Là nguồn dự trữ đáng kể để bổ sung và làm tăng nhanh lực lượng lao động trí óc,
nguồn lực trí tuệ, SV luôn chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển con người
của Đảng và Nhà nước ta. Kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của các thế hệ
đi trước, đại bộ phận SV Thành phố Hồ Chí Minh tin tưởng vào đường lối và sự lãnh
đạo của Đảng, sống có ước mơ, có hoài bão, chấp nhận dấn thân, tình nguyện vì cộng
đồng. Số đông SV đã biết gắn tiền đồ bản thân với tiền đồ dân tộc, thi đua rèn đức,
luyện tài vì ngày mai lập thân, lập nghiệp. Khắc phục mọi trở ngại, thiếu thốn SV ra sức
học tập, tích cực nghiên cứu khoa học, không ngừng trau dồi đạo đức tác phong, giữ gìn
nhân cách. Thực hiện lối sống đẹp, đông đảo SV hăng hái tham gia các hoạt động tình
nguyện vì Tổ quốc vì cộng đồng. Các tấm gương tiêu biểu xuất sắc trong học tập và rèn
luyện xuất hiện ngày càng nhiều.
110 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4574 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và v ận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh
ngành giáo dục vì quá tập trung việc “dạy chữ” mà lơi lỏng việc “dạy người”. Người nói:
“Tôi xem chương trình giáo dục cho đến hết lớp 10, phần đức dục rất thiếu sót, chỉ có mười
dòng” [78, tr.105]. Trong nỗ lực tìm kiếm giải pháp để khắc phục hạn chế trên, Hồ Chí Minh
đề xuất ý kiến: “Đạo đức học phải là một ngành khoa học xã hội và những người có trách
nhiệm phải đi sâu nghiên cứu chuyên cần hơn nữa, phải trở thành một môn học không thể
thiếu được trong trường đại học và phổ thông” [36, tr.121].
Để đào tạo học sinh, SV thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng”
vừa “chuyên” đòi hỏi những người làm công tác giáo dục mà trước hết là Bộ Giáo dục
và đào tạo cần nhận thức lại các quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải
thấy rõ ý nghĩa cực kỳ quan trọng của công tác giáo dục đạo đức trong hệ thống nhà
trường các cấp. Bộ Giáo dục và đào tạo cần nhanh chóng ban hành văn bản chỉ đạo các
trường đại học và cao đẳng nghiêm túc thực hiện quyết định số 1226/GD-ĐT (6/4/1995)
đưa đạo đức học trở thành môn học bắt buộc trong chương trình giảng dạy chứ không
phải là môn học tự chọn như hiện nay. Đồng thời cần phải tăng thời lượng từ 30 lên 60
tiết đối với môn đạo đức. Tăng cường mở các lớp tập huấn giành riêng cho đội ngũ
giảng viên làm công tác giảng dạy môn này. Tổ chức biên soạn lại giáo trình đạo đức
học để thống nhất nội dung chương trình trên cả nước, thường xuyên nghiên cứu tọa
đàm, hội thảo, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm … công tác giáo dục đạo đức, lối sống
cho SV.
- Thứ ba, cần hiểu rõ giáo dục đạo đức, lối sống là một quá trình lâu dài, phải bền
bỉ, kiên trì và nhẫn nại.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng, lối sống mới không phải từ trên trời sa xuống
mà được hình thành thông qua con đường giáo dục và tự giáo dục, tự rèn luyện của mỗi
người. Thực chất của việc giáo dục đạo đức, lối sống là làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Đó là một quá trình lâu dài có
lắm khó khăn, phức tạp bởi vì cái tốt giống như lúa phải vun trồng, chăm sóc rất khó nhọc
thì mới tốt tươi được. Còn cái xấu ví như cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù.
Chính vì thế, việc giáo dục đạo đức, lối sống cần phải được tiến hành thường xuyên, liên
tục, không được xem nhẹ hoặc xao nhãng.
Giáo dục hình thành đạo đức, lối sống mới cho SV Thành phố đòi hỏi các lực lượng
tham gia giáo dục phải nhận thức rõ điều này. Phải tận tâm, tận lực, kiên trì, bền bỉ, không
ngừng tìm tòi các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục.
- Thứ tư, phát huy ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện của sinh viên.
Trong lĩnh vực giáo dục đạo đức, các giải pháp của gia đình, nhà trường và xã hội
dẫu có làm thật tốt cũng không thể thay thế yếu tố tự giáo dục, rèn luyện của bản thân SV.
Do đó, cùng với giáo dục thì cần phải biết khích lệ, phát huy ý thức tự giáo dục, tự tu
dưỡng, rèn luyện của SV. Tự giáo dục, rèn luyện đạo đức là quá trình mà trong đó SV tự
hoàn thiện, tự biến đổi, tự thích nghi với môi trường và điều kiện sống, là khả năng biết tự
kiềm chế, tự khuôn mình vào những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội để vươn tới
mẫu nhân cách mà xã hội đặt ra. Muốn tự giáo dục thành công, SV phải có ý thức tự giác
cao, phải luôn biết lục vấn lương tâm, có ý chí, nghị lực phấn đấu vươn lên, phải biết xấu
hổ và kiên quyết đấu tranh với những thói hư, tật xấu của bản thân; phải biết biến những
tri thức đạo đức đã tiếp thu được từ gia đình, nhà trường, xã hội thành sự hiểu biết của
bản thân, thành tình cảm, niềm tin đạo đức và được thể hiện ở hành vi đạo đức của chính
mình. Đối với SV, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống được đặt trong 3 mối quan
hệ chủ yếu là: đối với mình, đối với người, đối với việc. SV cần rèn luyện thái độ nghiêm
khắc với chính bản thân, chống tự kiêu, tự mãn. Vì tự kiêu, tự mãn sẽ không nhận thấy cái
hay ở người để học và cái dỡ, cái hạn chế ở bản thân để khắc phục. Bên cạnh đó SV cũng
cần rèn luyện đức tự tin để có nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Trong quan hệ với mọi
người, SV cần có thái độ, hành vi ứng xử đúng mực, khiêm nhường. Phải có lòng nhân ái,
đức bao dung, vị tha, biết quan tâm và giúp đỡ người khác. Bỏ thói đố kỵ, thói xem khinh
người khác cũng như thái độ thờ ơ, bàng quan trước nỗi đau, sự bất hạnh của con người.
Ngoài ra, SV còn phải rèn luyện tính kiên trì, nhẫn nại, trung thực học tập; say mê, sáng
tạo trong nghiên cứu khoa học; không ngừng trau dồi đạo đức, tác phong, thực hành lối
sống văn minh, tiến bộ. Để việc tu dưỡng, rèn luyện của SV có kết quả, ngoài nỗ lực của
bản thân SV thì cần có sự quan tâm, định hướng giáo dục và hỗ trợ kịp thời từ phía gia
đình, nhà trường và xã hội.
