Giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng có vai trò vô cùng to lớn trong 
việc hình thành thang giá trị đúng đắn để sinh viên tự đánh giá, tự khẳng định, tự thẩm 
định, tự điều chỉnh, tự kiểm tra, tự ý thức về hành vi đạo đức của mình nhằm khơi dậy 
tình cảm, niềm tin, lòng nhân ái, tính vị tha của con người hợp với chuẩn mực đạo đức 
của xã hội. Thông qua giáo dục đạo đức góp phần nâng cao nhận thức các giá trị đạo 
đức trong sinh viên những phẩm chất, giá trị đạo đức cần thiết, đáp ứng yêu cầu công 
cuộc đổi mới đất nước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 87 trang
87 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3527 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h chất chính 
khoá. Đây là vấn đề cần sớm được khắc phục. 
Thứ hai, về đội ngũ thầy, cô giáo giảng dạy môn đạo đức học. Trước hết, từ nhận 
thức chưa đầy đủ tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, cho nên việc bố trí, sắp 
xếp thời gian giảng dạy cũng như việc sử dụng, biên soạn tài liệu phục vụ môn học hầu 
như chưa có. Qua khảo sát, tác giả thấy rằng rất ít trường cao đẳng ở Vĩnh Long đưa môn 
"Đạo đức học" thành môn học bắt buộc. Chỉ một vài trường coi đó là môn "tự chọn". Rất 
tiếc là không có được một thầy, cô giáo nào có một quá trình nghiên cứu sâu về môn học 
để có khả năng thu hút sinh viên có niềm say mê, hứng thú và có những tìm tòi sáng tạo 
trong môn học này. 
Trên thế giới, nhiều nước đã đưa môn "Đạo đức học" vào giảng dạy chính khoá, 
ngay cả ở Mỹ người ta cũng giảng dạy môn học này. Còn ở Singapor người ta còn đưa cả 
môn học "tình yêu" - với tư cách là tình cảm đạo đức - vào giảng dạy ở trường đại học, 
cao đẳng. Còn ở Trung Quốc, có cả một cuốn giáo trình "Tu dưỡng đạo đức tư tưởng", 
với 12 chương được giảng dạy thống nhất trong toàn quốc đối với các trường đại học, cao 
đẳng. 
Thứ ba, về giáo trình, môn học. Trước đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã 02 lần tổ 
chức biên soạn giáo trình. Năm 1991 có cuốn "Đạo đức học" bao gồm 6 chương, phản 
ánh những nội dung cơ bản của khoa học đạo đức. Năm 1996, cuốn "Giáo trình đạo đức 
học" đã có sửa chữa, bổ sung và hoàn chỉnh hơn so với cuốn "Đạo đức học" (năm 1991). 
Cuốn giáo trình này gồm có 05 chương, thể hiện tính hệ thống và ít nhiều cập nhật so với 
cuốn "Đạo đức học" trước đó. Ngoài ra, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, năm 1991 
cũng cho xuất bản tập tài liệu phục vụ giảng dạy môn "Đạo đức học"... Đó là chưa kể 
những cuốn giáo trình đạo đức của Khoa Triết học (nay là Viện Triết học - thuộc Học 
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) và giáo trình Đạo đức học của Khoa 
Triết học - Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I... Chúng ta có thể coi đây là những 
tài liệu, giáo trình cơ bản giúp cho các trường đại học, cao đẳng tham khảo để biên soạn 
giáo án, bài giảng của mình. Nhưng rất tiếc, ở Vĩnh Long, số tài liệu này quá ít, không 
đầy đủ, thiếu cập nhật. Đây là một thiệt thòi lớn đối với công tác giáo dục - trước hết là 
giảng dạy và học tập môn đạo đức học trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. 
Thứ tư, từ góc độ người học - sinh viên, bên cạnh những sinh viên tích cực, 
chịu khó học hỏi, tìm tòi, coi trọng các môn học ở nhà trường... cũng còn không ít 
sinh viên lười học không chỉ với những môn học liên quan đến giáo dục đạo đức mà 
cả các môn học khác nữa. Học nhiều khi để thi, có điểm, ra trường... chứ không ý 
thức được "học để làm gì", "học cho ai"... Nghĩa là động cơ và mục đích học tập ở 
nhiều sinh viên còn yếu kém. Chính số sinh viên này là những tấm gương "phản 
diện", gây trở ngại, có ảnh hưởng không tốt đối với số sinh viên khác trong công tác 
giáo dục đạo đức. 
Từ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với công tác giáo dục đạo đức cho sinh 
viên các trường cao đẳng ở Vĩnh Long, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra những giải pháp để 
khắc phục, nhằm đào tạo ra những sinh viên vừa "hồng" vừa "chuyên", phục vụ sự 
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh cũng như khu vực. 
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ 
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VĨNH LONG 
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 
2.2.1. Đa dạng hoá các hình thức giáo dục đạo đức. Gắn giáo dục ý thức đạo 
đức với thực tiễn đạo đức thông qua các hình thức hoạt động chính trị - xã hội 
Một trong những phương hướng chủ yếu của công tác giáo dục đạo đức ở các 
trường cao đẳng đóng tại Vĩnh Long hiện nay là việc gắn giáo dục ý thức đạo đức với 
thực tiễn đạo đức, giữa suy nghĩ với hành động, giữa lời nói với việc làm trong đời sống 
đạo đức sinh viên. Đây là một đòi hỏi khách quan của cuộc sống, đồng thời đó cũng là sự 
phản ánh quy luật vận động, phát triển của đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã 
hội. 
Đạo đức ở đây bao gồm tri thức đạo đức, quan điểm đạo đức, tình cảm đạo đức. Đó 
là sự hiểu biết và thái độ của con người về các quy tắc, chuẩn mực, phạm trù đạo đức. 
Giáo dục đạo đức hiện nay cho sinh viên trước hết phải cung cấp cho họ những tri 
thức đạo đức cần thiết theo chương trình giáo dục nhất định. Tri thức đạo đức là sự hiểu 
biết của sinh viên về những nguyên tắc, phạm trù, chuẩn mực đạo đức, cái quy định hành 
vi đạo đức của họ trong mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể, 
với cộng đồng. Đây là nhân lõi của ý thức đạo đức. 
Để có được những tri thức đạo đức đòi hỏi chúng ta phải nâng cao trình độ cho sinh 
viên cả ở trình độ nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Hai trình độ này đều 
có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức, giúp cho con người nói chung, sinh 
viên nói riêng phân biệt được cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác... qua đó mà 
hình thành ở họ tình cảm, niềm tin đạo đức hướng hành vi của mình theo cái tốt, cái đẹp, cái 
cao thượng. 
