Luận văn Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay

Để việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay đạt được kết quả tốt hơn, cần phải có những giải pháp cụ thể, mang tính thiết thực và phù hợp với hoàn cảnh mới. Muốn vậy, việc đề ra và thực hiện những giải pháp đó một mặt phải cho phép khắc phục được những nguyên nhân gây nên tình trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này còn có hạn chế nhất định; mặt khác, nó còn phải dựa trên nhữn g nguyên lý cơ bản với tư cách là cơ sở triết học - xã hội của mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên.

pdf74 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2811 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhất, tạo ra được niềm tự hào dân tộc và nâng cao sự nhận thức của người dân nơi đây đối với các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng. Từ đó, khích lệ và động viên người dân địa phương - chủ thể của các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống tham gia trực tiếp vào việc bảo vệ các giá trị đó. Công việc sưu tầm, nghiên cứu các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng núi Đông Bắc bước đầu đã được chú ý, quan tâm đến. Không chỉ như vậy, các giá trị này còn được giới thiệu rộng rãi không những trong phạm vi địa phương mà còn trong phạm vi cả nước, thậm chí cả nước ngoài nữa. Qua đó, đã góp phần không nhỏ vào việc bảo tồn và phát huy, phát triển các giá trị văn hóa sinh thái vùng này theo kịp sự phát triển của thời đại. Đặc biệt là năm 1995, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được thành lập đã góp phần to lớn vào việc bảo tồn và phát huy, phát triển văn hóa các dân tộc, trong đó có các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng núi Đông Bắc. Đa số các địa phương trong vùng hiện nay vẫn còn giữ được lối sống thích ứng với môi trường tự nhiên trong hoạt động sống của con người mặc dù nội dung của sự thích ứng hiện nay đã có những khác biệt so với trước kia. ở nhiều địa phương trong vùng vẫn còn giữ được những phong tục, tập quán sinh thái có giá trị, ví dụ như: tục thách cưới bằng chăn bông, vải thổ cẩm của dân tộc Tày ở Tuyên Quang, Lạng Sơn,... nhờ đó mà nghề trồng bông, dệt vải thổ cẩm truyền thống vẫn tồn tại và phát triển, hay quan niệm về những khu rừng thiêng của người dân nơi đây đã góp phần ngăn chặn được tệ nạn khai thác rừng, nhất là rừng đầu nguồn một cách bừa bãi. Hầu hết đồng bào ở vùng này vẫn còn giữ được những bài thuốc quý mang tính chất gia truyền mà nguyên liệu của nó là những động, thực vật trong tự nhiên. Nhờ đó, việc bảo tồn các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đã được chính những người dân ở đây - những người đã sáng tạo ra các giá trị đó thực hiện tương đối có hiệu quả. Mặc dù có sự ảnh hưởng nhất định của nền kinh tế thị trường nhưng với ý thức cộng đồng cao, tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên và tình yêu thiên nhiên của con người vùng này trong thời gian qua vẫn được bồi đắp và phát triển, việc bảo vệ môi trường sinh thái ở đây đã được đồng bào thực hiện khôi phục lại khá tốt thông qua hàng loạt công việc mà họ đã thực hiện như: chương trình phủ xanh đồi trọc, chương trình đưa nước sạch tới từng gia đình, quy ước bảo vệ rừng đầu nguồn (ví dụ: người Dao ở Hoàng Su Phì - Hà Giang đã xây dựng quy ước riêng: người nào chặt một cây gỗ có đường kính từ 10 cm phạt 2.000 đồng; đào một củ măng phạt 2.000 đồng; chặt phá song, mây phạt 10.000 đồng và thu toàn bộ cây đã chặt), chống khai thác tài nguyên bừa bãi (ví dụ: người Dao ở Hà Giang có quy định cấm đánh bắt cá bằng mìn, điện. Ai cố tình vi phạm thì nộp phạt 50.000 đồng),... Như vậy, về cơ bản, các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này vẫn được con người tôn trọng, bảo tồn và tìm cách khôi phục một cách hợp lý, khá nghiêm túc. Kinh tế - xã hội ở khu vực miền núi Đông Bắc trong thời gian qua đã được cải thiện và nâng cao, nhờ đó, sự hiểu biết về tự nhiên, trình độ chinh phục tự nhiên của con người nơi đây cũng ngày càng được phát triển. Người dân ở đây không chỉ biết bảo tồn và khôi phục những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đã đạt được mà còn biết phát huy, phát triển những giá trị đó cho phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù vẫn sinh sống ở những nếp nhà sàn truyền thống nhưng con người ở đây không còn sống mất vệ sinh, nuôi gia súc, gia cầm dưới gầm nhà như trước đây nữa mà đã biết nuôi gia súc, gia cầm ở những khu riêng, đã biết đảm bảo vệ sinh, không gây ô nhiễm môi trường sống. Sống trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những bộ trang phục truyền thống vẫn được con người ở đây sử dụng nhưng chủ yếu là trong các dịp lễ hội còn trong cuộc sống hàng ngày nó cũng đã được cách tân cho phù hợp với yêu cầu của lối sống công nghiệp. Đồng bào vùng này không chỉ dùng các dược liệu trong tự nhiên để chữa bệnh theo các phương thuốc gia truyền mà còn biết kết hợp với tây y để việc bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người được tốt hơn. Lối sống du canh du cư hiện nay đã không còn phù hợp, cần được thay thế bằng lối sống định canh định cư vừa mang tính ổn định lại vừa không gây ra tình trạng phá hoại cảnh quan môi trường, khai thác tài nguyên nhất là tài nguyên rừng một cách bừa bãi,... ở đây, quan điểm khôi phục, bảo tồn, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đã được con người vùng này kết hợp một cách chặt chẽ, mang tính hợp lý cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này vẫn còn hạn chế do những nguyên nhân khác nhau mà trong thời gian tới chúng ta phải tìm mọi cách khắc phục. 2.1.2. Những hạn chế của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta Trong thời gian qua, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này còn tồn tại một số hạn chế, điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân địa phương, tới sự phát triển của vùng này nói riêng cũng như sự phát