Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình trong những năm đầu thế kỷ XXI

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng và kế thừa tư tưởng của ông cha về sức mạnh của nhân dân trong dựng nước và giữ nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào nhân dân, vào sức mạnh to lớn của lực lượng đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy sức mạnh to lớn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đề ra nhiều chủ trương, chính sách vận động, tập hợp quần chúng tham gia các tổ chức cách mạng, đồng thời lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi tuyên truyền vận động, tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh nêu ra những quan điểm, tư tưởng, phương châm, nội dung công tác vận động quần chúng rất sâu sắc, có tính chiến lược cho cách mạng Việt Nam.

pdf95 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4147 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình trong những năm đầu thế kỷ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và các đoàn thể cùng phối hợp tiến hành công tác vận động nông dân. Đề cao trách nhiệm của chính quyền trong công tác vận động nông dân, cán bộ, công chức của chính quyền phải “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; tận tuỵ phục vụ nông dân; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống quan liêu cửa quyền; thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế Dân chủ cơ sở; tổ chức việc tiếp dân,... Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong công tác vận động nông dân, Mặt trận và các thành viên Mặt trận tiến hành vận động nông dân theo chức năng, nhiệm vụ của mình và phải phối hợp với Hội Nông dân tạo thành sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị. - Quan điểm thứ sáu: Công tác vận động nông dân trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của công tác vận động nông dân trong cách mạng dân tộc, dân chủ và sự nghiệp xây dựng CNXH trước đổi mới; đồng thời phê phán những biểu hiện lệch lạc, bảo thủ, kìm hãm công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay. 2.3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình Phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, tiếp tục đưa công tác nông vận của tỉnh Quảng Bình đạt hiệu quả cao được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ các cấp, của chính quyền các cấp và các đoàn thể nhân dân. Để làm được điều đó, công tác nông vận trong những năm tới phải tập trung cao độ vào việc nghiên cứu, quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2005-2010; tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo ra sự đổi mới trong công tác nông vận của cả hệ thống chính trị; đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 59- CT/TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; vận động và tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân phát huy quyền và nghĩa vụ công dân tham gia giám sát các hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở; tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội; nâng cao hơn nữa năng lực và chất lượng công tác của đội ngũ cán bộ nông vận. Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện, các xã, các thôn và phải “Chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ” [47, tr.711]. 2.3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình Công tác nông vận có ý nghĩa chiến lược trong các thời kỳ cách mạng, là công tác cơ bản, thường xuyên của Đảng. Trong 5 năm qua (2001-2005), công tác nông vận ở tỉnh Quảng Bình đã góp phần làm chuyển biến mọi mặt: To động lực cho các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hoá mới, giữ vững ổn định chính trị, mở rộng quyền dân chủ, cải thiện, đời sống của nhân dân, củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, công tác nông vận còn tồn tại một số khuyết điểm quan trọng. Cụ thể: Việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân còn thiếu đồng bộ, nhiều nơi còn làm hình thức, chiếu lệ; cán bộ ngại đi cơ sở, coi nhẹ việc nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng của dân để tìm ra biện pháp giải quyết kịp thời; ở một số địa phương, cán bộ còn vi phạm quyền dân chủ và lợi ích của quần chúng, khiến cho “lòng dân không yên”; suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin nhân dân; cán bộ công chức trong bộ máy chính quyền chưa nhận thức đúng và đầy đủ về trách nhiệm nông vận trong khi thi hành công vụ, chưa coi trọng nhiệm vụ giải thích, tuyên truyền, giáo dục, chỉ thích dùng quyền lực, mệnh lệnh hành chính. Nói tóm lại, công tác nông vận ở Quảng Bình vẫn trong tình trạng mà Bác Hồ đã chỉ ra trong bài “Dân vận”: “Vấn đề dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng” [47, tr.698]. Nhằm góp phần khắc phục những hạn chế nêu trên và nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác nông vận trong thời kỳ mới ở tỉnh Quảng Bình, trên cơ sở vận dụng tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây: 2.3.3.1. Giải pháp chung Giải pháp thứ nhất: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác nông vận Đảng là thành viên của hệ thống chính trị và là người lãnh đạo cả hệ thống chính trị và cộng đồng xã hội tiến hành công tác dân vận. Công tác dân vận là công tác cơ bản của Đảng, liên quan đến sức mạnh và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị tiến hành công tác dân vận để phát huy sức mạnh toàn dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng lãnh đạo thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở; coi trọng trách nhiệm dân vận của chính quyền các cấp; thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước. Đảng gắn việc thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở với phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Do vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác nông vận là một tất yếu trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Thực tế cho thấy, ở địa phương nào cấp uỷ đảng quan tâm công tác vận động quần chúng thì ở đó công tác nông vận đạt hiệu quả tốt. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với công tác vận động quần chúng ở Quảng Bình trong thời gian tới cần thực hiện một số nội dung sau: + Đảng uỷ các cấp phải thường xuyên quan tâm công tác nông vận; chống xa rời quần chúng, coi nhẹ công tác nông vận; chống lối quan liêu, mệnh lệnh; nắm vững và làm đúng chức năng lãnh đạo của mình bằng phương pháp dân chủ. + Phải thành lập Ban Dân vận ở tỉnh, ở huyện và cấp tương đương, thành lập Khối Dân vận cơ sở; phân công một Uỷ viên Thường vụ phụ trách công tác dân vận, có một số cán bộ giúp việc. Các đồng chí cấp uỷ viên được phân công phụ trách công tác dân vận phải chuyên trách hoặc giành phần lớn thời gian làm công tác đó. + Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với Hội Nông dân theo hướng nâng cao nhận thức và làm đúng vai trò là hạt nhân chính trị của tổ chức đảng ở cơ sở. + Các tổ chức đảng lấy công tác vận động và chăm lo lợi ích của nhân dân làm nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình; có kế hoạch thường xuyên tìm hiểu tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng của nhân dân và có chủ trương, biện pháp giải quyết đúng đắn, kịp thời những thắc mắc của nông dân. + Các cấp uỷ cần cử cán bộ có uy tín và khả năng về công tác dân vận trực tiếp phụ trách các đoàn thể, bảo đảm cho các cấp của đoàn thể có cán bộ cốt cán. + Mỗi đảng viên đều phải làm công tác vận động quần chúng, gương mẫu thực hiện chức trách trong cơ quan, đơn vị và nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú, hoạt động tích cực trong đoàn thể mà mình tham gia. Nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên, biểu dương những đảng viên gương mẫu, xử lý nghiêm những phần tử thoái hoá, biến chất, ức hiếp quần chúng, lợi dụng chức quyền vi phạm lợi ích của nhân dân, dù người đó ở cấp nào và nắm giữ cương vị công tác nào. Cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật phải xử lý theo pháp luật. + Củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng từ đảng uỷ đến chi bộ, tổ đảng, đặc biệt là chi bộ, bảo đảm cho chi bộ đủ sức trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chăm lo quyền lợi của nhân dân. + Thường xuyên kiểm tra công tác nông vận ở cơ sở dưới nhiều hình thức, kiểm tra toàn diện, kiểm tra chuyên đề, kiểm tra của các cấp uỷ và kiểm tra của các Ban Xây dựng Đảng. Thường xuyên sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, chỉ đạo mô hình, điển hình, kiểm tra thực tiễn về công tác nông vận; coi trọng công tác hướng dẫn, kiểm tra, giao ban, phản ánh tình hình, đảm bảo lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, hiệu quả. Giải pháp thứ hai: Tăng cường công tác nông vận của chính quyền, của đội ngũ cán bộ công chức. Nông vận không chỉ là việc của Đảng, mà của cả chính quyền, Nhà nước. Nhân viên Nhà nước phải coi trọng và làm tốt công tác nông vận. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Chính quyền các cấp điều hành công việc theo chức năng quản lý nhà nước, đồng thời làm công tác vận động quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng, củng cố chính quyền. Chính quyền làm nông vận bằng các chính sách đúng đắn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội; bằng việc tổ chức, điều hành để giải quyết các vấn đề liên quan đến dân; bằng việc phối hợp cùng Mặt trận, đoàn thể nhân dân động viên nhân dân tham gia các phong trào hành động cách mạng và xây dựng chính quyền... Do vậy, để tăng cường công tác nông vận thì chính quyền địa phương cần thực hiện tốt các việc sau đây: + Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân vận và Chỉ thị số 31/2005/CT-UBND về tăng cường công tác dân vận của UBND tỉnh. UBND tỉnh cần có kế hoạch sơ kết, đánh giá kết quả triển khai thực hiện, xây dựng, bổ sung chương trình công tác nông vận của chính quyền các cấp; phải thường xuyên kiểm tra công tác nông vận ở một số ngành có liên quan đến dân; phân công một đồng chí trong Thường trực UBND tỉnh theo dõi công tác nông vận. + Các cơ quan quản lý khi thể chế hoá chỉ thị, nghị quyết của Đảng, ban hành những chủ trương, chính sách có liên quan đến lợi ích của dân, nhất là về quy hoạch xây dựng đô thị, giải toả, đền bù..., cần đảm bảo đúng quy trình dân chủ, công khai, công bằng, hợp lòng dân; trong quá trình thực hiện các quy định của chính quyền, cần coi trọng biện pháp dân vận, không đơn thuần dùng biện pháp hành chính. + Các cấp chính quyền cần tăng cường công tác nông vận bằng việc đẩy mạnh cải cách hành chính, mà khâu đột khá là cải cách thủ tục hành chính, làm cho cơ quan chính quyền làm tốt nhiệm vụ nông vận. Điều đó nghĩa là sửa đổi bổ sung các quy định của Chính phủ, của các Bộ, các UBND để giải quyết công việc của dân, giải quyết các quan hệ giữa các cơ quan chính quyền với nhau một cách nhanh chóng, đúng chính sách, không gây phiền hà cho dân, không gây phiền hà cho nhau; tập trung giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc của nhân dân. Cần nghiên cứu kỹ lưỡng, lắng nghe và tiếp thu những ý kiến xác đáng của nhân dân khi xây dựng các chủ trương, chính sách, làm cho chính sách hợp lòng dân, đi vào đời sống nhân dân. + Các cơ quan nhà nước, đặc biệt là những ngành, những đơn vị có quan hệ trực tiếp với dân, cần quy định các tiêu chuẩn cụ thể về trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, nhân viên chính quyền, công bố để nhân dân biết và kiểm tra việc thực hiện. + Các đại biểu Quốc hội, HĐND cần thực hiện chế độ trách nhiệm trước cử tri; tăng cường tiếp xúc với cử tri, lắng nghe ý kiến của cử tri để phản ánh và kiến nghị với các cơ quan nhà nước, góp phần xây dựng pháp luật, chính sách của Nhà nước; thúc đẩy các cơ quan có trách nhiệm giải quyết những yêu cầu chính đáng của cử tri; đồng thời tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện pháp luật và làm tròn nghĩa vụ công dân. + Đối với cán bộ, công chức cần xây dựng phong cách và phương thức công tác: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”; “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"; "hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân"; "không thành kiến, phân biệt đối xử khi làm việc với dân" [56, tr.30]. Giải pháp thứ ba: Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác của Mặt trận Tổ quốc, của các đoàn thể nhân dân và các tổ chức quần chúng. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là người đại diện cho lợi ích chung và lợi ích của từng giai cấp, từng giới quần chúng, đồng thời là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là phải vận động quần chúng bao gồm các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội tham gia vào các tổ chức của mình. Mọi công chức phải thấm nhuần quan điểm của Bác Hồ “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [47, tr.700]. Phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phải lấy điểm xuất phát là dân và đích cuối cùng là lợi ích của dân. Đảng ta đã chỉ rõ: Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính tri - xã hội của giai cấp nông dân Việt Nam, đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước, chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân. Các cấp Hội phải tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức và tổ chức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức tập hợp mọi tầng lớp nông dân, đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống hội viên, nông dân, xây dựng nông thôn mới. Hội phải nắm chắc tình hình nông nghiệp, nông thôn, tâm tư nguyện vọng của nông dân; chủ động và có chính kiến đề xuất với cấp uỷ, chính quyền những chủ trương, biện pháp đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của nông dân [56, tr.15]. Cán bộ Mặt trận, đoàn thể nhân dân phải gần dân, nắm bắt được nguyện vọng của dân, khơi dậy được lòng nhiệt tình hăng hái của mỗi người dân, động viên họ tham gia tích cực vào các phong trào hành động cách mạng theo phương châm “ích quốc lợi nhà” làm kiểu mẫu cho dânl; đồng thời phát động sâu rộng các phong trào thi đua hướng vào các cuộc vận động chung: toàn dân đoàn kết, phấn đấu vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói giảm nghèo; toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới. Do vậy, công tác của Mặt trận Tổ quốc, của các đoàn thể nhân dân và các tổ chức quần chúng cần tiếp tục được đổi mới theo hướng sau: + Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức quần chúng tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, gần dân, sâu sát dân hơn, nắm chắc tình hình nhân dân, phối hợp với các cấp, các ngành giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện tại cơ sở. + Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần phải có những hình thức đa dạng, phong phú trong việc tập hợp, vận động quần chúng, vận động đoàn viên, hội viên, quân chúng tích cực hưởng ứng các phong trào hoạt động cách mạng thực hiện thắng lợi cách nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh của tỉnh. Trước hết, Hội Nông dân tỉnh phải thực sự trở thành tổ chức tập hợp được đông đảo nông dân trong các ngành nghề trên địa bàn nông thôn. Hội phải lấy chi hội làm đơn vị cơ bản, được thành lập theo nghề nghiệp hoặc theo cụm dân cư với quy mô thích hợp; mỗi chi hội là một đơn vị hành động cách mạng, vừa phát triển kinh tế - xã hội, vừa xây dựng người nông dân mới đủ năng lực làm chủ, làm nòng cốt trong các phong trào ở nông thôn. Chi hội là nơi giúp nông dân nâng cao trình độ văn hoá, nghề nghiệp; là nơi trao đổi kinh nghiệm làm ăn, nắm bắt thông tin v.v..; đồng thời chi hội còn là nơi hòa giải, giải quyết tranh chấp nội bộ, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong nhân dân; là nơi xây dựng cuộc sống mới ở khu vực dân cư, tăng cường đoàn kết nông dân, giữ vững ổn định chính trị xã hội trên địa bàn nông thôn. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phải thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, củng cố tổ chức đoàn thể, nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên, mở rộng các hình thức, biện pháp tập hợp, vận động, giáo dục bộ phận quần chúng chậm tiến; xây dựng lực lượng đoàn kết trong các giới, các tầng lớp nhân dân, các địa bàn trọng điểm. + Công tác vận động quần chúng, hơn bất cứ lĩnh vực công tác nào, phải được xã hội hoá rộng rãi, phải trở thành một công tác xã hội, ai ai cũng phải tham gia, trước hết là cán bộ, đảng viên; ai ai cũng phải có trách nhiệm, trước hết và trên hết phải là cán bộ, đảng viên, là các tổ chức thành viên cấu thành hệ thống chính trị, đặc biệt là Đảng, Nhà nước và Mặt trận. Thực chất của những giải pháp nêu trên là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tất cả các cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân... đều phải phụ trách dân vận” [47, tr.699]. Giải pháp thứ tư: Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân Hồ Chí Minh viết: “Nông vận là phải: Tổ chức nông dân thật chặt chẽ” [47, tr.710]; "Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo” [43, tr.289]. Đây là bước quan trọng của công tác vận động nông dân. Hiện nay thường nói nhiệm vụ lớn nhất là tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng nhân dân để tiến hành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhưng đoàn kết, tập hợp không chỉ bằng khẩu hiệu, bằng phong trào, mà phải bằng tổ chức. Hiện nay, cái yếu của công tác vận động quần chúng là tổ chức. Cái ít được quan tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động quần chúng cũng là tổ chức. Các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội thì nhiều nhưng sức thu hút, tập hợp quần chúng thì rất kém. Do vậy, ở tỉnh Quảng Bình việc nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân là một giải pháp rất quan