữa đại biểu HĐND với Thường trực HĐND. 
Đại biểu HĐND thường xuyên liên hệ với Thường trực HĐND cùng cấp 
bằng phiếu hoạt động đại biểu hàng tháng và phản ánh trực tiếp tình hình kinh tế - 
xã hội, về hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương mình, cơ quan mình, 
những đề nghị, kiến nghị của nhân dân cần giải quyết. 
Thông qua phản ánh của đại biểu HĐND, Thường trực HĐND nắm chắc 
tình hình cơ sở, nguyện vọng của nhân dân để đôn đốc các cơ quan quản lý nhà 
nước giải quyết kịp thời các kiến nghị của nhân dân; đồng thời chuẩn bị tốt các nội 
dung cho kỳ họp. 
Còn nhiều đại biểu HĐND chưa thường xuyên giữ tốt mối liên hệ này, có 
khoảng 10% đại biểu HĐND không gửi phiếu hoạt động đại biểu, hoặc không trực 
tiếp phản ánh ý kiến của mình với Thường trực HĐND cùng cấp (trừ khi tham gia 
kỳ họp). 
- Đại biểu HĐND thực hiện quyền chất vấn của mình với cơ quan chức 
năng của Nhà nước bằng các hình thức. 
Yêu cầu, chất vấn trực tiếp, chất vấn bằng văn bản. Trong đó hình thức 
được các đại biểu dùng nhiều hơn là chất vấn trực tiếp. 
ở nhiệm kỳ 1999-2004, bình quân mỗi đại biểu đã thực hiện chất vấn các cơ 
quan chức năng nhà nước là 8,26 lần, trong đó: 
- Chất vấn trực tiếp là 66% 
- Chất vấn gián tiếp 34% 
- Chất vấn Chủ tịch UBND 31% 
- Chất vấn Chủ tịch HĐND 22% 
- Chất vấn Thủ trưởng các cơ quan tư pháp 5%. 
Đại biểu HĐND đã nhận được trả lời của các cơ quan nhà nước bằng các 
hình thức. 
- Trả lời trực tiếp 85% 
- Trả lời bằng văn bản 9% 
- Không nhận được trả lời 6% 
Kết quả trả lời của các cơ quan chức năng nhà nước với đại biểu HĐND là: 
- Thỏa mãn yêu cầu 69% 
- Chưa thỏa mãn yêu cầu 18% 
- Không chấp nhận được 13% 
Qua điều tra trực tiếp 985 đại biểu HĐND các cấp, đã có 370 ý kiến yêu 
cầu các cơ quan chức năng nhà nước chấm dứt những hoạt động sai trái, không phù 
hợp với quy định của pháp luật. 
Đa số ý kiến đại biểu HĐND được hỏi cho rằng: Việc trả lời của các cơ 
quan chức năng nhà nước thường chậm và một số vấn đề bức xúc thường rơi vào 
tình trạng "lãng quên" gây giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan nhà nước. 
- Đại biểu HĐND thực hiện quyền giám sát của mình thông qua hình thức: 
Giám sát các báo cáo của UBND và của các cơ quan nhà nước ở địa 
phương tại các kỳ họp. Thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan chức năng 
nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân trong quá trình 
hoạt động, công tác của mình. 
Chức năng này đối với đại biểu HĐND cấp huyện, cấp xã chưa được thực 
hiện đầy đủ; một mặt, do môi trường hoạt động, mặt khác do trình độ năng lực của 
đại biểu còn hạn chế. 
- Mối liên hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri: 
Đại biểu HĐND liên hệ chặt chẽ với nhân dân nơi cư trú, 98% các cuộc họp 
ở khu dân cư được đại biểu HĐND tham dự, đóng góp nhiều ý kiến tốt xây dựng 
địa phương, gương mẫu thực hiện chế độ chính sách nhà nước và các quy định của 
chính quyền địa phương. 
Bình quân mỗi đại biểu HĐND tiếp công dân: 8,2 lần. 
Mỗi đại biểu nhận ý kiến nghị cử tri: 6,5 lần. 
Đại biểu HĐND trả lời kiến nghị cử tri đạt: 84%; chuyển kiến nghị cử tri 
đến các cơ quan chức năng nhà nước giải quyết là 16%. 
Trong quy chế hoạt động của HĐND, tại điều 4 quy định: "Đại biểu Hội 
đồng nhân dân phải tiếp dân theo lịch đã được phân công", nhưng hầu hết các đại 
biểu chưa thực hiện được. Một mặt, trên thực tế HĐND chưa bố trí được địa điểm 
để đại biểu tiếp dân, vì thế nên cũng không có lịch phân công tiếp dân cho đại biểu; 
mặt khác, do trình độ và điều kiện công tác nên nhiều đại biểu khó đáp ứng được 
hoạt động này. 
Từ điều kiện thực tế, đa số ý kiến các đại biểu HĐND cho rằng, hầu hết các 
đại biểu HĐND là kiêm chức, thời gian chủ yếu các đại biểu phải giành cho hoàn 
thành nhiệm vụ chuyên môn nên thời gian giành cho hoạt động nhiệm vụ đại biểu 
là rất ít. 
Nhiều đại biểu là công chức nhà nước nên việc thực hiện quyền chất vấn 
của đại biểu HĐND với nhiệm vụ chính mình đang phải giải quyết, hoặc với Thủ 
trưởng các cơ quan chức năng của Nhà nước là việc làm rất khó và không đảm bảo 
tính khách quan. 
Đa số đại biểu HĐND tỉnh, huyện sống và làm việc ở nơi xa với nơi cử tri 
bầu ra mình, nên cử tri khó có điều kiện gặp gỡ thường xuyên đại biểu do mình bầu 
ra để phản ánh tâm tư nguyện vọng; các đợt tiếp xúc cử tri do MTTQ hay tổ đại 
biểu tổ chức thì chỉ có một số đại biểu cử tri có điều kiện được dự; vì vậy mối liên 
hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri không được gần gũi và mật thiết. 