triển của cả nước nói chung. Đó là: Mặc dù trong đường lối của Đảng đề ra đã quan tâm đến vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của cả nước nói chung cũng như của vùng núi Đông Bắc nói riêng nhưng trong thực tế, việc thực hiện công việc này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Sự đầu tư cho công việc này vẫn còn khiêm tốn so với các công việc khác, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn đầu tư. Từ đó, công việc sưu tầm, nghiên cứu, thẩm định, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở đây còn gặp nhiều khó khăn từ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công việc này đến con người thực hiện công việc đó. Do vốn ít nên việc sưu tầm các giá trị văn hóa sinh thái ở vùng núi Đông Bắc rất hạn chế vì địa hình ở đây phức tạp, dân cư sống rải rác, đi lại không thuận tiện, chi phí cho công việc này đòi hỏi phải tốn kém và kì công trong khi đó điều kiện ở đây lại không cho phép. Nhiều giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đã không có cơ hội được giới sưu tầm biết đến để bảo tồn và phát huy, nó bị phai nhạt dần cùng với thời gian. Trong công tác thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống cũng có khó khăn nhất định vì điều kiện vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công việc này rất lạc hậu và thiếu thốn. Đặc biệt, vấn đề năng lực chuyên môn và sự nhiệt tình của đội ngũ cán bộ làm công việc này hiện nay cũng còn bất cập so với yêu cầu đặt ra. Đa số những người này chưa nắm vững lý luận cũng như phương pháp tiến hành, phần nhiều làm đâu hiểu đấy theo kiểu vừa làm vừa rút kinh nghiệm chứ chưa được đầu tư đào tạo cơ bản. Từ đó đã dẫn tới hiệu quả thực hiện việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này chưa cao. Trong nhận thức về vai trò, vị trí, nội dung của các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng còn nhiều lệch lạc, chưa đúng dẫn tới việc bảo tồn và phát huy các giá trị này cũng có lệch lạc, sai lầm, nhiều khi lại thái quá, cực đoan: hoặc cho cái cổ truyền là lạc hậu, lỗi thời và muốn xóa bỏ triệt để mà không có sự kế thừa, muốn có ngay cái mới hoàn toàn; hoặc ngược lại, cố níu lấy cái truyền thống, kể cả những cái đã lạc hậu, lỗi thời, đã trở thành hủ tục mà nghi ngại trước cái mới, thực hiện bảo tồn theo kiểu giữ nguyên xi những cái truyền thống mà không có sự chọn lọc, phát huy và phát triển. Thời gian qua, chúng ta mới chỉ sưu tầm, thu thập và nghiên cứu được một phần nhỏ trong di sản giá trị văn hóa sinh thái của vùng này, phần còn lại có nguy cơ mai một dần cùng với sự ra đi của những nghệ nhân dân gian và lớp người già nắm vững, hiểu biết về các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này. Trong khi đó, lớp trẻ trong vùng hiện nay lại không nhận thức được các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống là vốn quý nên hay có tâm lý tự ti, mặc cảm, thậm chí coi thường, đánh giá thấp các giá trị do tổ tiên để lại, cộng vào đó, họ lại bị ảnh hưởng, bị choáng ngợp trước văn hóa sinh thái của các vùng phát triển hơn nên có xu hướng coi nhẹ, quay lưng lại với các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng mà không hề có ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị đó do bao thế hệ sống ở đây tạo ra. Những năm gần đây, dưới tác động của nền kinh tế thị trường đã làm cho các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này nhiều khi không giữ nguyên được giá trị của nó, nó đã bị ảnh hưởng và bị lai căng, nhiều khi trở thành sự kệch cỡm, các giá trị không còn giữ được bản sắc riêng của mình nữa, ví dụ như, người Mông ở đỉnh núi cao có thói quen ở nhà đất, điều đó rất phù hợp với điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái ở đây, nhưng gần đây nhiều ngôi nhà được xây dựng đã tiếp thu không ít kiểu kiến trúc của người Kinh từ đó làm mất đi bản sắc riêng của văn hóa sinh thái vùng này, họ đã trang trí đòn nóc bằng cách chạm, khắc hay vẽ hoa văn, ghi niên đại xây dựng nhà, khẩu hiệu và câu đối như người Kinh. Thực tế ở vùng này còn nhiều trường hợp có sự nhầm lẫn giữa các phong tục, tập quán sinh thái lành mạnh, tín ngưỡng dân gian với mê tín dị đoan, chưa có sự phân định chính xác đã dẫn tới hiện tượng có những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống còn có ý nghĩa, có tính tích cực thì bị bỏ quên, trong khi đó, có những cái đã hết giá trị, không còn phù hợp với thời đại mới, đã trở nên cổ hủ, lạc hậu thì vẫn được giữ lại, được bảo tồn, thậm chí còn được phát triển hơn. Ví dụ như, ngày hội xuống đồng (hội Lồng Tồng) của người Tày hay lễ hội cầu mưa của người Lô Lô,... một mặt nó là tín ngưỡng dân gian, nhưng mặt khác, nó còn thể hiện ước muốn hòa hợp với tự nhiên, chinh phục tự nhiên của con người nơi đây, vì vậy, nó cần phải được bảo tồn chứ không thể bị xóa bỏ hoàn toàn như trước đây có một thời kỳ chúng ta đã thực hiện. Hay quan niệm về thần núi của người Tày, người Nùng cũng không hẳn là sự mê tín dị đoan, một mặt nào đó, nó đã góp phần hạn chế tình trạng chặt phá rừng nhất là rừng đầu nguồn một cách bừa bãi, từ đó góp phần bảo vệ tự nhiên, bảo vệ môi trường sống. Ngược lại, có những hiện tượng như tập quán du canh du cư với tình trạng đốt rừng làm nương rẫy hiện nay đã trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện mới, nó đã vi phạm đạo đức sinh thái, có ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái nhưng vẫn chưa được xóa bỏ hoàn toàn, có một số đồng bào ở vùng sâu vùng xa vẫn còn duy trì cách thức sinh sống và canh tác kiểu này. Đối với những hiện tượng này, trong thời gian tới cần phải kiên quyết xóa bỏ. Hiện nay con người ở vùng này do mải chạy theo lợi nhuận, chạy theo "chủ nghĩa thực dụng" nên nhiều khi vì lợi ích của bản thân đã xâm phạm tới lợi ích của tự nhiên. Con người đã khai thác tài nguyên khoáng sản đến mức cạn kiệt, chặt phá rừng nhất là rừng đầu nguồn một cách bừa bãi dẫn tới tình trạng mất cân bằng sinh thái, tình trạng hạn hán