Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt Nam

Suốt cuộc đời đi tìm đường cứu nước cho đến khi đi vào cõi vĩnh hằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công việc đối với con người là mục tiêu quan trọng, lớn lao và cao cả của cuộc đời mình. Ngay từ khi tìm đường cứu nước, Người cho rằng mỗi xã hội đều có các công việc đối với con người. Đó là công việc tạo ra một kiểu người cho xã hội đó. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các xã hội có những kiểu người đại diện cho nó. Còn xã hội mới phải có kiểu người cách mạng, đó là con người mới xã hội chủ nghĩa. Bằng thiên tài trí tuệ và lòng yêu thương, kính trọng con người, tin tưởng vào khả năng và sức mạnh vô tận của quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quyết định của nhân dân, của con người đối với sự phát triển của lịch sử. Theo Hồ Chí Minh đó phải là những con người được trang bị thế giới quan khoa học, có lý tưởng cách mạng vững vàng, có tri thức toàn diện, đạo đức trong sáng, sức khoẻ dồi dào, năng lực sáng tạo cao và có khả năng thích ứng tốt.

pdf93 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2981 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan tâm đến đại cục; 7. Nhu cầu thành đạt; 8. Giàu trải nghiệm, biết học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm; 9. ứng xử thông qua các phương tiện đa năng; 10. Hướng vào tương lai; 11. Thừa nhận giá trị của sự thay đổi; 12. Chấp nhận sự khác biệt với mình; 13. Nhu cầu học tập, giao tiếp, tình cảm trí tuệ; 14. Khả năng xử lý thông tin, tính toán, cân nhắc, giải quyết vấn đề; 15. Tính tao nhã, lịch thiệp trong công việc, quan hệ; 16. Tính hiệu lực, hiệu quả trong công việc và đời sống; 17. Tính quy đồng dân tộc (quốc gia) ở phương diện văn hoá; 18. Tính lạc quan chịu đựng thất bại và nắm bắt vận hội mới; 19. Quý trọng và sử dụng thời gian nghiêm túc; 20. Gắn bó với công việc (trách nhiệm và tính mục đích); 21. Phong cách thị dân; 22. Quảng giao và khoan hoà; 23. Xu hướng cá nhân chủ nghĩa có thể xuất hiện, cần được lưu ý trong đời sống sinh hoạt; 24. Yêu thích nghệ thuật và du lịch; 25. Đa dạng trong phương thức hành vi. Yêu cầu thứ 21 nói đến phong cách thị dân, tức là nói đến việc giáo dục của chúng ta phải phục vụ quá trình đô thị hoá. ở nước ta, đô thị đang được hình thành và mở rộng với tốc độ và quy mô chưa từng thấy cùng với thành quả kinh tế - xã hội trong những năm qua. Đô thị không chỉ có cảnh đông dân mà còn có sự thay đổi về chất của lối sống. Trước hết có yêu cầu khắc phục được tâm lý tiểu nông, xây dựng một lối sống khoa học, tuân thủ pháp luật, văn minh. Con người chúng ta đang hình thành và phát triển không thể nào đứng ngoài các đặc điểm cách mạng thông tin, công nghệ sinh học, toàn cầu hoá, hội nhập, mở cửa, v.v..Vấn đề nổi lên hàng đầu ở đây là giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống văn hoá dân tộc, giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, phải xuyên suốt tất cả các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. 2.2.2. Một số yêu cầu chung đối với sự phát triển toàn diện con người trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở đây chúng tôi xin nêu một số đặc điểm, yêu cầu chung của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với sự phát triển toàn diện con người trong thời đại ngày nay. Ngày nay, nước ta đang chuyển từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp, tất nhiên không phải mô phỏng hoàn toàn như cách đây 200 - 300 năm trước các nước đã đi, mà phải đi tắt, đón đầu. Nhưng có những cái thuộc quy luật (cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người) chúng ta không thể nào bỏ qua được. Chẳng hạn như, phải khắc phục tâm lý nông dân, phong cách nông dân, sản xuất tiểu nông. Khắc phục tâm lý của nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, xây dựng tác phong công nghiệp từ gia đình đến trường học, từ cộng đồng đến toàn xã hội. Tác phong công nghiệp là tổ hợp các quan hệ ứng xử của con người với xã hội, tự nhiên, tư duy và với người khác: làm gì cũng phải có căn cứ khoa học, hợp lý, không tuỳ tiện, gặp chăng hay chớ. Đồng thời phải nhấn mạnh mặt nhân văn, nhân bản của tác phong công nghiệp hiện đại Việt Nam: có lý, có tình, nhân nghĩa, thuỷ chung. Trong thế giới ngày nay, đi vào thời đại mới (tức là hiện đại hoá) người ta rất chú ý đến giao lưu, giao tiếp giữa người với người. Và đối với chúng ta, vấn đề đặt ra là trong sự tác động của kinh tế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, quy luật giá trị, chúng ta phải giáo dục như thế nào, định hướng giá trị như thế nào để xây dựng được một tác phong công nghiệp hiện đại trong nhân dân và nhất là trong thanh niên, làm sao hạn chế đến mức tối đa các biểu hiện tiêu cực của cơ chế thị trường, phản tiến bộ, phi nhân văn, vô nhân đạo, đưa đạo đức xã hội, nhân cách con người đạt trình độ của lý tưởng Chân, Thiện, Mỹ ở tầm cao của thời đại Hồ Chí Minh. Để thực hiện đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm hội nhập mà không hoà tan trong quá trình toàn cầu hoá, chúng ta phải giáo dục hình thành cho con người Việt Nam có các kỹ năng xã hội cần thiết, từ tay nghề, ngoại ngữ đến trình độ văn hoá chung, đạo đức, bản lĩnh con người Việt Nam mang đậm đà bản sắc dân tộc và biết tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, để hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh như nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành trung ương (khoá VIII) đã chỉ ra. Về mặt này chúng ta có nhiều kinh nghiệm truyền thống vì đã từng đứng giữa sự giao thoa của nhiều dòng văn hoá, bị “chính quốc” âm mưu đồng hoá mà chúng ta không bị đồng hoá, biết tiếp biến văn hoá của các dân tộc khác biến thành văn hoá bản thân dân tộc mình. Thế giới hiện đại là thế giới của thông tin. Trên thế giới ngày càng tăng cường giao dịch, nhất là giao dịch thương mại qua mạng internet, người ta bắt đầu nói đến kinh tế ảo, quan hệ người tiêu dùng và người sản xuất cũng qua đây ngày càng gần gũi nhau