Sinh hoạt phí của đại biểu HĐND như hiện nay là thấp, nhất là đại biểu 
HĐND không phải là người được hưởng từ ngân sách nhà nước, theo quy định tại 
quy chế hoạt động của HĐND các cấp thì lương của những ngày đại biểu HĐND đi 
làm nhiệm vụ do HĐND cùng cấp quyết định; nhưng trừ những ngày tham dự kỳ 
họp, còn đại biểu phải hoạt động bao nhiêu ngày trong tháng, trong năm và lương 
mỗi ngày đại biểu được hưởng bao nhiêu, cơ quan nào chi trả thì chưa thấy có cấp 
nào quyết định. 
Với những lý do nêu trên nhiều đại biểu HĐND coi việc thực hiện nhiệm 
vụ đại biểu HĐND là "công việc làm thêm" và vì thế hoạt động của HĐND còn 
mang nặng tính hình thức. 
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội 
đồng nhân dân bảo đảm phát huy bản chất dân chủ của Nhà nước theo tư 
tưởng Hồ Chí Minh 
2.2.1. Những giải pháp chung 
Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau vì phạm vi, nội dung, phương thức thực 
hiện bản chất dân chủ của Nhà nước trong tổ chức, hoạt động của HĐND có những 
điểm khác nhau, yêu cầu khác nhau, có những ưu điểm và những hạn chế. Trong giai 
đoạn hiện nay, khi chúng ta đang chuyển đổi nền kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa 
hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền thì việc thực hiện bản chất dân 
chủ của Nhà nước trong tổ chức, hoạt động của HĐND cần phải được phát huy mạnh 
mẽ, tuân thủ những nguyên tắc về việc đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước do Đảng đề 
ra, tạo bước đi vững chắc và có nhiều hình thức thực hiện phong phú. 
Trong phạm vi đề tài này xin nêu một số giải pháp chung nhằm tăng cường thực 
hiện bản chất dân chủ của Nhà nước trong tổ chức, hoạt động của HĐND. 
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND. 
- Xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền các cấp. 
- Phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. 
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. 
Các giải pháp nêu trên là những yếu tố trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt 
động của HĐND. Các giải pháp này phải được thực hiện đồng bộ, nhưng có chọn lọc, 
theo lộ trình, từng bước vững chắc để thực hiện tăng cường hiệu quả hoạt động của 
HĐND, phát huy vai trò của HĐND và sự tham gia tích cực của nhân dân vào quá 
trình quản lý nhà nước và xã hội. 
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật 
Sau khi Hiến pháp 1992 được sửa đổi, các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước như 
Luật tổ chức Quốc Hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức 
VKSND, Luật tổ chức HĐND, UBND và Luật bầu cử đại biểu HĐND được ban hành đã 
làm cơ sở cho việc đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp. Tuy 
nhiên, để các quy định có liên quan tới tổ chức và hoạt động trong Hiến pháp và các đạo 
luật có liên quan được thực thi có hiệu quả trong cuộc sống, thì cần phải tiếp tục cụ thể 
hóa các quy định mới, các quy định còn dừng ở nguyên tắc chung trong các pháp lệnh, 
các văn bản dưới luật khác. Đặc biệt là sửa đổi, bổ sung các quy định trong quy chế hoạt 
động của HĐND, các quy định trong các đạo luật liên quan, trong các Nghị định của 
Chính phủ theo hướng: cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, không chồng chéo tản mạn. 
Tạo điều kiện nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND. Từ đó tạo cơ sở, làm 
hành lang pháp lý để tăng cường thực hiện bản chất dân chủ của Nhà nước trong tổ chức 
hoạt động của HĐND trên các lĩnh vực cụ thể. 
Trong các bước hoàn thiện hệ thống pháp luật cần thống kê đầy đủ các quy định 
còn chung chung, trái với tinh thần của luật mới, các quy định chồng chéo, chưa được 
hướng dẫn và nêu trách nhiệm với cơ quan có thẩm quyền phải sửa đổi, bổ sung, xây 
dựng kế hoạch, thời gian, yêu cầu, mục đích sửa đổi để tiến hành việc hoàn thiện hệ 
thống pháp luật có hiệu quả. 
Xây dựng, củng cố bộ máy chính quyền các cấp 
Sau khi tiến hành thành công các cuộc bầu cử đại biểu HĐND các cấp, cần tập 
trung củng cố xây dựng lại bộ máy chính quyền các cấp thông qua việc bầu các chức 
danh chủ chốt trong chính quyền. 
Cần phải nhận thức đầy đủ, phát huy trí tuệ, dân chủ của đại biểu HĐND để lựa 
chọn những người xứng đáng, có trình độ, năng lực, sức khỏe, đạo đức, sự tín nhiệm 
của cử tri để đảm nhận những vị trí then chốt trong bộ máy chính quyền. Cần phải xem 
đây là khâu đầu tiên, có tính quyết định trong việc củng cố tổ chức bộ máy. Đồng thời 
phải xây dựng được các quy chế hoạt động cụ thể, phân rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và 
quyền lợi của cá nhân trong mỗi cương vị được giao. Từ đó, chỉ đạo thực hiện đầy đủ 
trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền các cấp, làm 
cho bộ máy vận hành theo đúng các quy định của pháp luật, có hiệu lực, hiệu quả và 
phục vụ nhân dân được tốt hơn. 
Phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương 
Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của 
Nhà nước, cần phải phát huy cho được tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Thực 
tiễn cho thấy, các đại biểu HĐND, các Ban ngành của HĐND, Thường trực HĐND ở 
các địa phương là người bám sát với yêu cầu thực tế ở cơ sở và có nhiều sáng tạo, đổi 
mới trong các phương thức hoạt động nhằm thực hiện tốt dân chủ trong tổ chức hoạt 
động của HĐND. 
Mặt khác, cần ủng hộ, tạo điều kiện để các địa phương, đại biểu HĐND phát huy trí 
tuệ, sáng tạo triển khai thực hiện các bước đổi mới hoạt động của HĐND, phù hợp với yêu 
cầu của thực tiễn và đúng với các quy định của pháp luật. 
