Luận văn Vấn đề phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay

Trong những năm vừa qua, Nhà nước và người sử dụng lao động đã có nhiều cố gắng đầu tư tài chính, công nghệ để cải thiện điều làm việc cho người lao động. Nhìn chung điều kiện làm việc, môi trường làm việc của người lao động ở một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được cải thiện một bước. Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ mới cùng với đổi mới thiết bị, dây chuyền sản xuất đã làm thay đổi về chất điều kiện lao động của người lao động, giảm bớt lao động thủ công nặng nhọc, giảm bớt tiếp xúc với nhiều yếu tố nguy hiểm độc hại, giảm bớt được sự ô nhiễm. Đó là kết quả tác động ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới từ các chính sách của Đảng và Nhà nước được thể hiện trong các luật Đầu tư nước ngoài, luật Lao động, luật Công đoàn.

pdf111 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3519 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước. Hai là, dân chủ đối thoại. Dân chủ đối thoại tức là người lao động doanh nghiệp trao đổi bàn bạc trực tiếp với người lãnh đạo chính quyền doanh nghiệp về những vấn đề mình quan tâm, người lãnh đạo chính quyền trả lời tại chỗ những vấn đề người lao động đưa ra. Nó không giống chế độ thương lượng tập thể, cũng không giống chế độ thương lượng định kỳ giữa Công đoàn và chính quyền, nó là hình thức hội nghị toạ đàm với số người không cố định, bản thân nó có đặc điểm bình đẳng, trực tiếp và linh hoạt. Dân chủ và đối thoại nói chung do Công đoàn phụ trách tổ chức. Ba là, người lao động nắm cổ phần. Hình thức người lao động nắm cổ phần thích hợp với các doanh nghiệp cổ phần hoá. Trong những doanh nghiệp này, người lao động mua cổ phiếu của công ty lại tăng thêm một tầng quan hệ quyền tài sản. Họ là cổ đông có quyền tham gia đại hội cổ đông, tham gia quản lý quyền tài sản. Do đó, cần phải tổ chức người lao động có cổ phần doanh nghiệp lại, xây dựng hội công nhân viên chức lao động nắm cổ phần do Công đoàn chủ trì. Công tác chủ yếu của hội công nhân viên chức lao động nắm cổ phần là: theo quy định pháp luật của nhà nước và Điều lệ công ty, cử đại biểu tham gia hội nghị cổ đông, tập trung ý kiến và yêu cầu của người lao động nắm cổ phần lại biểu đạt đầy đủ trong hội nghị cổ đông. Tổ chức hội công nhân viên chức lao động nắm cổ phần, có lợi cho việc bảo vệ lợi ích chung của người lao động vào sự phát triển chung của doanh nghiệp, có lợi cho việc phát huy đầy đủ vai trò của Công đoàn, bảo vệ lợi ích của người lao động. 3.1.4. Công đoàn dựa vào luật pháp để bảo vệ lợi ích của người lao động Trong nền kinh tế thị trường, tồn tại nhiều thành phần kinh tế với quan hệ ba bên: Chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động, Công Đoàn là người đại diện cho người lao động tham gia với Nhà nước, Chính quyền các cấp xây dựng các văn bản pháp luật, chế độ, chính sách có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là tiền đề về mặt tổ chức và tư tưởng cho hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Tổ chức Công Đoàn cũng như các tổ chức chính trị, xã hội khác lấy chủ trương, chính sách của Đảng là định hướng cho mọi hoạt động của mình. Bởi vậy, xuất phát từ những tiền đề khách quan, từ vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức Công Đoàn, hệ thống chính trị xã hội Việt Nam, Nhà nước Việt Nam thừa nhận và bảo đảm quyền tham gia mọi hoạt động của Công Đoàn thông qua hệ thống pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật lao động, Luật Công Đoàn cùng một số luật khác. Điều 10 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam xác định: “Công Đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ CNVC và những người lao động khác tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Trong Bộ luật lao động Việt Nam năm 2002, tại điều 7 khoản 2 đã quy định: “Những người lao