Một vấn đề đặt ra ở đây là: có tri thức đạo đức chưa chắc đã có hành vi đạo đức. 
Loài người đã từng sống thiện với nhau, giúp đỡ nhau, hy sinh vì nhau, nghĩa là có những 
hành vi chứa đựng giá trị đạo đức cao trước khi họ biết "đạo đức" là gì. Cũng như con 
người biết đi tắt, rút ngắn đoạn đường trước khi toán học nêu lên đường thẳng là đường 
ngắn nhất, và họ cũng biết dùng thuyền để làm phương tiện đi lại trước khi định luật 
Ácsimét ra đời. Tương tự như vậy, loài người đã biết lấy nước từ ruộng cao xuống ruộng 
thấp trước khi vật lý phát hiện ra bình thông nhau. Người ta có thể đọc thuộc lòng những 
nguyên tắc, phạm trù đạo đức, nhưng người ta vẫn có thể có hành vi vô đạo đức. Sinh viên 
có thể hiểu và học thuộc lòng nội qui học tập, sinh hoạt ở ký túc xá, nhưng nhiều sinh viên 
vẫn không thực hiện, thậm chí cố tình vi phạm. Đây chính là biểu hiện cụ thể của việc tách 
rời giữa lý luận và thực tiễn, giữa nói và làm, giữa suy nghĩ và hành động. 
Sinh viên cũng như mọi đối tượng khác, khi có được niềm tin đạo đức sẽ giúp họ 
vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống và trong học tập, họ hoàn toàn tin 
tưởng vào những việc làm hợp với chuẩn mực xã hội, dù cho những việc làm ấy có thể bị 
một số người phản đối (như hành vi sai trái, gian lận trong thi cử) hay không đồng tình, 
không ủng hộ nhưng theo quy luật chung cái tốt, cái tiến bộ bao giờ cũng chiến thắng. 
Với ý nghĩa đó, trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, đòi hỏi chúng ta một mặt 
giúp cho họ có được những hiểu biết nhất định về các phạm trù đạo đức. Song, cái quan 
trọng và có ý nghĩa quyết định hơn là giúp cho sinh viên biết biến những tri thức đạo đức 
thành tình cảm, niềm tin đạo đức, và cuối cùng được thể hiện ở hành vi đạo đức, ở cuộc 
sống lao động, học tập, sinh hoạt của sinh viên, làm cho chất lượng của mối quan hệ giữa 
con người với con người ngày càng được coi trọng hơn, chất lượng sống ngày một nâng 
cao. Có thể nói: “nhà giáo dục lớn nhất vẫn là thực tiễn, nhà trường lớn nhất vẫn là cuộc đời. 
Không có gì làm mất uy tín của giáo dục hơn là sự tách rời giữa lời nói với việc làm, giữa lý 
luận và thực tiễn” [38, tr.109]. 
Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với một sự thực về khoảng cách giữa lý luận 
với thực tiễn; lời nói với việc làm, giữa trang sách và cuộc đời. Ở lớp học, trong nhà 
trường, sinh viên được nghe giảng giải những vấn đề hết sức cơ bản của đạo đức mới, với 
những nội dung mang tính nhân bản, nhân ái, nhân văn cao cả và sâu sắc. Nhưng ngoài 
cuộc đời, ngay cả một bộ phận nào đó trong nhà trường, bản thân sinh viên nhiều khi tận 
mắt chứng kiến những hiện tượng, hành vi thiếu đạo đức và phản văn hoá, trái ngược với 
những lời giảng dạy của thầy. Chính ở đây, giáo dục và phản giáo dục đã thành “tình 
huống có vấn đề” cần được giải quyết. Vai trò to lớn của giáo dục đạo đức ở đây là phải định 
hướng cho sinh viên, vạch ra cho sinh viên thấy đâu là cái bản chất, đâu là cái hiện tượng; 
đâu là cái mới, đâu là cái tàn dư, giúp họ tìm ra được xu thế tất yếu của sự vận động đạo đức, 
sự ra đời và chiến thắng của cái mới, từ đó họ xây dựng và củng cố niềm tin cho chính mình 
[60, tr.112]. 
Để gắn giáo dục ý thức đạo đức với thực tiễn đạo đức trong công tác giáo dục đạo đức 
cho sinh viên, đòi hỏi chúng ta cần chú ý mấy điểm chính sau đây: 
Thứ nhất: phải cung cấp cho sinh viên có những hiểu biết nhất định về các nguyên 
tắc, phạm trù, chuẩn mực, giá trị đạo đức mới. Phải coi "Đạo đức học" là môn học cần 
thiết, không thể thiếu được trong hành trang để họ bước vào đời. những tri thức đạo đức 
học sẽ giúp cho họ phân biệt được đâu là hành vi chứa đựng giá trị đạo đức cần phải làm 
và đâu là phản giá trị đạo đức cần phải tránh. Chính V.I.Lênin đã từng nói rằng, người ta 
chỉ hành động đúng đắn trong chừng mực người ta hiểu biết chính xác. Hơn nữa, có được 
tri thức đạo đức, sinh viên có thể phân biệt được ranh giới giữa nghĩa vụ đạo đức với 
nghĩa vụ pháp lý. Việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức sẽ mang lại cho cuộc sống nhiều giá 
trị tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn. 
Thứ hai: Con người ta sinh ra, như C.Mác nói, không phải có sẵn chiếc gương soi 
trong tay, do đó, “người ta lúc đầu phải nhìn vào người khác, như nhìn vào một cái 
gương mới nhận thấy mình được”.Vì vậy, việc nêu những tấm gương đạo đức trong 
sáng của các thế hệ đi trước và cả trong cuộc sống hiện tại, là một công việc hết sức 
cần thiết trong giáo dục đạo đức cho các thế hệ sinh viên hôm nay, trong đó có sinh 
viên Vĩnh Long. Trong phương pháp giáo dục đạo đức của Hồ Chí Minh, Người rất 
coi trọng phương pháp nêu gương, ngay từ năm 1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi 
xướng phong trào "người tốt, việc tốt", để mười năm sau, năm 1968 Người chủ trương 
xuất bản loại sách "Người tốt, việc tốt", Người cho rằng: lấy gương người tốt, việc tốt 
để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, 
xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Người 
từng nói: các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương 
sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. 