và lũ lụt thường xuyên xảy ra đe dọa đến sự sinh tồn của chính con người. Không ai có thể quên được những trận lũ quét tàn khốc xảy ra ở một số khu vực miền núi Đông Bắc như Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang,... đã phá hoại tài sản và cướp đi sinh mạng của bao con người. Sở dĩ có những hiện tượng hãi hùng đó là do con người vùng này trong thời gian qua đã coi nhẹ việc bảo tồn các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống, đã quên đi những giá trị văn hóa sinh thái tốt đẹp như: tư tưởng phải sống hòa hợp với tự nhiên, hay tình yêu thiên nhiên của con người,... Đó chính là hậu quả của việc con người ở đây đã coi thường các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống do sự tác động của nền kinh tế thị trường và do ảnh hưởng của các thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại, đúng như lời nhận xét của ông F. Mayor - Tổng giám đốc UNESCO: "Chưa bao giờ như ngày nay, sự căng thẳng giữa khoa học và lương tâm, giữa kỹ thuật và đạo đức lên tới cực điểm đã trở thành mối đe dọa toàn thế giới" [35, tr. 38]. Để khắc phục những yếu kém, tồn tại trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay, trước hết phải tìm ra được những nguyên nhân đã gây ra tình trạng yếu kém đó. 2.1.3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay Sở dĩ trong thời gian qua việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc còn những hạn chế, tồn tại nhất định là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan chủ yếu sau: * Nguyên nhân khách quan Do việc thực hiện bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta trong thời gian qua vẫn chưa được nhận thức đầy đủ, còn có tư tưởng coi nhẹ việc làm này so với việc phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa,... với quan niệm chỉ cần có sự phát triển kinh tế là xã hội phát triển, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này không được quan tâm đúng mức, chưa được đầu tư thỏa đáng đã dẫn tới tình trạng nhiều giá trị văn hóa sinh thái truyền thống không được bảo tồn và phát huy trong điều kiện mới. Việc thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống xem cái nào là tốt đẹp, là tín ngưỡng đích thực vẫn còn giá trị, phù hợp với điều kiện mới cần được bảo tồn; cái nào là lạc hậu, là mê tín dị đoan, không còn giá trị, không còn phù hợp với điều kiện mới cần phải xóa bỏ vẫn còn nhiều khó khăn, chưa được chuẩn xác. Đặc biệt, hiện nay việc xem xét, thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng có rất ít sự tham gia của chính những người dân bản địa - những người hiểu rõ các giá trị này hơn ai hết. Do vậy, việc xác định đúng giá trị đích thực của các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống cần được bảo tồn và phát huy ở vùng này là một vấn đề không dễ. Sự tác động của nền kinh tế thị trường đối với vùng núi Đông Bắc trong thời gian qua đã gây ra sự biến đổi không nhỏ các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng theo cả hướng tích cực lẫn hướng tiêu cực. Dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, bên cạnh những tiến bộ nhất định về mặt kinh tế, nó đã để lại những hậu quả tiêu cực về mặt văn hóa sinh thái. Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống được hình thành từ lâu đời ở vùng này gắn liền với nền kinh tế tự cung, tự cấp trước đây đã bị nền kinh tế hàng hóa phá bỏ và thay vào đó là lối sống thực dụng với phương châm tất cả đều vì lợi ích duy nhất của con người. Vì lý do đó, nhiều khi nó đã đi ngược lại với lợi ích của tự nhiên, phá hoại tự nhiên một cách không thương tiếc. Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng như tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên, tình yêu thiên nhiên của con người nơi đây đã bị xem nhẹ. Tình trạng di dân từ vùng xuôi lên vùng núi Đông Bắc trong thời gian qua đã gây ảnh hưởng, thậm chí làm thay đổi một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này. Với việc xuất hiện một cách ồ ạt những dân di cư ở những vùng khác lên xây dựng kinh tế mới ở vùng núi Đông Bắc đã làm cho mật độ dân số vùng này tăng lên một cách nhanh chóng. Để tồn tại, bắt buộc những người này phải mở rộng đất đai cho việc xây dựng nhà ở và cho canh tác nông nghiệp một cách không có kế hoạch, không có sự kiểm soát chặt chẽ. Từ đó, rừng bị phá hủy nhanh chóng, môi trường bị ô nhiễm, sự gắn bó và bảo vệ thiên nhiên ở đây bị mai một dần. Mặt khác, bản thân những dân di cư ở vùng xuôi lên vùng núi thường sống trong một nền kinh tế công nghiệp phát triển hơn so với miền núi. ở họ, lối sống theo kiểu kinh tế thị trường đã thấm sâu vào trong mọi hoạt động của cuộc sống, đó là lối sống bất chấp tất cả để chạy theo lợi nhuận. Khi đến sinh sống ở vùng núi, lối sống của họ đã có sự ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống vốn dĩ bình yên, hòa mình với tự nhiên của dân cư địa phương. Từ đó, nó góp phần làm cho các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đã từng tồn tại lâu đời ở đây dần dần bị phai mờ trước lối sống hối hả, thực dụng của dân di cư vùng xuôi. * Nguyên nhân chủ quan: Do đặc điểm tự nhiên ở đây có địa hình rất phức tạp, đường sá đi lại khó khăn nên sự giao lưu giữa vùng này với các vùng khác không được mở rộng, người dân ở đây không có điều kiện tiếp cận được các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại một cách nhanh chóng, trình độ dân trí thấp, vì vậy khả năng nhận thức về các quy luật tự nhiên, về mối quan hệ hữu cơ giữa con người và tự nhiên của họ còn hạn chế. Họ chưa có khả năng nhận thức và vận dụng một cách chính xác tất cả các quy luật của tự nhiên, họ chưa hiểu được rằng: "Tài nguyên của hành tinh chúng ta không phải là vô tận, có một cái ngưỡng ta không thể vượt qua để hành tinh của chúng ta còn là một nơi có thể ở được" [39, tr. 27]. Chính vì vậy, con người ở đây nhiều khi vì sự sinh tồn trước mắt đã khai thác tài nguyên thiên nhiên nhất là tài nguyên rừng một cách bừa bãi, từ đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường sinh thái mà chính bản thân con người phải gánh chịu. Cũng vì khả năng nhận thức của con người vùng này còn hạn chế nên người dân ở đây vẫn chưa có ý thức "sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật", vẫn còn tình trạng lệ làng hơn phép nước nên những luật về bảo vệ môi trường, về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống,... chưa được dân cư ở đây nhận thức đầy đủ và tuân theo tuyệt đối. Đời sống kinh tế - xã hội ở đây còn thấp kém, lạc hậu so với các nơi khác đã dẫn tới sự nhận thức của con người trong vùng về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống còn nhiều hạn chế. Họ chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống, họ không hiểu được rằng: Cộng đồng thế giới, do nhận thấy hiểm họa của sự phát triển mà bỏ mặc những giá trị văn hóa và tinh thần, đã hiểu được rằng phát triển kinh tế hay chỉ phát triển giá trị vật chất thôi là chưa đủ. Và nếu chúng ta thắng trong trận chiến đấu phát triển kinh tế mà để mất đi hay thậm chí hủy hoại trí tuệ và các giá trị, các truyền thống của quá khứ để lại cho chúng ta thông qua các nền văn hóa sống động của chúng ta,... đó chỉ là thắng lợi rỗng tuếch [51, tr. 18]. Dân cư ở đây cũng chưa hiểu đúng về nội dung của bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống: hoặc cho rằng, phải giữ nguyên các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống mà không có sự phát huy, phát triển trong điều kiện thời đại mới; hoặc cho rằng, phải xóa bỏ hoàn toàn những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống trước đây vì nó đã lỗi thời, lạc hậu và xây dựng một nền văn hóa sinh thái mới hoàn toàn. Cả hai quan điểm này đều chứng tỏ dân cư ở đây có cách nhìn siêu hình đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng. Trong thời gian qua, việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình ở đây chưa được tốt, mức độ gia tăng dân số ở vùng này còn cao. Từ đó, để đảm bảo cuộc sống bắt buộc dân cư địa phương không còn cách nào khác là phải tăng cường khai thác tự nhiên hơn nữa. Đó là nguồn gốc dẫn tới mối quan hệ giữa con người ở vùng này với tự nhiên đã có sự xung đột, đối lập nhau chứ không hòa hợp với nhau như trước đây. Các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng đã bị xâm phạm khá rõ. Hiện nay tình trạng du canh, du cư vẫn còn tồn tại ở một số nơi vùng sâu, vùng xa mà những nơi này lại chính là đầu nguồn của một số con sông lớn ở miền bắc nước ta. Với cuộc sống du canh, du cư, tất yếu con người ở những nơi này sẽ không tránh khỏi tình trạng đốt phá rừng để trồng, cấy. Sự kết hợp hài hòa giữa con người và tự nhiên bị phá vỡ, thêm vào đó trình độ dân trí của dân cư ở vùng này cũng rất thấp, thậm chí còn nhiều người mù chữ, họ không hiểu được sự cần thiết phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng núi Đông Bắc còn những hạn chế nhất định cần phải nhanh chóng khắc phục. Vậy để khắc phục những tồn tại trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay cần phải có cách giải quyết cụ thể như thế nào? 2.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay 2.2.1. Các nguyên tắc chung của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay Việc đề ra các giải pháp phải nhằm giải quyết những nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ, hạn chế trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay và phải dựa trên một số nguyên tắc cơ bản nhất định. Những nguyên tắc này vừa đáp ứng những đòi hỏi chung của sự phát triển của đất nước, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của vùng. Đồng thời các giải pháp này dù dưới hình thức nào thì đều do chính con người vùng này quyết định là cơ bản, do đó theo chúng tôi, để xây dựng được các giải pháp cụ thể, cần phải đảm bảo một số nguyên tắc chung như sau: Thứ nhất là, đảm bảo nguyên tắc về sự thống nhất giữa tự nhiên - xã hội- con người. Theo quan điểm duy vật biện chứng, tuy thế giới cực kỳ phức tạp và đa dạng, được cấu thành từ nhiều yếu tố, song, suy đến cùng có ba yếu tố cơ bản: giới tự nhiên, con người và xã hội loài người. Ba yếu tố đó tồn tại thống nhất với nhau trong một hệ thống "thiên nhiên - con người - xã hội", bởi vì, chúng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, những đặc tính và những quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động vĩnh viễn và phát triển không ngừng trong không gian và theo thời gian. Chính tự nhiên là tiền đề cho sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của con người. Còn con người sống trong môi trường tự nhiên như một sinh vật, chính con người là kẻ điều tiết và kiểm tra các mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Nhờ đó, giúp con người có cơ sở khoa học để khắc phục những mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nó cho con người thấy rằng, khi giải quyết vấn đề môi trường phải được đặt trong một chỉnh thể hệ thống các mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Mặt khác, quan hệ giữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, xã hội phát triển giúp con người có cơ sở khoa học để tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên thông qua trước hết việc con người giải quyết những mâu thuẫn của chính con người với con người chứ không thể chỉ dựa vào trình độ phát triển cao của khoa học, công nghệ. Cũng nhờ đó mà vai trò chủ thể tích cực của con người trong việc điều khiển mối quan hệ giữa con người - xã hội và tự nhiên được phát huy. Chỉ có con người với sự hoạt động có ý thức mới có khả năng làm biến đổi giới tự nhiên theo mục đích của mình. Trong thực tế, con người nhiều khi do hoạt động tự phát của mình đối với tự nhiên đã để lại cho môi trường tự nhiên nhiều hậu quả tiêu cực, nặng nề đúng như C.Mác đã từng nhắc nhở: văn hóa nếu phát triển một cách tự phát, không được hướng dẫn một cách tự giác thì nó sẽ để lại đằng sau những hoang mạc. Nguyên lý này đã yêu cầu con người trong hoạt động cải tạo