trọng, cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động nông dân. Trong 5 năm qua (2001-2005), Hội Nông dân Quảng Bình đã tích cực đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động, tạo ra các phong trào nông dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần đáng kể vào những thành tựu của nông nghiệp, nông thôn và cải thiện đời sống nông dân, làm cơ sở cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Bằng những biện pháp thiết thực, Hội đã đóng góp vai trò nòng cốt thúc đẩy phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, công tác xây dựng Hội và vận động nông dân còn có những hạn chế. Một số cấp uỷ đảng, chính quyền chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện củng cố tổ chức và hoạt động của Hội, nhất là ở cơ sở. Để tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của giai cấp nông dân và vai trò nòng cốt của Hội trong phong trào nông dân, góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và bảo vệ Tổ quốc, thì nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân là việc cực kỳ quan trọng, Phải nhận thức rõ rằng: "Hội thật sự là lực lượng nòng cốt của phong trào nông dân xây dựng nông thôn mới, là thành viên tích cực trong khối đại đoàn kết toàn dân, là nhân tố quan trọng của khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức - nền tảng chính trị của chế độ ta” [56, tr.14]. Nói tóm lại, để nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân ở Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay thì phải quán triệt Chỉ thị số 59-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Để làm được những việc trên, trong thời gian tới cần thực hiện các việc sau đây: + Cấp uỷ đảng tiếp tục chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW của Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng khoá VIII, ngày 15/12/2000, trong Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức đầy đủ nội dung chỉ thị này, trên cơ sở đó xác định trách nhiệm trong việc chỉ đạo đối với tổ chức Hội. + Trong quá trình chỉ đạo, cấp uỷ đảng bố trí đồng chí cấp uỷ viên phụ trách công tác Hội. Những cán bộ chủ chốt của Hội yếu kém thì bố trí làm việc khác hợp lý hơn nhằm nâng cao hiệu quả công tác. + Hiện nay tỷ lệ đảng viên ở nông thôn tham gia sinh hoạt Hội chỉ mới trên 50%, cấp uỷ đảng phải có biện pháp để số đảng viên tham gia sinh hoạt tỷ lệ cao hơn; coi đây là nhiệm vụ của Đảng và được xem xét trong quá trình phân loại đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng hàng năm. + Uỷ ban Nhân dân và các ngành tiếp tục thực hiện Quyết định số 17CP của Chính phủ và Quyết định số 07/2001/QĐ-UB về việc ban hành quy chế phối hợp giữa UBND và Hội Nông dân các cấp, tạo điều kiện cho tổ chức Hội hoạt động có hiệu quả. + Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội ở cơ sở về lý luận, chuyên môn để có đủ năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới hiện nay, chú trọng đối với cán bộ dân tộc miền núi; có quy hoạch trong việc đào tạo, sử dụng cán bộ ổn định để cán bộ yên tâm công tác. + Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục để nông dân hiểu rõ quyền lợi của họ khi tham gia tổ chức Hội, rồi tự nguyện tham gia vào các tổ chức Hội; xây dựng Hội ngày càng vững mạnh không những về số lượng mà cả về chất lượng. Bên cạnh đổi mới phương thức lãnh đạo của Hội, tiếp tục duy trì, phát triển các phong trào lớn của Hội, như phong trào nông dân thi đua sản xuất - kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói giảm nghèo, phong trào nông dân phát triển văn hóa - xã hội bảo vệ an ninh quốc phòng, phong trào thi đua xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn... Các phong trào phải hoạt động thường xuyên và là công tác trọng tâm của Hội. Giải pháp thứ năm: Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo cán bộ làm công tác vận động quần chúng từ trung ương đến cơ sở Đây là cốt lõi của công tác “dân vận khéo”. Bởi vì trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay tiêu chí đặt ra đối với cán bộ làm công tác vận động quần chúng chuyên trách rất khác trước. Một trong những tiêu chí quan trọng, trước tiên là phải có trình độ học vấn, có kỹ năng nghiệp vụ về công tác vận động quần chúng. Chỉ có như vậy thì cán bộ dân vận mới làm được chức năng tham mưu cho Đảng về công việc của mình. Các tiêu chuẩn và yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ nói chung cũng là đòi hỏi bức thiết đối với cán bộ làm công tác vận động quần chúng. Bởi vì chính họ là những người trực tiếp làm công tác vận động quần chúng, là cán bộ của dân và gắn bó mật thiết với dân hơn ai hết. Đó là những cán bộ như Bác Hồ dạy: “Người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc” [47, tr.699]. Để có được đội ngũ cán bộ dân vận như vậy, công tác cán bộ phải làm nhiều việc. Trước hết là cần tiếp tục tạo được sự chuyển biến sâu sắc hơn nữa nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác dân vận và về cán bộ dân vận trong thời kỳ mới. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vô cùng to lớn, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn dân tộc; vì vậy, phải vận động tất cả mọi người “không sót người nào” vào công cuộc vĩ đại đó. Vì sao phải đặt ra vấn đề này? Bởi vì như Bác Hồ đã chỉ ra cách đây mấy chục năm về trước mà đến nay chúng ta vẫn chưa khắc phục được là “khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại” [47, tr.699]. Thực hiện lời Bác cần phải tạo được sự chuyển biến nhận thức thật sự để có được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các tổ chức chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận. Chúng ta luôn coi công tác vận động quần chúng là vô cùng cần thiết và quan trọng và là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nhưng sự quan tâm, chăm lo cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác dân vận lại có phần chưa thoả đáng, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, chưa