Thứ ba: thường xuyên tổ chức các phong trào hoạt động mang tính chất chính trị - 
thực tiễn, tham quan các di tích lịch sử văn hoá, tham gia các lễ hội truyền thống, hướng 
về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, đền ơn đáp 
nghĩa, tổ chức các cuộc thi tìm hiệu cuộc đời và thân thế sự nghiệp của các anh hùng liệt 
sỹ đã từng sinh ra, lớn lên trên mảnh đất chín rồng (Cửu Long) này. Việc tham quan khu 
tưởng niệm cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng; nhà khoa học, giáo sư Trần Đại 
Nghĩa sẽ giúp cho sinh viên nâng cao hơn nữa tình cảm đạo đức, tình yêu quê hương đất 
nước và tôn vinh những người có công với nước, với dân. 
2.2.2. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc giáo dục 
đạo đức cho sinh viên 
C.Mác từng viết rằng: trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà 
những quan hệ xã hội. Điều đó khẳng định rằng, sự phát triển nhân cách, phát triển của 
mỗi con người chịu sự chi phối trực tiếp của môi trường sống, môi trường xã hội, trong 
đó gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội là những thành tố cơ bản. 
Bên cạnh những hạn chế, thiếu sót (như đã chỉ ra ở phần nguyên nhân của những 
hạn chế trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên), hoặc như đánh giá của Hội nghị 
Trung ương năm, khoá VIII, nhìn chung “gia đình và các tập thể, cộng đồng xã hội chưa 
phát huy vai trò quan trọng trong giáo dục, chưa phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong 
việc giáo dục thế hệ trẻ, nhất là về chính trị, đạo đức, đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã 
hội và văn hoá phẩm đồi trụy” [12, tr.26]. Do đó, hơn lúc nào hết, sự kết hợp giữa gia 
đình, nhà trường và xã hội để giáo dục đạo đức cho sinh viên, đào tạo, rèn luyện họ trở 
thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" là giải 
pháp hết sức cần thiết. 
Khác với học sinh các cấp học khác, đại bộ phận sinh viên là những người sống xa 
nhà, không có sự quản lý, giáo dục một cách trực tiếp của gia đình. Theo số liệu thống kê 
cho thấy hiện nay ký túc xá các trường cao đẳng đóng tại Vĩnh Long chỉ đáp ứng 20% 
trong số 70% sinh viên từ các địa phương đến học có nhu cầu ở ký túc xá, số còn lại phải 
tự thuê mướn nhà hoặc trọ nhà người thân để ở, trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó 
khăn, môi trường kinh tế - xã hội còn lắm phức tạp. Nhiều sinh viên vừa đi học vừa phải 
đi làm thêm để kiếm tiền sinh sống, họ làm đủ mọi nghề, thậm chí có những “nghề” bị 
pháp luật nghiêm cấm. Một số ít sinh viên có điều kiện kinh tế lại muốn đua đòi, muốn 
được thể nghiệm mình trước cuộc sống nhiều khi đến mạo hiểm. Điều này thực sự là một 
trở ngại lớn trong công tác quản lý sinh viên cũng như việc giáo dục đạo đức cho họ. 
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự kết hợp giữa nhà trường với gia đình và 
xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, trước mắt cần giải quyết tốt một số 
điểm sau đây: 
Thứ nhất: giữa gia đình, nhà trường, xã hội phải có sự thống nhất về quan điểm, chủ 
trương, mục đích trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên. Có như vậy thì chất lượng, 
hiệu quả công tác giáo dục đạo đức mới không ngừng được nâng cao. Gia đình và xã hội 
phải có những hiểu biết nhất định về các yêu cầu của nhà trường trong việc giáo dục đạo 
đức cho sinh viên và phải thường xuyên quan tâm đến công tác này. Trên thực tế, có một 
số gia đình do thiếu thông tin, hiểu biết không đầy đủ về nội dung và hình thức giáo dục 
đạo đức ở nhà trường nên đã cản trở con cái tham gia một số phong trào hoạt động có 
tính chất thực hành chính trị - xã hội, do Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức, điều này 
có ảnh hưởng không tốt đến công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. 
Thứ hai: Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục 
đạo đức cho sinh viên. Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt. Thực tiễn công tác giáo dục - 
đào tạo những năm qua cho phép chúng ta khẳng định rằng ở đâu và lúc nào Đảng ủy, 
Ban giám hiệu các trường quan tâm đến công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo đức, 
lối sống, đến quyền lợi chính đáng của sinh viên, thường xuyên phối hợp với gia đình và 
chính quyền địa phương trong công tác quản lý, giáo dục đạo đức cho sinh viên, thì ở đó, 
lúc đó sinh viên ít vi phạm kỷ luật, định hướng chính trị được giữ vững, phong trào học 
tập, nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh, mọi hoạt động sẽ đi vào nề nếp ổn định, tạo 
điều kiện cho sự phát triển của nhà trường. Mọi sự hạ thấp hay buông lỏng vai trò lãnh 
đạo của Đảng, sự quản lý của Ban giám hiệu và các tổ chức đoàn thể khác như Đoàn 
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam sẽ dẫn đến nguy cơ chệch 
hướng trong giáo dục, xa rời mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo đã được đề ra. 
Hiện nay ở các trường cao đẳng đóng trên địa bàn Vĩnh Long, ngoài Phòng Đào tạo, 
Phòng Quản lý học sinh, sinh viên, Ban Quản lý ký túc xá… là những đơn vị chức năng 
có nhiệm vụ trực tiếp quản lý sinh viên, cần thành lập thêm “Tổ công tác sinh viên ngoại 
trú” như là khâu trung gian giữa nhà trường với chính quyền, khu dân cư có sinh viên 
ngoại trú, tổ này sẽ giúp cho đảng ủy, ban giám hiệu nắm được tình hình học tập, sinh 
hoạt của sinh viên ngoài giờ lên lớp. 
Ngoài sự kết hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội, ngay bản thân các phòng, 
khoa, bộ môn, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam, các 
giảng viên cũng cần có sự kết hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh 
viên. Trên thực tế, sự kết hợp này ở một số trường nhiều lúc, nhiều nơi làm chưa tốt, tư 
tưởng phó thác cho các đơn vị chức năng như khoa Mác - Lênin, phòng công tác học 
sinh, sinh viên….vẫn còn. Do đó việc làm cho mọi người - nhất là đội ngũ các thầy, cô giáo ý 
thức được trách nhiệm của mình trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên là vô cùng cần 
thiết. 