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng 
Thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và của 
HĐND nói riêng chứng minh rằng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đến 
tiến trình đổi mới đúng hướng, thành công và đem lại kết quả khả quan. Vì vậy, trong 
quá trình đổi mới tổ chức hoạt động của HĐND phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng 
trên cả ba phương diện: định hướng đường lối đổi mới; lãnh đạo thực hiện; tổ chức bộ 
máy cán bộ. Mặt khác, để phát huy hơn nữa trí tuệ, sáng tạo của HĐND, Đảng ủy các 
cấp cần đổi mới phương thức lãnh đạo đối với tổ chức hoạt động của HĐND đưa các 
cán bộ chủ chốt, có năng lực phẩm chất đạo đức nắm giữ các cương vị chủ chốt trong 
HĐND, Đảng lãnh đạo thực hiện nhưng không can thiệp vào tiến trình và công việc cụ 
thể của HĐND; thực sự cầu thị và tôn trọng ý kiến của HĐND; kịp thời có sửa đổi, bổ 
sung những điều bất hợp lý trong các hoạt động của HĐND. 
2.2.2. Những giải pháp cụ thể 
1. Nâng cao nhận thức về vai trò của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội 
đồng nhân dân 
- Đối với HĐND 
Tổ chức học tập, tuyên truyền để mọi đảng viên của Đảng, các tổ chức chính 
quyền, mặt trận, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, xã hội, lực lượng vũ 
trang và nhân dân hiểu rõ: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa 
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân 
địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước 
cấp trên" [ 53, tr.500] là điều quan trọng đầu tiên để nâng cao chất lượng hoạt động 
của HĐND. 
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà 
nước, cùng với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, vị trí vai trò của 
HĐND ngày càng được nâng cao.Tuy nhiên, phải ngăn ngừa tình trạng HĐND hợp 
pháp hóa các quyết định của cơ quan chấp hành bằng Nghị quyết tại các kỳ họp; hoặc 
các cấp ủy Đảng làm thay những công việc của HĐND - như vậy là làm giảm vai trò 
của HĐND, làm cho tổ chức và hoạt động của HĐND trở thành hình thức. 
Muốn nâng cao nhận thức về vai trò của HĐND cần phải nhận thức nghiêm 
túc những nguyên nhân về khách quan và chủ quan của những yếu kém, hạn chế về 
tổ chức và chất lượng hoạt động của HĐND các cấp. 
Về mặt chủ quan, hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND 
chưa được hoàn thiện, thiếu đồng bộ; bộ máy và tổ chức của HĐND chưa tương 
xứng với nhiệm vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định; điều kiện hoạt động của 
HĐND còn nhiều hạn chế. 
Về mặt khách quan, do nhận thức chưa đầy đủ của một bộ phận cán bộ, 
đảng viên và nhân dân: qua khảo sát thực tiễn cho thấy, nhiều cán bộ đảng viên 
thích công tác ở cơ quan chấp hành (UBND và các cơ quan chuyên môn của 
UBND) hơn ở cơ quan HĐND; nhân dân và các cơ quan, tổ chức tôn trọng UBND 
hơn vì chỉ có cơ quan đó mới quyết định được việc cấp tiền, quyết định đề bạt cán 
bộ và nhiều việc khác; còn HĐND thường chỉ được biết đến qua các kỳ bầu cử, kỳ 
họp; những ý kiến của đại biểu HĐND, những kiến nghị của các ban HĐND qua 
các đợt khảo sát, giám sát được thực hiện hay không ít được các cơ quan, tổ chức 
quan tâm. 
Thực tiễn qua khảo sát cũng cho thấy, ở những nơi nào cấp ủy quan tâm 
nhắc nhở cơ quan hành chính thực hiện ý kiến, kiến nghị, Nghị quyết của HĐND 
thì ở đó vai trò HĐND được nâng cao, hoạt động của HĐND có hiệu quả rõ rệt. Vì 
vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao nhận thức vai trò HĐND 
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, phải trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế - xã hội và 
những định hướng do tổ chức đảng đề ra, căn cứ vào tình hình thực tiễn tại từng địa 
phương, HĐND các cấp bàn bạc thảo luận, thể chế hóa thành các chế độ chính 
sách, các giải pháp để cơ quan chấp hành tổ chức thực hiện. 
Đối với đại biểu HĐND cần: 
- Luôn ghi nhớ mình là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, 
hoạt động vì lợi ích của nhân dân, chứ không phải tách rời và đứng trên nhân dân. 
- Phải có giác ngộ đầy đủ về dân chủ, thực sự tin dân, tôn trọng dân - đó là tiền 
đề cho việc phát huy bản chất dân chủ của HĐND. 
- Luôn nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của người đại 
biểu HĐND. Phải từng ngày, từng giờ ghi nhớ mình là người đại biểu HĐND. 
- Nêu cao bản lĩnh của mình, không né tránh, đùn đẩy việc giải quyết những 
vấn đề gai góc đặt ra, phải suy nghĩ để tìm ra hướng giải quyết phù hợp với lợi ích 
chính đáng của nhân dân và đề đạt ý kiến với cấp có thẩm quyền. 
2. Củng cố tổ chức Hội đồng nhân dân và bồi dưỡng trình độ cho các đại biểu 
Hội đồng nhân dân để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình 
Hội đồng nhân dân các cấp cần: 
- Kiện toàn đội ngũ đại biểu HĐND xử lý kỷ luật, miễn nhiệm đối với những 
đại biểu có hành vi tiêu cực nặng, tham nhũng, mất dân chủ. Bởi vì tổ chức yếu kém, 
cán bộ không trong sạch thì không thể đảm bảo bản chất dân chủ của tổ chức. 
- Định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm lấy phiếu tín nhiệm của dân đối với các đại biểu 
HĐND. Bãi nhiệm các đại biểu nào không đủ tín nhiệm của nhân dân trong 2 năm 
liền. 
- Thường xuyên thông tin cho các đại biểu HĐND về đường lối, chủ trương của 
Đảng và Nhà nước, tình hình địa phương để họ có điều kiện thực hiện vai trò của mình 
một cách tốt nhất. Theo quy định tại khoản 1 điều 48 Quy chế hoạt động của HĐND 
các cấp, đại biểu HĐND đương nhiệm "được cung cấp báo cáo định kỳ của Thường 
trực Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cùng cấp và các tài liệu khác liên quan 
đến hoạt động của Hội đồng nhân dân". Thực tế đại biểu HĐND được cung cấp các 
báo cáo định kỳ và tạp chí Người đại biểu, còn những tài liệu khác là những gì 
không được chỉ rõ. Hàng năm, UBND tỉnh ban hành hàng chục văn bản pháp quy, 
không kể các văn bản khác, nhưng đại biểu HĐND không được cung cấp thông tin 
đầy đủ về các văn bản đó. 