2.3.2. Nhóm giải pháp hoạt động thực tiễn
- Một là, tăng cường và phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong
việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên.
Theo chúng tôi, nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV
Thành phố hiện nay, trước hết phải bắt đầu từ việc làm tốt công tác giáo dục ở gia đình,
nhà trường và xã hội. Mặt khác, cần phải có sự tăng cường phối hợp giữa ba môi trường
giáo dục trên nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp tác động tích cực đến quá trình học tập,
rèn luyện của SV.
Khi nói đến sự cần thiết phải có sự phối chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã
hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Trẻ em trong như tấm gương, cái tốt dễ tiếp thu, cái xấu cũng dễ tiếp
thu. Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có những ảnh
hưởng không tốt đối với trẻ em và kết quả cũng không tốt. Cho nên muốn
giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình, xã hội đều
phải kết hợp chặt chẽ với nhau [53, tr.330].
Mỗi một môi trường đều có thế mạnh và thuận lợi riêng. Thế nhưng những ưu thế
đó chỉ được phát huy triệt để khi được kết hợp với nhau nhằm bổ sung và hỗ trợ cho
nhau.
Gia đình là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người. Gia đình còn là môi trường
giáo dục đầu tiên và rất quan trọng đối với việc hình thành nhân cách, lối sống có văn
hóa cho con người. Giáo dục của gia đình có thế mạnh là có sự hiểu biết, tình thương
yêu và trách nhiệm giữa những người thân với nhau. Điều này tạo nên sức mạnh cảm
hóa to lớn mà nhà trường và xã hội không thể có được. Trong giai đoạn hiện nay, muốn
phát huy vai trò của giáo dục gia đình trước hết cần phải quan tâm xây dựng văn hóa gia
đình. Trong gia đình, các thành viên cần ý thức đầy đủ trách nhiệm và bổn phận của
mình, luôn quan tâm, giúp đỡ, an ủi, động viên nhau vươn lên trong cuộc cuộc sống.
Thực tế đã chỉ ra rằng, gia đình no ấm, hòa thuận, hạnh phúc là môi trường tốt nhất cho
quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con cái. Trách nhiệm của ông bà, cha
mẹ không chỉ là nuôi dưỡng mà còn giáo dục con cái nên người. Để công tác giáo dục
có hiệu quả các bậc phụ huynh cần được trang bị những kiến thức về giáo dục, phải có
phương pháp giáo dục phù hợp, tránh đánh đập, dùng hình phạt cũng như nuông chiều
con cái. Phải có thái độ nghiêm khắc nhưng cũng cần tôn trọng nhân cách của con cái.
Cha mẹ phải gần gũi, thường xuyên quan tâm tìm hiểu tâm tư, tình cảm của con em để
trên cơ sở đó có những biện pháp giáo dục đúng đắn, kịp thời uốn nắn những lệch lạc
trong nhận thức và hành động của con em mình. Các bậc phụ huynh phải coi sự tiến bộ
trưởng thành của con cái là niềm hạnh phúc lớn nhất của mình, chứ không phải là sự
giàu sang về vật chất.
Đối với SV, những người thường xuyên sống xa nhà thì phụ huynh càng phải quan
tâm và đẩy mạnh việc giáo dục, không được có tư tưởng ỷ lại hay giao phó việc giáo
dục cho phía nhà trường. Trong điều kiện hiện nay, với sự phát triển của hệ thống thông
tin liên lạc thì các bậc phụ huynh hoàn toàn có thể định hướng giáo dục đối với con em
mình. Bên cạnh đó, gia đình phải thường xuyên liên lạc với nhà trường vừa để nắm bắt
tình hình học tập, sinh hoạt của SV vừa là tìm hiểu nội dung, hình thức giáo dục của nhà
trường. Từ đó mà có những phối hợp “ăn ý” với nhà trường trong công tác giáo dục đạo
đức, lối sống cho SV.
Với tư cách là một tổ chức chuyên nghiệp được giao trọng trách đào tạo và giáo
dục SV theo “một kế hoạch chương trình định sẵn, với một nội dung khoa học đã được
chọn lọc kỹ càng, cùng với những trang thiết bị kỹ thuật đặc thù phục vụ cho công tác
giáo dục đào tạo do các nhà sư phạm đảm nhiệm” [32, tr.57], nhà trường giữ một vị trí
chủ đạo trong việc bồi dưỡng năng lực, xây dựng phẩm chất đạo đức cho SV. Trong
thời gian tới, công tác giáo dục của nhà trường cần thiết tập trung vào những vấn đề chủ
yếu sau:
+ Thiết lập lại kỷ luật, kỷ cương trong nhà trường mà bắt đầu từ việc xây dựng nền
nếp trong học tập, sinh hoạt của SV. Cần khắc phục hiện tượng đi muộn về sớm, bỏ học,
bỏ tiết của SV bằng việc buộc họ phải thực hiện nghiêm túc nội quy, quy chế; phải học
lại các môn đã vắng trên 20% số tiết theo quy định; kiên quyết xử lý các hiện tượng vi
phạm quy chế thi cử. Phòng công tác chính trị, Ban quản lý ký túc xá cần tăng cường
kiểm tra, giám sát để kịp thời nhắc nhở hoặc xử lý các sai phạm của SV nội trú như:
không giữ gìn vệ sinh, tụ tập gây mất trật tự, rượu chè, cờ bạc … Nhà trường cần phối
hợp chặt chẽ với công an, chính quyền địa phương để quản lý tình hình học tập, sinh
hoạt của SV ngoại trú. Trong việc đánh giá kết quả rèn luyện của SV ngoại trú, nhà
trường cần dựa trên nhận xét, đánh giá của chính quyền địa phương. Đây là cách làm có
hiệu quả của trường Đại học Sư phạm kỹ thuật trong thời gian qua.
+ Xây dựng website của trường, thường xuyên cập nhật các thông tin về những
hoạt động của trường cũng như kết quả học tập rèn luyện của SV để phụ huynh kịp thời
nắm rõ tình hình học tập, sinh hoạt của con em. Cần mở một số hộp thư điện tử để thu
nhận những đóng góp ý kiến của SV, phụ huynh về công tác giáo dục của trường, từ đó
có những điều chỉnh cho phù hợp.
+ Cần chú trọng cả việc “dạy chữ” lẫn “dạy người”. Nhiệm vụ của nhà trường
không chỉ dạy học, trang bị cho SV những tri thức khoa học mà còn rèn luyện SV về đạo
đức, lối sống, nếp sống có văn hóa, đào tạo SV trở thành những con người toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ. Tập thể sư phạm nhà trường từ Đảng ủy, Ban Giám hiệu, thầy cô chủ
nhiệm, giáo viên bộ môn cho đến các phòng, ban chức năng, các tổ chức đoàn thể phải
cùng chung mục đích, hành động để rèn luyện SV trở thành con người có văn hóa. Kết
hợp giữa học chính khóa với hoạt động ngoại khóa, lồng ghép việc giáo dục đạo đức, lối
sống, ý thức pháp luật trong các môn học, khuyến khích, biểu dương SV làm việc tốt
hoặc có nghĩa cử cao đẹp.
+ Liên kết tổ chức các cuộc hội thảo khoa học về nâng cao chất lượng giảng dạy môn
đạo đức học, các môn khoa học Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữa các trường đại học
cùng khối hay cùng ngành để rút kinh nghiệm trong giảng dạy các môn học này.
+ Xây dựng đội ngũ các nhà sư phạm vừa có năng lực vừa có phẩm chất trong
sáng, mẫu mực, yêu nghề, yêu thương học trò và tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đào
tạo. Kiên quyết xử lý buộc thôi việc hoặc đình chỉ công tác giảng dạy đối với những
giáo viên dính vào tiêu cực mua bán điểm số nhằm làm lành mạnh môi trường giáo dục.
Trong hành vi của thầy, cô giáo cũng đều phải định hướng cho sự phát triển nhân cách
của SV, phải là tấm gương sáng cho SV noi theo. Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường
cần quan tâm, tạo điều kiện và có những hỗ trợ cần thiết cho các hoạt động của Đoàn
TN, Hội SV như: tổ chức hội thi, hội diễn văn nghệ, thi đấu thể dục, thể thao, các cuộc
thi tìm hiểu truyền thống cách mạng, các hoạt động xã hội nhân đạo, từ thiện …
Là những tổ chức đại biểu cho lợi ích của SV, Đoàn TN và Hội SV có nhiệm vụ chủ
yếu là tham gia vào việc giáo dục lý tưởng, niềm tin cách mạng, tuyên truyền tư tưởng
chính trị, định hướng và vận động SV thực hiện lối sống lành mạnh, văn minh. Thiết
nghĩ, để nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV, ngoài việc
tiếp tục củng cố và phát huy các thành tựu đã đạt được thì Đoàn và Hội cần chú ý thực
hiện những giải pháp có tính định hướng như sau:
+ Trước hết, cần tăng cường công tác tập hợp SV. Tập hợp đối tượng cần được
giáo dục là điều kiện đầu tiên cần phải có trong công tác giáo dục. Không tập hợp được
SV thì Đoàn, Hội không thể triển khai các hoạt động giáo dục của mình. Con số 24,3%
SV Thành phố không tham gia sinh hoạt, cho thấy tập hợp là khâu yếu nhất trong toàn
bộ các hoạt động của Đoàn, Hội thời gian qua. Điều này đồng nghĩa với việc có ngần ấy
SV không nhận được sự định hướng giáo dục của Đoàn, Hội. Để khắc phục hạn chế
trên, ngoài việc đổi mới nội dung, hình thức hoạt động cho thiết thực, phù hợp thì tổ
chức Đoàn, Hội cần quan tâm nắm bắt và hỗ trợ kịp thời những nhu cầu chính đáng của
SV như: giới thiệu chỗ trọ, chỗ thực tập tốt nghiệp, việc làm, cho vay tiền đóng học phí,
trợ cấp khó khăn, tạo sân chơi lành mạnh bổ ích …
+ Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội vững mạnh làm trung tâm đoàn
kết, tập hợp, vận động, giáo dục SV. Các cán bộ Đoàn, Hội cần nâng cao phẩm chất,
năng lực hoạt động của mình, gắn bó mật thiết với SV; thường xuyên nghiên cứu, nắm
vững tình hình, dự báo diễn biến về tư tưởng, thái độ chính trị, đạo đức, lối sống của SV
và chủ động đề xuất các giải pháp khả thi để giáo dục, rèn luyện, định hướng sự phát
triển nhân cách cho SV.
+ Đoàn, Hội tập trung nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục,
đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho SV. Đoàn, Hội cần
thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm công tác giáo dục ở từng đơn vị, phát hiện và đẩy
mạnh việc nhân rộng các mô hình, hình thức giáo dục có hiệu quả cao.
+ Nội dung, chương trình giáo dục phải đảm bảo tính khách quan, khoa học, phù
hợp với những yêu cầu xã hội đặt ra đối với SV. Chương trình, kế hoạch phải thiết thực
và mang tính khả thi cao, không nên đặt “những chương trình, kế hoạch mênh mông,
đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được” và “Một chương trình nhỏ mà thực
hiện được, hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được” [49,
tr.186]. Hình thức giáo dục cần phong phú, đa dạng, hấp dẫn, sinh động và khi triển
khai thực hiện phải đảm bảo tính sâu rộng, đều khắp, thường xuyên liên tục, cần khắc
phục hiện tượng “chết non”, “chết yểu” hoặc “đầu voi đuôi chuột” của phong trào.
+ Cần quán triệt các nguyên tắc: nói đi đôi với làm, nêu gương, xây đi đôi với
chống trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV. Bên cạnh việc đẩy mạnh
tuyên truyền, giáo dục cần phải hướng dẫn, tổ chức SV đấu tranh, xã hội lên tiếng
chống lại những tiêu cực nhằm góp phần lành mạnh hóa môi trường xã hội.
Quá trình giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội có những đặc trưng riêng,
ưu thế riêng. Sự thống nhất biện chứng giữa giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội
là yếu tố quyết định quá trình hình thành đạo đức, lối sống cho SV. Sự bất cập ở mỗi
yếu tố đều có thể dẫn đến sự xuất hiện những nhân cách mà xã hội không mong muốn.
Tăng cường kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục đạo
đức, lối sống cho SV Thành phố hiện nay cần tiến hành theo những định hướng sau:
+ Thống nhất quan điểm, chủ trương, mục đích trong việc giáo dục đạo đức, lối
sống cho SV giữa gia đình, nhà trường và đoàn thể xã hội.
+ Tăng cường hơn nữa ý thức trách nhiệm của của gia đình, nhà trường và các đoàn
thể xã hội trong việc phối hợp quản lý, giáo dục SV, nhất là SV ngoại trú.
+ Chú trọng công tác tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc phối hợp quản lý và
giáo dục giữa 3 môi trường nhằm phát huy những mặt tích cực và khắc phục những
thiếu sót.
- Hai là, kết hợp chặt chẽ học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.