Tóm lại, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đạo đức 
cho sinh viên là một giải pháp hết sức căn bản, là một nguyên tắc cơ bản của giáo dục 
đạo đức xã hội chủ nghĩa, tạo mọi thuận lợi cho việc giáo dục những giá trị đạo đức 
truyền thống dân tộc, đồng thời đẩy mạnh công tác đấu tranh chống lại những tư tưởng 
bảo thủ, những phong tục tập quán lạc hậu ngăn cản sự phát triển của xã hội, góp phần 
mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại trong đó 
có những giá trị đạo đức mang tính phổ quát toàn nhân loại. 
Mặc dù công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên là của toàn xã hội, nhưng nhà 
trường giữ vai trò định hướng, tổ chức, kiểm tra, đánh giá. Gia đình phối hợp với nhà 
trường để tạo điều kiện cũng như giám sát các em ngoài thời gian học tập trên lớp, xã 
hội cùng với nhà trường và gia đình thành một quá trình thống nhất liên tục và hoàn 
chỉnh. Đây được coi là giải pháp quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên 
hiện nay. 
2.2.3. Giáo dục giá trị đạo đức cho sinh viên thông qua các hình thức sinh hoạt 
mang ý nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn 
Nguyên lý giáo dục hiện nay ở nước ta được quy định ở Điều 3 Luật Giáo dục là 
"học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực 
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội". Để thực hiện 
nguyên lý đó, trong giáo dục đạo đức cho sinh viên chúng ta một mặt giáo dục lý luận 
đạo đức học cho sinh viên, mặt khác phải kết hợp với các hình thức hoạt động mang ý 
nghĩa chính trị thực tiễn để tiến hành giáo dục đạo đức cho sinh viên. 
Điều này hoàn toàn phù hợp với phương pháp giáo dục hiện đại là phương pháp kết 
hợp, sử dụng nhiều phương pháp giáo dục cho những đối tượng và môn học khác nhau. 
Đối với môn “Đạo đức học” chúng ta vừa kết hợp phương pháp thuyết giảng, phương 
pháp động não, phương pháp thảo luận nhóm… với phương pháp thực hành, phương 
pháp đi thực tế, phương pháp bài tập thực địa… 
Trên thực tế, những năm gần đây Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội 
Sinh viên Việt Nam tỉnh Vĩnh Long cũng như Hội Sinh viên ở các trường đại học và cao 
đẳng đã tổ chức nhiều hình thức hoạt động mang tính giáo dục giá trị đạo đức truyền 
thống cao, thu hút đông đảo sinh viên tham gia, nhưng so với yêu cầu và khả năng vốn 
có của sinh viên, các hình thức hoạt động này cần được triển khai một cách rộng khắp 
và đa dạng, phong phú, hợp với lứa tuổi sinh viên hơn nữa. Các phong trào như: “Tuổi 
trẻ giữ nước”, “Thanh niên lập nghiệp”, phong trào giúp đỡ và chăm sóc bà mẹ Việt 
Nam anh hùng, các gia đình có công với cách mạng gặp hoàn cảnh neo đơn, những 
người già cả ốm đau không nơi nương tựa; Phong trào sinh viên Vĩnh Long thi đua 
học tập - rèn luyện, lập công xuất sắc trong phong trào Thanh niên tình nguyện”; hoặc 
“Tìm hiểu Đảng cộng sản Việt Nam, tìm hiểu cuộc đời, thân thế, sự nghiệp cố Chủ 
tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng, tham quan khu căn cứ cách mạng Cái Ngang… 
Đã tạo ra những “sân chơi” bổ ích cho sinh viên. Đây là dịp để sinh viên có cơ hội thể 
hiện tính tích cực của mình, phát huy cao độ năng lực tự chủ, tính độc lập sáng tạo 
trong hoạt động, gắn “học với hành, lý luận với thực tiễn”; biến ý thức đạo đức thành 
thực tiễn đạo đức; không ngừng nâng cao tình cảm đạo đức cách mạng cho sinh viên. 
Chính thông qua môi trường sinh hoạt tập thể, giúp sinh viên tự vươn lên để hoàn 
thiện bản thân mình. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "Chỉ có trong cộng đồng, cá nhân 
mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình 
và do đó, chỉ có trong cộng đồng mới có tự do cá nhân” [40, tr.108]. 
Để công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên qua các hình thức hoạt động mang ý 
nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn đạt hiệu quả cao, các trường và Đoàn thanh niên, Hội 
sinh viên cần phải đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung, sâu sắc về ý nghĩa tư 
tưởng phải được coi là mục tiêu hàng đầu của các hình thức hoạt động giáo dục này. Có 
như vậy chúng ta mới đáp ứng được những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của sinh 
viên, đồng thời chúng ta mới đạt được yêu cầu mục tiêu giáo dục đạo đức cho sinh viên 
qua các hình thức hoạt động xã hội mang tính thực tiễn. 
Gắn tri thức đạo đức với thực tiễn đạo đức, mọi hiểu biết đạo đức được thể hiện qua 
hành vi đạo đức….đó là sự đánh giá đúng đắn nhất kết quả giáo dục đạo đức cho sinh 
viên. Ngay từ thời kỳ cổ đại, Arisitốt (384 - 322) đã từng nói rằng: Chúng ta bàn về đạo 
đức không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh. Nghĩa là 
có được những chủ thể đạo đức vừa có tri thức, vừa có thực tiễn đạo đức. 
2.2.4. Phát huy tính tự giác và tính chủ động trong học tập, rèn luyện đạo đức 
của sinh viên 
Triết học và đạo đức học mác xít đều khẳng định rằng vận động, phát triển là một 
quá trình tự thân, quá trình đó có nguyên nhân, nguồn gốc ngay trong bản thân sự vật, 
trong việc giải quyết những mâu thuẫn vốn có trong lòng bản thân sự vật, hiện tượng. 
Giáo dục là một quá trình hai mặt, một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối 
tượng giáo dục, mặt khác thông qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi, tự 
hoàn thiện mình. Đây chính là quá trình tự giáo dục. Quá trình này giữ vai trò hết sức 
quan trọng, nó đòi hỏi tính tự giác cao. 
Hiện nay chúng ta đang sống trong giai đoạn lịch sử mà việc "học tập suốt đời", đào 
tạo và tự đào tạo được đặt ở vị trí xứng đáng trong xã hội học tập. Bối cảnh đó, đòi hỏi 
phải phát huy tính tự giác, chủ động trong học tập của sinh viên, nhất là vấn đề rèn luyện 
đạo đức cách mạng. 