bằng đội ngũ cán bộ ở các lĩnh vực khác. Có thể thấy điều đó qua tất cả các khâu, các mặt của công tác cán bộ, từ quy hoạch cán bộ, hệ thống trường lớp đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, luân chuyển đến bố trí sử dụng, quản lý, đánh giá và chăm lo chính sách cán bộ, v.v.. Nhiều nơi vẫn đưa cán bộ được đào tạo ở nhiều ngành khác nhau hoặc cán bộ yếu kém ở cơ quan khác về làm cán bộ dân vận... Do vậy, về công tác quy hoạch cán bộ dân vận trong những năm tới, từ Ban Dân vận Trung ương đến Ban Dân vận các cấp, nhất thiết phải theo đúng Nghị quyết số 42 của Bộ Chính trị, nhằm chủ động tạo ra đội ngũ cán bộ dân vận từ trên xuống dưới, bảo đảm các yêu cầu đề ra, khắc phục tình trạng chắp vá, hẫng hụt "giải quyết tình thế" hoặc "lấp chỗ trống". Trong quy hoạch và luân chuyển cán bộ, nhất là khi luân chuyển cán bộ làm dân vận, nên luân chuyển những cán bộ đã qua công tác dân vận. Những cán bộ đã làm việc lâu ở Ban Dân vận Trung ương cũng cần đưa về các địa phương để có thêm kiến thức thực tiễn giúp cho công tác chỉ đạo, tham mưu, nghiên cứu tốt hơn. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân vận, hiện nay đã có Khoa Dân vận ở trường chính trị tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương; song chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo cán bộ dân vận cho cả hệ thống chính trị trong thời kỳ mới. Cho nên Đảng và Nhà nước phải sớm có kế hoạch hình thành trường dân vận từ hệ trung cấp đến hệ đại học. Chỉ có hình thành trường lớp riêng, được tổ chức quy củ mới có thể thực hiện việc đào tạo cán bộ chuyên nghiệp được. Từng cán bộ dân vận, từng tổ chức cần chăm lo việc học tập nâng cao trình độ mọi mặt để sớm có được đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận lâu nay Ban Dân vận Trung ương và cấp uỷ các cấp vẫn làm. Song cần có nội dung chương trình, kế hoạch bồi dưỡng phù hợp hơn, chu đáo hơn. Tránh tình trạng bồi dưỡng để có chứng chỉ, để đề bạt, để cơ cấu. Thậm chí, hiện nay vẫn còn một số nơi coi Ban Dân vận là “phòng chờ” chuẩn bị về hưu. Đây là nhận thức sai, cần phải chấm dứt. Trên đây là một số vấn đề, cũng là những định hướng giải pháp đặt ra cho công tác cán bộ dân vận ở Quảng Bình những năm tiếp theo. 2.3.3.2. Một số giải pháp cụ thể Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận đến mọi cấp, mọi người dân. Công tác tuyên truyền, giáo dục đạt được kết quả là nói cho dân nghe và làm cho dân tin và phải làm sao cho mỗi người dân hiểu thấu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để họ vui vẻ xung phong làm. Tuyên truyền, giáo dục và vận động bao giờ cũng đi liền với nhau. Dân chỉ hành động đúng khi tư tưởng họ thông suốt. Hồ Chí Minh đã dạy: "Phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được" [47, tr.698]. Thực tiễn ở cơ sở cho thấy, bất kỳ một nội dung nào của công tác nông vận đều tác động đến tư tưởng, tình cảm của mỗi một người dân, của các nhóm dân cư khác nhau, theo những khuynh hướng khác nhau, rồi diễn biến tuỳ theo nhận thức, thái độ và lợi ích của họ. Do vậy, nắm bắt được quá trình diễn biến tư tưởng, làm tốt công tác tư tưởng, phát hiện những vướng mắc, động viên kịp thời những nhân tố tích cực là tiền đề cho công tác nông vận thành công. Phải đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, giáo dục; nâng cao chất lượng công tác giáo dục truyền thống, ý thức trách nhiệm công dân, tạo ra sự đồng thuận trong toàn xã hội. Hai là, phải thực thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Thực hiện và phát huy dân chủ cơ sở vừa là mục tiêu vừa là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, tập hợp và phát huy được sức mạnh của quần chúng. Mọi lúc, mọi nơi phải thực hiện đúng các nội dung của Quy chế. Việc nào dân được biết thì phải công khai để dân biết; việc nào dân được bàn thì phải đưa ra công khai để dân bàn; việc nào dân được kiểm tra thì phải để dân kiểm tra. Phải để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Do vậy, cần có những quy định cụ thể về thực hiện dân chủ, về trưng cầu dân ý, về chức năng giám sát, về bầu cử..., làm sao quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân được thực hiện và phát huy. Ba là, nâng cao trình độ dân trí, khoa học, công nghệ cho nông dân. Để công tác dân vận có kết quả, thì vấn đề cấp bách hiện nay là phải nâng cao trình độ dân trí. Năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động không thể là kết quả của lao động thủ công, lao động kinh nghiệm là đủ. Bởi vì người dân ở nông thôn biết rõ những diễn biến về đất, nước, mưa, gió, cây trồng... nơi mình sinh sống từ đời này sang đời khác, nhưng vì không có kiến thức của những nhà chuyên môn về trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, chế biến..., nên không tận dụng hữu hiệu các tài nguyên thiên nhiên và lao động của địa phương mình, gia đình mình. Muốn nâng cao trình độ dân trí, phải tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục ở mọi cấp học; thực sự coi giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; đồng thời giáo dục và đào tạo tay nghề cho nông dân. Hiện nay trên địa bàn nông thôn, chương trình xoá đói giảm nghèo có tác dụng tạo thêm công ăn việc làm cho lao động dư thừa. Tuy nhiên đội quân thất nghiệp ở nông thôn, nhất là những người lao động trẻ, không chỉ không có việc làm, mà rất nhiều người không có nghề. Do đó, việc dạy nghề cho lao động ở nông thôn, nhất là các học sinh đã tốt nghiệp trung học phổ thông, trở thành vấn đề bức xúc trong công cuộc phát triển nông nghiệp, nông thôn. Công tác giáo dục hướng nghiệp ngay từ học sinh trung học phổ thông cần được nghiên cứu và áp dụng, để giảm dần tình trạng học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông chỉ nắm được những kiến thức phổ thông chung chung, thiếu khả năng thực hành. Để nâng cao trình độ dân trí và khoa học công nghệ cho nông dân, còn cần phải tổ chức dạy nghề tại chỗ cho nông dân. Qua phong