Chính sách dân tộc là một bộ phận trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong
sự nghiệp cách mạng. Cùng với đồng bào dân tộc Kinh, đồng bào các dân tộc thiểu số
đều có truyền thống cách mạng kiên cường và rất vẻ vang, gắn bó sắt son với Đảng, với
Bác Hồ. Trước cách mạng nơi sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số nhất là vùng rừng
núi là nơi để Đảng tập hợp và xây dựng lực lượng. Trong đấu tranh giành độc lập là căn
cứ địa cách mạng và ngày nay vùng núi và vùng dân tộc thiểu số vẫn được Đảng ta xác
định là địa bàn chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để đền đáp công lao to lớn của đồng bào các dân tộc trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn trăn trở, tìm mọi giải pháp để thực hiện cho
được mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
90 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3567 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược tăng cường và củng cố.
Thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Công tác bồi dưỡng và tập
huấn cho cán bộ được quan tâm nên số đông anh chị em đã phát huy được tác dụng, làm
tốt công tác vận động quần chúng. Vì thế trong những năm qua nhiều phong trào do Mặt
trận và Đoàn thể phát động như phong trào giúp nhau làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo,
đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ an ninh Tổ quốc, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân
cư... được đông đảo nhân dân tham gia và đạt kết quả cao.
Xác định địa bàn miền núi có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng và an
ninh nên Tỉnh ủy luôn chỉ đạo cho các địa phương xây dựng các lực lượng dân quân, tổ
an ninh nhân dân cùng với lực lượng Mặt trận và các đoàn thể thường xuyên cảnh giác
trước mọi âm mưu của kẻ địch trong việc chống phá cách mạng ở nước ta, chia rẽ khối
đoàn kết dân tộc. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời việc truyền đạo trái phép, các vụ việc
gây mất đoàn kết, ngăn chặn một số tệ nạn như rượu chè, bầu dầu, chặt phá rừng, buôn
bán lâm sản trái phép... Vì thế an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc
thiểu số được giữ vững.
Đối với vùng đồng bào Chăm
Trước đây, dân tộc Chăm chủ yếu là trồng lúa nước, thì hiện nay ngoài việc
trồng lúa nước bà con đã trồng thêm cây công nghiệp như cây thuốc lá, cây mía, cây
điều, cây ăn quả, cây nho, cây hoa màu... Việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật
đã được thực hiện thay thế cách làm theo kinh nghiệm như sản xuất đúng thời vụ, chọn
giống tốt, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chăm sóc cây trồng, vật nuôi. Năng
suất lúa ngày càng tăng, năm 1992 năng suất chỉ đạt 35 tạ/ ha/vụ, đến năm 2000 tăng
lên là 50 - 60 tạ/ha/vụ. Có nơi đạt 70 - 80 tạ/ha/vụ. Bình quân lương thực đầu người
tăng từ 300 kg lên 500 kg/người/ năm. Đặc biệt xã Phước Thái đạt 1.026 kg/người/năm,
xã Phước Hậu đạt 902 kg/ người. Trong quá trình phát triển sản xuất đã nổi lên một số
hộ điển hình làm ăn giỏi. Về trồng lúa có ông Đổng Hoàng, Quảng Nói (xã Phước
Thái), ông Nguyễn Tỏi (Thành Hải), ông Dương Minh Nhã, Quảng Đại Tập (Phước
Hậu), Từ Tức, Kiều Minh Tiến (An Hải), Đạt Văn Thất, Đàng Đồng, Trượng Bộ
(Phước Dân) đạt từ 7 - 10 tấn/ha/ vụ. Trồng thuốc lá có hộ đạt 45 tạ/ha/vụ như hộ ông
Quảng Đại Lách (Phước Thái). Cây mía có hộ đạt 110 tấn/ha/vụ như hộ ông Quảng
Thanh. ở các vùng không chủ động được nước như thôn Hậu Sanh (xã Phước Hữu),
thôn Hiếu Thiện, thôn Vụ Bổn, thôn Văn Lâm (xã Phước Nam) đã trồng các loại cây
hoa màu và các cây họ đậu cũng đạt năng suất cao, nhiều hộ thu nhập từ 05 - 10 triệu
đồng/năm.
Về chăn nuôi ở các vùng đồng bào Chăm đã có chiều hướng phát triển tốt, đặc
biệt là đàn gia súc có sừng, trước đây ở các vùng đồng bào Chăm theo đạo Bà la môn
rất ít nuôi bò nay đã phát triển khá mạnh. Tổng số đàn trâu bò ở các xã có đồng bào
Chăm từ 8.117 con (1992) đã phát triển lên 16.202 con. Hầu hết các hộ người Chăm Bà
la môn đều nuôi lợn, bình quân mỗi hộ nuôi 2- 3 con, đặc biệt có hộ nuôi từ 40 - 50 con.
Đàn dê cừu tăng từ 2.782 con (1992) lên 7.253 con. Hiện nay có 75 trang trại ở vùng
đồng bào Chăm, trong đó số trang trại chăn nuôi có qui mô đàn gia súc từ 50 - 100 con
như hộ Quảng Tài, Hán Tơ (xã Phước Thái), Đàng Ngộ (Phước Hữu), có hộ nuôi từ 200
- 300 con như hộ ông Từ Tứ (xã Phước Hải)... ở vùng đồng bào Chăm theo đạo Bà ni,
phát triển chăn nuôi bò, dê, cừu là chính như ở các thôn Văn Lâm, An Nhơn, Phước
Nhơn, Lương Tri... Chăn nuôi không chỉ phát triển về số lượng mà cả chất lượng, đồng
bào đã quan tâm đến việc chọn giống tốt, làm chuồng trại, thức ăn, phòng ngừa dịch
bệnh... Vì thế chăn nuôi đã trở thành một thế mạnh và nguồn thu nhập quan trọng trong
đời sống kinh tế của đồng bào Chăm.
Bên cạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, ngành nghề truyền thống trong đồng
bào Chăm được khôi phục phát triển theo hướng kinh tế hàng hóa như dệt thổ cẩm ở
thôn Mỹ Nghiệp (Phước Dân). Nhiều hộ đã đầu tư cải tiến kỹ thuật, mẫu mã và sản xuất
có lãi, được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng, thu hút nhiều lao động có thu
nhập cao. Nghề làm đồ gốm tuy có phát triển nhưng việc tiêu thụ sản phẩm còn gặp rất
nhiều khó khăn. Ngoài ra còn phát triển ngành nghề dịch vụ khác như kinh doanh thuốc
tây, tạp phẩm, đại lý vật tư, dịch vụ làm đất, xay xát lương thực, trồng và bán thuốc
nam... Chính từ sự phát triển đa dạng các ngành nghề đã làm cho ý thức tự lực, tự
cường, tư tưởng năng động trong đồng bào được nâng lên góp phần rất lớn trong quá
trình phát triển kinh tế và nâng cao đời sống.
Quá trình đầu tư cho phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng đồng
bào Chăm như công trình thủy lợi, đường giao thông, hệ thống điện, nước sinh hoạt
nông thôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư trong những năm qua với tổng số
vốn gần 200 tỷ đồng nhằm phục vụ nước tưới cho các xã vùng đồng bào Chăm của
huyện Ninh Phước gồm các xã Phước Nam, Phước Hữu.