Sinh viên với những nét đặc thù về tâm sinh lý lứa tuổi, với một trình độ nhận thức 
và năng lực tư duy nhất định, quá trình giáo dục và tự giáo dục sẽ giúp cho sinh viên 
không chỉ nắm vững những kiến thức cơ bản, mà còn nắm vững những tri thức đạo đức 
đã được nhà trường trang bị, cùng với giao tiếp xã hội, sinh viên sẽ chuyển những kiến 
thức được học đó thành niềm tin cá nhân, thành những tình cảm đạo đức và được thể hiện 
ngay trong hành vi ứng xử hàng ngày của mình. 
Đạo đức là nội dung cơ bản thể hiện văn hoá của con người - văn hoá đạo đức, là 
mặt giá trị của con người, nó hướng con người vươn tới những giá trị đích thực của cuộc 
sống. Đạo đức ở mỗi con người không phải tự nhiên mà có, đó là kết quả của cả quá trình 
phấn đấu, rèn luyện vô cùng khó khăn gian khổ. Người có đạo đức phải là người có giáo 
dục, qua giáo dục và tự giáo dục. Thông qua hoạt động và giao lưu, con người hiểu rõ 
hơn về vai trò của lương tâm, nghĩa vụ, ý thức danh dự và các phẩm chất đạo đức cần 
thiết của cá nhân đối với đời sống cộng đồng. Qua đó mà họ tự điều chỉnh hành vi của 
mình phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. 
Do chỗ sinh viên là nhân cách phát triển chưa đầy đủ, chưa hoàn chỉnh, cho nên 
trong tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức của họ rất cần đến sự hướng dẫn của người thầy. 
Hơn nữa, thực chất của quá trình học tập ở đại học, cao đẳng là quá trình tự học tập dưới 
sự hướng dẫn của giáo viên. Điều này đã được khẳng định tại Điều 40 Luật Giáo dục: 
"Phương pháp đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng ý 
thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn 
luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, 
ứng dụng" [66, tr.32-33]. 
Với ý nghĩa này, trong giáo dục đạo đức phải thực sự "lấy học sinh làm trung tâm, 
giáo viên là chủ đạo", phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khả năng tự học, tự 
nghiên cứu của sinh viên. Tránh tình trạng trông chờ, ỷ lại, thụ động... trong giáo dục. 
Khác với quan điểm duy tâm và tôn giáo, chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, 
đạo đức không phải là cái gì sẵn có, mà nó được củng cố phát triển chủ yếu do sự đấu 
tranh rèn luyện hàng ngày, tu dưỡng rèn luyện đạo đức cũng giống như “ngọc càng mài 
càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Quá trình này là cuộc đấu tranh giữa cái tốt với 
cái xấu, cái tiến bộ với cái lạc hậu, làm cho cái tốt, cái tiến bộ chiếm ưu thế trong đời 
sống của từng chủ thể đạo đức. 
2.2.5. Lành mạnh hoá môi trường kinh tế - xã hội để có tác động tích cực đến 
giáo dục đạo đức cho sinh viên 
Môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội. 
Môi trường sinh sống của con người không đơn giản là môi trường địa lý hay môi trường 
tự nhiên thuần túy mà phải là môi trường tự nhiên - xã hội; môi trường kinh tế - xã hội, 
tức là toàn bộ những điều kiện kinh tế - xã hội tác động đến sự tồn tại và phát triển của 
con người. 
Bất cứ một sinh vật nào, đặc biệt là con người, đều cần có môi trường sống. Không 
có môi trường kinh tế - xã hội, con người không thể tồn tại và phát triển được. Trong “Hệ 
tư tưởng Đức” Mác và Ăngghen nói rằng; “Chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có được 
những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, 
chỉ có trong cộng đồng, mới có thể có tự do cá nhân” [40, tr.108]. Vì thế, để tìm hiểu bản 
chất con người, cần phân tích môi trường kinh tế - xã hội, tức là môi trường được tạo nên 
bởi con người thông qua hoạt động thực tiễn của họ. Môi trường kinh tế- xã hội tốt đẹp, 
trong sạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách, nếu 
ngược lại sẽ gây cản trở cho sự phát triển ấy, thậm chí còn tạo ra những nhân cách lệch 
chuẩn, xa rời những bản tính tốt đẹp của con người, tạo ra những con người ít mang nhân 
tính. 
Môi trường kinh tế - xã hội được coi là trong sạch, lành mạnh, khi ở đó, sự phát 
triển của kinh tế không kìm hãm sự phát triển các mặt của đời sống xã hội, không tạo ra 
những nghịch lý, triệt tiêu, phủ định lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến 
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Giữa 
chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải thống nhất với nhau, làm cho sự phát triển 
kinh tế phải là tiền đề vật chất của sự phát triển con người, phát triển xã hội. Đến lượt nó, 
chính sự phát triển người, phát triển nhân cách lại thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, 
tạo môi trường kinh tế - xã hội tốt đẹp, lành mạnh. 
Kể từ sau đổi mới, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan 
liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa đã làm cho môi trường kinh tế - xã hội nước ta có sự biến đổi. Sự biến đổi 
đó đã tác động sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống, làm thay đổi định hướng một số giá 
trị xã hội, trong đó có định hướng giá trị đạo đức, giá trị nhân cách. Một số giá trị cũ dần 
dần mất đi, một số giá trị mới xuất hiện, các bậc thang giá trị (đạo đức, nhân cách) cũng 
chuyển đổi để phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế. Xét cho cùng các giá trị đạo 
đức là sự phản ánh quan hệ vật chất và biến đổi theo đời sống vật chất xã hội. Vấn đề đặt 
ra là sự biến đổi đó phát triển theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu cực. 
Một trong những ưu điểm của nền kinh tế thị trường là phát huy cao độ tính năng 
động, sáng tạo, tích cực của người lao động, giải phóng sức lao động, nâng cao năng 
suất và hiệu quả lao động. Đó là “một thành quả to lớn mà nhân dân lao động thể lực 
và trí lực trên thế giới đã sáng tạo ra và ngày càng hoàn thiện trong lịch sử lâu đời của 
nhiều dân tộc và của loài người” [18, tr.59]. Song, bản thân kinh tế thị trường cũng có 
mặt trái của nó, gây tác động tiêu cực đến giá trị nhân cách con người Việt Nam. Sự sa 
sút nghiêm trọng về đạo đức xã hội và lối sống trong một bộ phận dân cư đang ảnh 
hưởng không tốt đến những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, gây cản trở đối với 
công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. 