tự nhiên phải hành động một cách có ý thức để tránh sự trả thù của tự nhiên bởi vì, cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi đối với giới tự nhiên là một lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta. Thứ hai là, đảm bảo nguyên tắc cho sự phát triển bền vững của vùng và của đất nước. Hội nghị Môi trường thế giới họp ở Rio (Braxin) năm 1992 đã đặt ra vấn đề về sự phát triển bền vững và xác định: nhiệm vụ của toàn nhân loại là phải bảo vệ trái đất như bảo vệ ngôi nhà của mình. Từ đó, các nước đã bắt đầu chính thức đưa vấn đề phát triển bền vững vào môi trường. Nguyên lý này đã yêu cầu con người trong quá trình khai thác tự nhiên không được phá hoại cơ hội của thế hệ sau, của sự phát triển xã hội. Thứ ba là, Phù hợp với điều kiện đổi mới của đất nước và của khu vực. Cùng với sự phát triển của thời đại, cả nước ta nói chung và khu vực vùng núi Đông Bắc nói riêng cũng đang từng ngày đổi mới và phát triển không ngừng. Từ thực tiễn phát triển và thực hiện đổi mới của các nước trên thế giới và nhất là các nước trong khu vực châu á ở thời gian vừa qua đã để lại cho nhân loại một bài học quý giá, đó là: để quá trình đổi mới và phát triển đất nước đạt được kết quả thì các quốc gia không được coi nhẹ vấn đề môi trường, phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái. Nguyên lý này đã yêu cầu con người trong quá trình khai thác và sử dụng tự nhiên vì mục đích phát triển kinh tế phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và đổi mới của đất nước. 2.2.2. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay Trên cơ sở tuân theo các nguyên tắc cơ bản trên, theo chúng tôi cần tiến hành một số giải pháp chủ yếu sau để có thể khắc phục những yếu kém trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta, và từ đó, thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này đạt hiệu quả cao hơn nữa. Một là, phải nâng cao trình độ của "quan trí" và "dân trí" trong vùng đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng. Với việc thực hiện giải pháp này sẽ góp phần khắc phục được một số nguyên nhân gây nên những tồn tại nhất định trong quá trình thực hiện công việc đó, bởi vì: Trước hết, nó nâng cao được sự nhận thức của con người nhất là của các nhà quản lý trong vùng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng. Từ đó, giúp các nhà quản lý có thái độ đúng đắn trong hoạch định chính sách cũng như trong chỉ đạo thực hiện công việc này. Nó cho phép họ thoát khỏi tư tưởng coi nhẹ việc làm này so với việc phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện nâng cao sự hiểu biết của mọi người trong vùng về các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống, giúp họ phân biệt được các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đích thực với những cái lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện mới. Từ đó, giúp cho việc thẩm định, đánh giá các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng này được chuẩn xác hơn, góp phần thúc đẩy chất lượng và hiệu quả của công việc bảo tồn và phát huy các giá trị đó ngày càng được tốt hơn. Mặt khác, với việc nâng cao trình độ dân trí trong vùng còn dẫn tới kết quả làm cho con người ở đây có sự nhận thức đúng đắn về nội dung của bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống, giúp họ tránh được cách nhìn siêu hình đối với công việc này, tránh được sự cực đoan, thái quá trong bảo tồn và phát huy các giá trị đó. Để thực hiện tốt giải pháp trên, cần phải tiến hành một số công việc cụ thể sau: - Nâng cao trình độ nhận thức và năng lực chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn của các nhà quản lý, nhất là các nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa, môi trường của vùng vì họ là những người trực tiếp lãnh đạo việc thực hiện công việc đó, nên năng lực của họ sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công việc. - Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống. Trong đó, đặc biệt chú ý nâng cao trình độ cho những cán bộ là người bản địa vì họ là người hiểu rõ nhất những giá trị đó. - Cần phát triển công tác giáo dục và mở rộng hệ thống tuyên truyền để nâng cao trình độ dân trí cho dân cư địa phương nhất là dân cư ở vùng sâu, vùng xa, giúp họ có nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, về vị trí, vai trò của con người trong hệ thống con người - xã hội - tự nhiên - đây chính là cơ sở chung để giải quyết mọi vấn đề sinh thái. Hai là, phát triển kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho đồng bào trong vùng, chủ yếu là phát triển những ngành, nghề phù hợp với các điều kiện phát triển bền vững - đây chính là cơ sở kinh tế để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này đạt được hiệu quả cao nhất, bởi vì, với giải pháp này sẽ cho phép khắc phục được tình trạng kinh tế - xã hội tập kém lạc hậu vốn đã tồn tại từ bao đời nay. Khi vùng này thoát khỏi đói nghèo thì một mặt, sẽ tạo điều kiện để dân cư trong vùng có cơ hội được học hành, nâng cao trình độ dân trí,nâng cao sự hiểu biết về vai trò và nội dung của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống; mặt khác, nó sẽ tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết góp phần giải quyết những tiêu cực trong mối quan hệ của con người nơi đây với tự nhiên - những cái làm cho các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng có nguy cơ bị mai một như: tình trạng đốt phát rừng bừa bãi, khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ,... Để thực hiện tốt giải pháp trên, cần phải tiến hành một số việc sau đây: - Xóa bỏ hình thức sản xuất tự cấp, tự túc vốn đã tồn tại ở đây từ lâu đời, tạo điều kiện để kinh tế thị trường phát triển. Qua đó, tạo ra động lực để thúc đẩy kinh tế vùng này phát triển, thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Tuy nhiên, cũng phải có biện pháp khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường đã gây ra sự biến đổi mang tính tiêu cực của