động có quyền thành lập, gia nhập hoạt động Công Đoàn để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, được hưởng phúc lợi tập thể, tham gia quản lý doanh nghiệp theo nội quy của doanh nghiệp và theo quy định của pháp luật”. Tại Điều 12 Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002 có nêu: “Công Đoàn tham gia với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của người lao động; tham gia kiểm tra giám sát việc thi hành các quy định pháp luật lao động”. Tại Điều 5 Luật Công Đoàn Việt Nam năm 1990 có nêu: “Công Đoàn tham gia với cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ về lao động, tiền lương, BHLĐ và các chính sách xã hội khác liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ lợi ích của người lao động”. Trong Luật Công Đoàn Việt Nam năm 2002 tại Điều 2 quy định: “Công Đoàn đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, được hưởng phúc lợi tập thể, tham gia quản lý doanh nghiệp theo nội quy của doanh nghiệp và theo quy định của pháp luật”. Tại Điều 41, 42 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 có quy định rõ về quyền của tập thể lao động trong doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, trong một số văn bản pháp luật, các quy định, quyết định của Nhà nước cũng nêu rõ quyền tham gia xây dựng chế độ, chính sách của tổ chức Công Đoàn và CNVCLĐ. Trong Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, Nghị định số 07/1999/NĐ-CP về thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đều quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Công Đoàn, của CNVC - LĐ. Đây là cơ sở pháp lý để Công đoàn thực hiện tốt chức năng của mình. Công đoàn tham gia xây dựng và có quyền trình dự án luật, pháp lệnh ra trước Quốc hội, Hội đồng nhà nước trong phạm vi các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của người lao động. Tham gia với cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ về lao động, tiền lương, BHLĐ và chính sách xã hội khác liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động. Phối hợp với các Bộ chức năng thuộc chính phủ soạn thảo các dự án kinh tế xã hội, pháp luật, chính sách về lao động, việc làm, phân phối thu nhập, chính sách lao động nữ, nhà ở, giáo dục, đào tạo v..v Tham gia định hướng, chỉ đạo triển khai thực hiện các chương trình quốc gia giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gia đình, kế hoạch dân số, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống HIV/AIDS 3.1.5. Nâng cao chất lượng bảo vệ lợi ích người lao động của công đoàn là trách nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhân tố quyết định vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn là mối quan hệ của nó trong hệ thống chính trị XHCN. Trong hệ thống chính trị đó Công đoàn chiếm vị trí quan trọng. Công đoàn đứng giữa Đảng và Nhà nước, có mối liên hệ chặt chẽ với Đảng và Nhà nước; Công đoàn là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng. Thông qua tổ chức Công đoàn, Đảng nắm được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để hoạch định đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn. Đảng lãnh đạo Công đoàn bằng chính trị, tư tưởng, tổ chức, đây là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho Công đoàn hoạt động đúng hướng. Công đoàn tập hợp quần chúng, giáo dục nâng cao giác ngộ cho quần chúng, động viên công nhân, viên chức, lao động, tham gia xây dựng Nhà nước, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (chương I - điều 10) quy định Công đoàn là “tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và người lao động. Cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo, bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Luật Công đoàn đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua (tại kỳ họp thứ 7 khoá VIII ngày 30/6/1990) khẳng định: “Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, là