Để hướng sinh viên vươn tới những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp, cần phải có một 
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, khoa học vì con người và do con người ở 
tầm vĩ mô cũng như việc triển khai thực hiện chiến lược đó. Để thực hiện những điều trên 
đây, trước mắt cần khắc phục nhược điểm trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay. 
Trong đó, nạn tham nhũng, tệ quan liêu cần phải được ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả. 
Chính Lênin đã từng cảnh báo rằng: tham nhũng, hối lộ là một trong ba kẻ thù chính của 
cách mạng sau khi Đảng cộng sản giành được chính quyền. “Kẻ thù thứ nhất - tính kiêu 
ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ thù thứ hai - nạn mù chữ, kẻ thù thứ ba - nạn hối lộ” [37, 
tr.217]. Muốn có môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh để phát triển đất nước 
theo con đường xã hội chủ nghĩa thì phải tiêu diệt cả ba kẻ thù đó. Còn trong nhà trường 
cần ngăn chặn ngay tình trạng gian lận trong thi cử, mua điểm, bán bằng….những cái đã 
làm suy giảm niềm tin của xã hội, của sinh viên vào công bằng xã hội và kỷ cương phép 
nước ở trong học đường, cái đang tác động xấu đến công tác giáo dục đạo đức, tư tưởng. 
Một trong những vấn đề sinh viên quan tâm và băn khoăn hiện nay là: tình hình tiêu 
cực, tham ô, tham nhũng và tệ nạn xã hội chưa bị đẩy lùi; công bằng xã hội ở nhiều nơi 
còn bị vi phạm; sinh viên mong muốn có điều kiện tốt để học tập, cải tiến chế độ thi 
tuyển, hình thức đào tạo; vấn đề việc làm sau khi ra trường.v.v… 
Giải quyết những băn khoăn đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải phấn đấu cao và 
nổ lực vượt bậc để thúc đẩy kinh tế - xã hội tiếp tục tăng trưởng cao và bền vững, duy trì 
ổn định chính trị, xã hội. Tạo ra môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh có tác 
động tích cực đến sự hình thành, phát triển nhân cách con người Việt Nam nói chung, 
sinh viên Việt Nam nói riêng. 
Riêng đối với ngành giáo dục, gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều 
văn bản có liên quan đến vấn đề giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, về chất lượng 
giáo dục cho học sinh, sinh viên như là: Văn bản số 2680 /BGDĐT-ĐH&SĐH ngày 
30/3/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, V/v tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện cuộc 
vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”; Quyết 
định số: 6028/QĐ-BGDĐT ngày 24/9/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, về việc kiện toàn 
Ban Chỉ đạo cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong 
giáo dục”; Văn bản số 7372/BGDĐT-HSSV ngày 18/8/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo 
V/v Thực hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích 
trong giáo dục” về công tác học sinh, sinh viên; chỉ thị số: 2516/CT-BGDĐT ngày 
18/5/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo V/v thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo 
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong ngành Giáo dục; Quyết định số 16/2008/QĐ-
BGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Qui định về đạo đức nhà 
giáo; Chỉ thị số: 53/2007/CT-BGDĐT ngày 7/9/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Về 
nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục đại học năm học 2007-2008; Quyết định số 60/2007/QĐ-
BGDĐT ngày 16/10/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo “V/v Ban hành Qui chế đánh giá 
kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên các cơ sở giáo dục đại học và trường trung cấp 
chuyên nghiệp hệ chính qui”; Quyết định số 66/2007/QĐ-BGDĐT ngày 1/1/2007 của Bộ 
Giáo dục và Đào tạo “V/v Ban hành qui định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục 
trường cao đẳng”; văn bản số 12391/BGDĐT-PC ngày 22/11/2007 của Bộ Giáo dục Đào 
tạo V/v sơ kết 2 năm thực hiện Luật Giáo dục; Quyết định số 76/2007/QĐ-BGDĐT ngày 
14/12/2007 của Bộ Giáo dục Đào tạo Ban hành qui định về qui trình và chu kỳ kiểm định 
chất lượng giáo dục trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp; Văn bản số 
2488/BGDĐT-ĐH&SĐH ngày 25/3/2008 của BGDĐT “V/v: Thông báo kế hoạch giảng 
dạy các môn Lý luận chính trị cho sinh viên các trường ĐH, CĐ”... thể hiện sự quan tâm 
sâu sắc của Đảng, Nhà nước, các bộ ngành có liên quan đối với vấn đề giáo dục đạo đức 
cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. 
Có thể thấy rằng việc "trồng người" là công việc gian nan, vất vả và lâu dài "vì 
lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Đó là kết quả tổng hợp, đòi hỏi sự tham gia 
đóng góp không chỉ của ngành giáo dục - đào tạo mà là của toàn xã hội. Việc phải tạo 
ra môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh có tác động trực tiếp đến công 
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, vì đó là nơi sinh viên tồn tại và phát triển. Bởi lẽ, 
trong tính hiện thực của nó - tức là trong đời sống xã hội hiện thực, với tất cả các mối 
quan hệ kinh tế - xã hội đan xen chằng chịt vào nhau - bản chất của con người là tổng 
hoà những quan hệ xã hội đó. 
Tiểu kết chương 2 
Theo V.I.Lênin: "Đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc 
lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang 
sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản" [36, tr.396]. Trên thực tế đạo đức có 
vai trò to lớn đối với sự phát triển xã hội, tuy nhiên ở mỗi chế độ xã hội thì những nguyên 
tắc, chuẩn mực đạo đức có khác nhau, điều đó còn phụ thuộc vào cơ sở kinh tế, chính trị 
của một xã hội nhất định. Sự phát triển của ý thức đạo đức qua các thời đại kinh tế cho 
thấy chủ nghĩa xã hội với cơ sở kinh tế, chính trị của nó sẽ cho phép ta xây dựng hình 
thái ý thức đạo đức tiến bộ nhất so với các xã hội trước đây. Không phải học cao thì tự 
nhiên con người sẽ có văn hoá đạo đức cao, đạo đức thể hiện nét văn hoá làm người của 
mỗi con người, nó là cái tạo ra uy tín, tình cảm, niềm tin, lý tưởng của mỗi cá nhân đến 
người khác. Do đó nhà trường cần phải chú trọng giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức 
nói riêng để xây dựng những phẩm chất, giá trị đạo đức tốt đẹp cho sinh viên - lớp người 
kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tương lai 
không xa. Bởi lẽ, sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, có trình độ học vấn nhất định, rất 
năng động, nhạy bén, sôi nổi có đầu óc sáng tạo, ham tìm tòi cái mới để học tập và đây 
cũng là lực lượng bổ sung cho nguồn lao động dồi dào của đất nước, nguồn nhân lực có 
chất lượng cao là điều kiện thuận lợi để thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
đất nước. 