trào nông dân thi đua sản xuất - kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói giảm nghèo, Hội Nông dân cần tổ chức các lớp học bồi dưỡng khoa học kỹ thuật và quản lý tại cơ sở cho nông dân. Người dạy, người học, nội dung học, phương pháp học, thời gian học đều phải được lựa chọn, cân nhắc cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của bà con nông dân. Cần có chính sách khuyến khích con em nông dân đi học các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, nhất là những ngành phục vụ cho sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, phục vụ nông dân, nông thôn và những người trở về công tác ở nông thôn sau khi tốt nghiệp. Như vậy, nâng cao trình độ dân trí cho nông dân là một giải pháp quan trọng để phát huy các nguồn lực của nông nghiệp, nông thôn, nông dân cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Bốn là, công tác nông vận ở cơ sở cần được phối hợp giữa các lực lượng, giữa các tổ chức. Thực tế cho thấy rằng, thực hiện một nhiệm vụ nào, phát động một phong trào cách mạng nào ở cơ sở, đối tượng vận động, phát động, thực hiện vẫn là đoàn viên, hội viên, nhân dân ở cơ sở đó. Họ vừa là đoàn viên của đoàn thể này, vừa là hội viên, thành viên của đoàn thể, tổ chức quần chúng kia. Tuyên truyền, vận động các đối tượng nhân dân là trách nhiệm của tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và của cán bộ, đảng viên, các lực lượng dân vận trên địa bàn. Cùng một nội dung, cùng chung mục tiêu, cùng một đối tượng vận động, cùng một địa bàn, tất yếu cần thiết có sự phối kết hợp các lực lượng, các tổ chức quần chúng. Địa phương nào, việc nào không làm như vậy, công tác nông vận ở nơi đó sẽ bị chồng chéo, giằng xé, dễ xảy ra tình trạng tranh chấp hội viên, đoàn viên, quần chúng; thống kê "thành tích ảo", đánh giá sai lệch phong trào quần chúng, sẽ hạn chế kết quả của công tác nông vận. Trong phối hợp, các lực lượng, các tổ chức làm công tác nông vận bao giờ cũng phải có người chủ trì làm vai trò "nhạc trưởng" để tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", "vận mà không động", động mà không theo một hướng. Trong quá trình này khối dân vận xã phải giữ vai trò chủ trì phối hợp. Như vậy, việc phối, kết hợp các lực lượng trong quá trình làm công tác nông vận sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp trong nông nghiệp, nông thôn, nông dân, cho sự phát triển kinh tế - xã hội. - Trên cơ sở lý luận và thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận ở tỉnh Quảng Bình, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa công tác dân vận trong thời gian tới. + Trung ương Đảng nên tổng kết, đánh giá đầy đủ việc thực hiện các nghị quyết về công tác quần chúng trong đổi mới, nhằm bổ sung cho phù hợp với tình hình mới; gắn việc thực hiện công tác dân vận với việc chỉnh đốn, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. + Khi ban hành các chủ trương, chính sách, Đảng và Chính phủ cần chú ý hơn việc “khoan thử sức dân”. Hiện nay ở cơ sở dân kêu ca phàn nàn nhiều về các khoản huy động, đóng góp hoặc tăng giá liên tục của nhiều ngành có liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân. Nhà nước cần có chính sách khắc phục tình trạng này. + Có quy chế, quy định cụ thể bắt buộc những người lãnh đạo, quản lý đi cơ sở, bám sát dân để hiểu dân. Đổi mới hơn nữa việc tổ chức tiếp xúc cử tri để dân có điều kiện bày tỏ tâm tư, nguyện vọng với Đảng, Nhà nước. + Đảng, Nhà nước cần có chính sách phụ cấp, kinh phí hoạt động và điều kiện làm việc thoả đáng cho những người làm công tác vận động quần chúng, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Bởi vì địa bàn của cán bộ dân vận là cơ sở, không trực tiếp “mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” [47, tr.699] thì không làm dân vận được. Hiện nay do đang thực hiện chế độ khoán kinh phí hoạt động theo đầu biên chế, nên hầu hết Ban Dân vận ở huyện, thị, nhất là ở miền núi gặp rất nhiều khó khăn. Ngân sách được cấp không đủ tiền công tác phí cho cán bộ. Kết luận chương 2 Trên cơ sở đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và thấm nhuần quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, Ban Dân vận tỉnh Quảng Bình đưa ra những chủ trương, giải pháp vận động quần chúng phù hợp với từng đối tượng, từng vùng, nhờ đó công tác này đã phát huy được mọi tiềm năng trong nhân dân cho sự phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời góp phần làm chuyển biến rõ nét về nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị về công tác dân vận của Đảng. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dựa vào đường lối, chủ trương của Ban Dân vận tỉnh, trong 5 năm (2001-2005) công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình đã triển khai được các hoạt động: Tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ văn hoá, xã hội, kỹ thuật, xây dựng người nông dân mới; tổ chức phong trào nông dân thi đua thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Bên cạnh đó cũng chỉ ra được những hạn chế trong công tác vận động nông dân trong những năm qua. Từ thực trạng công tác vận động quần chúng trong 5 năm (2001 - 2005) và từ những quan điểm, phương hướng chỉ đạo công tác dân vận, chúng tôi đưa ra những giải pháp cơ bản, nhằm nâng cao hơn nữa công tác vận động nông dân trong thời gian tới. Các giải pháp trên có quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Vì vậy để nâng cao hiệu quả công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình cần thực hiện đồng bộ các giải pháp. Tuy nhiên, tuỳ từng đối tượng, từng địa phương, từng thời kỳ, từ những đặc điểm văn hoá, phong tục, lối sống, mà xác định rõ giải pháp trọng tâm, trọng điểm nhằm thực hiện có hiệu quả công tác này. Kết luận Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng và kế thừa tư tưởng của ông cha về sức mạnh của nhân dân trong dựng nước và giữ nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào nhân dân, vào sức mạnh to lớn của lực lượng đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy sức mạnh to lớn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đề ra nhiều chủ trương, chính sách vận động, tập hợp quần chúng tham gia các tổ chức cách mạng, đồng thời lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi tuyên truyền vận động, tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh nêu ra những quan điểm, tư tưởng, phương châm, nội dung công tác vận động quần chúng rất sâu sắc, có tính chiến lược cho cách mạng Việt Nam. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận là sự kết tinh những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa văn hoá nhân loại; là bước phát triển sáng tạo luận điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhằm "vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho" [47, tr.698]. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận hình thành và phát triển gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của Người; lý luận dân vận của Hồ Chí Minh hoà làm một với thực hành công tác dân vận, một cuộc thực hành bền bỉ, kéo dài trong suốt cuộc đời của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận hình thành và phát triển cùng chiều với quá trình phát triển và thắng lợi của cách mạng Việt Nam - một cuộc cách mạng của toàn dân, vì dân. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận là mẫu mực về tinh thần tôn trọng, tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân. Người nói: "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân" [52, tr.197]. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn xem công tác dân vận là công tác quan trọng, là nhiệm vụ cốt yếu của Đảng, của cả hệ thống chính trị và của mỗi cán bộ, đảng viên. Theo Người, muốn cách mạng thành công thì phải làm tốt công tác dân vận. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận bao gồm một hệ thống quan điểm cơ bản chỉ đạo công tác dân vận: tất cả vì lợi ích của nhân dân; dân chủ là tư tưởng cơ bản xuyên suốt công tác dân vận; đoàn kết, tập hợp lực lượng là nhiệm vụ cơ bản của công tác dân vận. Đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận còn chỉ rõ những phương thức cơ bản chỉ đạo công tác dân vận đó là "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"; cách tổ chức, cách làm việc phải phù hợp với quần chúng. - Công tác dân vận có tầm quan trọng đặc biệt trong các thời kỳ cách mạng, là một trong những nhân tố góp phần vào thắng lợi của cách mạng. Nhận rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác dân vận, Hồ Chí Minh chỉ rõ lực lượng làm công tác dân vận là: "Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v..) đều phải phụ trách dân vận" [47, tr.699]. Đồng thời Người cũng chi rõ phong cách làm việc của người làm công tác dân vận là: "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc" [47, tr.699]. - Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh đã được tuyên truyền, giáo dục cho toàn thể cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân. Thấm nhuần tư tưởng của Người, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Ban Dân vận của tỉnh Quảng Bình đã vận dụng, đưa những chỉ dẫn về dân vận của Người vào thực tiễn hoạt động cách mạng, biến những tư tưởng của Người thành những phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, nhất là trên địa bàn nông nghiệp, nông dân, nông thôn và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Đặng Nguyên Anh (2003), "Lại bàn về dân vận", Tạp chí Dân vận, (1), tr.10. 2. Nguyễn Thị Mai Anh (2002), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân và dân chủ", Tạp chí Dân vận, (12), tr.14-15. 3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2000), Tài liệu giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Nxb Giáo dục. 4. Ban Dân vận Trung ương (2000), Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Ban Dân vận Trung ương - Trung tâm Nghiên cứu khoa học dân vận (2005), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hoàng Tiến Cát (2005), Quan hệ giữa chính quyền nhà nước và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Đàm Thiện Cầu (2000), "Bác Hồ với công tác vận động quần chúng ở Cao Bằng", Tạp chí Dân vận, (1+2), tr.18-19. 8. Nguyễn Thị Cận (2005), Quyền hạn và lợi ích của dân trong bài báo dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Phan Thanh Cường (2003), "Công tác dân vận của Đảng bộ xã Nhân Trạch", Tạp chí Dân vận, (3), tr.22-23. 10. Nguyễn Thế Châu (2000), "Dân vận trong tiến trình dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng ta", Tạp chí Dân vận, (12), tr.16. 11. Phạm Thế Duyệt (2002), "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công", Tạp chí Dân vận, (10), tr.12-13. 12. Phan Diễn (2000), "Công tác dân vận là một bộ phận quan trọng của công tác cách mạng", Tạp chí Dân vận, (11), tr.5-7. 13. "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công" (1996), Tạp chí Cộng sản, (8), tr.17- 21. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5, 7 (khoá IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Huỳnh Đảm (2004), "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin - Mục tiêu đổi mới công tác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (7), tr.6-9. 17. Trần Văn Đam (2005), Dân vận và dân chủ, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Đại việt sử ký toàn thư (1983), tập 1, Khoa học Xã hội, Hà Nội. 19. Trần Bạch Đằng (2002), "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", Tạp chí Dân vận, (10), tr.22-24. 20. Trịnh Xuân Giới (2000), "Công tác dân vận năm 1999 - kết quả và bài học kinh nghiệm", Tạp chí Dân vận, (1+2), tr.5-7. 21. Trịnh Xuân Giới (2005), Cán bộ dân vận thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Nguyễn Thạc Hân (1999), "Công tác dân vận năm 1998 một số bài học kinh nghiệm", Tạp chí Dân vận, (1+2), tr.42-43. 