trường học CNXH của người lao động”. Vai trò của Công đoàn còn được tiếp tục nâng cao theo xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong cơ chế thị trường, Công đoàn là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ lao động - xã hội. Bởi nếu không có sự tồn tại và phát huy tác dụng của Công đoàn thì không thể có sự vận hành của kinh tế thị trường. Không có sự tham gia của Công đoàn, quan hệ lao động sẽ mất thăng bằng, lệch lạc… Vị trí của Công đoàn trong những năm tới còn được nâng cao hơn bởi vì: Công đoàn có khả năng tham gia giải quyết tranh chấp lao động. Trong trường hợp này, Công đoàn không chỉ đại diện cho mỗi bên - người lao động, mà còn là tổ chức trực tiếp tham gia giải quyết những tranh chấp khi lợi ích giữa lao động và giới chủ nảy sinh. Vai trò của Công đoàn trong lĩnh vực này ngày càng nổi bật, vị trí, vai trò Công đoàn ngày một nâng cao. Tuy nhiên, xu thế nâng cao vị trí, vai trò Công đoàn là một quá trình lâu dài. Con đường ngoạn mục hay gập ghềnh, trắc trở còn tuỳ thuộc vào hiệu quả chung của cuộc đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ XHCN và năng lực nội sinh của tổ chức Công đoàn trong sự vận động của kinh tế thị trường định hướng XHCN. 3.2. Những Giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay 3.2.1. Thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của công đoàn trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Nói về vai trò của Công đoàn, trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản” Lênin chỉ rõ: “Giai cấp vô sản bất cứ nơi nào trên thế giới cũng chỉ phát triển và phát triển bằng con đường Công đoàn, bằng sự tác động qua lại giữa Công đoàn và Đảng của giai cấp công nhân chứ không thể bằng con đường nào khác”. Trong quá trình xây dựng CNXH, Lênin còn khẳng định: Đảng dựa vào bộ máy nhà nước chuyên chính vô sản và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có công đoàn. Xét tổng quát, bộ máy tổ chức này theo cách nói của Lênin: tạo thành “hệ thống bánh xe răng cưa”, “sợi dây chuyền” nối liền đội tiền phong với quần chúng của giai cấp công nhân và nối liền giai cấp ấy với quần chúng lao động. Đánh giá vai trò công đoàn trong CNXH, Lênin còn khẳng định: Nếu không có sự liên hệ chặt chẽ với công đoàn, không được công đoàn nhiệt liệt ủng hộ, không có công tác đầy hy sinh, tận tuỵ của công đoàn không những trong công cuộc kiến thiết kinh tế mà cả trong công cuộc tổ chức quân sự thì dĩ nhiên thì chúng ta không thể quản lý được nhà nước và thực hiện được chuyên chính, tôi không nói trong hai năm rưỡi mà ngay cả trong hai tháng rưỡi cũng không được [14, tr.230]. Vai trò to lớn của công đoàn Việt Nam đã được thực tế cách mạng Việt Nam chứng minh, được Đảng ta khẳng định và được hiến pháp nước cộng hoà XHCN Việt Nam thừa nhận. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vị trí, vai trò của công đoàn, tạo điều kiện cho công đoàn phát huy tính tích cực của mình. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành thời gian gặp gỡ, dặn dò các đồng chí lãnh đạo Tổng công đoàn (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) phát huy vai trò của mình hơn nữa, để chăm lo đến đời sống công nhân lao động, nêu cao vai trò tiên tiến của giai cấp công nhân trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tổ chức công đoàn Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đang không ngừng đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng giai cấp công nhân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo động lực cho sự phát triển đất nước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều cán bộ, Đảng viên, cán bộ quản lý xem nhẹ vai trò của Công đoàn, không tạo điều kiện cho công đoàn hoạt động, thậm chí cản trở các hoạt động công đoàn vì sợ rằng nếu công đoàn phát huy vai trò đối với quần chúng sẽ làm ảnh hưởng uy tín và quyền lực của mình. Lại cũng