Việc tạo điều kiện cho bà con vay vốn được Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn, Ngân hàng người nghèo và các nguồn vốn khác cho đồng bào vay trên
11,356 tỷ đồng. Với nguồn vốn này bà con đã sử dụng đúng mục đích đầu tư vào sản
xuất có hiệu quả trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và phát triển các
ngành nghề.
ở những vùng có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt hoặc ở những vùng có thiên tai
xảy ra, tỉnh đã miễn giảm các khoản thuế, nợ cho bà con. Cụ thể như ở xã Phước Nam
năm 1998 - 1999 xảy ra lũ lụt, tỉnh đã miễn giảm thuế cho 1.229 hộ, đồng thời cho các
hộ tiếp tục vay vốn để có điều kiện khôi phục sản xuất.
Nhìn chung, kinh tế trong vùng đồng bào Chăm đã có bước phát triển rõ nét,
đời sống của đại đa số bà con hiện nay đã được nâng lên so với trước. Huyện Ninh
Phước số hộ khá tăng lên đáng kể, số hộ nghèo giảm 2,5%. Huyện Ninh Hải hộ khá và
trung bình năm 1992 là 51,4% đến năm 2000 tăng lên 86%, số hộ nghèo đói từ 45,6%
đến nay chỉ còn 14%. Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được cải thiện về nhiều
mặt, tổng thu nhập tăng gấp hai lần so với năm 1992. Số nhà xây kiên cố, mua sắm các
phương tiện phục vụ sản xuất như máy cày, máy tuốt lúa, máy xay xát, mua sắm các
phương tiện phục vụ đời sống sinh hoạt ngày càng tăng, bình quân 100 hộ: 32 hộ có xe
máy, 60 hộ có phương tiện nghe, nhìn. Đến nay 22 làng Chăm đã có điện thắp sáng, có
điện thoại...
Đã quan tâm xây dựng đời sống văn hóa ở vùng đồng bào Chăm. Đến nay đã
xây dựng được 9 làng văn hóa Chăm. Một số tập tục lạc hậu được xóa bỏ dần, bản sắc
văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được bảo tồn, phát huy và phát triển theo hướng
tiến bộ như các lễ hội: Lễ hội Katê, Ramadan... Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm đã
được xây dựng, củng cố và đi vào hoạt động. Các làng Chăm đều có đội văn nghệ, bóng
đá, bóng chuyền, Đoàn nghệ thuật dân gian Chăm của Tỉnh cũng được thành lập nhằm
mục đích bảo tồn và phát triển văn hóa Chăm, thường lưu diễn phục vụ trong các dịp lễ
hội, đi lưu diễn ở các tỉnh, tham gia các cuộc thi trong toàn quốc, đã đạt được 29 huy
chương vàng, 17 huy chương bạc và nhiều bằng khen.
Nhiều làng Chăm đã hình thành các loại quỹ khuyến học, khuyến tài, quỹ tộc
họ, quỹ người cao tuổi nhằm động viên khuyến khích con em người Chăm, nhằm giúp
đỡ nhau vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Đội ngũ nghiên cứu sưu tầm văn hóa
Chăm ngày càng nhiều ở hầu hết các lĩnh vực: văn học, thơ ca, điêu khắc, nhạc, múa...
tiêu biểu như học giả Isara, tiến sĩ Thành Phần, nghệ nhân Trượng Tốn, họa sĩ Đàng
Năng Thọ, đạo diễn múa Đàng Quang Dũng, nhạc sĩ Amư Nhân... chữ viết của dân tộc
được nghiên cứu biên soạn và đưa vào giảng dạy cho học sinh ở bậc tiểu học trong các
làng Chăm. Đến nay đã có 100% trường tiểu học vùng Chăm và 98% học sinh Chăm
được học tiếng Chăm mỗi tuần 4 tiết. Tiếng Chăm được đài phát thanh và truyền hình
Tỉnh xây dựng thành chương trình phát sóng tạo thuận lợi cho bà con dân tộc. Các Tháp
Chăm như Pôklông Gia Rai, Pôrômê đã được trùng tu tạo điều kiện cho bà con lên cúng
tế và múa hát vào các ngày lễ hội và phục vụ khách tham quan du lịch. Văn hóa Chăm
cũng được bảo tồn, phát triển đã viết thành sách như cuốn Văn hóa Chăm, Từ điển
Chăm - Việt, Văn học Chăm...
Một số nghi thức trong các nghi lễ gây tốn kém, kéo dài thời gian ảnh hưởng
đến vệ sinh môi trường đã được các chức sắc và các tín đồ xóa bỏ dần, rõ nhất là trong
đám thiêu của người Chăm Bà la môn.
Đến nay tất cả các xã có đồng bào Chăm sinh sống đều có trạm y tế. Một trạm
có từ 3 - 5 y sĩ, y tá, được trang bị dụng cụ y khoa và thuốc men cần thiết để khám và
chăm sóc sức khỏe ban đầu. Đồng thời tiêm chủng phòng ngừa 6 bệnh cho trẻ em, vận
động và thực hiện kế hoạch hóa gia đình, vận động thực hiện nếp sinh hoạt vệ sinh,
phòng ngừa các dịch bệnh... Nhờ đó ý thức phòng và chữa bệnh của đồng bào đã tiến
bộ. Không còn tình trạng cúng bái khi bị bệnh mà thường đưa đến trạm xá, bệnh viện để
khám và điều trị. Vì vậy, các dịch bệnh ít xảy ra, tỷ lệ sinh đẻ có giảm. Trước đây mỗi
cặp vợ chồng thường có từ 5 con trở lên thì hiện nay đặc biệt là các cặp vợ chồng trẻ
thường có tối đa là 4 con, ít nhất là 2 con. Chính sách miễn giảm viện phí cho các gia
đình nghèo cũng được tỉnh và huyện quan tâm, chẳng hạn huyện Ninh Phước đã cấp
323 thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo, các đối tượng chính sách. Đội ngũ y, bác sĩ là
người Chăm phát triển ngày càng nhiều, đã có hơn 40 bác sĩ và hơn 200 y sĩ, y tá làm
việc tại các trạm xá, trung tâm y tế huyện và bệnh viện tỉnh.
Từ 1992 đến nay hệ thống trường lớp, đội ngũ giáo viên và học sinh ở vùng
Chăm ngày càng phát triển. Có 718 giáo viên người Chăm trên tổng số 5.442 giáo viên
toàn tỉnh đạt 13,3%. Tất cả các làng Chăm đều có trường tiểu học, ở các xã có trường
trung học cơ sở, lên phổ thông trung học thì có trường ở huyện, thị xã và trường dân tộc
nội trú của tỉnh. Số lượng học sinh Chăm ở các cấp năm học 1999 - 2000 như sau: Tiểu
học 10.185 đạt tỉ lệ 13,6%, trung học cơ sở 2.858 đạt tỉ lệ 15,3%, trung học phổ thông 308
đạt tỉ lệ 13,5%. Bình quân 4 người Chăm có 1 người đi học. Công tác xóa mù chữ được
thực hiện và đạt kết quả tốt ở các làng Chăm. Quan tâm tạo điều kiện cho học sinh người
Chăm tốt nghiệp phổ thông trung học vào học trường Dự bị Đại học dân tộc Trung ương
và các lớp riêng trong toàn quốc. Nhờ vậy đến nay số sinh viên người Chăm đã học và tốt
nghiệp ở các trường Đại học, Cao đẳng trong cả nước (đã ra trường và đang học) trên 600
người. Đây là một thành quả rất lớn của Đảng và Nhà nước ta từ sau ngày giải phóng.