Thực tế hiện nay, nhiều đại biểu HĐND đói thông tin, không nắm được 
những quyết sách lớn của địa phương do đó không có điều kiện giám sát hoặc phổ 
biến, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách đó. Đa số đại biểu 
HĐND - nhất là đại biểu HĐND cấp xã phàn nàn là không biết thực hiện quyền 
chất vấn UBND và góp ý kiến xây dựng chính quyền vào nội dung nào, việc nào? 
Tăng cường quan hệ thông tin giữa các cơ quan nhà nước, giữa Thường 
trực HĐND, UBND và các đại biểu như thường xuyên cung cấp thông tin về kinh 
tế - xã hội và những chủ trương, quyết sách lớn của địa phương cho các đại biểu 
HĐND. 
- Tổ chức bồi dưỡng những kiến thức cần thiết cho các đại biểu HĐND (bồi 
dưỡng mới và bồi dưỡng bổ sung hàng năm) để bảo đảm cho họ có đủ khả năng đại 
diện cho quyền làm chủ của nhân dân. 
- Bồi dưỡng kỹ năng hoạt động của người đại biểu HĐND, đặc biệt là kỹ năng 
xử lý các tình huống đặt ra trong đời sống hàng ngày. 
3. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân 
Hội đồng nhân dân các cấp cần: 
- Có kế hoạch triển khai thực hiện các hoạt động phù hợp với tình hình của từng 
địa phương, có biện pháp tiến hành và điều hành cụ thể. 
- Kết hợp dân chủ trực tiếp với dân chủ đại diện nâng cao chất lượng các quyết 
định của HĐND trên cơ sở để nhân dân bàn bạc và tham gia ý kiến nhằm phát huy các 
tiềm năng của địa phương vào việc giải quyết những vấn đề bức thiết của địa phương. 
- Xây dựng quy chế làm việc giữa Đảng ủy, HĐND, UBND, MTTQ và các tổ 
chức, đoàn thể quần chúng để tạo ra sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan và các tổ 
chức này trong việc giải quyết những yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân. 
- Nâng cao chất lượng các cuộc tiếp xúc cử tri, chuẩn bị kỹ nội dung trước khi 
tiếp xúc. có biện pháp khuyến khích nhân dân tham gia và đóng góp ý kiến. Tiếp xúc 
cử tri là một trong những yêu cầu đảm bảo cho hiệu quả hoạt động của HĐND các 
cấp. Đây là một hoạt động quan trọng, là cơ sở cầu nối giữa cơ quan quyền lực nhà 
nước với nhân dân. Thực tế những năm qua, việc tiếp xúc cử tri còn nhiều hạn chế, 
chủ yếu tổ chức tiếp xúc cử tri trước kỳ họp mà chưa đưa việc tiếp xúc cử tri là một 
công việc thường xuyên. Trong tiếp xúc cử tri nhiều nơi còn mang nặng tính hình 
thức, cử tri chủ yếu là những người giữ chức vụ, là người tiêu biểu thậm chí là "Đại 
cử tri", do đó những thông tin mà đại biểu quan tâm thường không nắm bắt được 
một cách đích thực, phát biểu của các cử tri này thường một chiều, chưa mở rộng 
tiếp xúc với cử tri là người lao động trực tiếp. Hạn chế này đã tồn tại từ nhiều năm nay 
và hiện tại mặc dù đã có nhiều cố gắng song việc tiếp xúc cử tri chưa đáp ứng được 
thực tế đang đặt ra và đòi hỏi của cuộc sống. 
Để tiếp xúc cử tri được tốt, theo chúng tôi cần giải quyết tốt những vấn đề 
sau đây: 
+ Tổ chức chu đáo hội nghị tiếp xúc cử tri các khu vực dân cư, đặc biệt 
quan tâm đến cử tri là những người lao động trực tiếp. Thực chất của việc tiếp xúc 
cử tri là để đại biểu HĐND các cấp lắng nghe một cách đầy đủ nhất, trung thực 
nhất các ý kiến của cử tri, từ đó có thể trả lời những thắc mắc của cử tri nêu ra hoặc 
tổng hợp được tình hình phản ánh tới các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước 
xem xét, giải quyết. 
+ Không nên hạn chế số lượng cử tri tham dự tiếp xúc với đại biểu, không nên 
tiếp xúc theo kiểu mời cử tri tiêu biểu mà thông báo một cách rộng rãi, công khai trên 
các phương tiện thông tin đại chúng để cử tri có thể tham gia càng đông càng tốt. Làm 
được việc này cũng chính là đảm bảo cho cử tri theo dõi, giám sát hoạt động của đại 
biểu mà cử tri đã tín nhiệm bầu ra. 
+ Chuẩn bị tốt nội dung báo cáo tại Hội nghị tiếp xúc cử tri. Để hội nghị 
tiếp xúc cử tri đạt hiệu quả thì việc chuẩn bị báo cáo của UBND về nhiệm vụ phát 
triển kinh tế - xã hội phải chuẩn bị chu đáo càng tốt, từ đó cử tri có thể tham gia ý 
kiến những vấn đề bức xúc đang đặt ra ở cơ sở giúp cho chính quyền có những giải 
pháp hữu hiệu, thích hợp trong việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết. 
+ Đảm bảo dân chủ, thẳng thắn, cởi mở, công khai trong tiếp xúc cử tri. 
Đây là vấn đề quyết định sự thành công của hội nghị tiếp xúc cử tri. Cử tri thẳng 
thắn nêu vấn đề, đại biểu phải cởi mở, đối thoại và thậm chí luận bàn một vấn đề gì 
đó mà cử tri nêu ra nhằm tìm ra giải pháp đúng đắn. Hiện nay ở một vài nơi, đại biểu 
là cán bộ công chức có chức, có quyền đôi khi không khách quan, vô tư trong việc 
nhìn nhận những yếu kém, khuyết điểm của chính mình mà cử tri góp ý làm cho không 
khí căng thẳng hoặc hình thức. 