hơn; quy trình công nghệ biến đổi cực nhanh đến mức có người đưa ra con số đến 80% công nghệ hiện nay sẽ lạc hậu nay mai. Ngày nay, người ta không chỉ coi trọng các kiến thức hệ thống hoá mà còn coi trọng các kiến thức tiềm ẩn, chẳng những chú ý tới nguồn hiểu biết bên trong doanh nghiệp mình, mà còn chú trọng hiểu biết bên ngoài doanh nghiệp. Nói đến kiến thức tiềm ẩn, là nói đến trạng thái tâm lý và khả năng chuyển nó thành tâm lực. Trong nền kinh tế hiện đại phải đào tạo người công nhân, kỹ sư và người quản lý sản xuất, kinh doanh có trình độ chuyên môn cao, có cơ sở để chuyển đổi nghề, có vốn văn hoá chung - văn hoá hợp tác. Có như vậy mới có thể tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mới sử dụng được công nghệ thông tin, áp dụng tri thức vào sản xuất, kinh doanh, đời sống. Từ những điều trình bày ở trên về tư duy khoa học, tác phong công nghiệp, tính thích nghi, khả năng sáng tạo, năng lực hợp tác, chúng ta có thể rút ra kết luận quan trọng: con người của thời đại công nghiệp ngày nay phải tạo ra cho mình khả năng và phương pháp học tập và tự học; luôn luôn tự hoàn thiện mình. Để tự học, để học tập được thường xuyên, suốt đời, trước hết phải làm cho mỗi người có chí học tập, ham học, thích học và có phương pháp học tập. 2.2.3. Định hướng xây dựng đạo đức con người Việt Nam Việt Nam và các nước á Đông được coi là những nước “lễ nghĩa chi bang” (nước trọng lễ nghĩa). Các quan hệ xã hội của con người đều được chi phối và được xác định bằng luân lý - đạo đức, bị chi phối bởi văn hoá xóm làng qui định cái tình, cái nghĩa cộng đồng hơn là luân thường Nho giáo, hình thành phương châm ứng xử “thấu tình đạt lý”. Đạo đức bị chi phối bởi các các điều kiện kinh tế - xã hội và chịu sự tác động của sự tự ý thức và niềm tin về bản thân, về dân tộc, giai cấp theo những lý tưởng và định hướng giá trị nhất định của con người và xã hội. Do đó xây dựng đạo đức người Việt Nam trong thời đại công nghiệp hoá cần phải: 2.2.3.1. Trang bị cho mọi người những tri thức cần thiết về tư tưởng chính trị, đạo đức nhân văn, kiến thức pháp luật và văn hoá xã hội Tuỳ theo đặc điểm nghề nghiệp, vị thế xã hội, lứa tuổi cần trang bị cho mọi người những hiểu biết về thước đo giá trị, định hướng giá trị trong các lĩnh vực: - Chính trị xã hội; - Truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, lịch sử cách mạng của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh; - Hiểu biết về pháp luật; - Hiểu biết về tình hình chính trị thế giới, những tổ chức quốc tế và các dân tộc khác; - Vốn sống thực tế trong giao tiếp ứng xử, trong học tập, lao động và hoạt động xã hội là điều kiện để hoàn thiện nhân cách nói chung, rèn luyện, trau dồi đạo đức nói riêng. 2.2.3.2. Hình thành ở mọi công dân thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm tin đạo đức trong sáng đối với bản thân, mọi người, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc và các hiện tượng xảy ra xung quanh. Tổ chức tốt giáo dục giá trị Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục đạo đức bởi lẽ thái độ tình cảm, niềm tin đạo đức đối với bản thân và các hiện tượng tự nhiên và xã hội sẽ tạo ra động lực bên trong điều chỉnh nhận thức và hành vi của mỗi người. Thái độ, niềm tin trước hết đối với chính bản thân. Đó là sự tự phán xét lương tâm đối với việc làm đúng - sai, trong việc kiềm chế, giải quyết các mâu thuẫn của cuộc sống hàng ngày. Trong thực tế, có rất nhiều việc làm không ai biết, chỉ có lương tâm ta tự đánh giá. Chỉ khi nào hình thành được ở mỗi người thái độ đúng đắn, tình cảm sâu sắc thì mới giúp con người sống phù hợp với những yêu cầu của xã hội. Có thái độ và tình cảm trong sáng, có được niềm tin sâu sắc vào cái thiện, vào người khác, vào tương lai tiền đồ của dân tộc … thì mỗi người mới thực sự là chủ thể tự hoàn thiện và đóng góp sức mình vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt cần hình thành niềm tin vào Đảng, vào sự nghiệp đổi mới, trước hết tin vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là nhân tố rất quan trọng hình thành lý tưởng sống của mỗi cá nhân. Một bộ phận không nhỏ không có lý tưởng đúng đắn, chạy theo nhu cầu tầm thường của cá nhân, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc nên đã suy thoái về đạo đức, tha hoá trong cuộc sống. 2.2.3.3. Rèn luyện để mỗi người tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức xã hội, có thói quen chấp hành quy định của pháp luật, nỗ lực học tập rèn luyện, tích cực cống hiến sức lực, trí tuệ vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Hành vi và thói quen đạo đức là mục tiêu của giáo dục đạo đức và thước đo đánh giá nhân cách của mỗi người. Hành vi và thói quen đạo đức được biểu hiện ra ở tính tích cực xã hội, năng lực giải quyết hợp lý, sáng tạo, có hiệu quả các mâu thuẫn trong các quan hệ của chủ thể với mọi người xung quanh, với công việc (với tư cách là công dân, với các hiện tượng tự nhiên và xã hội). Tính tích cực xã hội và năng lực đó phải được thể hiện ở: - Học tập và không ngừng hoàn thiện bản thân; - Lao động sản xuất và hoạt động nghề nghiệp; - Tự giác tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị xã hội; - Tham gia có hiệu quả vào thiết lập xây dựng các quan hệ xã hội (từ trong gia đình đến cộng đồng nơi ở, dân tộc và quốc tế); - Chấp hành đầy đủ những quy định của pháp luật và quy ước của cộng đồng và các tổ chức xã hội (Đảng, Đoàn thanh niên, Hội …), giáo dục tinh thần công dân. Nói tóm lại, giáo dục đạo đức là giáo dục hệ thống thái độ như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra: - Thái độ đối với đất nước: “Tận trung với nước, tận hiếu với dân”. - Thái độ đối với giá trị của con người: “Ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”. - Thái độ đối với xã hội: “Giữ đúng đạo đức công dân”. - Thái độ đối với lao động: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”. - Thái độ đối với bản thân: luôn có tinh thần phê bình và tự phê bình, “ham học, ham làm, ham tiến bộ”, “nói phải làm”. Nói về tư cách người cách mệnh, trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Nguyễn ái Quốc đã nêu lên thái độ đối với bản thân, thái độ đối với người khác và thái độ đối với công việc. Người viết: Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vô tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật. Đối với người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể [37, tr.260]. 