Trong giáo dục, Hồ Chí Minh đòi hỏi cả người dạy lẫn người học phải quán triệt
phương châm học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Xuất phát từ mục đích
của nền giáo dục cách mạng là đào tạo ra những công dân có các phẩm chất và năng lực
cần thiết để “phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân làm cho dân giàu nước mạnh” mà Hồ
Chí Minh quan niệm giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền đạt tri thức mà phải tiến
tới hình thành năng lực thực hành cho người học. Nghĩa là người học phải có khả năng
vận dụng những tri thức đã tiếp thu vào thực tiễn cuộc sống. Theo Hồ Chí Minh, học là để
hành. Còn hành là điều kiện để củng cố, nâng cao kiến thức được tiếp thu, rèn luyện kỹ
năng và hình thành những phẩm chất cần có của người lao động mới. Học và hành là hai
khâu của quá trình nhận thức gắn bó khăng khít với nhau. “Học mà không hành thì học vô
ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy” [50, tr.250]. Thực hiện phương châm
học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn sẽ góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục.
Một trong những yếu kém của công tác giáo dục cả nước nói chung và của Thành
phố nói riêng thời gian qua là “Học đi đôi với hành còn rất hạn chế. Một số trường cao
đẳng, đại học đã không hoặc ít tổ chức cho SV thực hành, kiến tập, thực tập, tham gia
công tác xã hội” [22, tr.23]. Đây cũng là nguyên nhân làm cho hiệu quả giáo dục chưa
tương xứng với khả năng hiện có. Hạn chế này cần được ngành giáo dục nhanh chóng
khắc phục trong thời gian tới.
Thực hiện phương châm học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn trong
công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV Thành phố, theo chúng tôi nên bắt đầu từ
việc xây dựng một chương trình “tổ chức giáo dục ngoài giờ lên lớp” với các yêu cầu và
nội dung nhất định nhằm củng cố nhận thức, hình thành niềm tin, rèn luyện hành vi, kỹ
năng, thói quen ứng xử có văn hóa phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Bên
cạnh đó, Ban Giám hiệu nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên chủ
nhiệm, giáo viên bộ môn, Đoàn TN, Hội SV tổ chức các hoạt động ngoại khóa như:
giao lưu dã ngoại, tham quan du lịch, các hoạt động xã hội từ thiện, mùa hè xanh, đền
ơn đáp nghĩa … Các hoạt động này giúp SV liên hệ thực tiễn, tránh được sự nặng nề,
thụ động của phương pháp giáo dục truyền thống. Trong môi trường thực tiễn, SV có
dịp thực hành các bài giảng đạo đức trên lớp thông qua hành vi của mình. Nhờ đó, giáo
viên có thể phát hiện và kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và
hành động của SV. Hơn nữa, chính những hoạt động thực tiễn thiết thực sẽ tạo điều kiện
cho quá trình tự giáo dục của SV, giúp quá trình hình thành những phẩm chất đạo đức
tốt đẹp ở SV nhanh hơn, phong phú và sâu sắc hơn.
- Ba là, xây dựng các khu vui chơi, giải trí lành mạnh, những tụ điểm sinh hoạt
văn hóa cho sinh viên, tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho các hoạt động văn hóa xã
hội của sinh viên.
Gắn học tập, giáo dục với vui chơi giải trí là một phương châm giáo dục khá độc
đáo của Hồ Chí Minh trong giáo dục TN. Với Hồ Chí Minh, giáo dục là một khoa học
và hình thức giáo dục thì rất phong phú, đa dạng. Giáo dục không gói gọn ở hoạt động
dạy và học mà còn thể hiện trong các hoạt động khác, kể cả vui chơi giải trí. Hiểu rõ
tâm lý TN là hiếu động, thích sinh hoạt tập thể, ham tìm tòi khám phá. Một mặt, Hồ Chí
Minh nhắc nhở các lực lượng giáo dục cần quan tâm đến nhu cầu vui chơi giải trí của
TN. Mặt khác, Người yêu cầu phải biết gắn kết vui chơi với giáo dục. Nghĩa là phải có
sự định hướng của giáo dục trong sinh hoạt vui chơi, giải trí của TN. Hồ Chí Minh cho
rằng: “Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sinh hoạt của TN… Trong vui chơi,
cũng có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn hóa, thể dục có tính chất tập thể và
quần chúng” [61, tr.128].
Là bộ phận được tuyển chọn từ tầng lớp TN, ngoài nhu cầu học tập nâng cao trình
độ đáp ứng được yêu cầu của xã hội, SV còn có những nhu cầu khác như: giao lưu gặp
gỡ, kết bạn, vui chơi giải trí … Đây là những nhu cầu chính đáng và rất bức thiết của
SV Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng
ngày càng có nhiều SV mắc phải những thói hư, tật xấu hay sa vào các tệ nạn xã hội
như: xem sách báo, phim ảnh khiêu dâm, số đề, cá độ bóng đá, bói toán, kéo nhau vào
các quán bar, vũ trường, động lắc, sử dụng ma túy … là do Thành phố thiếu hẳn những
tụ điểm sinh hoạt văn hóa giành riêng cho SV, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu vui chơi
giải trí lành mạnh của SV.
Vận dụng phương châm “gắn giáo dục với vui chơi” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vào công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV hiện nay, chính quyền Thành phố Hồ
Chí Minh cần nhanh chóng có chính sách và sự đầu tư thích đáng để xây dựng nhiều
hơn các khu vui chơi giải trí, những tụ điểm sinh hoạt văn hóa trên các địa bàn có đông
SV cư trú như: câu lạc bộ, trung tâm tư vấn, tụ điểm ca nhạc, bảo tàng cách mạng, đền
tưởng niệm, nhà văn hóa TN, nhà văn hóa SV, khu liên hợp thể thao … Đây là những
cơ sở vật chất cần thiết để tổ chức các hoạt động giao lưu, vui chơi giải trí, du lịch, dã
ngoại, về nguồn và các hoạt động xã hội khác cho SV. Thành lập với mục đích tạo sân
chơi lành mạnh cho SV, hoạt động của các tụ điểm văn hóa trên chủ yếu dựa vào nguồn
ngân sách do Thành phố cấp. Hiệu quả hoạt động của nó không căn cứ vào doanh số mà
dựa trên số lượng SV tham gia sinh hoạt. Để thu hút SV, cần có hình thức sinh hoạt
phong phú, đa dạng và nội dung, chương trình phải thật hấp dẫn lôi cuốn phản ánh, đáp
ứng các nhu cầu thiết thân của SV như: trao đổi về phương pháp học tập và nghiên cứu
khoa học, về chương trình du học do các đơn vị, cá nhân nước ngoài tài trợ, chương
trình học bổng, về việc làm, về tình yêu, hôn nhân và gia đình … Thu hút SV vào các
hoạt động văn hóa xã hội lành mạnh là cách tốt nhất để giúp SV tránh xa những cám dỗ
của các tệ nạn xã hội. Đồng thời còn tạo môi trường cho SV tự nhận thức và rèn luyện
đạo đức, lối sống cho mình.