Chính từ đó đã tạo ra được đội ngũ cán bộ, trí thức ngày càng nhiều, đáp ứng được việc
xây dựng và phát triển vùng đồng bào Chăm trong tình hình mới. Đến nay trong đồng
bào Chăm có 3 tiến sĩ, 1 thạc sĩ và trên 200 người tốt nghiệp đại học.
Tình hình an ninh chính trị ở vùng dân tộc Chăm nhìn chung được giữ vững.
Các dân tộc cư trú xen kẽ với nhau đoàn kết, thân tình, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc
sống. Bà con thường đi thăm lẫn nhau trong các ngày lễ tết của từng dân tộc. Khi có
những vụ việc mâu thuẫn xích mích xảy ra, mặt trận, chính quyền thôn, xã hết sức quan
tâm động viên hòa giải giữ gìn đoàn kết. Một số vụ việc phức tạp gây mất đoàn kết
trong nội bộ dân tộc, tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với nhau đều được tập trung
giải quyết có lý có tình trên cơ sở pháp luật. Một số thanh thiếu niên hư hỏng, chia băng
nhóm uống rượu gây gổ mất trật tự công cộng đều được phát hiện, ngăn chặn giáo dục
kịp thời. Mặt khác, cũng đã xử lý nghiêm những kẻ kích động gây chia rẽ trong đồng
bào. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được các địa phương phát động và
thực hiện có hiệu quả trong vùng đồng bào Chăm.
Trong những năm qua nhờ sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền công
tác quần chúng ở vùng dân tộc Chăm đã có những tiến bộ đáng kể, tất cả các thôn Chăm
đều có tổ chức đoàn thanh niên, phụ nữ và hội nông dân. Công tác xây dựng lực lượng
cốt cán, phát triển Đảng cũng được các ngành các cấp quan tâm. Đến năm 2000 toàn
tỉnh đã có 172 đảng viên là người Chăm. Hầu hết các đảng viên người Chăm đều còn
trẻ, có trình độ và lòng nhiệt tình cách mạng. Hiện nay ở vùng dân tộc Chăm đã xây
dựng được 3 đảng bộ và 7 chi bộ đảng.
Công tác đào tạo cán bộ ở vùng Chăm cũng đã được quan tâm đúng mức. Hầu
hết các xã có đồng bào Chăm sinh sống, các cán bộ chủ chốt ở xã đều có người Chăm,
có trên 100 đại biểu Hội đồng nhân dân. Tính chung cán bộ cấp xã thuộc dân tộc thiểu
số ở tỉnh Ninh Thuận chiếm 28,4% so với bình quân chung cả nước tỷ lệ này là 15,5%.
ở cấp huyện một số chức vụ quan trọng cũng có người Chăm đảm nhiệm như trong
Thường vụ Huyện ủy như Chủ tịch ủy ban nhân huyện, Trưởng ban Dân vận, Chủ tịch
Mặt trận, Chủ tịch Hội Nông dân... ở cấp tỉnh trong cấp ủy, đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân cũng có người Chăm tham gia.
Tóm lại, nhờ những thành quả đạt được trong phát triển kinh tế xây dựng cơ sở
hạ tầng trên lĩnh vực văn hóa, xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số đã có nhiều chuyển
biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số từng
bước được cải thiện, sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế có những bước tiến, hầu khắp các
xã trong tất cả các dân tộc thiểu số đều đã có trường phổ thông cơ sở, hệ thống trường
dân tộc nội trú được hình thành ở nhiều nơi, việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân
tộc thiểu số được quan tâm chú ý, đã bước đầu khắc phục được những căn bệnh mà dân
cư miền núi, vùng cao thường gặp như sốt rét, bướu cổ, tiêu chảy... Bộ mặt nông thôn
miền núi vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang thay da đổi thịt hàng ngày. Tuy nhiên
những thành quả nêu trên chỉ là bước đầu.
2.2.2. Những thiếu sót trong việc thực hiện chính sách dân tộc
Hiện nay về cơ bản vùng dân tộc và miền núi tỉnh Ninh Thuận vẫn là vùng kinh
tế chậm phát triển, đời sống đồng bào các dân tộc còn gặp rất nhiều khó khăn
Về kinh tế: Vùng dân tộc và miền núi phát triển còn chậm, chưa đồng đều giữa
các vùng. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng phát triển hàng hóa
mới chỉ là bước đầu. ở khu vực III còn chưa thoát khỏi tính tự túc tự cấp, trình độ canh
tác còn lạc hậu, năng suất và sản lượng đạt thấp. Trong nông nghiệp trồng trọt là chủ
yếu, 85% diện tích canh tác phụ thuộc vào thiên nhiên, việc áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất chưa đáng kể. Về chăn nuôi còn phân tán, chăn thả tự nhiên, chưa hình
thành những trang trại chăn nuôi lớn. Đàn gia súc có phát triển về số lượng nhưng chất
lượng thấp, chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường. Công tác qui hoạch đồng cỏ, qui
hoạch vùng để phát triển chăn nuôi chưa được thực hiện dẫn đến tình trạng vào mùa khô
thiếu thức ăn, nước uống... Việc thực hiện cơ cấu kinh tế nông lâm kết hợp chưa được
chú trọng. Chưa qui hoạch chi tiết cây trồng, vật nuôi, việc quản lý đất đai ở các xã
miền núi chưa chặt chẽ. Từ đó một số người miền xuôi lợi dụng lên miền núi mở trang
trại để phát triển chăn nuôi không đúng qui hoạch. Việc giao rừng khoán quản cho đồng
bào các dân tộc tại chỗ thực hiện chưa tốt, chưa gắn được việc giao rừng chăm sóc bảo
vệ với nghề rừng. Tình trạng đốt nương làm rẫy ở một số nơi vẫn còn tái diễn.
Những năm qua đã có sự quan tâm đầu tư cho miền núi khá lớn, tính tất cả các
chương trình, dự án Trung ương và địa phương đầu tư cho vùng dân tộc và miền núi
mỗi năm trên 22 tỷ đồng (chưa kể các công trình lớn trên 100 tỷ đồng như công trình hồ
Tân Giang, hồ Sông Sắt, quốc lộ 27B...) nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của
vùng dân tộc và miền núi. Một số công trình thủy lợi, nước sinh hoạt, trụ sở, trạm xá,
trường học chất lượng kém và không phát huy hiệu quả. Một số công trình giao thông
được nâng cấp tu sửa nhưng vẫn còn bị ách tắc vào mùa mưa. Công tác định canh định
cư chưa phù hợp với phong tục tập quán của đồng bào. Lưới điện quốc gia đã về 100%
xã miền núi, nhưng nhiều hộ vẫn chưa có điện sinh hoạt do điều kiện dân cư phân tán,
chưa có chính sách hợp lý để hỗ trợ cho đồng bào. Đầu tư cho dân tộc và miền núi
nhiều nhưng hiệu quả không cao, còn nôn nóng áp đặt.