2.2.4. Định hướng phát triển trí tuệ con người Việt Nam Trí tuệ là một trong những đặc trưng nhất của con người, đó là tiêu chí con người tách khỏi thế giới động vật, con người được gọi là con người trí tuệ. Thời đại ngày nay được gọi là thời đại trí tuệ, quyền lực trí tuệ, kinh tế trí tuệ. Thuật ngữ “trí tuệ” và những thuật ngữ gần gũi với nó như “trí”, “trí khôn”, “trí thông minh”, “trí lực”, “trí năng”, v.v., là những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong khoa học, nhưng lại chưa được định nghĩa một cách rõ ràng và thống nhất. Từ thời xưa, “trí” theo Mạnh Tử, có mầm mống bẩm sinh là cái “Ta sẵn có vậy, nguồn gốc của Trí là lòng phải chăng”. Như vậy, “trí” không những là trí thông minh mà còn là tâm trí, là tấm lòng, biết cân nhắc, biết suy xét; theo tiếng Việt thì có nghĩa là vừa khôn vừa ngoan. Theo Tuân Tử thì “Cái biết trong người gọi là tri; tri mà hợp với cái gì ở bên ngoài gọi là trí”. Như vậy, nguồn gốc của trí tuệ là sự phù hợp giữa nội tâm và hiện thực bên ngoài, là lý trí thực hành, quan niệm này đang thịnh hành trong kinh tế tri thức. Các học giả hiện đại cũng đưa ra những định nghĩa khác nhau về “trí tuệ, trí thông minh”. Trong số những định nghĩa này có thể thấy 3 xu hướng chính sau đây: - Coi thông minh là năng lực học tập. - Coi thông minh là năng lực tư duy trừu tượng. - Coi thông minh là năng lực thích ứng, sáng tạo. Xu hướng định nghĩa trí thông minh thông qua hoạt động thích nghi, sáng tạo được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận nhất. Có sự khác biệt nhất định giữa thông minh lý thuyết và thông minh thực tiễn. Nhà trường chúng ta chưa quan tâm đầy đủ hoặc thiếu điều kiện để thực hiện “học đi đôi với hành”, kết quả phần lớn không dạy nhiều điều cần cho cuộc sống, rất nặng về các tri thức hàn lâm. Cần đặc biệt nhấn mạnh phát triển toàn diện là học phải đi đôi với hành, lý thuyết phải gắn liền với thực tiễn. Qua những định nghĩa đa dạng về trí tuệ có thể thấy là khó đưa ra một định nghĩa về mặt tu từ cho khái niệm “trí tuệ”, nhưng đều chứa đựng những nội dung sau đây: - Trí tuệ và các khái niệm tương đương như trí, trí thông minh … đều thuộc phạm trù năng lực tư duy, thuộc lĩnh vực nhận thức. - Trí tuệ là một năng lực chung của nhân cách được hình thành thông qua hành động có mục đích, và một khi đã hình thành nó là công cụ tâm lý để thực hiện các tương tác với môi trường xung quanh theo hướng thích nghi tích cực để đạt mục đích, gắn bó với các lĩnh vực khác của nhân cách. - Trí tuệ được phát triển trong một quá trình từ thấp lên cao. Mức độ tăng giá trị và tính mới mẻ của sự khái quát và của công cụ sử dụng, tính chủ động của hoạt động tư duy có thể coi là các tiêu chí về chất lượng, hiệu quả của trí tuệ. - Việc nghiên cứu trí tuệ phải lấy khái niệm hoạt động có đối tượng làm khái niệm then chốt, coi con người được làm chủ, làm chủ được và tự làm chủ là tư tưởng trung tâm, sử dụng phương pháp luận dựa vào hành động làm đơn vị của đời sống tâm lý con người, rất chú trọng đến sản phẩm và ngày nay còn nhấn mạnh đến tính hiệu quả. Như vậy, có thể coi trí tuệ, trí thông minh là sự hiểu biết của con người, là năng lực tư duy, tạo nên một trong các nguồn sức mạnh tinh thần gọi là trí lực được hình thành bằng hoạt động có mục đích, có tương tác với môi trường xung quanh, tác động vào đối tượng lao động, nhằm đạt kết quả, có chất lượng và hiệu quả, phục vụ mục đích hoạt động, đồng thời tạo sự tiến bộ trong năng lực và nhân cách con người. Theo GS. TS Phạm Minh Hạc, để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước người Việt Nam cần có và phát huy các phẩm chất trí tuệ sau: 1. Có năng lực tư duy sáng tạo. 2. Có năng lực tiếp thu nhanh và vận dụng linh hoạt. 3. Có năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề. 4. Có năng lực quản lý. 5. Có kiến thức rộng rãi và ý kiến sâu sắc trong nhiều lĩnh vực. Việc xác định các năng lực trí tuệ trên ở người Việt Nam sẽ góp phần tạo nên cơ sở để tìm ra nguyên nhân yếu kém và biện pháp khắc phục, từ đó vạch ra chiến lược giáo dục con người về mặt trí tuệ. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Phát triển trí tuệ xét về cả mặt cá nhân và xã hội là việc của cả một đời người, đòi hỏi cả một thời gian dài và một không gian rộng, đó là kết quả của giáo dục và tự giáo dục, không chỉ trong nhà trường mà còn ngoài nhà trường, không phải chỉ trong thời gian đi học mà còn ở cả những khoảng thời gian khác. Tuy nhiên, việc học tập ở nhà trường, đặc biệt ở trường phổ thông có một ý nghĩa to lớn, có liên quan mật thiết đến việc hình thành một nền tảng, chuẩn bị các năng lực quan trọng nhất cho sự phát triển trí tuệ. Từ đó, một trong những yếu tố cốt lõi của chiến lược phát triển trí tuệ là nghiên cứu và xây dựng nội dung, phương pháp trí dục trong nhà trường phổ thông. Đồng thời, phải nhấn mạnh tư tưởng của thời đại là học suốt đời, học thường xuyên trong lao động và cuộc sống hàng ngày để mỗi người luôn luôn tự hoàn thiện mình, cải tiến và nâng cao hiệu suất công việc của bản thân. 2.2.5. Định hướng phát triển thể chất con người Việt Nam Thể chất là chất lượng cơ thể con người có thể vận dụng và thực hiện một việc này hay một việc khác như học tập, lao động, thể thao … Như vậy, thể chất bao gồm các mặt thể hình, chức năng và khả năng thích ứng, vận dụng. - Thể hình là hình thái, cấu trúc cơ thể bao gồm trình độ phát triển những chỉ số tuyệt đối, về hình thái và tỉ lệ giữa chúng cũng như tư chất của cơ thể. - Chức năng là hoạt động của các cơ quan và hệ thống trong cơ thể ở trạng thái tĩnh hoặc dưới tác động của lượng vận động (trạng thái động) - Khả năng thích ứng và sáng