các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này. - Xóa bỏ sự độc canh trong sản xuất nông nghiệp ở vùng núi Đông Bắc, nhất là ở những nơi vùng sâu, vùng xa. Xây dựng được một cơ cấu kinh tế phù với điều kiện của vùng. Ngoài sản xuất cây lương thực, ở đây còn có thể phát triển một số ngành như: trồng các cây công nghiệp (quế, hồi,..), trồng rừng để cung cấp nguyên liệu cho một số ngành sản xuất công nghiệp,... - Giúp đỡ vốn, khoa học công nghệ cho dân cư trong vùng để họ có điều kiện về kinh tế và kỹ thuật nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất. Từ đó góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư trong vùng. - Kiên quyết xóa bỏ tình trạng du canh du, cư tự do, kể cả đi và đến ở một số nơi vùng sâu, vùng xa. Ba là, nâng cao chất lượng công tác thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Đây là một trong những giải pháp có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta, bởi vì, nếu việc thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống được thực hiện tốt thì sẽ cho phép chúng ta xác định đúng được đối tượng cần phải bảo tồn và phát huy. Từ đó, sẽ cho phép khắc phục được những sai lầm, cực đoan trong công tác này. Nó giúp chúng ta giữ lại những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đích thực, còn phù hợp, đồng thời loại bỏ những cái đã trở nên cổ hủ, lạc hậu, không còn phù hợp với điều kiện hiện nay một cách chính xác nhất. Để thực hiện tốt giải pháp trên, cần phải tiến hành một số việc sau đây: - Đầu tư đầy đủ tiền đề vật chất, những trang thiết bị có trình độ kỹ thuật cao để phục vụ tốt hơn cho công việc thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này. - Nâng cao năng lực chuyên môn và kinh nghiệm thực tế cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Bốn là, cần phải đầu tư cho việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng vật chất ở vùng núi Đông Bắc, bởi vì: Trước hết, nó góp phần khắc phục được tình trạng đói nghèo, lạc hậu đã từng đeo bám đời sống con người vùng này từ ngàn đời nay. Khi cơ sở hạ tầng vật chất của vùng được hoàn thiện cũng có nghĩa là nó đã tạo ra được một môi trường thuận lợi cho quá trình sản xuất ở đây phát triển. Điều này làm cho nền kinh tế ở vùng núi Đông Bắc có một sự khởi sắc, đổi mới và phát triển không ngừng. Bên cạnh đó, nó còn tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu giữa vùng này với các vùng khác. Qua đó, tạo điều kiện cho dân cư ở đây tiếp cận được những thành tựu khoa học hiện đại, nâng cao trình độ dân trí dẫn tới họ có cách thức khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và không ngừng nâng cao chất lượng môi trường sống của vùng như: thực hiện công nghệ khép kín, thay công nghệ cũ bằng những công nghệ cao, công nghệ sạch,... Để thực hiện giải pháp trên, cần phải tiến hành một số công việc cụ thể sau: - Ưu tiên đầu tư vốn và trang, thiết bị cho công việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng vật chất ở vùng này. Ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước còn có thể huy động cả các nguồn vốn khác ở trong và ngoài nước. - Thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất cho khu vực miền núi Đông Bắc phải vừa phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng, vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước. Trong quá trình đó, phải quản lý và giám sát chặt chẽ các quy trình xây dựng và thẩm định của các công trình. Năm là, trong thời gian tới phải làm tốt công tác kế hoạch hóa gia đình dưới mọi hình thức từ tuyên truyền, giáo dục đến xử phạt hành chính để giảm tỷ lệ gia tăng dân số ở vùng này xuống mức phù hợp với mục tiêu chung của cả nước. Việc thực hiện giải pháp này là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc được thực hiện có hiệu quả hơn, bởi vì: Chính việc gia tăng dân số nhanh là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo, lạc hậu ở vùng này trong thời gian vừa qua. Vì vậy, nếu chúng ta làm tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, giảm được tốc độ gia tăng dân số thì sẽ góp phần không nhỏ vào việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo, làm cho nền kinh tế ở đây phát triển. Từ đó, sẽ có cơ sở kinh tế để các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này được bảo tồn và ngày càng được phát huy hơn nữa. Tỷ lệ gia tăng dân số giảm còn góp phần cải thiện được tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do mật độ dân số tăng nhanh trong vùng như hiện nay. Để thực hiện tốt giải pháp trên, cần tiến hành một số công việc sau: - Mở rộng công tác tuyên truyền về kế hoạch hóa gia đình nhằm làm cho dân cư trong khu vực thấy được mức độ ảnh hưởng của dân số đến đời sống kinh tế và vấn đề môi trường sinh thái. - Có sự đầu tư thỏa đáng cho công tác kế hoạch hóa gia đình, nhất là đối với khu vực vùng sâu, vùng xa từ đội ngũ cán bộ đến phương tiện thực hiện công việc này. Trên đây là một số giải pháp chủ yếu (chứ không phải là duy nhất) cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Cùng với thời gian, các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống cũng có sự thay đổi nhất định. Nó có thể được bảo tồn, giữ nguyên, hoặc được phát huy, phát triển, hay đã trở thành những cái cổ hủ, lạc hậu, lỗi thời cần phải xóa bỏ. Chính vì vậy, các giải pháp đưa ra cũng chỉ mang tính định hướng, nó cần phải được bổ sung thường xuyên để phù hợp với điều kiện phát triển mới. Tuy nhiên, giải pháp đưa ra bao giờ cũng phải tuân theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, đó là: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, và ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Kết luận chương 2 Được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, vùng núi Đông Bắc nước ta đã thu được một số thành tựu quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng, các giá trị chân, thiện, mỹ vẫn thể hiện rõ nét trong đời sống mới của con người nơi đây. Dưới sự tác động của kinh tế thị trường