Đối với đồng bào Chăm kinh tế tuy có phát triển nhưng còn chậm, việc chuyển
đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi có thực hiện nhưng còn tự phát, một số diện tích sản xuất
còn dựa vào nước trời nên năng suất đạt thấp. Trên hệ thống thủy lợi sông Lu, sông
Quao, những nơi thường xảy ra lũ lụt gây ngập úng chưa được khắc phục, làm ảnh
hưởng đến sản xuất lúa của các xã Phước Hữu, Phước Hậu, Phước Thái... Một số công
trình kết cấu hạ tầng mang lại hiệu quả thấp do chất lượng các công trình kém. Việc cho
nông dân vay vốn để phát triển sản xuất có được quan tâm nhưng thời gian cho vay còn
ngắn, số tiền ít và thủ tục còn phiền hà. Tình trạng sang nhượng ruộng đất trái phép
trong đồng bào đang tiếp diễn, các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn chưa được quan
tâm củng cố để chuyển đổi theo Luật hợp tác xã mới. Hàng thổ cẩm tuy có tiêu thụ được
nhưng thị trường không ổn định.
Về văn hóa, xã hội: Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc và
miền núi tuy có được nâng lên so với năm 1992 nhưng vẫn còn thấp. Số hộ nghèo đói
tuy có giảm nhưng vẫn còn cao tới 63,1%, vẫn còn tình trạng đói giáp hạt, điều kiện ăn,
ở, sinh hoạt thiếu thốn, còn 76% số hộ ở trong những căn nhà vách đất. Đời sống tinh
thần còn đơn điệu, mức hưởng thụ văn hóa còn thấp, các điều kiện tiếp cận với phim
ảnh, sách báo, truyền thanh, truyền hình còn rất hạn chế. Một số tập tục lạc hậu tốn kém
tiền của, công sức và thời gian của đồng bào chưa được xóa bỏ. Bản sắc văn hóa truyền
thống dân tộc có hiện tượng bị xói mòn. Thanh niên hiểu về phong tục, tập quán, văn
hóa của dân tộc mình chưa nhiều.
Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc ở khu vực III còn thấp, nạn mù chữ và tái
mù còn nhiều. Tỷ lệ trẻ em đến trường trong độ tuổi hàng năm đạt từ 85 - 90% nhưng
duy trì đến cuối năm học chỉ còn 55%. Số lượng học sinh cấp 3 là dân tộc RagLai còn
quá ít.
Mạng lưới y tế các xã dân tộc và miền núi nhất là ở khu vực III còn yếu, dụng
cụ y tế, thuốc men không đảm bảo. Trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn cao, các dịch bệnh
nhất là sốt rét vẫn còn chiếm tỷ lệ cao.
Trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng: ở các xã
thuộc khu vực III đảng viên tuy đông nhưng chưa mạnh, đảng viên mù chữ chiếm
18,2%, trình độ và năng lực chưa đáp ứng được nhiệm vụ trong tình hình mới. Đối với
dân tộc Chăm tỷ lệ phát triển đảng viên ở thôn xã, trong cán bộ công chức còn quá ít,
nhất là đảng viên nữ, có những đơn vị không phát triển được đảng viên nào như cơ quan
Ban biên soạn chữ Chăm, Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm.
Đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số ở Ninh Thuận vừa thiếu về số lượng vừa yếu
kém về chất lượng. Đó cũng là tình trạng chung của cả nước, theo Trịnh Quang Cảnh
Trình độ
học vấn
Tổng số
trong
cả nước
Dân tộc
Kinh
(số người)
Dân tộc
thiểu số
(số người)
Tỷ lệ so
với dân
tộc Kinh
Tỷ lệ so
với dân tộc
thiểu số
Tốt nghiệp trung học
chuyên nghiệp
1.145.447 1.072.789 72.658 2,26% 0,85%
Tốt nghiệp đại học,
629.245 617.774 11.471 1,36% 0,13%
cao đẳng
Tốt nghiệp trên đại học 9.173 9.047 126 0,019% 0,001%
So với số dân của từng dân tộc thiểu số, số người tốt nghiệp đại học,
cao đẳng và trên đại học ở các dân tộc thì dân tộc Tày là 0,3%, dân tộc
Mường là 0,7%, dân tộc Dao là 0,1%, dân tộc H’mông là 0,06%... Và còn 10
dân tộc chưa có người qua bậc đại học là: Xin mun, Churu, La hủ, Lự, Phà
Thẻn, Cống, Brâu, Si la, Pu Péo, Rơ măm [6, tr. 41].
ở Ninh Thuận cũng có tình trạng không đồng đều giữa các dân tộc. Dân tộc
Chăm số người có trình độ trên đại học là 4 người, trong khi đó các dân tộc khác không
có, trình độ cao đẳng đại học ở người Chăm cũng cao hơn hẳn so với các dân tộc khác.
Về tình hình an ninh chính trị: Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội ở vùng dân tộc và miền núi vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Việc
truyền đạo trái phép ngày càng phát triển theo chiều hướng đa dạng với nhiều hình thức
tinh vi. Nạn phá rừng, khai thác lâm sản trái phép vẫn chưa ngăn chặn triệt để. Một số
người ở miền xuôi vì lợi ích cá nhân lên làm ăn kinh doanh buôn bán chưa hiểu nhiều
về phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc miền núi, chưa thông hiểu về chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chính sách đối với các dân tộc,
xảy ra tình trạng lợi dụng sự cả tin của đồng bào để mua đất canh tác ở những nơi tốt,
thuận tiện đường giao thông, chủ động nước với giá rẻ. Một số hộ lên miền núi thành
lập trang trại chăn nuôi bò làm hư hại nhiều nương rẫy của đồng bào.
Từ 1992 đến nay trong vùng Chăm vẫn còn xảy ra một số vụ việc mâu thuẫn
trong nội bộ đồng bào. Có vụ việc gây mất trật tự kéo dài. Một số người từ nước ngoài
tăng cường quan hệ với bà con Chăm với các vị chức sắc, tôn giáo quyên tiền gửi về
xây mới thánh đường. Có người lợi dụng về thăm thân nhân đi truyền đạo Tin lành. Một
số nơi có tình hình bà con Chăm bị lôi kéo từ bỏ phong tục tập quán và bản sắc văn hóa
truyền thống của mình đi theo tôn giáo khác. Hiện nay theo Công giáo và Tin lành trên
700 người. Đây là những diễn biến mới trong đồng bào Chăm cần phải được kịp thời
giáo dục phê phán để đồng bào xác định đúng thái độ của mình trước tình hình phức tạp
đó.