tạo là năng lực (trình độ) phù hợp của cơ thể con người đối với hoàn cảnh bên ngoài, trong đó bao gồm cả sức đề kháng với bệnh tật cũng như năng lực thay đổi hoàn cảnh. Thể chất khi vận dụng vào một sự vận động cụ thể nào đó được gọi là thể lực. Thể lực bao gồm các tố chất gọi là tố chất thể lực. Tố chất thể lực là những đặc điểm nhân tố nằm trong cơ thể và tâm lý tạo nên thể lực của con người, bao gồm 5 loại cơ bản: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo và độ dẻo. Phát triển thể chất là một mặt trong sự phát triển của con người. Nghiên cứu sự phát triển thể chất chủ yếu xem xét dưới một số chỉ tiêu cơ bản về hình thái như chiều cao và cân nặng, về tố chất thể lực như sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo và mềm dẻo. Chăm lo sức khoẻ, nâng cao thể lực, từng bước nâng cao thể trạng, tầm vóc cho nhân dân là trách nhiệm của toàn Đảng toàn dân. Nó liên quan đến những biện pháp chung, gắn liền với những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước về kinh tế - xã hội, như thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, làm tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, chế độ bảo hiểm xã hội để bảo đảm ổn định tiến tới cải thiện đời sống cho những người về hưu, chăm sóc thương binh và gia đình liệt sĩ cũng như những người có công với đất nước và cách mạng, các chính sách bảo trợ trẻ mồ côi, lang thang, cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật; đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình và đẩy lùi các tệ nạn xã hội … Nhiệm vụ của chúng ta là nâng cao thể lực của toàn dân để nâng cao năng suất lao động và có cuộc sống vui tươi, hạnh phúc. Vì vậy, trước hết phải làm sao xây dựng được phong trào toàn dân rèn luyện sức khoẻ. Trên cơ sở đó tiến hành thúc đẩy công tác đào tạo, rèn luyện đạt thành tích cao trong thể thao, từ địa phương đến cả nước, khu vực và quốc tế. ở đây, phải đặc biệt nhấn mạnh vai trò của giáo dục thể chất trong nhà trường và nhà trường phải đặt đúng tầm quan trọng của giáo dục thể chất. Giáo dục thể chất trong nhà trường được thực hiện dưới ba phương thức: tập luyện theo chương trình nội khoá, rèn luyện thể dục thể thao ngoại khoá và tự luyện tập. Xây dựng phong trào thể dục thể thao sâu rộng đi đôi với rèn luyện mang tính chuyên nghiệp, kết hợp đại trà và mũi nhọn làm cơ sở cho thể thao thành tích cao. Giáo dục thể chất phải tiến hành toàn diện, vừa nâng cao thể chất vừa giáo dục vệ sinh phòng bệnh vừa có những chính sách xã hội phù hợp; xã hội hoá công tác giáo dục thể chất có một ý nghĩa riêng tạo ra phong trào quần chúng đi đôi với những chính sách của Nhà nước về nhiều mặt. 2.2.6. Định hướng phát triển thẩm mỹ đối với người Việt Nam Đây là một mặt quan trọng trong quá trình phát triển toàn diện con người. Trong sự phát triển chung của nhân cách con người, phát triển thẩm mỹ là một hình thức phát triển đặc thù. Nét đặc thù của phát triển thẩm mỹ là quá trình hình thành và phát triển khả năng cảm thụ thẩm mỹ tích cực, trí tưởng tượng sáng tạo, xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ, quan điểm và lý tưởng thẩm mỹ ở con người. Sự phát triển thẩm mỹ của nhân cách về bản chất chính là sự hình thành và phát triển quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực. Trong mối quan hệ tổng hoà với các mối quan hệ xã hội khác tạo nên “bản chất người”, sự hình thành và phát triển quan hệ thẩm mỹ làm nên diện mạo đặc thù của sự phát triển thẩm mỹ của con người. Nhìn chung, cảm thụ và thị hiếu thẩm mỹ của thanh thiếu niên hiện nay luôn gắn liền với các sản phẩm nghệ thuật có nội dung phong phú, tình cảm vui vẻ, gần gũi cuộc sống thực tại. Các tác phẩm cổ điển, truyền thống thường được xếp vào thứ bậc thấp hơn. Thanh thiếu niên thích cái mới, gắn với nhịp điệu và tốc độ (thích ca nhạc quốc tế, không thích tuồng, chèo vì một phần là do không hiểu, một phần là do kéo dài lê thê quá - theo ý kiến của đa số người); về cảm thụ, thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ là các giá trị thẩm mỹ - nghệ thuật, thẩm mỹ - đạo đức, đặc biệt các giá trị truyền thống của dân tộc vẫn được thanh thiếu niên đề cao và trân trọng. Đồng thời cũng phải nhận xét rằng trình độ thẩm mỹ nói chung, nghệ thuật nói riêng ở người Việt Nam còn thấp, kỹ năng lựa chọn, phân tích, đánh giá các tác phẩm nghệ thuật và các hiện tượng thẩm mỹ còn yếu, đặc biệt là năng lực cảm thụ “ngôn ngữ” nghệ thuật. Điều đó thể hiện ở quá trình nhận biết và phân tích giá trị thẩm mỹ chủ yếu ở mức độ cảm tính. Sở dĩ có tình trạng như vậy, một phần đáng kể là do điều kiện để tổ chức giáo dục thẩm mỹ còn gặp khó khăn lớn: thiếu cơ sở vật chất, thiếu cán bộ chuyên trách (giáo viên nghệ thuật, cán bộ văn hoá …); thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các thiết chế văn hoá. Do đó, không thể không thừa nhận rằng thanh thiếu niên hiện nay tiếp nhận các giá trị thẩm mỹ nghệ thuật phần lớn thông qua các hoạt động ngoài nhà trường một cách tự phát, tuỳ hứng. Mâu thuẫn chủ yếu trong hoạt động giáo dục thẩm mỹ cho thế hệ trẻ hiện nay là: mâu thuẫn giữa nhu cầu sinh hoạt văn hoá, vui chơi lành mạnh, với sự tổ chức hoạt động văn hoá - nghệ thuật và vui chơi giải trí còn nghèo nàn, yếu kém cả về nội dung lẫn hình thức, không tạo được những “sân chơi” thực sự bổ ích, phù hợp với nhu cầu của thanh thiếu niên. Cùng với gia đình và nhà trường, các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh truyền hình, xuất bản …), hệ thống nhà hát, rạp chiếu bóng, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện, các tụ điểm vui chơi giải trí … với điều kiện vật chất và kỹ thuật nhất định, luôn có khả năng và trọng trách to lớn trong việc nâng cao văn hoá thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống các cơ quan văn hoá - giáo dục ngoài việc cung cấp tri thức, định hướng thẩm mỹ còn phải là nơi góp phần chủ yếu tạo ra cho tất cả mọi người đặc biệt là thanh thiếu niên môi trường văn hoá, tạo ra các hoạt động và các mẫu ứng xử văn minh, phát triển thuần phong