+ Trong các buổi tiếp xúc cử tri phải thông báo rõ cho cử tri biết những 
kiến nghị của cử tri nêu ra từ kỳ tiếp xúc trước đã được giải quyết chưa, giải quyết 
đến đâu, cái gì đã giải quyết được, cái gì chưa giải quyết được, nguyên nhân và 
trách nhiệm của ai, cơ quan nào. Cử tri rất quan tâm đến vấn đề này, vì như vậy đại 
biểu mới xứng đáng là người đại diện cho cử tri, nói được tiếng nói của cử tri. 
+ Việc tiếp xúc cử tri phải làm thường xuyên. Nếu không có điều kiện tổ 
chức thường xuyên thì ít nhất thì cũng phải tổ chức được hai lần trước và sau kỳ 
họp. Trước kỳ họp việc tiếp xúc cử tri là để thu thập ý kiến, kiến nghị của cử tri với 
kỳ họp. Sau kỳ họp tiếp xúc nhằm phổ biến tinh thần và nội dung nghị quyết của kỳ 
họp. Hiện nay, kể cả HĐND tỉnh và hầu hết ở HĐND các huyện, thành phố, xã, 
phường, thị trấn chưa tổ chức đều đặn việc tiếp xúc cử tri sau kỳ họp theo đúng luật 
và quy chế đã quy định. 
 - Tăng cường hoạt động giám sát của HĐND với hoạt động của chính quyền, việc 
tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức và công dân tại địa phương. 
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ở HĐND tỉnh có 3 Ban là: Ban 
Kinh tế và Ngân sách, Ban Văn hóa - xã hội và Ban Pháp chế (đối với tỉnh có nhiều 
đồng bào dân tộc có thêm Ban Dân tộc); ở cấp huyện có hai ban là: Ban Kinh tế - 
Xã hội và Ban Pháp chế. Trong hoạt động của mình những năm qua, các Ban của 
HĐND đã đóng góp một phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng hoạt động 
của HĐND như tổ chức các đợt kiểm tra, giám sát; thẩm định các báo cáo, đề án do 
UBND trình ra kỳ họp HĐND; tiếp nhận những ý kiến, kiến nghị của cử tri với 
HĐND. 
Tuy nhiên, do hoạt động kiêm nhiệm cho nên hầu hết hoạt động của các 
Ban còn nhiều hạn chế như chưa chủ động xây dựng được kế hoạch công tác hàng 
tháng, quý, 6 tháng và năm. Những hạn chế trên có ảnh hưởng tới chất lượng hoạt 
động của HĐND, đôi khi làm cho HĐND hoạt động mang tính hình thức. Đặc biệt 
ở cấp xã không có các Ban do đó hoạt động lại càng khó khăn hơn. Để hoạt động 
giám sát được thực thi có hiệu quả, cần thực hiện một số vấn đề sau: 
Một là: các Ban phải chủ động đề ra chương trình, lựa chọn những vấn đề 
trọng tâm, bức xúc có nhiều cử tri quan tâm, tăng cường các cuộc giám sát chuyên 
đề. 
Hai là: mọi hoạt động giám sát phải thực hiện công khai, dân chủ, đúng 
luật, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của MTTQ, các đoàn thể và cử tri địa phương. 
Ba là: sau mỗi cuộc giám sát, phải ra văn bản kết luận, chỉ rõ những tồn tại, 
nguyên nhân, đưa ra những kiến nghị và đề xuất những biện pháp khắc phục cụ thể, 
đồng thời thường xuyên đôn đốc, kiểm tra thực hiện các kiến nghị sau giám sát. 
- Phối hợp với UBND, MTTQ, Ban thanh tra nhân dân tổ chức tiếp dân theo 
lịch để trực tiếp giải quyết những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân. 
- Tăng cường hoạt động chất vấn của HĐND kèm theo các biện pháp xử lý đối 
với thủ trưởng các cơ quan, đơn vị không chấp hành, không trả lời các kiến nghị của 
HĐND bằng văn bản. Chất vấn và trả lời chất vấn là một hình thức giám sát hữu hiệu của 
đại biểu HĐND đối với các cơ quan và người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước ngay 
tại kỳ họp HĐND. Mặt khác, đây là một hình thức sinh hoạt dân chủ, thông qua người đại 
diện của mình, cử tri có thể kiểm chứng và giám sát trách nhiệm của người đứng đầu cơ 
quan đơn vị trong việc chấp hành luật pháp và Nghị quyết của HĐND, do đó cần được 
tăng cường và cải tiến về phương pháp và hình thức trong các kỳ họp HĐND. 
Thời gian gần đây, cùng với xu thế dân chủ hóa trong đời sống xã hội, chất 
vấn của các HĐND và của cử tri thông qua người đại diện của mình với người đứng 
đầu cơ quan nhà nước ngày càng được chú trọng. Qua thực tiễn theo dõi chất vấn 
và trả lời chất vấn tại các kỳ họp HĐND cho thấy rằng, mặc dù có những cố gắng 
nhất định, song chất vấn và trả lời chất vấn chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Có 
những chất vấn của đại biểu và cử tri nội dung chưa rõ ràng, còn chung chung, chỉ 
nêu được hiện tượng mà chưa nêu được cụ thể nội dung vấn đề cần được làm rõ, 
chưa có địa chỉ cụ thể, thậm chí có đại biểu chất vấn không nắm được vấn đề nên 
đã gây khó khăn nhất định cho cơ quan và người trả lời chất vấn. 
Trả lời chất vấn còn hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, có trả lời 
chất vấn không đi vào nội dung câu hỏi mà đi vào báo cáo thành tích của đơn vị, 
của ngành mình. Những hiện tượng trên có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng 
chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp HĐND cần được khắc phục. Để chất vấn 
và trả lời chất vấn được tốt cần đảm bảo các yêu cầu sau: 
Thứ nhất, các đại biểu cần phải thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với 
cử tri, để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những thắc mắc, kiến nghị của cử tri, để 
tập hợp thành những câu hỏi chất vấn có chất lượng, có tầm bao quát, thể hiện ý 
kiến khách quan của đông đảo cử tri. 