2.3.3 Nhóm giải pháp làm gương, phát huy những hình tượng mẫu mực
- Thứ nhất, giáo dục thông qua nêu gương người tốt, việc tốt chính trong đội ngũ
sinh viên.
Trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV Thành phố, phương pháp nêu
gương đã được một số tổ chức, đơn vị chức năng quan tâm thực hiện. Từ năm học 2001
– 2002, thực hiện sự chỉ đạo của Thành ủy, Hội SV Thành phố đã phối hợp với Đoàn
TN các trường đại học phát động phong trào “SV 3 tốt”. Năm đầu tiên đã có 2.933 SV
được xét công nhận danh hiệu “SV 3 tốt” cấp trường. Ngoài ra, Hội đồng bình bầu
Thành phố cũng chọn được 30 SV tiêu biểu nhất để tuyên dương cấp thành. Noi gương
các bạn, đông đảo SV cố gắng học tập, rèn luyện để đạt danh hiệu, tạo nên phong trào
thi đua thật sự tại các trường.
Nhập cuộc với Hội SV, báo TN và báo Tuổi Trẻ cũng đưa nhiều tin bài về các tấm
gương SV vượt khó đạt nhiều thành tích cao trong học tập và rèn luyện. Đặc biệt là loạt
bài giới thiệu về 02 liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm đã khơi dậy khát vọng
sống có ích cho cộng đồng, cho đất nước trong giới SV, học sinh. Thiết nghĩ cách làm có
hiệu quả trên cần được duy trì và phát huy hơn nữa trong thời gian tới. Tuy nhiên cần
phải mở rộng việc giới thiệu, biểu dương các tấm gương người tốt việc tốt trong đội ngũ
SV như: SV sống có lý tưởng cao đẹp, có nhu cầu thị hiếu văn hóa, văn nghệ, lối sống
lành mạnh; các tấm gương hiếu thảo của SV đối với ông bà, cha mẹ; những tấm gương
sáng trong tình bạn, tình yêu …
- Thứ hai, giáo dục thông qua nêu gương tốt, việc tốt của mọi người, đặc biệt là sự
gương mẫu của cha mẹ, thầy cô.
HCM quan niệm, giáo dục đạo đức là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Trong
xã hội, mỗi người vừa là chủ thể vừa là đối tượng của giáo dục đạo đức. Do đó, ai cũng
có thể và cần phải nêu gương đạo đức. Việc nêu gương tốt, việc tốt của mọi người góp
phần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tiến bộ tạo điều kiện thuận lợi cho SV rèn
luyện nhân cách. Tuy nhiên, cần thấy rằng nhân cách của những người trực tiếp đảm
nhận công tác giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đối với người được giáo dục. Vì thế, ông
bà, cha mẹ, thầy cô phải thật sự là các tấm gương sáng về đạo đức, lối sống để SV noi
theo. Nêu gương trong giáo dục đạo đức đòi hỏi các lực lượng tham gia giáo dục phải
tuân thủ nguyên tắc nói đi đôi với làm. Mọi lời rao giảng đạo đức đều trở nên vô ích nếu
dạy một đằng nhưng làm một nẻo. Ngược đãi ông bà, cha mẹ không thể khuyên bảo con
cái hiếu thuận với mình. Sống ích kỷ, cá nhân, không đúng mực, thầy cô không thể dạy
SV sống lành mạnh, sống vì mọi người. Nguyên tắc nói đi đôi với làm đòi hỏi người
làm công tác giáo dục cũng phải được giáo dục, không ngừng tự hoàn thiện nhân cách
của mình để trở thành tấm gương sáng về mọi mặt cho SV noi theo.
- Thứ ba, nêu cao các hình tượng mẫu mực trong xã hội: những lãnh tụ hết lòng vì
nước vì dân tài đức vẹn toàn, các nhà khoa học lỗi lạc, các nhà giáo tiêu biểu, nhà văn
tên tuổi, anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua, người tốt việc tốt.
Phần đông SV Thành phố Hồ Chí Minh ở vào độ tuổi từ 18 đến 23. Đây là giai
đoạn định hình về mặt nhân cách. Ở giai đoạn này, SV có xu hướng chọn cho mình một
mô hình nhân cách, một mẫu người lý tưởng để noi theo. Trong khi đó, xã hội có quá
nhiều giá trị để cho họ lựa chọn. Do vốn sống hạn chế, SV khó phân biệt đúng sai, thật
giả, không thể xác định đâu là những giá trị đích thực. Vì vậy, định hướng giá trị thông
qua việc nêu cao các hình tượng mẫu mực trong xã hội có một ý nghĩa rất lớn đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách toàn diện ở SV. Điều lưu ý là khi giới thiệu chân
dung của các lãnh tụ, nhà khoa học, nhà giáo, anh hùng lao động … để SV học tập noi
theo phải gắn liền với việc làm rõ những cống hiến lớn lao của họ đối với Tổ quốc, với
nhân dân, đạo đức nhân phẩm của họ, lối sống của họ. Giáo dục đạo đức, lối sống thông
qua việc nêu cao các hình tượng mẫu mực trong xã hội là giúp cho SV xây dựng động
cơ phấn đấu, rèn luyện đúng đắn. Vì nước, vì dân mà nỗ lực học tập, không ngừng tu
dưỡng chứ không xuất phát từ lòng “ham địa vị và công danh phú quý”.
Bên cạnh việc nêu cao những tấm gương sáng, gương tốt để SV noi theo, thiết nghĩ
hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn nhiều nếu chúng ta biết kết hợp với việc chỉ ra và phê phán
những gương mờ, gương xấu để SV biết mà không mắc phải. Đặc biệt là cần lên án và có
biện pháp ngăn chặn triệt để những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên nhằm củng cố niềm tin của SV vào lý tưởng đạo đức xã hội chủ nghĩa. Ngoài
ra, cũng nên tổ chức cho SV giao lưu với những người một thời lầm lỡ nhưng lại biết
hoàn lương làm lại cuộc đời, có ý chí nghị lực phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Chính
tiếng nói của những người trong cuộc là lời cảnh tỉnh đối với SV, giúp họ tránh đi vào vết
xe đổ của người trước.
- Thứ tư, giáo dục tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, lối sống cao đẹp của
chủ tịch Hồ Chí Minh.
HCM là tấm gương tuyệt vời, sáng chói về con người mới với đạo đức mẫu mực
trong sáng, lối sống cao đẹp. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức
của người cộng sản. Người dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng. Độc lập cho
dân tộc; tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; hòa bình, dân chủ, tiến bộ cho nhân loại
là mục tiêu duy nhất của người chiến sĩ cộng sản kiên trung này. Người nói: “Cả đời tôi
chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân.
Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo –
là vì mục đích đó” [48, tr.240]. Với Hồ Chí Minh, được cống hiến cho đất nước, được
phục vụ cho nhân dân là niềm hạnh phúc lớn nhất. Vì thế, khi phải từ biệt thế giới này,
Người không có điều gì hối tiếc, chỉ tiếc vì mình không còn được phục vụ nhân dân lâu
hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Hồ Chí Minh còn là hiện thân thân của lối sống mới. Đó là lối sống có lý tưởng, có
đạo đức. Không chỉ kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh còn tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối sống văn minh, tiến tiến. Trong việc công cũng
như trong đời tư, Người luôn nêu cao một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng
mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, quý trọng thời gian, không lòng ham
muốn về vật chất, chức quyền, danh lợi. Người luôn nghiêm khắc với bản thân; cởi mở,
chân tình, ân cần tế nhị với mọi người. “Bản thân Người là tấm gương sáng, là hiện thân
của nền đạo đức cách mạng Việt Nam, mãi mãi là ngọn đèn pha chiếu rọi con đường
rèn luyện, phấn đấu để trở nên “tốt” hơn, đạt đến “chân thiện mỹ” của con người Việt
Nam ngày nay và mai sau” [27, tr.294].
Giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh là một giải pháp quan trọng nhằm hình thành
đạo đức, lối sống mới cho SV Thành phố hiện nay. Giáo dục nhằm giúp SV hiểu, ngẫm
nghĩ về đạo lý làm người của Hồ Chí Minh, để học tập tấm gương đẹp đẽ của Người.
SV cần học tập, noi gương Người
Ở tinh thần suốt đời kiên trì đấu tranh cho độc lập tự do, cho CNXH và
chủ nghĩa cộng sản; ở thái độ sống thắm thiết tình yêu thương với toàn thể
nhân dân lao động, lấy đó làm hạnh phúc cao nhất của mình; noi theo gương
chiến đấu, lao động và học tập của Người, đem hết tài năng và trí tuệ để cải
tạo xã hội, cải tạo thiên nhiên, làm cho Tổ quốc ta và trái đất ta ngày thêm
tươi đẹp [34, tr.286].
Giáo dục cần kết hợp nhiều hình thức như: giới thiệu chuyên đề, xem phim tư liệu,
giao lưu với các nhân chứng lịch sử đã từng sống, làm việc cùng Người, phát động các
cuộc thi tìm hiểu thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chủ tịch, tham quan bảo tàng,
lăng, đền thờ Hồ Chí Minh …
Trọng tâm của giáo dục là giúp SV nhận thức “Vì sao Hồ Chí Minh trở thành tấm
gương tuyệt vời về con người mới?”. Những đức tính cao quý ở Người không phải là
bẩm sinh mà là kết quả của việc không ngừng học tập, đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày. Hiểu rõ con đường hình thành và phát triển nhân cách của Hồ Chí Minh, SV ra
sức phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện để bản thân ngày càng hoàn thiện.
2.3.4. Nhóm giải pháp về phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho phù
hợp với sinh viên
Giáo dục đạo đức là một hoạt động hướng đích, trong đó các lực lượng giáo dục
sử dụng các phương pháp và những phương tiện nhất định tác động đến đối tượng nhằm
hình thành ở họ ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức và năng lực thực hiện hành vi đạo
đức. Hạn chế lớn nhất trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống ở các trường đại học
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua là vấn đề phương pháp.
Trong giảng dạy môn đạo đức học, các môn khoa học Mác–Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đa phần giảng viên sử dụng phương pháp diễn thuyết là chủ yếu. Các phương
pháp khác không được sử dụng và nếu có chỉ ở một mức độ nhất định. Phương pháp
chung vẫn là thầy truyền thụ và trò ghi chép tiếp thu, ghi nhớ một cách máy móc. Các
hình thức thảo luận, đối thoại, tranh luận ở nhóm, ở lớp nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo, năng lực độc lập tư duy của SV chưa được đa số giảng viên quan
tâm thực hiện đã biến buổi giảng thành giờ truyền phát thông tin một cách xuôi chiều.
Thêm vào đó, việc giảng viên đơn thuần trình bày lý luận mà ít liên hệ thực tiễn càng
làm cho giờ học trở nên khô khan, nhàm chán. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả học tập và rèn luyện của SV. Có 26,5% SV cho rằng lý do làm họ không ham thích
các môn học trên là phương pháp giảng dạy còn khó hiểu [33, tr.120]. Từ thực tế đó,
chúng tôi cho rằng để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho SV Thành phố cần phải đổi mới về phương pháp, đa dạng về phương tiện
giáo dục đạo đức, lối sống sao cho hấp dẫn, lôi cuốn, sinh động.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1997) cũng
đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện
và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là SV đại học” [19, tr.41]. Thực chất
của đổi mới phương pháp là sự thay đổi cách thức giảng dạy, chuyển từ cách dạy nặng về
truyền đạt tri thức sang dạy cho người học cách thu nhận tri thức. Nghĩa là dạy cách học.
Đổi mới phương pháp trong giáo dục đạo đức, giáo viên cần phải tăng cường kết hợp, sử
dụng một cách hợp lý các phương pháp, hình thức, phương tiện nhằm làm cho người học
vừa có được những kiến thức cần thiết, vừa rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn. Trong giáo dục, giáo viên không thể tùy tiện lựa chọn phương pháp mà phải
căn cứ vào nội dung và đặc điểm đối tượng giáo dục. Nói cách khác, nội dung quyết định
phương pháp. Vì vậy, trước khi đổi mới phương pháp thì phải đổi mới nội dung, thiết kế lại
chương trình cho phù hợp. Ngoài việc đưa môn đạo đức học vào chương trình bắt buộc ở
bậc đại học, thì Bộ Giáo dục và đào tạo cần tổ chức biên soạn giáo trình môn đạo đức học,
thậm chí cho từng khối ngành như: kinh tế, kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn … Hàng
năm nên tổ chức các cuộc hội nghị tổng kết, hội thảo khoa học về công tác giáo dục trong
các trường đại học để rút kinh nghiệm.
Đổi mới phương pháp giảng dạy đòi hỏi giáo viên cần tăng cường sử dụng các
trang thiết bị phục vụ trợ giảng. Đó là các phương tiện tranh ảnh, hệ thống nghe nhìn, hệ
thống Hiclass II … Việc kết hợp giữa dạy lý thuyết với sử dụng các phương tiện hiện
đại làm cho buổi học thêm sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn, từ đó làm tăng hiệu quả dạy và
học. Hình thức giáo dục đạo đức cũng phải hết sức đa dạng. Giáo dục đạo đức, lối sống
cho SV không chỉ bó hẹp ở việc lên lớp, giảng bài, thảo luận mà cần mở rộng, kết hợp
nhiều hình thức khác như: thuyết trình, tọa đàm, nghiên cứu thực tế, giao lưu với những
gương điển hình tiên tiến trong nhà trường lẫn ngoài xã hội, tham quan du lịch, du khảo,
các hoạt động “về nguồn”, các hoạt động xã hội, hội thi Olympic các môn khoa học
Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cấp khoa, trường, Thành phố … Đây là những giờ
học ngoại khóa rất cần thiết và đầy bổ ích vừa giúp SV có thêm những hiểu biết về quy
tắc chuẩn mực đạo đức vừa là dịp để SV trải nghiệm trong thực tiễn tiến tới hình thành
tình cảm và niềm tin đạo đức .