Nguyên nhân của những thiếu sót trên xuất phát từ nhận thức về tính đặc thù
của vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở một số cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền và các
cơ quan Nhà nước các cấp chưa sâu sắc. Chưa thật sự coi trọng sự nghiệp xây dựng
kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của cả nước. Còn một số ban ngành chưa thật sự coi
nhiệm vụ chăm lo phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi là trách nhiệm
và nghĩa vụ của ngành mình. Từ đó sự lãnh đạo và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc
còn nhiều lúng túng và chồng chéo.
Đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc và miền núi trong những năm qua khá lớn
nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Việc hướng dẫn cách làm ăn cho đồng bào theo
phương thức mới còn hạn chế, việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong đồng bào dân tộc
còn yếu, công tác khuyến nông, khuyến lâm chưa được quan tâm đúng mức.
Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số làm chưa tốt nhất là
đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật và quản lý nhà nước. Chưa có chính sách thỏa đáng
để khuyến khích động viên cán bộ người Kinh lên công tác ổn định lâu dài ở vùng dân
tộc và miền núi.
Trong đồng bào dân tộc thiểu số nhất là trong đồng bào Chăm, tôn giáo tồn tại
nhiều nghi lễ quá phức tạp và tốn kém tiền của công sức của đồng bào, mặc dù sau giải
phóng được cải tiến nhiều nay có chiều hướng phục hồi trở lại. Bên cạnh đó thì có
những bất đồng trong nội bộ các vị chức sắc trong cùng một tôn giáo hoặc giữa tôn giáo
này với tôn giáo khác có lúc gay gắt nhưng chưa hòa giải được. Do đó trong bà con rất
lo lắng nhưng không dám nói và đó cũng là nguyên nhân làm cho một bộ phận thanh
niên phản ứng lại, bỏ đạo truyền thống theo tôn giáo khác. Tình hình này diễn biến ngày
càng sâu sắc nhưng các vị chức sắc trong các tôn giáo, các vị bô lão, nhân sĩ trong các
làng Chăm còn lúng túng chưa tìm cách tháo gỡ để giảm bớt gánh nặng cho bà con.
ý thức tự vươn lên của cấp ủy, chính quyền cơ sở và đồng bào dân tộc chưa cao
còn trông chờ ỷ lại vào Nhà nước và cấp trên.
Những điểm nêu trên là những tồn tại cần sớm khắc phục trong quá trình xây
dựng, phát triển kinh tế - xã hội các vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay.
2.3. Những kinh nghiệm trong việc lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc ở
tỉnh Ninh Thuận
2.3.1. Nắm vững và vận dụng sáng tạo chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước, chăm lo đoàn kết các dân tộc
Trong lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng vấn đề dân
tộc. Chính sách đối với dân tộc thiểu số là một bộ phận trong chính sách đại đoàn kết
dân tộc của Đảng. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là nhất quán song trong
từng giai đoạn cách mạng, từng thời kỳ xây dựng đất nước nội dung chính sách có sự bổ
sung phát triển cho phù hợp. Đặt trong tương quan với cả hệ thống chính sách nói chung
của Đảng và Nhà nước ta, chính sách dân tộc có nội dung xuyên suốt, bao trùm là: thực
hiện bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay.
Trong những năm đổi mới đất nước, việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta đã thu được những thành quả bước đầu song vẫn còn nhiều hạn chế và
thiếu sót. Với phương châm nhìn thẳng vào sự thật nói đúng sự thật, tại Hội nghị lần thứ
4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) khi đánh giá về "vấn đề phát triển kinh
tế - xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc, vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu vùng xa"
Đảng ta chỉ rõ:
Từ Đại hội VII và Đại hội VIII Đảng ta đã nói nhiều về vấn đề này
nhưng làm chưa được bao nhiêu. Kinh tế vùng này vẫn chậm phát triển nhất,
đời sống nhân dân các vùng này vẫn khó khăn nhất. ý định của chúng ta là
tốt, các chính sách vạch ra là đúng nhưng phải có giải pháp thế nào làm thay
đổi được tình hình? Phải chăng cần xây dựng các nông trường, lâm trường, cơ
sở công nghiệp, thương mại... ở vùng này để giúp đỡ đồng bào phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội và nâng cao đời sống [26, tr. 20].
Quán triệt những quan điểm, chủ trương chính sách, của Đảng và Nhà nước về
dân tộc, Tỉnh ủy Ninh Thuận đã luôn luôn quan tâm đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi ngay sau khi có Nghị quyết 22 Bộ chính trị và Quyết định 72 của Hội đồng
Bộ trưởng, Tỉnh ủy Thuận Hải cũ đã nhận thức ý nghĩa và tầm quan trọng của việc triển
khai Nghị quyết, đối với Tỉnh đã tổ chức Hội nghị quán triệt cho cán bộ lãnh đạo ở cấp
tỉnh và cấp huyện. Sau đó tổ chức các đoàn khảo sát, nắm lại thực trạng tình hình kinh
tế xã hội vùng dân tộc và miền núi trong tỉnh và đề ra Nghị quyết 07 Tỉnh ủy, ủy ban
nhân dân tỉnh đã có Quyết định 49, riêng huyện miền núi Ninh Sơn có Nghị quyết của
Huyện ủy và Quyết định của ủy ban nhân dân huyện đề ra nhiệm vụ và giải pháp cụ thể
để chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội miền núi và thành lập Ban xây dựng miền núi.
Quá trình tổ chức thực hiện phải có sơ kết tổng kết rút ra những kinh nghiệm
thực tiễn. Tỉnh ủy Ninh Thuận đã ba lần tổ chức tổng kết Nghị quyết 22 Bộ Chính trị
vào các năm 1993, 1998, 2001, tổ chức tổng kết 8 năm thực hiện Thông tri 03 TT/TW
về công tác đối với đồng bào Chăm (năm 1992 - 2000). Tỉnh ủy đã có nhiều chương
trình, dự án cụ thể định kỳ có bổ sung điều chỉnh cho phù hợp với tình hình nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó chính quyền các cấp
xây dựng chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế xã hội cho phù hợp. Nhờ sự
lãnh đạo sát sao, thường xuyên liên tục nên kinh tế xã hội vùng dân tộc và miền núi đã
có bước phát triển khá. Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận (12/2000) nêu
rõ:
Sản xuất nông - lâm nghiệp ở 29 xã miền núi, vùng sâu vùng xa tăng
trưởng khá sản lượng lương thực đạt 45.000 tấn tăng 17% so với năm 1995,
bình quân 300 kg/ người. Diện tích các loại cây công nghiệp phát triển như
mía, thuốc lá, điều, bông vải. Chăn nuôi gia súc có sừng phát triển theo
hướng sản xuất hàng hóa, trang trại chăn nuôi trồng cây công nghiệp qui mô
vừa và nhỏ đang phát triển. Đến đầu năm 2000 có 95% thôn đã được sử dụng
điện quốc gia, 6 xã có hệ thống nước sạch [1, tr. 31].