Vấn đề đặt ra là hiện nay, các trường có định hướng gì để giáo dục cho sinh viên 
những giá trị đạo đức xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, bên cạnh những sinh viên có hoài bão, 
niềm tin, lý tưởng, có ý chí vì ngày mai lập thân, lập nghiệp; do những đặc điểm tâm sinh 
lý lứa tuổi chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, hay nản chí khi gặp khó khăn, dễ 
bị các phần tử xấu trong xã hội quyến rũ, lôi kéo, mua chuộc, thực hiện những hành vi 
không lành mạnh, một số ít sinh viên chưa thể hiện hết sự quyết tâm phấn đấu trong học 
tập và rèn luyện. Điều này đòi hỏi nhà giáo dục tìm hiểu rõ nguyên nhân tác động tới đạo 
đức của sinh viên để từ đó tìm ra các giải pháp thiết thực, khả thi nhất nhằm xây dựng và 
phát triển chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh viên, đáp 
ứng nhu cầu của địa phương, của tỉnh và cả nước trong thời kỳ đổi mới toàn diện của đất 
nước ta. 
KẾT LUẬN 
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là 
tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách 
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ của xã hội, chúng được thực 
hiện bởi niềm tin cá nhân. Bởi truyền thống và dư luận xã hội. Đạo đức với tính cách là 
một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là sản phẩm của tồn tại xã hội nên nó vẫn bị chi 
phối bởi đời sống vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội. Bởi vì là sản phẩm của tồn tại xã 
hội nên đạo đức không ngừng biến đổi cùng với sự thay đổi của cái đã sinh ra nó. Sự phát 
triển của sản xuất vật chất, của sự tiến bộ xã hội làm cho những quy tắc, chuẩn mực, 
phạm trù đạo đức không ngừng được nâng lên, phản ánh phong phú đời sống xã hội, nó 
điều chỉnh hành vi con người phù hợp với chuẩn mực của xã hội. 
Để hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức trong sự nghiệp "trồng 
người", các nhà trường cần phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đạo đức cho sinh 
viên, bởi lẽ, theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì đạo đức không phải nảy sinh từ 
bên ngoài xã hội. Do nhu cầu khách quan của sự phát triển nhận thức, của đời sống xã hội 
trước hết là nhu cầu hợp tác các hoạt động trong lao động làm xuất hiện ý thức đạo đức, 
hành vi đạo đức. Muốn có những nhận thức đúng, có hành vi, tình cảm, niềm tin, thái độ 
đúng, có tình cảm, thói quen, cách xử sự văn minh thì ngoài việc dạy nghề còn phải dạy 
cho sinh viên cách làm người, rèn luyện đạo đức phải đi đôi với việc phát triển tài năng, 
dạy văn đi đôi dạy lễ, dạy chữ gắn liền dạy người bởi vì theo Hồ Chí Minh nếu có tài mà 
không có đức thì không làm việc gì có lợi mà còn có hại cho xã hội. Con người muốn có đủ 
đức và tài thì cần phải có giáo dục và trong giáo dục thì giáo dục đạo đức cách mạng có vai 
trò ý nghĩa hết sức to lớn trong việc hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa trong sinh 
viên hiện nay. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa 
xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như 
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Muốn giáo dục một con người tốt, 
cần có môi trường giáo dục thật tốt làm cơ sở, làm điều kiện tiên quyết, đó là môi trường 
giáo dục của gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội. Sự kết hợp chặt chẽ giữa ba môi 
trường giáo dục này sẽ tạo ra được một mẫu người mới cho một chế độ mới vì dân giàu, 
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 
Giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng có vai trò vô cùng to lớn trong 
việc hình thành thang giá trị đúng đắn để sinh viên tự đánh giá, tự khẳng định, tự thẩm 
định, tự điều chỉnh, tự kiểm tra, tự ý thức về hành vi đạo đức của mình nhằm khơi dậy 
tình cảm, niềm tin, lòng nhân ái, tính vị tha của con người hợp với chuẩn mực đạo đức 
của xã hội. Thông qua giáo dục đạo đức góp phần nâng cao nhận thức các giá trị đạo 
đức trong sinh viên những phẩm chất, giá trị đạo đức cần thiết, đáp ứng yêu cầu công 
cuộc đổi mới đất nước. 
Sinh viên các trường cao đẳng tại địa bàn Vĩnh Long một phần giống như sinh viên 
Việt Nam nói chung, ở họ sẵn có trong mình truyền thống yêu nước và niềm tự hào dân 
tộc, đa số đều ham học, vượt khó vươn lên, sự cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong học 
tập, có lối sống lành mạnh, tích cực tham gia các hoạt động xã hội và các buổi sinh hoạt 
dã ngoại vì cộng đồng. 
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, sinh viên Vĩnh Long còn bộc lộ nhiều 
hạn chế: do điều kiện thiên nhiên khá ưu đãi, tuy không giàu, nhưng không bị đói, do đó 
họ rất chủ quan, ỷ lại, trông chờ vào sự ban bố của thiên nhiên, trong đó có một số ít sinh 
viên là người dân tộc Khơme lại có tư tưởng ỷ lại vào chế độ, chờ đợi chính sách ưu đãi 
của Đảng và Nhà nước, kể cả sự ưu tiên về điểm chuẩn khi thi tuyển sinh đầu vào, chưa 
quan tâm nhiều về học tập, một số ít sinh viên ỷ lại ảnh hưởng truyền thống cách mạng 
và chức vụ hiện có của gia đình và người thân hoặc những gia đình có cha mẹ thiếu quan 
tâm đến mình vì cuộc sống thì thường hay lơ là trong học tập. Thêm vào đó còn một số 
cán bộ, đảng viên vì đồng tiền làm tha hoá, mất đi tình cảm con người, cậy chức cậy 
quyền làm mất đi tình làng nghĩa xóm và gần đây còn nhiều vụ việc làm suy thoái đạo 
đức trên lĩnh vực kinh doanh làm ảnh hưởng đến niềm tin và tình cảm của sinh viên đối 
với xã hội. 