mỹ tục của người Việt nam. 2.3. Phương hướng, giải pháp đổi mới nền giáo dục đào tạo con người về đức, trí, thể, mỹ ở Việt Nam Giáo dục là quá trình đào tạo, rèn luyện con người trở thành người lao động, thành các công dân đủ năng lực làm chủ - những con người Việt Nam phát triển đức, trí, thể, mỹ thông qua việc dạy và học. Tiết này đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới nền giáo dục đào tạo cho phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá đất nước. Phương hướng 1: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá”. Giải pháp 1.1: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia cho giáo dục. Hệ thống chuẩn quốc gia cho giáo dục bao gồm: chuẩn kiến thức, kỹ năng đối với từng cấp học, bậc học, trình độ đào tạo và chuẩn các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục (đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý và công nhân viên; sách giáo khoa, giáo trình và tài liệu tham khảo; trường sở, thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện, sân chơi, bãi tập); các yêu cầu cơ bản về đạo đức, tác phong và trách nhiệm của người học trước gia đình và xã hội. Hệ thống chuẩn là căn cứ để chỉ đạo thực hiện và đánh giá giáo dục. Giải pháp 1.2: Xây dựng danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Chương trình phát triển nhân lực quốc gia xác định nhu cầu nhân lực đối với các cấp, trình độ của các ngành nghề chủ yếu là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực. Chương trình nhân lực quốc gia và danh mục ngành nghề góp phần định hướng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, hiệu quả cho hệ thống giáo dục cũng như cho từng trường đại học, cao đẳng và dạy nghề; đồng thời giúp cho người học và các bậc cha mẹ học sinh sớm định hướng nghề nghiệp ngay từ trong nhà trường phổ thông và xác định mục tiêu phấn đấu để học sinh, sinh viên được qua một khoá huấn luyện, có một chứng chỉ nghề thích hợp trước khi ra trường. Giải pháp 1. 3: Tiếp tục đổi mới chương trình giáo dục. Đới với giáo dục phổ thông, tiếp tục thực hiện kế hoạch triển khai chương trình, sách giáo khao mới theo Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội. Trên cơ sở nghiêm túc đánh giá kết quả triển khai trong mấy năm qua, tiếp thu ý kiến đóng góp của xã hội, tổ chức rà soát chỉnh lý nhằm khắc phục các sai sót, giảm hợp lý nội dung chương trình ở tiểu học và trung học cơ sở phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh. Triển khai phân ban trong trường trung học phổ thông tiếp tục hoàn thiện phương án phân hoá mềm dẻo, linh hoạt, khả thi với bước đi thích hợp. Đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phát huy ưu điểm của các chương trình đào tạo hiện có, tiếp nhận có chọn lọc những chương trình tiên tiến trên thế giới để xây dựng một hệ thống chương trình đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt, liên thông giữa các trình độ đào tạo. Chú trọng định hướng thực hành bao gồm các chương trình dạy nghề sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đào tạo kỹ sư thực hành và cử nhân khoa học ứng dụng. Giải pháp 1.4: Tập trung đổi mới phương pháp dạy và học Tiếp tục triển khai Đề án dạy tin học và ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường. Giảm bớt giờ lên lớp, tăng thời gian tự học và thảo luận chuyên đề, nhất là ở bậc đại học. Tạo chuyển biến cơ bản về phương pháp giảng dạy các môn chính trị trong nhà trường, gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp học tập nội khoá với các chương trình sinh hoạt ngoại khoá và các hoạt động giáo dục truyền thống. Chỉ đạo đẩy nhanh việc triển khai học tín chỉ ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề Giải pháp 1.5: Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Đổi mới công tác đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục ở các trường sư phạm. Mở rộng phương thức đào tạo giáo viên bằng cách tổ chức khoá đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho các sinh viên tốt nghiệp đại học ở các chuyên ngành khác có nguyện vọng làm công tác giảng dạy. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên với nội dung chủ yếu là đổi mới phương pháp dạy học, làm cho mọi giáo viên đều quán triệt yêu cầu coi trọng vai trò chủ động của người học, phát huy năng lực sáng tạo trong cách tiếp thu và vận dụng tri thức vào cuộc sống; phát triển ở người học năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự đánh giá và có khả năng lập nghiệp khi ra trường. Triển khai thực hiện Chương trình quốc gia về giáo viên nhằm giải quyết tình trạng thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ, không đồng bộ về cơ cấu. Từng bước xoá bỏ sự cách biệt không cần thiết giữa giáo viên trong biên chế với giáo viên ngoài biên chế, giữa giáo viên các trường công lập với giáo viên các trường ngoài công lập, tiến tới mọi giáo viên có các quyền lợi và trách nhiệm như nhau. Giải pháp 1.6: Tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hoá trường, lớp học. Nâng cao hiệu quả sử dụng, tăng cường kiểm tra, giám định, bảo đảm chất lượng công trình. Kiên quyết xoá bỏ tình trạng học ba ca. Chuẩn bị đủ điều kiện để hầu hết học sinh tiểu học và khoảng 40% học sinh trung học cơ sở được học hai buổi/ngày tại trường. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghê. Ưu tiên xây dựng và củng cố phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, thư viện điện tử, nối mạng máy tính. Giải pháp 1.7: Triển khai hệ thống kiểm định chất lượng. Thực hiện công bố định kỳ kết quả kiểm định chất lượng. Từng bước sử dụng các tiêu chí đánh giá của các nước phát triển đối với một số lĩnh vực cụ thể; chuẩn bị để sớm đủ điều kiện tham gia vào hệ thống kiểm định chất lượng quốc tế. Phương hướng 2: Đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, xã hội hoá giáo dục, xây dựng xã hội học tập. Giải pháp 2.1: Tiếp tục mở rộng quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp Duy trì tốc độ tăng quy mô tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng hàng năm để đến năm 2010 đạt mức 200 sinh viên/10.000 dân. Phát triển hệ thống các trường cao đẳng cộng đồng và xây dựng mô hình đại học ngắn hạn, tạo cơ hội cho nhiều người học đại học, cao đẳng. Huy động các nguồn đầu tư để mở mang, xây dựng các trường nghề, mỗi huyện hoặc cụm liên huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề, bảo đảm nhu cầu phân luồng, học nghề của nhân dân Giải pháp 2.2: Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng liên thông Theo hướng này sẽ mở ra nhiều khả năng và cơ hội học tập khác nhau cho thế hệ trẻ lựa chọn, đặc biệt là phát triển hệ thống dạy nghề, chú trọng dạy nghề trình độ cao. Soạn thảo các chương trình đào tạo đảm bảo sự liên thông giữa các bậc học, tạo điều kiện cho người lao động có thể học xong chương trình đại học trong cuộc đời lao động của mình mà không nhất thiết phải thi vào đại học ngay sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông. Giải pháp 2.3: Tạo điều kiện để duy trì, củng cố và phát triển các trường ngoài công lập. Bảo đảm để các trường ngoài công lập bình đẳng với các trường quốc lập trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục và các quy định liên quan đến tuyển sinh, dạy và học, thi và kiểm tra, công nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng và tuyển dụng, bố trí công việc. Giảm thủ tục và quy định rõ điều kiện thành lập mới các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề ngoài công lập; có chính sách cho vay vốn ưu đãi, cấp đất hoặc cho thuê đất dài hạn để xây dựng trường, được cấp kinh phí khi thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao. Giải pháp 2.4: Xây dựng và ban hành chính sách học phí hợp lý Trên cơ sở đổi mới quan niệm về học phí: Ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước nhằm thực hiện chính sách xã hội và các mục tiêu ưu tiên, về nguyên tắc, học phải được tính đủ chi phí cần thiết cho quá trình đào tạo. Giải pháp 2.5: Tiếp tục triển khai Đề án xây dựng xã hội học tập. Lấy Hội khuyến học và các đoàn thể làm nòng cốt để thực hiện đề án này. Tổng kết, rút kinh nghiệm việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng để tiếp tục phát triển có hiệu quả. Củng cố, tăng cường phát triển hệ thống giáo dục cho người lớn. Xây dựng kênh giáo dục truyền hình và các nội dung giáo dục trên mạng để phát triển giáo dục từ xa. Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để huy động mọi lực lượng xã hội, trước hết là cha mẹ học sinh xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, ngăn chặn và chống các tệ nạn, tiêu cực xã hội thâm nhập vào nhà trường. Phương hướng 3: Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn và giáo dục đối với trẻ em bị thiệt thòi. Giải pháp 3.1: Tiếp tục điều chỉnh định hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước Tập trung đầu tư cho giáo dục phổ cập, phát triển giáo dục vùng khó khăn, các chương trình trọng điểm, chương trình nhân lực quốc gia, học bổng cho người nghèo và diện chính sách. Phân công các vùng có điều kiện phát triển kinh tế – xã hội hỗ trợ phát triển giáo dục ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phối hợp các dự án phát triển giáo dục giành cho địa bàn kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn với việc thực hiện Chương trình xoá đói giảm nghèo Giải pháp 3.2: Củng cố hoàn thiện mạng lưới trường, lớp ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tạo điều kiện để hầu hết trẻ em năm tuổi con em đồng bào dân tộc thiểu số được học mẫu giáo nhằm chuẩn bị về tiếng Việt trước khi vào học lớp một. Mở rộng mô hình trường phổ thông, dạy nghề dân tộc nội trú. Tăng học bổng và thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng chỉ tiêu dự bị đại học và kéo dài thời gian học dự bị đối với con em các dân tộc đặc biệt khó khăn, điều chỉnh các quy định cử tuyển, trước hết về đối tượng để bảo đảm chất lượng và thực hiện đúng mục tiêu. Giải pháp 3.3: Mở rộng hình thức tín dụng học tập Hình thức này sẽ tạo điều kiện cho con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) được tiếp cận các cơ hội giáo dục, nhất là các bậc học cao. Phương hướng 4: Đẩy lùi những tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục Giải pháp 4.1: Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức và quản lý dạy thêm, học thêm. Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức và quản lý dạy thêm, học thêm để thống nhất thực hiện trong cả nước. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra nhà trường và giáo viên thực hiện những quy định này. Giải pháp 4.2: Tăng cường cơ sở vật chất, chuyển dân các trường có điều kiện sang học hai buổi/ ngày (trước hết đối với tiểu học) Giải pháp 4.3: Cải tiến khâu kiểm tra, thi cử, tuyển sinh theo hướng bám sát chương trình, sách giáo khoa. Cải tiến khâu kiểm tra, thi cử, tuyển sinh theo hướng bám sát chương trình, sách giáo khoa; giảm bớt số kỳ thi, đơn giản hoá hình thức thi, áp dụng rộng rãi hình thức thi trắc nghiệm. Giải pháp 4.4: Tăng cường công tác giáo dục chính trị cho đội ngũ giáo viên; nghiên cứu giải quyết chế độ, chính sách đối với giáo viên đồng thời xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm các quy định về dạy thêm, học thêm. Giải pháp 4.5: Kiên quyết xử lý nghiêm minh các vi phạm quy chế quản lý, cấp phát, sử dụng văn bằng chứng chỉ và vi phạm quy chế thi, kiểm tra trong cơ sở giáo dục. Phương hướng 5: Nâng cao khả năng chủ động hội nhập quốc tế . Giải pháp 5.1: áp dụng có chọn lọc các chương trình, giáo trình tiên tiến của các nước phát triển. áp dụng có chọn lọc các chương trình, giáo trình tiên tiến của các nước phát triển về các môn toán, khoa học tự nhiên, công nghệ, ngoại ngữ vào giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm phù hợp với các mục tiêu, yêu cầu và thực tiễn giáo dục ở nước ta; đồng thời xây dựng các chương trình đào tạo có khả năng chuyển đổi với các cơ sở giáo dục nước ngoài. Giải pháp 5.2: Triển khai chiến lược dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân Tập trung chủ yếu vào tiếng Anh, khuyến