có những cán bộ công đoàn tự ti, mặc cảm, không tự chủ trong công việc, lệ thuộc vào chủ doanh nghiệp hay chính quyền nhà nước. Thực trạng đó đòi hỏi phải có sự thống nhất nhận thức về vai trò của công đoàn trong sự nghiệp đổi mới hiện nay không những trên lĩnh vực lý luận mà còn trong thực tiễn. Ngay từ khi mới ra đời, Công đoàn Việt Nam đã xác định rõ vị trí, vai trò của mình đó là: + Vị trí của Công đoàn Việt Nam trong hệ thống chính trị. Điều 1 Luật Công đoàn Việt Nam: Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam, tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam; là trường học CNXH của người lao động. Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng giai cấp công nhân, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động; là chỗ dựa vững chắc của Đảng; là sợi dây chuyền nối liền giữa Đảng với công nhân, viên chức, lao động; là người cộng tác đắc lực của Nhà nước; là nguồn cung cấp cán bộ cho Đảng và Nhà nước; Công đoàn thu hút cả những người tiên tiến, chậm tiến vào tổ chức, để tổ chức giáo dục và giác ngộ. Trong mối quan hệ với Đảng: Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng, là chỗ dựa vững chắc của Đảng. Đảng lãnh đạo Công đoàn bằng đường lối, nghị quyết, phương hướng và thông qua các Đảng viên của Đảng; đồng thời Đảng tôn trọng tính độc lập tương đối về mặt tổ chức của Công đoàn. Công đoàn là người tuyên truyền, phổ biến đường lối, nghị quyết của Đảng đến công nhân viên chức lao động. Có trách nhiệm vận động công nhân viên chức lao động thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng. Trong quan hệ với Nhà nước: Công đoàn là người cộng tác đắc lực của Nhà nước. Công đoàn với Nhà nước là quan hệ thống nhất, cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau. Nhà nước không can thiệp công việc nội bộ của tổ chức Công đoàn, luôn tạo điều kiện vật chất và ban hành các văn bản pháp quy đảm bảo về mặt pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn góp phần tham gia xây dựng Nhà nước, Công đoàn và Nhà nước có cùng mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong quan hệ với các tổ chức chính trị - xã hội khác: Công đoàn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng với các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp khác hợp tác, đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng phối hợp thực hiện nhiệm vụ chung dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong quan hệ với giới chủ: là mối quan hệ giữa đại diện của người lao động với người sử dụng lao động, hai bên bình đẳng và tôn trọng nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhằm giải quyết hài hoà quyền lợi ích của mỗi bên trong quan hệ lao động. Mục đích, nội dung hoạt động trong mối quan hệ giữa Công đoàn với người sử dụng lao động là nhằm làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. + Vai trò của Công đoàn Việt Nam. Vai trò của Công đoàn Việt Nam là sự tác động của tổ chức Công đoàn đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá tư tưởng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường Công đoàn có vai trò: Trong lĩnh vực kinh tế, Công đoàn vận động công nhân viên chức lao động tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; hoàn thiện cơ cấu và các chính sách kinh tế. Vận động công nhân viên chức, lao động nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh, giữ vững thương hiệu sản phẩm trên thị trường; tham gia thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội. Trong lĩnh vực chính trị, công đoàn góp phần xây dựng và nâng cao năng lực của hệ thống chính trị XHCN, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, xây dựng Nhà nước thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị. Trong lĩnh vực xã hội, Công đoàn tích cực xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ học vấn, tay nghề, khoa học công