Mỗi gia đình cần suy nghĩ, kế thừa kinh nghiệm giáo dục gia đình từ xưa đến nay để
từ đó hình thành phương pháp giáo dục mới phù hợp với điều kiện xã hội hiện nay. Phải
khắc phục những cách giáo dục xúc phạm đến nhân phẩm SV như tệ gia trưởng độc đoán,
chỉ dùng hình phạt hoặc nuông chiều quá mức. Cần giáo dục con cái bằng chính tấm
gương, nề nếp gia đình và đạo đức của bố mẹ chứ không chỉ biết kiếm tiền, chu cấp vật
chất cho con. Muốn giáo dục có hiệu quả, các bậc phụ huynh cần phải hiểu rõ con cái,
nên tạo cơ hội gần gũi con để lắng nghe và chia sẻ hoặc tìm hiểu thông qua bạn bè đồng
trang lứa với con. Hướng dẫn và tìm cách đáp ứng các nhu cầu hợp lý của con em mình.
Phải biết động viên kịp thời những thành quả của con cái và uốn nắn kịp thời những hành
vi lệch chuẩn dù là nhỏ nhất. Xây dựng nề nếp gia phong, tạo bầu không khí hòa thuận,
cởi mở, hạnh phúc, quan tâm đến từng thành viên khi có thuận lợi cũng như khi gặp khó
khăn…
Các cơ quan, tổ chức đoàn thể hữu quan cần đổi mới phương pháp giáo dục đạo
đức, lối sống cho SV trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức giáo dục. Đảng ủy, Ban giám
hiệu, Phòng công tác chính trị, Đoàn TN, Hội Liên hiệp TN, Hội SV … phải tạo ra
nhiều hoạt động phong phú nhằm thu hút được SV tham gia đông đảo, tự giác và hứng
thú. Cần kết hợp chặt chẽ giữa việc đẩy mạnh tuyên truyền với giáo dục đạo đức, lối
sống cho SV thông qua tổ chức giáo dục lao động, các hoạt động chính trị – xã hội, các
hoạt động mang tính tập thể. Trong giáo dục cần phát huy vai trò của dư luận xã hội
trong việc điều tiết hành vi, giáo dục luân thường đạo lý, định hướng chuẩn mực đạo
đức đúng đắn cho SV. Phải tạo dư luận xã hội rộng rãi ủng hộ cái hay, cái tốt, cái đẹp,
phản đối với cái dở, cái xấu, cái ác…
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN là một hệ thống các
quan điểm của Người về vai trò của TN và tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo
đức, lối sống cho TN; về nội dung và phương châm, phương pháp giáo dục nhằm giúp
TN hình thành những phẩm chất đạo đức mới, lối sống mới đáp ứng được các yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tư tưởng đó vẫn còn
nguyên giá trị chỉ đạo thực tiễn.
Là nguồn dự trữ đáng kể để bổ sung và làm tăng nhanh lực lượng lao động trí óc,
nguồn lực trí tuệ, SV luôn chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển con người
của Đảng và Nhà nước ta. Kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của các thế hệ
đi trước, đại bộ phận SV Thành phố Hồ Chí Minh tin tưởng vào đường lối và sự lãnh
đạo của Đảng, sống có ước mơ, có hoài bão, chấp nhận dấn thân, tình nguyện vì cộng
đồng. Số đông SV đã biết gắn tiền đồ bản thân với tiền đồ dân tộc, thi đua rèn đức,
luyện tài vì ngày mai lập thân, lập nghiệp. Khắc phục mọi trở ngại, thiếu thốn SV ra sức
học tập, tích cực nghiên cứu khoa học, không ngừng trau dồi đạo đức tác phong, giữ gìn
nhân cách. Thực hiện lối sống đẹp, đông đảo SV hăng hái tham gia các hoạt động tình
nguyện vì Tổ quốc vì cộng đồng. Các tấm gương tiêu biểu xuất sắc trong học tập và rèn
luyện xuất hiện ngày càng nhiều.
Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một bộ phận SV Thành phố có lối sống thực dụng, thờ
ơ trước những vấn đề chính trị – xã hội của đất nước, thiếu ý chí vươn lên trong học tập
và cuộc sống, thiếu tích cực, chủ động trong hoạt động đoàn thể. Cá biệt có một số SV
sa chân vào các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật.
Những hạn chế, bất cập trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống là nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận SV Thành phố. Đổi
mới công tác giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống cho SV nhằm đào tạo ra một
đội ngũ trí thức trẻ có đủ phẩm chất và năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đã trở thành một nhiệm vụ hàng đầu của các trường đại học ở
Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Giáo dục đạo đức, lối sống cho SV
Thành phố theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung thực hiện những nhóm giải pháp
có tính định hướng như sau:
+ Nhóm giải pháp về nhận thức: nhận thức đúng vị trí vai trò của đạo đức, lối sống;
nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức trong nhà trường nói chung
và trường đại học nói riêng; cần hiểu rõ giáo dục đạo đức, lối sống là một quá trình lâu
dài, phải bền bỉ, kiên trì, nhẫn nại; phát huy ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện của SV.
+ Nhóm giải pháp hoạt động thực tiễn: tăng cường và phối hợp chặt chẽ giữa gia
đình, nhà trường, xã hội trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho SV; kết hợp chặt chẽ
học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn; xây dựng các khu vui chơi, giải trí
lành mạnh, những tụ điểm sinh hoạt văn hóa cho SV, tạo điều kiện vật chất thuận lợi
cho các hoạt động văn hóa xã hội của SV.
+ Nhóm giải pháp làm gương, phát huy những hình tượng mẫu mực: giáo dục
thông qua nêu gương người tốt việc tốt chính trong đội ngũ SV; giáo dục thông qua nêu
gương tốt, việc tốt của mọi người, đặc biệt là sự gương mẫu của cha mẹ, thầy cô; nêu
cao các hình tượng mẫu mực trong xã hội: những lãnh tụ hết lòng vì nước vì dân tài đức
vẹn toàn, các nhà khoa học lỗi lạc, các nhà giáo tiêu biểu, nhà văn tên tuổi, anh hùng lao
động, chiến sĩ thi đua, người tốt việc tốt; giáo dục tấm gương sáng về đạo đức cách
mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Nhóm giải pháp về phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho phù hợp với
SV: đổi mới về phương pháp, đa dạng về phương tiện giáo dục đạo đức, lối sống sao
cho hấp dẫn, lôi cuốn, sinh động; kết hợp nhiều hình thức giáo dục…
Đào tạo những SV có nhân cách phát triển toàn diện, có đạo đức trong sáng và lối
sống cao đẹp, có trình độ văn hóa chuyên môn, kỹ thuật cao, có hoài bão lập thân lập
nghiệp vì hạnh phúc của bản thân, vì sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc là công
việc vừa cấp bách, vừa lâu dài đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội, trong đó nhà trường
giữ vị trí trung tâm.