khích học ngoại ngữ thứ hai. Cho phép một số cơ sở giáo dục đại học và sau đại học giảng dạy bằng tiếng nước ngoài ở một số môn học, ngành học. Giải pháp 5.3: Cho phép hợp tác với các trường có uy tín ở nước ngoài. Cho phép các trường đại học, cao đẳng hợp tác với các trường có uy tín ở nước ngoài thực hiện chương trình liên kết đào tạo theo mô hình những năm đầu đào tạo trong nước, những năm còn lại đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt là trong các chương trình đạo tạo sau đại học. Giải pháp 5.4: Tập trung kinh phí của Nhà nước và huy động lực lượng giảng viên trình độ cao để xây dựng trường đại học có trình độ quốc tế. Phương hướng 6: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục. Giải pháp 6.1: Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục: xây dựng các văn bản luật về các lĩnh vực giáo dục. Xúc tiến triển khai xây dựng Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2010-2020. Tập trung xây dựng các đạo luật như: Luật giáo viên, Luật giáo dục đại học, Luật giáo dục nghề nghiệp… trình Quốc hội thông qua. Giải pháp 6.2: Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phối hợp hoạt động giữa địa phương và trung ương trong việc thực hiện các chủ trương về giáo dục. Giải pháp 6.3: Tiếp tục thực hiện nghị định 166/2004/NĐ-CP của Chính phủ “Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục” Thực hiện phân cấp mạnh cho cơ sở và chịu trách nhiệm trong cụ thể hoá các chính sách giáo dục, huy động nguồn lực, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, đảm bảo phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục tại cơ sở. Giải pháp 6.4: Tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục về sản phẩm đào tạo, tài chính, nhân lực, tuyển sinh. Các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp được phép quyết định nội dung và xây dựng chương trình đào tạo trên cơ sở chuẩn thống nhất về kiến thức, kỹ năng và quy định về chương trình khung. Giải pháp 6.5: Rà soát, bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trên cơ sở Quyết định 09/2005/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ Giải pháp 6.6: Lấy việc quản lý chất lượng làm trọng tâm. Trong quá trình đổi mới quản lý giáo dục lấy việc quản lý chất lượng làm trọng tâm. Quản lý chặt chẽ quá trình học tập, đánh giá “đầu ra” bằng cách tăng cường kiểm soát chất lượng trong suốt quá trình đào tạo. Tập trung xây dựng các điều kiện đảm bảo chất lượng và kiên quyết chấn chỉnh sự yếu kém về chất lượng giáo dục. Những phương hướng và các giải pháp nêu trên có quan hệ mật thiết và gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau, do đó phải triển khai thực hiện đồng thời. Để có thể thực hiện có kết quả các phương hướng nêu ra, yêu cầu phải nỗ lực thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp. Kết luận Trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức thi đua tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể mỹ của con người Việt Nam có giá trị to lớn đối với phát huy nhân tố con người của Đảng ta hiện nay và đây là tư tưởng có nội dung rất sâu sắc, thể hiện ở tầm cao chủ nghĩa nhân văn, mang đậm tính nhân đạo và đầy giá trị nhân bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hoá của nhân loại” [21, tr.3]. Suốt cuộc đời đi tìm đường cứu nước cho đến khi đi vào cõi vĩnh hằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công việc đối với con người là mục tiêu quan trọng, lớn lao và cao cả của cuộc đời mình. Ngay từ khi tìm đường cứu nước, Người cho rằng mỗi xã hội đều có các công việc đối với con người. Đó là công việc tạo ra một kiểu người cho xã hội đó. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các xã hội có những kiểu người đại diện cho nó. Còn xã hội mới phải có kiểu người cách mạng, đó là con người mới xã hội chủ nghĩa. Bằng thiên tài trí tuệ và lòng yêu thương, kính trọng con người, tin tưởng vào khả năng và sức mạnh vô tận của quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quyết định của nhân dân, của con người đối với sự phát triển của lịch sử. Theo Hồ Chí Minh đó phải là những con người được trang bị thế giới quan khoa học, có lý tưởng cách mạng vững vàng, có tri thức toàn diện, đạo đức trong sáng, sức khoẻ dồi dào, năng lực sáng tạo cao và có khả năng thích ứng tốt. Hồ Chí Minh cho rằng, xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì tính tự giác, chủ động trong việc đào tạo, phát triển con người càng phải cao, nguồn lực mà xã hội dành cho vấn đề này càng phải lớn, nội dung đào tạo và phát triển con người càng sâu sắc và toàn diện. Vì vậy, con người phát triển cao về mọi mặt phải là mục tiêu xuyên suốt của chiến lược con người ở Việt Nam trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Từ cơ sở nhận thức trên, luận văn đã tìm hiểu và phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về con người Việt Nam phát triển trên các mặt đức, trí, trẻ, mỹ qua một số khái niệm cơ bản. Từ đó, làm rõ những cống hiến của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong sự nghiệp phát triển đức, trí, thể, mỹ của người Việt Nam. Trên cơ sở đó tiếp tục vận dụng tư tưởng này để xây dựng con người Việt Nam phát triển đức, trí, thể, mỹ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam phát triển các mặt đức, trí, thể, mỹ, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến hành cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xây nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm giải quyết một bước các công việc của con người, vì con người, vì sự phồn vinh của xã hội, hạnh phúc của mỗi cá nhân con người. ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt Nam nói riêng đang tiếp tục soi sáng các mục tiêu, những bước đường cách mạng của nhân dân, dân tộc ta tới bến bờ vinh quang, hạnh phúc; xây dựng và phát triển con người Việt Nam xứng đáng là thế hệ những người có lý tưởng, có bản lĩnh, khả năng sáng tạo, từng bước làm chủ xã hội và làm chủ bản thân; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Ngọc Anh (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và vận dụng tư tưởng đó trong điều kiện nước ta hiện nay, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. 