Thứ hai, người nêu câu hỏi phải ngắn gọn, rõ nội dung cần chất vấn, yêu 
cầu người trả lời cần làm rõ vấn đề gì. Chất vấn phải có địa chỉ cụ thể, nếu cần có 
thể yêu cầu làm rõ trách nhiệm thuộc ai, cơ quan nào. 
Thứ ba, người trả lời đi thẳng vào nội dung chất vấn, không trình bày vòng 
vo, không lợi dụng kỳ họp là diễn đàn báo cáo thành tích của ngành, đơn vị mình. 
Việc trả lời cũng phải làm rõ trách nhiệm của đơn vị, ngành mình đến đâu, hướng 
giải quyết, khắc phục như thế nào. 
Thứ tư, chất vấn của đại biểu HĐND phải được Thường trực HĐND tập 
hợp và gửi tới các cơ quan nhà nước bị chất vấn 7 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp 
cho cơ quan hoặc người được trả lời có thời gian chuẩn bị. 
Tại kỳ họp, nếu trả lời chất vấn bằng văn bản chưa đáp ứng được yêu cầu 
thì đại biểu có thể đưa ra các câu hỏi yêu cầu người bị chất vấn trả lời trực tiếp các 
câu hỏi đó. Tại mỗi kỳ họp HĐND, ít nhất nội dung chất vấn và trả lời chất vấn 
phải được tổ chức truyền hình, truyền thanh trực tiếp. Giữa hai kỳ họp, chất vấn 
của đại biểu được chuyển thẳng cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm trả lời cho 
đại biểu đó và đồng thời được thông báo về Thường trực HĐND. Theo quy định 
của pháp luật, hậu quả pháp lý của trả lời chất vấn là đại biểu có thể chấp thuận 
hoặc không chấp thuận ý kiến trả lời của cơ quan hoặc người có thẩm quyền. Trong 
trường hợp không chấp thuận ý kiến trả lời thì có thể HĐND ra Nghị quyết về việc 
trả lời đó. Đây là vấn đề không có tính khả thi, bởi vì trên thực tế rất ít khi HĐND 
ra Nghị quyết về vấn đề này và như vậy trách nhiệm của cơ quan và người trả lời 
chất vấn cũng không bị xử lý một cách dứt điểm, nói cách khác không có chế tài xử 
lý cụ thể do đó làm giảm chất lượng của việc chất vấn và trả lời chất vấn. 
Tôi đề nghị, luật pháp cần bổ sung những chế tài về trách nhiệm của thủ 
trưởng cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong việc trả lời chất vấn. 
- Tổ chức lấy ý kiến của dân vào các báo cáo sơ kết, tổng kết hoạt động của 
HĐND 6 tháng, 1 năm cũng như vào các bản kiểm điểm của Chủ tịch HĐND và 
UBND. 
4. Hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm phát huy bản chất dân chủ của 
Hội đồng nhân dân 
Thực tế cho thấy trong những năm qua, Nhà nước ta đa sửa đổi và ban hành 
nhiều văn bản pháp luật song nó chưa thật sự đi vào cuộc sống hoặc có những điều 
luật quan trọng chưa được triển khai trong thực tế hoặc một số văn bản pháp luật sau 
khi công bố phải đợi một vài năm sau mới có đủ văn bản để hướng dẫn thi hành. Do 
vậy, phải khắc phục những hạn chế nêu trên nhằm bảo đảm và phát huy bản chất dân 
chủ của HĐND. 
- Trước hết, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bầu cử đại biểu HĐND. 
Mặc dù, Luật bầu cử HĐND năm 2003 đã có rất nhiều quy định mới thể hiện 
tính dân chủ trong việc hình thành nên cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của 
nhân dân (thực hiện kê khai tài sản của các ứng cử viên; thực hiện mỗi đơn vị bầu cử 
có số dư ít nhất 2 người; quyền giới thiệu đại biểu HĐND ở cấp cơ sở...). 
Song vẫn còn một số vấn đề cần phải được hoàn thiện hơn nữa như: 
+ Về đại biểu HĐND không nên quá nặng về cơ cấu đại biểu, không nên cứng 
nhắc phân theo lứa tuổi, nam nữ, tôn giáo, trong Đảng và ngoài Đảng mà phải dựa chủ 
yếu vào tiêu chuẩn năng lực, đạo đức. Đặc biệt là khả năng thích hợp và phát huy được 
vai trò đại biểu HĐND khi trúng cử. Không nhất thiết cứ là đại biểu nữ mới đại diện 
cho giới nữ mà có thể là nam giới, người quan tâm, hiểu biết và luôn đấu tranh cho sự 
bình đẳng và vai trò của phụ nữ cũng có thể đại diện cho nữ. Có thể là người có tuổi 
nhưng lại rất quan tâm và am hiểu về giới trẻ, tiếng nói có trọng lượng khi bảo vệ 
quyền và lợi ích của lớp trẻ làm người đại diện cho lớp trẻ. 
+ Việc kê khai tài sản của ứng cử viên đại biểu HĐND cần phải được tiến hành 
sớm, được công bố và công khai rộng rãi hơn để cử tri biết. 
+ Việc bảo đảm số dư ứng cử viên trong mỗi đơn vị bầu cử cố gắng phấn đấu 
nhiều hơn 2 người. Đây có thể xem là một trong những giải pháp mở rộng quyền dân chủ 
trong đó cử tri có quyền lựa chọn rộng rãi hơn. Mặt khác, các ứng cử viên chuyển dần 
sang tranh cử nhiều hơn, giảm bớt tính hình thức trong bầu cử đại biểu HĐND, nặng 
về đảm bảo cơ cấu. Tránh những trường hợp dường như người tham gia ứng cử là 
bước đệm cho người dự kiến trong cơ cấu. 
- Cần sớm ban hành Luật giám sát để điều chỉnh hoạt động giám sát của 
HĐND. Phân biệt giám sát của HĐND với hoạt động giám sát của Quốc hội, các hoạt 
động của các cơ quan hành chính, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra. 