nghệ, trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; góp phần củng cố khối liên minh công - nông - trí trở thành nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân và là cơ sở xã hội vững chắc, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng, Công đoàn giáo dục công nhân, lao động nâng cao lập trường giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giai cấp công nhân, và tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, giáo dục lối sống mới, phòng chống các tệ nạn xã hội, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, học vấn, tham gia chăm lo nhà ở cho công nhân, lao động. Trong cơ chế thị trường, do cạnh tranh về kinh tế, người sử dụng lao động dù vô tình hay cố tình, còn vi phạm lợi ích chính đáng của người lao động. Công đoàn với tư cách là người đại diện của người lao động có trách nhiệm tham gia xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, ổn định, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động. Khi quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động được bảo vệ, người lao động sẽ tự nguyện, nhiệt tình, hăng hái hoạt động công đoàn, làm cho vai trò của Công đoàn ngày càng có ảnh hưởng tích cực hơn đối với doanh nghiệp nói riêng và trong đời sống xã hội nói chung. 3.2.2. Sửa đổi, bổ sung luật công đoàn và luật lao động trong đó có những vấn đề về quyền của công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động Công đoàn chủ động tham gia xây dựng và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến người lao động. Trước mắt là chính sách về nhà ở, đặc biệt là nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp và công nhân viên chức, lao động có thu nhập thấp; chính sách đảm bảo việc làm, tiền lương, thu nhập, BHXH, BHYT, xây dựng nhà trẻ, mẫu giáo và các thiết chế văn hoá phục vụ công nhân, lao động. Nghiên cứu kiến nghị và tham gia sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật bảo hiểm xã hội; quy định pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ trong các DNNQD; chính sách pháp luật về BHLĐ, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường; chính sách đối với lao động nữ; chính sách đào tạo, đào tạo lại nghề cho công nhân; chính sách khuyến khích công nhân tự học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ; chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với công nhân có sáng kiến, có tay nghề cao. 3.2.3. Đổi mới phương pháp hoạt động của Công đoàn Đổi mới phương thức hoạt động của Công đoàn được thể hiện ở hình thức, phương pháp hoạt động, lề lối làm việc, mô hình tổ chức và bố trí cán bộ theo hướng chuyển từ lối chỉ đạo theo kiểu hành chính sang lối hoạt động sát cơ sở, sát quần chúng, coi trọng điều tra, khảo sát tìm hiểu tâm lý, nguyện vọng của từng đoàn viên, gắn với quần chúng, với thực tế ở cơ sở, lấy hiệu quả phục vụ quần chúng làm mục tiêu phấn đấu; lấy việc phục vụ đoàn viên và tổ chức cơ sở làm điểm xuất phát cho mọi chủ trương, chương trình công tác. Thứ nhất, về mô hình tổ chức bộ máy: việc thay đổi mô hình tổ chức bộ máy theo hướng giao quyền tự chủ cho Công đoàn cơ sở, coi trọng lợi ích đoàn viên, đa dạng hoá mô hình Công đoàn cơ sở và các hình thức tập hợp quần chúng giảm nhẹ cấp trên, giảm nhẹ bộ máy là điều kiện cơ bản để thực hiện phương thức sát cơ sở, sát đoàn viên. Về phương thức hoạt động Công đoàn cần chống quan liêu, mệnh lệnh, hành chính bằng cách xác định rõ: Mọi nhiệm vụ của Công đoàn phải xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của đông đảo người lao động. Công đoàn cấp trên chỉ là cấp đại diện, giúp đỡ, hướng dẫn cho cấp dưới, chủ yếu là theo nhu cầu nguyện vọng của cấp dưới. Mỗi cấp làm việc theo chương trình mục tiêu, đúng chức trách bớt hội họp không cần thiết, khi triển khai kế hoạch hoạt động có thể thông qua hệ thống thông tin nội bộ. Tăng cường mối quan hệ thông tin nhiều chiều. Các kỳ họp của Ban Chấp hành Công