2. Bộ Giáo dục và đào tạo (2005), Giỏo trỡnh tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Nguyễn Hữu Công (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 4. Nguyễn Trọng Chuẩn (2005), “Để phát triển con người một cách bền vững”, Tạp chí Triết học, (1), tr.5-8. 5. Thành Duy (2000), “Hồ Chí Minh với việc phát huy sức mạnh của văn hoá trong đấu tranh giữ nước, giải phóng dân tộc”, Tạp chí Triết học, (5), tr.31-34. 6. Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Thành Duy (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xó hội đối với con người”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr.24-30. 8. Lê Văn Dương (1995), “Một số nét cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người”, Tạp chớ Nghiờn cứu lý luận, (3). 9. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 2, khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tâp, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 5, khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Phạm Văn Đức (1999), “Một số giải pháp nhằm khai thác và sử dụng nguồn lực con người”,Tạp chí Triết học, (6). 20. Nguyễn Tĩnh Gia (2000), Tư tưởng Triết học về con người trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, chương V cuốn "Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh”, Nxb Lao động, Hà Nội. 21. Võ Nguyên Giáp (1991), “Thế giới sẽ đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi”, Tạp chí Triết học, (1). 22. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế xó hội, Nxb Khoa học xó hội, Hà Nội. 23. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Phạm Thành Nghị, Trịnh Thị kim Ngọc, (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh - phương pháp nghiên cứu con người, Nxb Khoa học xó hội, Hà Nội. 24. Phạm Minh Hạc – Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), (2003), Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Phùng Thu Hiền (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con người trong CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 26. Hiến pháp Việt Nam 1946, 1959, 1980 và 1992 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Lê Quang Hoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát huy nhân tố con người trong CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 28. Lê Quanh Hoan (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Nguyễn Huy Hoan (1999), “Bản di chúc lịch sử với vấn đề con người”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10). 30. Lê Quang Hoan (1999), “Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách xó hội theo di chỳc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10). 31. Lê Thị Hương (2007), “Về một số phẩm chất cơ bản cần có và định hướng phát huy nhân tố con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nghiên cứu Chính trị và truyền thông, Báo chí và tuyên truyền, (5). 32. Đặng Xuân Kỳ (2002), “Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người”, Tạp chí Triết học, (10). 33. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. C. Mác - Ph.Ăngnghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. C. Mác - Ph.Ăngnghen (2000), Toàn tập, tập 46, phần 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Hồ Chí Minh (1993), Biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Hồ Chí Minh (1993), Biên niên tiểu sử, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Hồ Chí Minh (1994), Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 53. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54. Hồ Chí Minh (1996), Biên niên tiểu sử, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Hồ Chí Minh (1996), Biên niên tiểu sử, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 56. Hồ Chí Minh (1996), Biên niên tiểu sử, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Hồ Chí Minh (1996), Biên niên tiểu sử, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 59. Hồ Chí Minh (1981), Văn hoá, nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 61. Đỗ Nguyên Phương (1998), Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển ở Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội. 62. Nguyễn Quán (1995), Chỉ tiêu và chỉ số phát triển người, Báo cáo của UNDP, Nxb Thống kê, Hà Nội. 63. Nguyễn Văn Tài (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người”, Tạp chí Triết học, (2). 64. Nguyễn Văn Tuyên, (2006), Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. 65. Trần Thành - Lê Quang Hoan (2000), “Hồ Chí Minh với vấn đề nhân tố con người trong sự nghiệp CNH, HĐH”, Tạp chí Nghiờn cứu lý luận, (1). 66. Lê Sỹ Thắng (1995), “Mấy vấn đề về “trồng người” trong Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học, (2). 67. Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục - Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực (2002), Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Mở đầu 1 Chương 1: tư tưởng của Hồ Chí Minh về người việt nam phát triển các mặt đức, trí, thể, mỹ 9 1.1. Một số khái niệm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt Nam phát triển đức, trí, thể, mỹ 9 1.2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt Nam phát triển các mặt đức, trí, thể, mỹ 18 Chương 2: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản trong sự nghiệp phát triển đức, trí, thể, mỹ của người Việt Nam 57 2.1. Những cống hiến của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản trong thực tiễn xây dựng con người Việt Nam mới 57 2.2. Tiếp tục sự nghiệp của Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam phát triển đức, trí, thể, mỹ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 70 2.3. Phương hướng, giải pháp đổi mới nền giáo dục đào tạo con người về đức, trí, thể, mỹ ở Việt Nam 86 Kết luận 95 Danh mục tài liệu tham khảo 97

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf75_7218.pdf
Luận văn liên quan