Thực trạng những vấn đề nêu trên diễn ra đòi hỏi chúng ta hơn bao giờ hết tìm ra 
nguyên nhân và những giải pháp thiết thực nhất, khả thi nhất nhằm nâng cao chất lượng 
và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức lối sống cho sinh viên Vĩnh Long trong giai đoạn 
hiện nay và xem đây là một trong những nội dung không thể thiếu được trong hệ thống 
giáo dục tại các trường học ở Vĩnh Long. Có như thế, chúng ta mới đào tạo được nguồn 
nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Với những nỗ lực của đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất của nhà trường kết hợp 
với sự quan tâm của các cấp uỷ đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, nhà trường và gia 
đình sẽ là cơ sở là niềm tin cho sinh viên học tập, rèn luyện trở thành người có ích cho xã 
hội, phục vụ tốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: dân 
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đỗ Tuyết Bảo (2001), Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở tại 
thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết 
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
2. Bộ Chính trị (1993), Nghị quyết về một số định hướng trong công tác tư tưởng hiện 
nay, Hà Nội. 
3. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1999), Công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên, Kỷ yếu 
Hội thảo, Lưu hành nội bộ, Hà Nội. 
4. Doãn Thị Chín (2004), Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên 
Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ 
Chí Minh. 
5. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu 
phát triển”, Tạp chí Triết học, (2), tr.16-19. 
6. Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống trước 
những thách thức của toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969). 
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, 
Nxb Sự thật, Hà Nội. 
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện đại hội giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành 
Trung ương Khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành 
Trung ương Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Hội nghị Trung ương năm Ban Chấp hành Trung 
ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Hội nghị Trung ương bảy Ban Chấp hành Trung 
ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
17. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Vĩnh Long (2007), Văn kiện đại hội 
lần thứ VIII, Vĩnh Long. 
18. Phạm Văn Đồng (1995), Văn hoá và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
19. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
20. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
21. Nguyễn Thị Thanh Hà (2007), Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc xây 
dựng nhân cách đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết 
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
22. Trần Đình Hoan (2002), “Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống và năng lực cho 
cán bộ, đảng viên trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng”, Tạp chí Quốc 
phòng toàn dân, (2), tr.5-8. 
23. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Triết học (2000), Giáo trình đạo 
đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
24. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình Mỹ học Mác - Lênin, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
25. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Triết học (2004), Thông tin những 
vấn đề triết học và đời sống. 
26. Nguyễn Văn Huyên (1998), “Giá trị truyền thống- nhân lõi và sức sống bên trong 
của sự phát triển đất nước, dân tộc”, Tạp chí Triết học, (4), tr 8-11. 
27. Thế Hùng (2003), Mỹ học đại cương, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 
28. Vũ Khiêu (chủ biên) (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
29. Vũ Khiêu (1975), Lao động-nguồn vô tận của mọi giá trị, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 
30. Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
31. Trần Hậu Kiêm (1993), Các dạng đạo đức xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
32. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
33. Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1997), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
34. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 25, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
35. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
36. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
37. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
38. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Quán triệt mối quan hệ giữa kinh tế với đạo đức trong 
việc đổi mới tư duy", Tạp chí Nghiên cứu, (1), tr.109. 
39. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
40. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
41. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
42. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
43. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
44. C.Mác - Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
45. C.Mác - Ph.Ăngghen (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
46. C.Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
47. Hồ Chí Minh (1945), Thư gửi học sinh cả nước. 
48. Hồ Chí Minh (1970), Đạo đức là gốc của người cách mạng, Nxb Quân đội nhân 
dân, Hà Nội. 
49. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
50. Hồ Chí Minh (1993), Về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
51. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
52. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
53. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
54. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
55. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
56. Nguyễn Chí Mỳ, Nguyễn Thế Kiệt (1998), “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức 
trong xã hội ta hiện nay và việc nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ”, Tạp 
chí cộng sản, (15), tr.26-28. 
57. Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1998), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền 
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta 
hiện nay, (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
58. Hoàng Kim Oanh (2007), Vấn đề giáo dục y đức cho sinh viên ngành y ở Thành phố 
Hà Nội hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ 
Chí Minh. 
59. Trần Sỹ Phán (1996), “Sinh viên với định hướng giá trị đạo đức”, Tạp chí Đại học 
và giáo dục chuyên nghiệp, (3), tr.22. 
60. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân 
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, 
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
61. Trần Sỹ Phán (2006), “Đạo đức sinh thái - vấn đề cần được quan tâm”, Tạp chí 
Giáo dục lý luận, (7), tr.20. 
62. Nguyễn Văn Phúc (1996), “Về vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân 
cách trong cơ chế thị trường”, Tạp chí Triết học, tr.15. 
63. Nguyễn Văn Phúc (2000), “Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong 
điều kiện hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6), tr.38-40. 
64. Văn Quân (1995), Về các giá trị dân tộc, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 
65. Nguyễn Đình Quế (2000), Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức 
mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện 
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
66. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Giáo dục. 
67. Nguyễn Thái Sinh (2003), Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên đào 
tạo sỹ quan quân đội, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia 
Hồ Chí Minh. 
68. A.F Shishkin (1961), Nguyên lý đạo đức cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
69. Lê Thị Hoài Thanh (2002), Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong 
giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, 
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
70. Lê Sĩ Thắng (2002), “Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi 
mới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (5), tr.15-19. 
71. Hà Huy Thông (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của người cán bộ quân 
sự, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
72. Đặng Hữu Toàn (2001), Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá 
trị chân - thiện - mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá, phát triển kinh tế thị trường, 
Báo cáo tại Hội thảo quốc tế “Giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu 
hoá”, Hà Nội. 
73. Hoàng Trang (2000), “Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo 
đức”, Tạp chí Triết học, (4), tr.19-21. 
74. Mạc Văn Tranh (chủ biên) (1995), Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những 
phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên, Đề tài nghiên cứu 
khoa học (mã số B94 - 38 - 32), Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
75. Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2003), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc 
Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VII (tháng 12/2003), Nxb Thanh niên, Hà Nội. 
76. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1990), Đạo đức học Mác - Lênin, Phần I, Hà 
Nội. 
77. Nguyễn Quang Uẩn, Mạc Văn Trang (1994), Giá trị, định hướng giá trị nhân cách 
và giáo dục giá trị, chương trình khoa học cấp nhà nước KX 07, đề tài KX 07-
04, Hà Nội. 
78. Trần Xuân Vinh (1995), “Sự biến đổi một số giá trị cơ bản của thanh niên hiện 
nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.41-43. 
79. Vũ Văn Viên (2002), “Giáo dục đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện 
nay”, Tạp chí lý luận Chính trị, (7), tr.22-24. 
80. Phạm Viết Vượng (1996), Giáo dục học đại cương, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN-Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay.pdf LUẬN VĂN-Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay.pdf