nó cũng có những biến tướng tiêu cực và còn tồn tại một số cái cổ hủ, lạc hậu không còn phù hợp với thời kỳ cách mạng mới; còn tồn tại những hạn chế này vừa do những nguyên nhân chủ quan vừa do những nguyên nhân khách quan khác nhau. Muốn khắc phục được những hạn chế đó phải dựa trên các giải pháp và các nguyên tắc chung của cả nước, trên cơ sở đó mới khắc phục những hạn chế cụ thể, đặc thù của vùng này như điều kiện địa lý phức tạp, khí hậu khắc nghiệt, trình độ hiểu biết về khoa học, công nghệ của đại bộ phận dân cư còn rất thấp, kinh tế - xã hội kém phát triển, v.v... và đưa ra giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng một cách hiệu quả. kết luận Văn hóa sinh thái là một bộ phận của văn hóa nói chung - của "giới tự nhiên thứ hai" do con người sáng tạo ra. Trong quá trình sinh tồn của mình, con người bắt buộc phải có quan hệ với tự nhiên, phải cải tạo và biến đổi nó nhằm phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của mình. Thông qua quá trình tác động vào tự nhiên, con người đã dần dần khám phá ra những quy luật vốn có của nó. Nhờ đó, con người đã đóng vai trò tích cực trong mối quan hệ đối với tự nhiên, con người không còn bị lệ thuộc một cách thụ động vào tự nhiên như ở thời kỳ sơ khai nữa. Đồng thời, trong quá trình tác động và làm biến đổi giới tự nhiên để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần, con người đã ứng xử trong sáng, lành mạnh và hài hòa với tự nhiên, tạo ra được những cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ với tự nhiên. Tất cả những giá trị mà con người có được trong cách ứng xử đó chính là biểu hiện những giá trị của văn hóa sinh thái. Như vậy, vấn đề văn hóa sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề môi trường. Hiện nay, vấn đề môi trường và tự nhiên đang đứng trước nguy cơ: sinh thái bị hủy diệt, môi trường bị ô nhiễm, tầng ôzôn bị thủng, rừng bị tàn phá, đất đai bị xói mòn, tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt,... Đây chính là cái giá mà con người phải trả cho những hành vi "chinh phục" tự nhiên không có giới hạn của mình. Do vậy, vấn đề văn hóa sinh thái đã trở thành vấn đề cấp bách và đang được cả loài người quan tâm. Khu vực miền núi Đông Bắc nước ta có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và kinh tế - xã hội lạc hậu, qua đó đã hình thành một vùng văn hóa sinh thái có những giá trị truyền thống mang bản sắc riêng. Trong đó mang đậm nét nhân văn của con người đối với tự nhiên. Con người ở đây từ lâu đời đã có truyền thống sống hài hòa với tự nhiên; có tình yêu vô bờ đối với thiên nhiên; có lối sống luôn tìm cách thích ứng với tự nhiên trong mọi hoạt động sống. Đó cũng chính là những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng. Hiện nay, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và của các nền văn hóa khác, các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này đang có những biến đổi sâu sắc. Bên cạnh việc tiếp thu được những mặt tiến bộ, hiện đại của những nền văn hóa khác, các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở đây cũng đang có những biến đổi theo hướng tiêu cực, nhiều giá trị văn hóa sinh thái truyền thống tốt đẹp đã bị lai căng, thậm chí còn bị mai một, bị chính con người bản địa - những người sáng tạo ra nó quay lưng lại. Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này là một vấn đề mang tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Cũng cần phải hiểu rằng, các giá trị văn hóa sinh thái được con người sáng tạo ra dựa trên một phương thức sống thích ứng với tự nhiên nên bảo tồn các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống không có nghĩa là giữ lại một cách nguyên xi tất cả những giá trị đang có mà chỉ giữ lại những cái vẫn còn giá trị và phù hợp với điều kiện cụ thể hiện nay, thậm chí có cái phải phát huy cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Còn những cái đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện hiện nay, những cái đã bị coi là hủ tục thì cần phải kiên quyết xóa bỏ. Mặt khác, bảo tồn và phát huy cũng không đồng nghĩa với "khép kín" mà vẫn phải mở rộng giao lưu với các nền văn hóa khác trên cơ sở "hòa nhập" nhưng không được "hòa tan". Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo thực hiện của Nhà nước mà trực tiếp là của các cấp, ban, ngành có liên quan, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Để có được những thành tựu đó, ngoài sự tham gia của các cơ quan, tổ chức làm công tác này, còn có sự tham gia của chính những người dân trong vùng với lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái và sự hiểu biết của họ về giới tự nhiên ngày càng được nâng cao hơn. Song, bên cạnh đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém nhất định. Nhiều khi thực hiện công việc này vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả đạt được trong thực tế chưa cao. Sở dĩ có những tồn tại đó là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà trong thời gian tới chúng ta cần phải khắc phục. Để việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay đạt được kết quả tốt hơn, cần phải có những giải pháp cụ thể, mang tính thiết thực và phù hợp với hoàn cảnh mới. Muốn vậy, việc đề ra và thực hiện những giải pháp đó một mặt phải cho phép khắc phục được những nguyên nhân gây nên tình trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này còn có hạn chế nhất định; mặt khác, nó còn phải dựa trên những nguyên lý cơ bản với tư cách là cơ sở triết học - xã hội của mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên. Với việc tuân theo những yêu cầu này, chúng ta nhất định sẽ thực hiện tốt việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng này nói riêng cũng như các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của cả nước nói chung. Danh mục các công trình đã được công bố của tác giả có liên quan đến đề tài luận văn 1- Trần Thị Hồng Loan (2002), "Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam dưới tác động của kinh tế thị trường", Văn hóa các dân tộc, (3), tr. 41-44. 