đoàn các cấp nên giành thời gian đi sâu thảo luận ra các chuyên đề cụ thể liên quan đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn. Tăng cường động viên các hoạt động của cộng tác viên, mạng lưới quần chúng của Công đoàn. Từng bước sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại trong các tổ chức Công đoàn các cấp. Thứ hai, về lề lối làm việc của cán bộ Công đoàn các cấp. Cán bộ lãnh đạo do bầu kể cả chuyên trách và bán chuyên trách cần tăng cường tiếp xúc, đối thoại với quần chúng lao động để nắm bắt được nguyện vọng của quần chúng. Có chủ trương đúng đắn, có phương pháp công tác khoa học để điều hành bộ máy (chọn mục tiêu chương trình, cách thức hội họp, bố trí thời gian làm việc hợp lý …). Đội ngũ chuyên gia trong các cơ quan Công đoàn phải có phương pháp công tác khoa học để thực hiện nhiệm vụ chuyên sâu của mình. Thực hiện xã hội hoá nội dung hoạt động và đa dạng hoá hình thức tổ chức vận động quần chúng. Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống công cụ tác động đến đông đảo quần chúng (câu lạc bộ, nhà văn hoá, các trung tâm và hoá chính trị, các nhóm hội chuyên đề, các tuyên truyền viên, báo cáo viên, cộng tác viên …) nâng cao chất lượng của hệ thống báo chí, xuất bản thông tin đại chúng của Công đoàn. Căn bản nhất là đổi mới tổ chức và hoạt động ở tổ, ca kíp, buồng máy, khu dân cư và gia đình. Tạo dựng cho được phong trào hoạt động tích cực, tự nguyện của quần chúng từ việc tìm tòi xác định các mục tiêu nội dung vừa đáp ứng yêu cầu của quần chúng vừa thống nhất với mục tiêu các chương trình dự án của Nhà nước, bồi dưỡng và nhận những điển hình tiên tiến, nhân tố mới. Kết hợp tác động vào các tập thể với việc tác động đến từng gia đình, từng nhóm và từng người. Phát triển các trung tâm nghiên cứu khoa học, tổ chức điều tra khảo sát thăm dò nắm bắt được thực trạng tâm lý, nguyện vọng, dư luận quần chúng một cách khách quan làm cơ sở cho việc xây dựng nội dung biện pháp vận động quần chúng và đề xuất với Nhà nước điều chỉnh bổ sung chế độ, chính sách cần thiết. Giảm bớt các cuộc họp dài ngày, giảm dần việc ra các Nghị quyết chung chung không rõ việc, không rõ trách nhiệm và không có khả năng thực hiện. Mở rộng việc tổ chức chỉ đạo hoạt động theo các chương trình dự án với những mục tiêu yêu cầu và các giải pháp cụ thể. Một vấn đề hết sức quan trọng hiện nay là phải tăng cường tính pháp lý trong hoạt động công đoàn vì sự hình thành và hoàn thiện dần thể chế kinh tế thị trường yêu cầu hoạt động công đoàn cần phải thực hiện pháp chế hóa. Bảo vệ lợi ích người lao động đòi hỏi thực hiện pháp chế hoá Công đoàn. Trong điều kiện thể chế kinh tế thị trường Việt Nam, quan hệ lao động do Nhà nước quản lý từng bước biến thành hành vi doanh nghiệp và phát triển theo phương hướng thị trường hoá, thoả ước hoá. Quan hệ lợi ích ba bên: Nhà nước, doanh nghiệp và công nhân, viên chức, lao động dần dần rõ ràng, vai trò và địa vị Công đoàn đại diện bảo vệ lợi ích công nhân lao động càng nổi bật. Công đoàn phải dựa vào luật, sử dụng biện pháp pháp luật, dựa vào pháp luật, pháp quy để bảo vệ lợi ích hợp pháp của công nhân lao động. . Căn cứ của việc pháp chế hoá hoạt động công đoàn dựa trên hệ thống pháp luật. Trong đó bao gồm: Hiến pháp, Luật Công đoàn, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp và những quyết định pháp luật hành chính, quy định pháp luật mang tính địa phương. Đi sâu quán triệt Bộ Luật Lao động, kiên trì bảo vệ theo luật, trước tiên cần phải xây dựng chế độ bình đẳng thương lượng và thoả ước tập thể, đây là quyền lợi và chức trách quan trọng mà Bộ luật Lao động dành cho Công đoàn; là cơ chế có hiệu lực bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hoà ổn định. Bên cạnh đó, cần phải theo luật bảo vệ quyền lợi về việc làm, quyền hưởng công lao động và quyền bảo hiểm xã hội cho người lao động. Công đoàn chỉ đạo và giúp đỡ người