- Cần sớm ban hành Luật trưng cầu dân ý để phát huy sự đồng thuận của xã hội. 
Đây là một việc làm cấp bách hiện nay để nhân dân được quyết định trực tiếp nhiều 
vấn đề thiết thực và đó mới là hình thức trực tiếp cao nhất thể hiện quyền lực nhân 
dân. Ban hành Luật trưng cầu dân ý vừa có ý nghĩa ở tầm quốc gia, nhưng là một đòn 
bẩy, hỗ trợ tích cực cho dân chủ ở địa phương cơ sở. 
Mặc dù Hiến pháp 1992 đã tiếp tục phát huy tinh thần của Hiến pháp 1946, quy 
định cho công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý. Tuy 
nhiên, từ đó đến nay, quyền trưng cầu ý dân vẫn chưa một lần được thực hiện trong 
thực tế. Nguyên nhân cơ bản của sự chậm trễ này là do chúng ta vẫn chưa xây dựng 
được cơ chế pháp lý để cụ thể hóa quyền được trưng cầu ý dân của người dân. Trong 
thời gian tới, chúng ta cần ban hành luật trưng cầu ý dân và xác định rõ ràng trong luật 
những vấn đề nào nhà nước phải đưa ra để nhân dân biểu quyết; trình độ, thủ tục tiến 
hành; kết quả và hệ quả pháp lý của cuộc trưng cầu ý dân đó... Luật trưng cầu dân ý 
chính là cầu nối quan trọng để người dân hiểu rõ về quyền dân chủ trực tiếp của mình. 
Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát huy dân chủ của người dân 
đối với đất nước. 
- Để phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với đại biểu dân cử cần mở 
rộng phạm vi tiếp xúc cử tri (không bó hẹp trong đại diện cử tri như hiện nay), tăng 
thời lượng truyền hình (truyền thanh) trực tiếp các kỳ họp HĐND, mở rộng khả năng 
nhân dân được dự các phiên họp của HĐND. Đặc biệt cần phải thực hiện chế độ ủy 
nhiệm của cử tri; quy định rõ các điều kiện khi nào thì cơ quan dân cử thực hiện việc 
miễn nhiệm đại biểu, khi nào thì đưa ra cho cử tri bãi miễn. 
KếT LUậN 
1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân, 
do dân và vì dân rất rộng, bao quát những vấn đề trọng yếu nhất, cốt lõi nhất. Trong đó 
đáng chú ý là quan niệm về bản chất dân chủ của Nhà nước, Nhà nước do nhân dân là 
chủ và do nhân dân làm chủ được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: 
- Nhà nước dân chủ là tổ chức chính trị của nhân dân, do nhân dân bầu ra. 
- Nhà nước dân chủ là nhà nước đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước 
và quản lý xã hội. 
- Nhà nước dân chủ là nhà nước trong đó nhân dân có quyền bãi miễn những 
người không xứng đáng trong bộ máy nhà nước. 
- Nhà nước dân chủ là nhà nước trong đó nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát, 
nhận xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà 
nước. 
- Nhà nước dân chủ là nhà nước hết lòng vì nhân dân, thực hiện và bảo vệ 
quyền và lợi ích của nhân dân. 
2. Những nội dung cơ bản về bản chất dân chủ của Nhà nước theo tư tưởng Hồ 
Chí Minh được vận dụng trong thực tiễn tổ chức, hoạt động của HĐND các cấp. 
Nghiên cứu việc thực hiện bản chất dân chủ trong tổ chức, hoạt động của HĐND là một 
vấn đề lớn, nhạy cảm, nhưng cũng rất bức xúc. 
Trong suốt 60 năm ở những giai đoạn phát triển khác nhau thì việc quy định và 
thực hiện các nội dung dân chủ đó cũng có những điểm khác nhau nhưng theo xu 
hướng chung là ngày càng vươn tới sự hoàn thiện. 
Việc nhận định đúng đắn những giá trị đích thực trong việc thực hiện các nội 
dung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của HĐND là nhằm để phát huy hơn nữa bản 
chất dân chủ của Nhà nước, đồng thời hướng tới việc đổi mới tổ chức, hoạt động của 
HĐND đúng hướng, có hiệu quả, xóa bỏ dần tính hình thức trong hoạt động của 
HĐND. Đồng thời phát huy dân chủ, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng và 
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói chung. 
3. Từ cơ sở lý luận và thực trạng thực hiện bản chất dân chủ trong tổ chức, hoạt 
động của HĐND (qua thực tiễn tổ chức, hoạt động HĐND Nghệ An nhiệm kỳ 1999-
2004 và 2004-2009) chúng tôi kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường, bảo đảm 
thực hiện bản chất dân chủ trong tổ chức, hoạt động của HĐND trong theo tư tưởng 
Hồ Chí Minh bao gồm: 
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của HĐND và đại biểu HĐND. 
Hai là, củng cố tổ chức HĐND và bồi dưỡng trình độ cho các đại biểu HĐND 
để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. 
Ba là, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND. 
Bốn là, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm phát huy bản chất dân chủ của 
HĐND. 
Đây là những giải pháp cần phải được tiến hành đồng bộ, theo từng bước vững 
chắc, có hiệu quả và luôn dược bổ sung trong quá trình thực hiện nhằm mang lại những 
chuyển biến tích cực trong tổ chức, hoạt động của HĐND. 
Danh mục tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Hoàng Anh (2003), "Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp 
xã trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (5), tr.7-9. 
2. Phạm Ngọc Anh - Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà 
nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 
3. Hoàng Chí Bảo (1997), "Dân chủ với tư cách là một chế độ chính trị", Triết học, 
(3), tr.55-57. 
4. Cải cách thể chế chính trị (1996 - Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
5. Phạm Hồng Chương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nxb Lý luận 
chính trị, Hà Nội. 
6. Danh nhân Hồ Chí Minh (2000), Nxb Lao động, Hà Nội. 
7. Vũ Trọng Dung (1999), "Mấy suy nghĩ về bản chất nhà nước kiểu mới qua 
nghiên cứu "Nhà nước và cách mạng" của Lênin", Triết học, (3), tr.49-51. 