2- Trần Thị Hồng Loan (2002), "Một số vấn đề về văn hóa sinh thái ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay", Triết học, (5), tr. 58- 61. danh mục Tài liệu tham khảo 1. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội. 2. Trần Lê Bảo (Chủ biên), Nguyễn Xuân Kính, Vũ Minh Tâm, Phạm Thị Ngọc Trầm (2001), Văn hóa sinh thái - nhân văn, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 3. Phạm Văn Boong (2001), Xây dựng ý thức sinh thái - yếu tố bảo đảm cho sự phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 4. Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái Vinh (2002), Văn hóa các dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), "Vấn đề khai thác giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển", Triết học, (2), tr. 16-19. 6. Nguyễn Trọng Chuẩn - Phạm Văn Đức - Hồ Sĩ Quý (đồng Chủ biên) (2001), Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về triết học - con người - xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 8. Nguyễn Viết Chức (Chủ biên), Đỗ Huy, Huỳnh Khái Vinh, Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 9. Bùi Văn Dũng (1999), Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. V.K. Gac-đa-nôp (1962), Lê-nin với việc bảo vệ di sản văn hóa, xây dựng bảo tàng, Nxb Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội. 16. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 17. Hiến pháp năm 1992 (1992), Nxb Sự thật, Hà Nội. 18. Phạm Quang Hoan - Hùng Đình Quý (1999), Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 19. Hội Văn học - Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), Sáng tạo và bảo tồn giá trị văn hóa, văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam, in tại Trường Trung học Kỹ thuật In, Hà Nội. 20. Đỗ Huy - Trường Lưu (1993), Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 21. Đỗ Huy (1994), Chân - thiện - mỹ sự thống nhất và đa dạng trong văn hóa nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 22. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay - Từ góc nhìn giá trị học, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 23. Nguyễn Văn Huyên (1999), "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc", Triết học (1), tr. 5 - 8. 24. Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 25. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, Môi trường và Văn hóa, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 26. Đỗ Thị Ngọc Lan (1995), Mối quan hệ giữa thích nghi và biến đổi môi trường tự nhiên của con người trong quá trình hoạt động sống, Luận án phó tiến sĩ khoa học Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 27. Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phong (1998), Hồ Chí Minh văn hóa và đổi mới, Nxb Lao động, Hà Nội. 28. Trường Lưu (1999), Văn hóa - một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Nguyễn Xuân Nguyên (1996), "Một số quan hệ tác động đến diện tích đất trống đồi trọc tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (221), tr. 19-26. 33. Hùng Đình Quý (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Giang xuất bản. 34. Hồ Sĩ Quý (1999), Tìm hiểu về văn hóa và văn minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1993), Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Tập thể tác giả (1995), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản. 37. Lê Ngọc Thắng - Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 38. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 39. Chu Khắc Thuật - Nguyễn Văn Thủ (1998), Văn hóa, lối sống với môi trường, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 40. Nguyễn Hữu Tiến (1997), "Di cư tự do: Thực trạng và kiến nghị", Tạp chí Cộng sản (7), tr. 55-59. 41. Lại Văn Toàn (1999), Truyền thống và hiện đại trong Văn hóa, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội. 42. Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái - Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), "Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong điều kiện kinh tế thị trường", Triết học, (12), tr. 14-19. 44. Phạm Thị Ngọc Trầm (2003), "Những giá trị văn hóa sinh thái nhân văn Hồ Chí Minh", Triết học, (12), tr. 14-19. 45. Phạm Thị Ngọc Trầm (2004), "Về cách tiếp cận Triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp", Triết học, (6), tr. 23-31. 46. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002), Tính đa dạng của văn hóa Việt Nam: Những tiếp cận về sự bảo tồn, Hà Nội. 47. Nguyễn Văn Tuyên (1998), Sinh thái và môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 48. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 49. ủy ban dân tộc (2003), Kỷ yếu diễn đàn phát triển bền vững miền núi Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 50. ủy ban dân tộc (2003), Một số vấn đề về bảo vệ môi trường vùng dân tộc và miền núi, Nxb Thống kê, Hà Nội. 51. ủy ban quốc gia về Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa - ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Vũ Khiêu - Phạm Xuân Nam - Hoàng Trinh (1993), Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 52. Huỳnh Khái Vinh (2000), Phát triển văn hóa, phát triển con người, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 53. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi đông bắc nước ta 10 1.1. Giá trị văn hóa sinh thái - một số vấn đề lý luận 10 1.2. Một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta 26 Chương 2: thực trạng và giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi đông bắc nước ta hiện nay 47 2.1. Thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay 47 2.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay 59 Kết luận 68 danh mục các công trình đã được công bố của tác giả có liên quan đến đề tài luận văn 71 Danh mục tài liệu tham khảo 72

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay.pdf
Luận văn liên quan