2.3.2. Phải hiểu rõ các điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán, lối sống,
sinh hoạt, văn hóa của từng dân tộc thiểu số, có nội dung và phương pháp thích
hợp
Thực hiện chính sách dân tộc đòi hỏi phải tăng cường công tác nghiên cứu, hiểu
biết đầy đủ sâu sắc tình hình cụ thể của từng vùng từng dân tộc, quan hệ giữa các dân
tộc ở nước ta. Có như vậy mới đề ra và tự giác thực hiện tốt những chủ trương, chính
sách, biện pháp về vấn đề dân tộc. Tránh được bệnh chủ quan, duy ý chí, rập khuôn, áp
đặt máy móc những hình thức tổ chức và cách làm không phù hợp với tình hình đặc
điểm các vùng dân tộc.
Những yếu kém, hạn chế của công tác dân tộc hiện nay có nhiều nguyên nhân,
trong đó phổ biến là do chưa nghiên cứu sâu, nắm vững những vấn đề có tính đặc thù, xa
rời thực tế, thoát ly trình độ và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn rất thấp của vùng
dân tộc thiểu số.
Do đó cần phải hiểu rõ vị trí, vai trò của miền núi và vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Xét cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng đây là địa bàn
chiến lược quan trọng. Miền núi vùng đồng bào dân tộc RagLai là căn cứ địa cách mạng
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đồng bào có truyền
thống yêu nước, tinh thần cách mạng kiên cường, một lòng một dạ trung thành với
Đảng. Đồng bào dân tộc RagLai là cư dân bản địa sinh sống từ lâu đời, là dân tộc có các
phong tục, tập quán, lễ hội, ngôn ngữ riêng. Tuy nhiên nơi cư trú của đồng bào lại là
vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nắng hạn kéo dài. Địa bàn thì ngăn cách, cơ sở
vật chất, kết cấu hạ tầng còn rất thiếu thốn, mặt bằng dân trí thấp, cùng với nhiều hủ tục
lạc hậu chưa được xóa bỏ.
Bên cạnh đó cũng là dân tộc thiểu số nhưng người Chăm lại sống ở đồng bằng,
có trình độ trồng lúa nước, có nền văn hóa độc đáo, có tiếng nói,chữ viết riêng... Đồng
chí Cha ma léa Điêu - Bí thư Tỉnh ủy khẳng định:
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước phải được vận dụng sát
thực tế cuộc sống, tập quán của từng dân tộc. Ninh Thuận có hai dân tộc
thiểu số Chăm và RagLai có số dân đông nhưng hai dân tộc này có trình độ
dân trí, nơi cư trú, điều kiện sản xuất và mức sống khác nhau [31, tr. 15].
Tiến hành điều tra, khảo sát, nghiên cứu các yếu tố trong từng vùng và từng dân
tộc để có cơ sở hoạch định đúng đắn các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như
các mục tiêu nhiệm vụ từng thời kỳ nhất định, đưa miền núi và vùng đồng bào dân tộc
thiểu số vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có hiểu rõ từng tiểu vùng địa hình, thổ
nhưỡng, khí hậu khác nhau, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, sinh
hoạt, xã hội truyền thống, phương thức canh tác... của từng dân tộc thì mới có thể đưa
chính sách dân tộc vào cuộc sống.
Công tác vận động quần chúng trong đồng bào các dân tộc thiểu số thời gian
qua đã có những bước chuyển biến quan trọng.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, thời gian
qua đại bộ phận cán bộ, đảng viên đã đi vào quần chúng, dựa vào quần chúng, tuyên
truyền tổ chức, lãnh đạo quần chúng thực hiện đường lối chính sách của Đảng, biến
quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của quần chúng.
Làm chuyển biến tốt tình hình kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và tình hình xã hội ngày càng ổn định. Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân đã phát huy mọi tiềm năng vật chất, tinh thần và trí tuệ của đồng bào
dân tộc thiểu số và các tầng lớp xã hội, các già làng trưởng bản, đội ngũ trí thức, các
chức sắc trong tôn giáo, tập hợp trong khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Muốn tạo ra phong trào cách mạng sâu rộng trong quần chúng không chỉ có
đường lối chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước mà còn phải làm tốt
công tác giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức động viên phát huy tính tích cực xã hội
của các tầng lớp nhân dân đoàn kết toàn dân, đi đôi với việc đổi mới phương thức hoạt
động và biện pháp tổ chức đúng, đặc biệt chú ý phát huy quyền dân chủ ở cơ sở của
nhân dân. Đoàn kết với quần chúng, dân chủ với quần chúng, chăm lo lợi ích đoàn viên,
hội viên, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Các đoàn thể đã chuyển mạnh về cơ sở, sâu sát cơ sở, sát đoàn viên, khắc phục
tệ nhà nước hóa, hành chính hóa. Đi sâu vào từng đối tượng và từng loại hình cơ sở tìm
ra những hình thức sinh động thiết thực để liên hệ và hướng dẫn, giáo dục đoàn viên,
hội viên biết cách làm giàu chính đáng, thu hút đông đảo quần chúng tham gia vào các
phong trào cách mạng.
2.3.3. Tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số,
quan tâm đến lợi ích thiết thực của đồng bào các dân tộc
Tập trung sức đầu tư phát triển chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng
bào dân tộc thiểu số là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của các cấp, các
ngành. Trung ương, Tỉnh phải có chính sách phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc và
quan tâm đầu tư, chỉ đạo. Các cấp ủy Đảng, chính quyền huyện, xã, thôn, bản tổ chức
thực hiện. Đồng bào các dân tộc thiểu số là người thực hiện mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ngay trên từng địa bàn của mình. Tránh
tình trạng cái gì cũng đòi Nhà nước và trông chờ vào Nhà nước bao cấp mà không thấy
trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi địa phương, mỗi người dân. Không thể có một nước Việt
Nam hòa bình, ổn định, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà
trong đó còn nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đói, kém phát triển. Không
thể có một tỉnh Ninh Thuận nhiều dân tộc anh em sinh sống và phát triển bền vững mà
bên cạnh đó có dân tộc thiểu số còn khó khăn, nghèo nàn lạc hậu, chênh lệch về đời
sống và thu nhập giữa các vùng, các dân tộc quá xa nhau. Không thể nói đến việc thực
hiện sự bình đẳng dân tộc trong khi cả nước và từng tỉnh còn có dân tộc thiểu số trình
độ dân trí thấp. Do vậy, đầu tư phát triển vùng dân tộc là nhiệm vụ rất quan trọng lại
càng quan trọng và bức xúc hơn.
Đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số chính là đầu tư cho phát triển công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước mà đó cũng chính là sự đền ơn đáp nghĩa đối với
vùng dân tộc và miền núi. Thực tế qua các năm đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở phục vụ
sản xuất nông lâm nghiệp và áp dụng công nghệ sinh học vào sản xuất cho vùng đồng
bào Chăm và RagLai ở Ninh Thuận đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, đời sống
vật chất, văn hóa tinh thần của một số vùng đồng bào được cải thiện.
Đối với dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước cần quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện
khơi dậy lòng tự hào dân tộc. Xác định rõ hơn vai trò vị trí của từng dân tộc trong đại
gia đình dân tộc Việt Nam, xóa đi những mặc cảm tự ti trong dân tộc, làm cho đồng bào
hiểu nhiều hơn về Đảng, càng gắn bó với chế độ xã hội chủ nghĩa. Đầu tư phát triển tập
trung hơn về kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, thủy lợi. Vận động đồng bào chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề thủ công, dịch vụ
thương mại, du lịch, từng bước xóa bỏ thế độc canh thuần nông. Để khắc phục tình
trạng dân trí còn thấp, tập quán canh tác còn đơn giản lạc hậu phải đầu tư thích đáng
cho việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực. Cần trang bị một số hiểu biết nhất định cho
đồng bào để họ tự làm chủ được bản thân, làm chủ quê hương và góp phần làm chủ đất
nước. Phải đào tạo cán bộ là người tại chỗ có trình độ sản xuất, kinh doanh, áp dụng
được những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.
Bên cạnh việc chăm lo đào tạo cán bộ tại chỗ, trước mắt Đảng và Nhà nước cần
có chính sách thu hút cán bộ khoa học, chuyên gia về vùng dân tộc thiểu số giúp đồng
bào về mọi mặt. Cán bộ về vùng dân tộc thiểu số công tác, nhất là ở vùng sâu vùng xa
ngoài chính sách ưu đãi của Nhà nước, đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao, có
lòng yêu thương đồng bào để đem hết sức lực trí tuệ giúp đỡ, hướng dẫn đồng bào biết
tự xây dựng cuộc sống gia đình, làng xã của mình, biết làm giàu cho từng gia đình, góp
phần làm giàu cho từng địa phương và cả nước.
2.3.4. Chú trọng xây dựng củng cố hệ thống chính trị nhất là ở cơ sở và đào
tạo cán bộ người dân tộc thiểu số
Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số được củng cố, hiệu lực điều
hành quản lý của chính quyền cơ sở có sự chuyển biến. Đội ngũ đảng viên vùng dân tộc
thiểu số và miền núi được phát triển cả về số lượng và chất lượng, hầu hết các thôn bản
đều có đảng viên.
Hệ thống tổ chức của Mặt trận và các đoàn thể luôn luôn được củng cố, góp
phần làm tốt công tác vận động quần chúng thực hiện có hiệu quả các phong trào như
giúp nhau làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cuộc sống mới
ở khu dân cư, bảo vệ an ninh Tổ quốc, không để quần chúng bị lôi kéo theo đạo trái
phép và các việc làm sai trái khác. Thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm thực
sự "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" những việc có quan hệ đến lợi ích thiết
thân của nhân dân các dân tộc ở cơ sở. Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, không chỉ
đảm bảo mà còn phải tạo điều kiện và hướng dẫn thực hiện các quyền đó, đề phòng và
khắc phục các vi phạm qui chế dân chủ, sống xa dân, quan liêu, mệnh lệnh với dân.
Làm tốt công tác cán bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện và
phát huy quyền làm chủ của dân tộc thiểu số trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đảm
bảo dân tộc nào cũng có cán bộ là người của mình. Công tác qui hoạch, đào tạo bồi
dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số được các cấp ủy đảng đặc biệt quan tâm. Cùng
với chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng hợp lý cần quan tâm động viên tạo điều kiện
thuận lợi để cán bộ dân tộc an tâm, phấn khởi học tập đạt kết quả. Sau khi được đào tạo
bồi dưỡng, cần bố trí sử dụng cán bộ dân tộc phù hợp để phát huy được vai trò, tác dụng
tích cực của họ, thường xuyên giúp đỡ để họ xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
Những nơi còn thiếu cán bộ dân tộc tại chỗ cần bố trí cán bộ là người Kinh hoặc người
dân tộc ở nơi khác đến đã lâu năm ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, am
hiểu địa phương, tâm huyết với các dân tộc, có tinh thần đoàn kết. Thực hiện chủ trương
tăng cường cho cơ sở, cần kết hợp tốt giữa cán bộ ở trên đưa về với cán bộ đang hoạt
động ở các xã. Đồng thời phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ...
tạo nên sức mạnh chung cho cơ sở.
Kết Luận
Chính sách dân tộc là một bộ phận trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong
sự nghiệp cách mạng. Cùng với đồng bào dân tộc Kinh, đồng bào các dân tộc thiểu số
đều có truyền thống cách mạng kiên cường và rất vẻ vang, gắn bó sắt son với Đảng, với
Bác Hồ. Trước cách mạng nơi sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số nhất là vùng rừng
núi là nơi để Đảng tập hợp và xây dựng lực lượng. Trong đấu tranh giành độc lập là căn
cứ địa cách mạng và ngày nay vùng núi và vùng dân tộc thiểu số vẫn được Đảng ta xác
định là địa bàn chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để đền đáp công lao to lớn của đồng bào các dân tộc trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn trăn trở, tìm mọi giải pháp để thực hiện cho
được mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Ninh Thuận là một tỉnh có đông các dân tộc thiểu số. Trải qua 9 năm thành lập
tỉnh (1992 - 2000) vấn đề thực hiện chính sách dân tộc đã được cấp ủy Đảng và chính
quyền quan tâm và đã thu được không ít thành tựu. Bộ mặt nông thôn miền núi, vùng
đồng bào dân tộc đã có thay đổi nhiều. Đời sống được nâng lên, cơ bản giải quyết nạn
đói giáp hạt. Lĩnh vực văn hóa có nhiều chuyển biến, hầu hết các thôn bản có lớp tiểu
học, các xã đều có trường học, trạm y tế, có điện lưới quốc gia, 100% số xã có máy điện
thoại, cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đang đi vào chiều
sâu.
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới, bên cạnh những
thành tựu còn rất nhiều thiếu sót, khuyết điểm. Vùng dân tộc và miền núi vẫn là vùng
kinh tế khó khăn nhất, trình độ dân trí vẫn là vùng thấp nhất trong tỉnh.
Trên cơ sở những thành tựu, những tồn tại thiếu sót và những kinh nghiệm được
rút ra. Việc thực hiện chính sách dân tộc ở Ninh Thuận cần phải:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi tầng lớp nhân dân
thấy được vấn đề đoàn kết dân tộc là truyền thống quí báu của dân tộc ta, là tư tưởng và
mong muốn suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là đường lối chiến lược nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta. Thông qua các qui định cơ chế cụ thể để các vùng trong tỉnh đều
được nâng cao dân trí, có điều kiện tiếp thu khoa học công nghệ. Vùng thuận lợi phải có
trách nhiệm giúp đỡ vùng khó khăn để cùng phát triển, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về
đời sống vật chất và tinh thần, tiến tới sự bình đẳng thực sự giữa các dân tộc.
- Phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số
trong cộng đồng các dân tộc Ninh Thuận. Sử dụng mọi nguồn lực tiềm năng và lợi thế
hiện có của vùng dân tộc và miền núi. Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng nông - lâm kết hợp, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa. Tăng cường công tác quốc
phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị để đồng bào an tâm sản xuất.
- Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn là nơi khó khăn kém phát
triển nhất tỉnh Ninh Thuận hiện nay. Do đó một mặt động viên đồng bào cố gắng vươn
lên, tự lực tự cường "mang sức ta mà tự giải phóng cho ta". Mặt khác các cấp ủy Đảng,
chính quyền các cấp, các ngành cũng cần chú ý hơn nữa đến vùng cao, vùng sâu, vùng
xa trong việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Cần tăng cường công tác quản lý, thay
đổi phương thức đầu tư sao cho thực sự có hiệu quả, nhất là cần đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng theo thứ tự ưu tiên đường giao thông, thủy lợi, phát triển giáo dục - đào tạo,
khuyến nông, khuyến lâm, nước sạch, điện, trường, trạm. Chú trọng công tác định canh
định cư, xóa đói giảm nghèo, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trọng điểm.
- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể
thực sự vững mạnh. Cần có hình thức thích hợp để phát huy vai trò tích cực của những
người tiêu biểu, có uy tín trong đồng bào các dân tộc, nhất là đối với các nhân sĩ, trí
thức, già làng, trưởng bản. Khơi dậy tình cảm dân tộc, tình cảm cách mạng, cùng nhau
xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc trên mảnh đất Ninh Thuận. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay các thế lực thù địch đang tập trung chống phá nhằm chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc của ta. Vì vậy, cần hết sức nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống
những biểu hiện kích động tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân
tộc. Đối với các phần tử ngoan cố chống lại chính sách đại đoàn kết dân tộc thì kiên
quyết trừng trị. Đối với những người nhẹ dạ, cả tin mắc mưu bọn phản động có những
hành vi quá khích cần đưa ra kiểm điểm trước dân. Thông qua đó để giáo dục đối tượng
vi phạm và là dịp để đồng bào hiểu rõ hơn chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời
đó cũng là biện pháp phát huy quyền dân chủ ở cơ sở, thực hiện dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra.
Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng chính là con đường giải quyết tốt các
quan hệ dân tộc ở Ninh Thuận, thắt chặt thêm sức mạnh đoàn kết của cộng đồng các dân
tộc để đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa tỉnh nhà, để đưa Ninh Thuận sớm thoát
khỏi tỉnh nghèo.
DANH Mục Tài Liệu THAM Khảo
1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Thuận (2001), Kỷ yếu Đại hội X Đảng bộ tỉnh.
2. Báo cáo tổng kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 22 Bộ Chính trị (1993) của Tỉnh ủy
Ninh Thuận.
3. Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 22 Bộ Chính trị (1998) của Tỉnh ủy
Ninh Thuận.
4. Báo cáo tổng kết 12 năm thực hiện Nghị quyết 22 Bộ Chính trị (2001) của Tỉnh ủy
Ninh Thuận.
5. Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Thông tri 03 TT/TW (2000) của Tỉnh ủy Ninh
Thuận.
6. Trịnh Quang Cảnh (2001) "ý nghĩa của việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức dân
tộc thiểu số ở nước ta hiện nay", Giáo dục lý luận, (7).
7. Nông Quốc Chấn (cùng nhiều tác giả) (1997) Văn hóa và sự phát triển các dân tộc
ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
8. Cục thống kê tỉnh Ninh Thuận (2001) Niên giám thống kê tỉnh Ninh Thuận năm
2000.
9. Phan Hữu Dật (1998), Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược
phát triển đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Phan Văn Dốp (1993), Tôn giáo của người Chăm Việt Nam, Viện Khoa học xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Đảng bộ tỉnh Thuận Hải (1977), Văn kiện Đại hội I.
12. Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận (1992), Văn kiện Đại hội VIII.
13. Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận (1996), Văn kiện Đại hội IX.
14. Đảng bộ Tỉnh Ninh Thuận (2001), Văn kiện Đại hội X.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), "Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III",
Văn kiện Đại hội, tập 1.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1981), Chỉ thị 121 CT/TW.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết 22 Bộ Chính trị, Nxb Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Thông tri số 03 TT/TW.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung
ương (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996 - 1999,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập (1951), tập 12, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Bế Văn Đằng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội ở miền núi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Cha ma léa Điêu (2001), Phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các
dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Tham luận tại Hội
thảo khoa học do ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức.
32. Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, Nxb Sự thật, Hà Nội.
33. Hiến pháp năm 1992, Nxb Sự thật, Hà Nội.
34. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 24, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
35. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 25, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
36. ĐặngVăn Long (1997), Phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
37. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc, gia Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2000), Về các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Oánh (nhiều tác giả) (1996) Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay, vấn
đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Quốc Phẩm và Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về
dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Bùi Thiết (1999), 54 dân tộc ở Việt Nam và các tên gọi khác, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
46. Viện Lịch sử Đảng (2001), Giáo trình Lịch sử Việt Nam (Dành cho hệ cử nhân),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PHụ LụC
Phụ lục 1
Phụ lục 2
TIÊU CHí BA KHU VựC MIềN NúI DÂN TộC
Tiêu chí khu vực I
1. Số hộ nghèo đói dưới 20%.
2. Địa bàn cư trú thuận lợi: ở hoặc gần thành phố, thị xã, thị trấn, khu công nghiệp, các
nông lâm trường, các liên hiệp công ty, ven đường giao thông.
3. Cơ sở hạ tầng đã hình thành, bước đầu phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống cộng
đồng.
4. Điều kiện sản xuất ổn định bền vững, kinh tế hàng hóa bước đầu phát triển.
5. Các yếu tố xã hội (y tế, giáo dục, văn hóa, thông tin) có tiến bộ, có điều kiện đảm
bảo cho cộng đồng phát triển. Định canh định cư bền vững.
Tiêu chí khu vực II
1. Số hộ nghèo đói từ 21 - 59%.
1. Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng giữa.
2. Cơ sở hạ tầng đã có nhưng chưa hoàn chỉnh.
3. Điều kiện sản xuất chưa ổn định, sản xuất còn giản đơn, sản phẩm hàng hóa còn ít.
4. Các yếu tố xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ đồng bào.
Tiêu chí khu vực III
1. Số hộ nghèo đói trên 60%.
5. Địa bàn cư trú: chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao hẻo lánh, vùng biên giới, hải
đảo khó khăn.
6. Cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư hoặc tạm bợ, giao thông đi lại khó khăn
7. Điều kiện sản xuất thấp kém: đất canh tác thiếu, đất rừng chưa được giao khoán, sản
xuất mang tính tự nhiên, du canh du cư, là đối tượng chính của công tác định canh
định cư.
8. Các yếu tố xã hội không đảm bảo ở mức tối thiểu.
Phụ lục 4
ĐạI BIểU QUốC HộI Là NGƯờI DÂN TộC THIểU Số
(Từ khóa I đến khóa X)
STT
Khóa
Quốc hội
Tổng số
đại biểu
Quốc hội
Đại biểu
dân tộc
thiểu số
% so với
tổng số đại
biểu
Tổng số dân tộc
thiểu số tham
gia Quốc hội
1 Khóa I 333 34 10 14
2 Khóa II 362 60 16 15
3 Khóa III 366 60 16 15
4 Khóa IV 462 73 15 19
5 Khóa V 424 71 16 19
6 Khóa VI 492 64 13 26
7 Khóa VII 496 79 15 33
8 Khóa VIII 466 71 15 29
9 Khóa IX 395 66 16 27
10 Khóa X 450 78 17,33 34
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4_708.pdf