Đề tài giáo dục đạo đức, lối sống cho SV các đại học trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh mới chỉ là kết quả bước đầu. Kết quả này sẽ làm
tiền đề, nền tảng để tiếp tục đi sâu mở rộng nghiên cứu vấn đề nhằm góp phần làm cho
các thế hệ SV trở thành đội ngũ trí thức trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, xứng đáng kế
thừa sự nghiệp xây dựng CNXH như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (2001), Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam (Qua thực tế các trường đại học khối xã hội
nhân văn ở miền Bắc Việt Nam), Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (đồng chủ biên) (2004), Tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh (dưới dạng hỏi và đáp), Nxb Lý luận chính trị.
3. Lê Thị Tuyết Ba (2003), “Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1), tr. 9-11.
4. Nguyễn Khánh Bật (1998), Những bài giảng về môn tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Duy Bắc (chủ nhiệm) (2002 – 2003), Vấn đề dạy và học các bộ môn khoa
học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học ở Hà Nội:
thực trạng và giải pháp, Kỷ yếu khoa học đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
6. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Hà
Nội.
7. Hoàng Chí Bảo (1997), “Văn hóa và sự phát triển nhân cách của thanh niên”, Tạp
chí Nghiên cứu lý luận, (1), tr.3-5.
8. Báo Thanh niên, số 130 (3791) ra ngày 10 tháng 5 năm 2006.
9. Báo Thanh niên, số 207 (3868) ra ngày 26 tháng 7 năm 2006.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức – nhân văn,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn văn Phúc (đồng chủ biên) (2003), Mấy vấn đề đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
13. Công đoàn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2002), Kỷ yếu Hội nghị đổi mới
phương pháp dạy học, Hà Nội.
14. Lê Duẩn (1975), Con đường tu dưỡng rèn luyện đạo đức của thanh niên, Nxb Sự
Thật, Hà Nội.
15. Thành Duy (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức , Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
16. Thành Duy (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đoàn Nam Đàn (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Giáo dục thanh niên, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Trần Minh Đoàn (2002), Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư tưởng
Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
24. Đoàn Thanh niên Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh (1/2005), Tài liệu Hội nghị
tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi Thành phố năm 2004,
Tài liệu lưu hành nội bộ.
25. Đoàn Thanh niên Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh (12/2005), Tài liệu Hội nghị
tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi Thành phố năm 2005,
Tài liệu lưu hành nội bộ.
26. Phạm Văn Đồng (1979), Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
27. Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
(xuất bản lần thứ 3), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
29. Phạm Mạnh Hà (2002), “Những nguyên nhân chủ quan chủ yếu của tình trạng suy thoái
đạo đức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.15.
30. Phạm Minh Hạc (1990), Tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Khoa
học xã hội.
31. Nguyễn Thị Hằng (2004), “xây dựng lối sống có văn hóa cho sinh viên trong giai
đoạn hiện nay”, Tạp chí Khoa học chính trị, (5), tr.20-25.
32. Hồ Thị Hoa (2000), Vấn đề nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức
cho học sinh phổ thông trung học ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
33. Hội Sinh viên Thành phố (3/2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Hội sinh viên Việt
Nam Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ III (2005 – 2010) - Tài liệu lưu hành
nội bộ.
34. Vũ Khiêu (1974), đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh truyền thống dân tộc
và nhân loại, Nxb Khoa học xã hội.
36. Trần Hậu Kiêm – Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo
dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Vũ Kỳ (2001), Người suy nghĩ về tuổi trẻ chúng ta, (tái bản lần thứ 3), Nxb Thanh
niên.
39. Đinh Xuân Lâm – Bùi Đình Phong (2001), Hồ Chí Minh văn hóa và đổi mới, in lần
thứ 2, Nxb Lao động, Hà Nội.
40. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
41. V.I.Lênin (2004), Bàn về thanh niên, Nxb Thanh niên.
42. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2001), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
43. Trương Giang Long (2003), “Định hướng giá trị trong giáo dục thanh niên hiện
nay”, Tạp chí Cộng sản, (9), tr.17-20.
44. Nguyễn Đức Mạnh (2006), “Hiểu thế nào là bóc lột”, Báo Đại đoàn kết số (20),
năm thứ 65 ngày 17 tháng 3 năm 2006.
45. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Đỗ Mười (1996), Phát triển mạnh giáo dục đào tạo, phục vụ đắc lực sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (2).
58. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Phạm Đình Nghiệp (2000), Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam
trong tình hình mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
60. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm (2003), Kể chuyện đạo đức Bác Hồ.
61. Nhà xuất bản Thanh niên (2004), Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên.
62. Trần Quy Nhơn (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên trong cách
mạng Việt Nam, Nxb Thanh niên (in lần thứ 2)
63. Trần Quy Nhơn (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau, Nxb Giáo dục.
64. Niên giám thống kê năm 2004 (2005), Nxb Thống kê, Hà Nội.
65. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
66. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị.
67. Song Thành (2005), “Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức – một nguyên
tắc cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (11),
tr.26-30.
68. Nguyễn Ngọc Thu (2004), “Hồ Chí Minh với giáo dục cái đẹp cho tuổi trẻ”, Tạp chí
Cộng sản, (5), tr. 29-33.
69. Hoàng Trang – Nguyễn Thị Kim Dung (2005), Hỏi – đáp môn tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
70. Mạc Văn Trang (chủ biên) (1994), Lối sống thanh niên – sinh viên, Viện Nghiên
cứu chiến lược giáo dục.
71. Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VII (12/2003), Nxb Thanh niên, Hà Nội
72. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2004), 6 bài học lý luận
chính trị cho đoàn viên thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
73. Nguyễn Văn Truy (chủ biên) (1993), Hồ Chí Minh về đạo đức , Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
74. Quốc Tuấn (2006), Gái gọi lúc 22 giờ, Nxb Công an nhân dân.
75. Lâm Quốc Tuấn – Trần văn Toàn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo
đức vừa “hồng” vừa “chuyên” cho thanh niên trí thức”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (10), tr.9,10 –16.
76. Văn Tùng (1999), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
77. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
78. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Hồ Chí
Minh biên niên tiểu sử, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 169_4346.pdf