23. Nguyễn Thạc Hân (2004), "Mối quan hệ văn hóa và dân vận trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Dân vận, (1+2), tr.27-29. 24. Nguyễn Thạc Hân (2005), Mối quan hệ Đảng - dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Trần Hậu (1999), "Thấm nhuần quan điểm quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, suy nghĩ về bài học "lấy dân làm gốc"", Tạp chí Dân vận, (4), tr.10-12. 26. Hiến pháp Việt Nam (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Hội Nông dân Việt Nam - tỉnh Quảng Bình, Báo cáo công tác thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, Hội nông dân tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2001-2005 phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2005-2010, Quảng Bình. 28. Hội Nông dân Việt Nam - tỉnh Quảng Bình, Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chỉ thị số 59 CT/TƯ của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (2000-2005), Quảng Bình. 29. Hội Nông dân Việt Nam - tỉnh Quảng Bình (2005), Báo cáo tình hình công tác hoạt động năm 2005, phương hướng, nhiệm vụ 2006. 30. Nguyễn Văn Hùng (2005), Tác phẩm dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi tỏa sáng, soi đường cho công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Nguyễn Khánh (2000), "Cơ quan nhà nước làm công tác dân vận như thế nào?", Tạp chí Dân vận, (8), tr.3-4. 32. Phạm Văn Khánh (2003), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh nhân dân và công tác dân vận", Tạp chí Dân vận, (10), tr.16-18. 33. Vũ Ngọc Khánh (2002), "Đôi điều nhớ lại về công tác dân vận", Tạp chí Dân vận, (10), tr.25-26. 34. Vũ Ngọc Lân (2003), "Công tác dân vận có phải một nghề", Tạp chí Dân vận, (1), tr.13-14. 35. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 36. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 35, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 37. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 38. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 39. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 40. Nguyễn Bá Linh (2005), Khái niệm, nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân vận", in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 53. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Lê Hoàng Minh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động nông dân, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 56. Một số văn kiện của Đảng và Nhà nước về Hội Nông dân Việt Nam (thời kỳ đổi mới) (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Lương Ngọc (2005), Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh với việc xây dựng kỹ năng, nghiệp vụ công tác dân vận, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Nguyễn Thị Kim Nhị (2003), "Dân vận - một trong những nhiệm vụ quan trọng của mỗi cán bộ, đảng viên", Tạp chí Dân vận, (1), tr.36. 59. Trần Lương Ngọc (2003), "Hồ Chí Minh với việc xây dựng kỹ năng nghiệp vụ côn tác dân vận", Tạp chí Dân vận, (10), tr.20-22. 60. Trần Quang Nhiếp (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 61. Bùi Thành Phần (2000), "Đôi điều suy nghĩ và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận ở quận Ba Đình", Tạp chí Dân vận, (12), tr.13-15. 62. Bùi Đình Phong (2003), "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc", Tạp chí Cộng sản, (9), tr.12-15. 63. Phạm Văn Tản (2000), "Thái độ và phong cách cán bộ dân vận", Tạp chí Dân vận, (12), tr.17-18. 64. Phạm Văn Tản (2003), "Chính quyền với công tác dân vận", Tạp chí Dân vận, (1), tr.11-12. 65. Phạm Văn Tản (2003), "Niềm tin trong công tác dân vận", Tạp chí Dân vận, (9), tr.14-15. 66. Phạm Văn Tản (2004), "Vai trò của đội ngũ cán bộ đối với công tác dân vận", Tạp chí Dân vận, (7), tr.15-16. 67. Văn Tạo (2000), "Học tập tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh", Tạp chí Dân vận, (5), tr.6-7. 68. Nguyễn Thế Thắng (2000), "Suy nghĩ về tư tưởng vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Dân vận, (1+2), tr.15-17. 69. Trần Dân Tiên (1975), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật, Hà Nội. 70. Đỗ Quang Tuấn (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 71. Nguyễn Tri Thư (1996), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề trong công tác vận động quần chúng", Tạp chí Cộng sản, (20), tr.19-22. 72. Nguyễn Thanh Tuyền (2003), "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công", Tạp chí Dân vận, (10), tr.19. 73. Thanh Tuyền (2005), Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 74. Nguyễn Thế Thắng (1999), "Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh: Dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng", Tạp chí Dân vận, (1+2), tr.25. 75. Nguyễn Đình Thuận (2002), "Vận dụng tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc", Tạp chí Dân vận, (9), tr.8-10. 76. Trịnh Trí Thức (2002), "Hội quần chúng không chính thức với công tác dân vận ở nông thôn nước ta", Tạp chí Dân vận, (9), tr.17-18. 77. Tỉnh ủy Quảng Bình (2002), Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm 2002, phương hướng nhiệm vụ năm 2003, Quảng Bình. 78. Tỉnh ủy Quảng Bình (2004), Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm 2003 phương hướng nhiệm vụ năm 2004, Quảng Bình. 79. Tỉnh ủy Quảng Bình (2005), Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm 2005, phương hướng, nhiệm vụ năm 2006, Quảng Bình. 80. Tỉnh ủy Quảng Bình (2005), Báo cáo đánh giá công tác dân vận nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và phương hướng, nhiệm vụ thời kỳ 2006 - 2010, Quảng Bình. 81. Đinh Hồng Vân (2005), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác dân vận của hệ thống chính trị, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 82. Đức Vượng (1999), đầu xuân suy ngẫm về dân vận trong sự nghiệp đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Dân vận, (1+2), tr.20-22.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf166_5182.pdf
Luận văn liên quan