8. Nguyễn Đăng Dung (1997), Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương, Nxb 
Đồng Nai. 
9. Nguyễn Đăng Dung (1998", Hội đồng nhân dân trong hệ thống cơ quan quyền 
lực nhà nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội. 
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành 
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
13. Tạ Xuân Đại (1999), "Cải cách nền hành chính nhà nước - nội dung cơ bản và 
cấp bách trong việc đổi mới hệ thống chính trị hiện nay", Tạp chí Cộng sản, 
(14), tr.16-18. 
14. Trần Văn Đăng (1999), "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện thắng 
lợi cuộc bầu cử HĐND các cấp", Tạp chí Cộng sản, (1), tr.11-13. 
15. Nguyễn Văn Động (2003), "Suy nghĩ về cơ sở khoa học của việc đổi mới tổ chức 
HĐND và ủy ban nhân dân ở nước ta hiện nay", Tạp chí Luật học, (4), tr.3-
8. 
16. Bùi Xuân Đức (1991), "Về vấn đề tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta 
hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3), tr.20-21. 
17. Bùi Xuân Đức (2003), "Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều kiện 
cải cách bộ máy nhà nước hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (12), 
tr.18-25. 
18. Trần Ngọc Đường (chủ biên) (1999), Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
19. Nguyễn Duy Gia (1996), "Một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây 
dựng nhà nước kiểu mới", Tạp chí Cộng sản, (10), tr.15-20. 
20. Ninh Viết Giao (2005), Nghệ an lịch sử và văn hóa, Nxb Nghệ An, Nghệ An. 
21. Hoàng Văn Hảo (1995), "Về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân", 
Tạp chí Cộng sản, (3), tr.15-18. 
22. Hoàng Văn Hảo (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - sự hình 
thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
23. Nguyễn Thị Hồi (2004), "Về Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở nước ta 
hiện nay", Tạp chí Luật học, (1), tr.37-43. 
24. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2004), Báo cáo đánh giá hoạt động Hội đồng 
nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 1999-2004. 
25. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo công tác 6 tháng đầu năm, 
định hướng công tác 6 tháng cuối năm 2005 của Thường trực và các Ban 
Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (tài liệu phục vụ kỳ họp thứ 4 - Hội đồng 
nhân dân tỉnh khóa XV). 
26. Vũ Hiền (1997), ""Làm chủ", một tư tưởng cao đẹp", Tạp chí Cộng sản, (7), 
tr.25-29. 
27. Vũ Đình Hòe (2001), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa thông 
tin, Hà Nội. 
28. Trần Đình Huỳnh (1997), "Tăng cường bản chất cách mạng của Nhà nước ta 
trong tình hình mới", Tạp chí Cộng sản, (16), tr.24-26. 
29. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
30. Nguyễn Đình Lộc (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, 
vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
31. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính thông qua ngày 27-10-
1962, Công báo 44-1962. 
32. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (sửa đổi) (1994), Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
33. Nguyễn Văn Mạnh (1998), "Dân chủ trực tiếp và thực hiện dân chủ trực tiếp", 
Nghiên cứu lý luận, (5), tr.25-29. 
34. Nguyễn Văn Mạnh (1999), "Thực trạng và giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động 
của chính quyền cơ sở trong cải cách hành chính", Nghiên cứu lý luận, (6), 
tr.34-39. 
35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
36. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
37. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
39. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
40. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
41. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
42. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
43. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
44. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
45. Đỗ Mười (1997), "Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa - một giải pháp cơ bản, cấp 
thiết để xây dựng nhà nước ta trong sạch, vững mạnh", Tạp chí Cộng sản, 
(14), tr.8-14. 
46. Nguyễn Thị Kiều Oanh (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của 
nhân dân", Thông tin lý luận, (4), tr.21-25. 
47. Nguyễn Tiến Phồn (1997), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ và 
nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước", Triết học, 
(6), tr.21-24. 
48. Nguyễn Thị Phương (2003), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, 
do nhân dân, vì nhân dân trong Hiến pháp năm 1946, Tạp chí Luật học, (4), 
tr.14-19. 
49. Chu Thành (1992), "Dân chủ đại diện - phương thức chủ yếu thực hiện quyền lực 
của nhân dân", Tạp chí Cộng sản, (7), tr.23-27. 
50. Trần Thành, Nguyễn Khắc Mai (1991), Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, Nxb 
Sự thật, Hà Nội. 
51. Thái Vĩnh Thắng (2002), "Tổ chức chính quyền địa phương của nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển, những bất 
cập và phương hướng đổi mới", Tạp chí Luật học, (4), tr.55-61. 
52. Lê Minh Thông (chủ biên (2001), Một số vấn đề hoàn thiện tổ chức và hoạt động 
của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
53. Tìm hiểu Hiến pháp Việt Nam (từ năm 1946 đến năm 1992) và các luật về tổ 
chức bộ máy nhà nước (2004), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 
54. Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà 
nước kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và 
pháp luật, Nxb Bộ Tư pháp, Hà Nội. 
56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Nhà nước, Nxb Bộ Tư 
pháp, Hà Nội. 
57. Phùng Văn Tửu (1994), Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân theo Hiến pháp 
1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 1994, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
58. Văn phòng Quốc hội và Hội đồng nhân dân (1987), Tổ chức Nhà nước cộng hòa xã 
hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
59. Văn phòng Quốc hội (2000), Kỷ yếu hội thảo về đổi mới tổ chức và hoạt động 
của HĐND các cấp (tại thành phố Hải Phòng từ ngày 21 đến 23 tháng 6 
năm 2000), Hà Nội. 
60. Văn phòng Quốc hội (2000), Kỷ yếu hội thảo vai trò của HĐND trong việc phát 
huy dân chủ ở cơ sở (tại Nghệ An từ ngày 02 đến ngày 04 tháng 5 năm 
2002), Hà Nội. 
61. Văn phòng Quốc hội (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội và Hội đồng 
nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
62. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1993), Kỷ yếu hội thảo, Nghiên 
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, Hà Nội. 
63. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1997), Kỷ yếu Hội thảo - các nội 
dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới, Nhà nước thực sự 
của dân, do dân, vì dân, Hà Nội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 102_2205.pdf 102_2205.pdf