lao động ký kết TƯLĐTT với doanh nghiệp, dựa vào luật quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên, đồng thời phải tăng cường kiểm tra đôn đốc tình hình thực hiện thoả ước lao động. Chú trọng kiểm tra đôn đốc chấp hành pháp luật: Trước hết cần phải tăng cường xây dựng tổ chức giám sát. Phải kiện toàn xây dựng tổ chức giám sát ở các doanh nghiệp, hình thành màng lưới công tác giám sát từ trên xuống dưới, bảo đảm tổ chức giám sát pháp luật của Công đoàn. Hai là, cần phải từng bước xây dựng kiện toàn các quy tắc, chế độ để đẩy mạnh việc giám sát pháp luật của Công đoàn. Xây dựng quy tắc, chế độ phải căn cứ vào tình hình thực tế, quy định cụ thể thiết thực những vấn đề mấu chốt như: Nguyên tắc giám sát kiểm tra, cơ cấu tổ chức, điều kiện quyền lợi và nghĩa vụ giám sát viên. Nội dung, hình thức giám sát kiểm tra và yêu cầu có liên quan. 3.2.4. Nâng cao vai trò của công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Sự chuyển biến của kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của công đoàn cơ sở. Bởi vì công đoàn cơ sở là nền tảng của tổ chức công đoàn, nơi trực tiếp thực hiện các chức năng của Công đoàn, nơi mà đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của Công đoàn cấp trên được thực hiện ngay tại cơ sở, là nơi trực tiếp làm công tác phát triển đoàn viên, góp phần xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân lớn mạnh. Cần nâng cao vai trò hoạt động Công đoàn trong các DNNQD. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có một phạm vi khá rộng, phát triển ngày càng nhiều trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hiện nay ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tổ chức Công đoàn còn phát triển chậm do nhiều nguyên nhân, như giới chủ gây trở ngại, trình độ công nhân, lao động ở đây chưa nhận thức được tầm quan trọng của tổ chức Công đoàn và cũng do chính tổ chức Công đoàn chưa có những biện pháp thật mạnh mẽ, tích cực để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động. Có DNNQD đã có tổ chức Công đoàn nhưng còn là hình thức, cán bộ công đoàn còn lúng túng về nội dung, phương pháp hoạt động chưa thu hút được nhiều công nhân, lao động vào tổ chức Công đoàn. Cho nên Công đoàn trong các DNNQD cần nâng cao vai trò hoạt động của mình nhằm thực hiện tốt các chức năng công đoàn, chú trọng vào các nội dung, biện pháp bảo vệ lợi ích của người lao động; tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến tận người lao động; vận động công nhân, lao động tích cực thi đua lao động sản xuất, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Phương pháp hoạt động công đoàn trong các DNNQD rất phong phú, đa dạng như phương pháp thuyết phục, đối thoại, thương lượng, vừa hợp tác vừa đấu tranh. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của tổ chức Công đoàn Việt Nam, kiên trì bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người lao động, giữ vững mối quan hệ hài hoà với chủ doanh nghiệp, người sử dụng lao động có ý nghĩa quyết định hiệu quả hoạt động công đoàn trong các DNNQD. 3.2.5. Công đoàn tích cực triển khai thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở Công đoàn phối hợp với chuyên môn thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, muốn phát huy hiệu quả trong doanh nghiệp thì phải có sự lãnh đạo chỉ đạo chặt chẽ thường xuyên từ các cấp công đoàn, các cấp uỷ Đảng phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, phải đặt việc phát huy quyền dân chủ cho cán bộ, công nhân viên chức lao động trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Mặt khác phải xác định rõ quyền và trách nhiệm lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, trách nhiệm của các thành viên khác trong ban chỉ đạo. Tổ chức tốt công tác tuyên truyền giáo dục nhằm quán triệt sâu rộng đến toàn thể cán bộ, công nhân lao động trong doanh nghiệp với ý nghĩa, mục đích yêu cầu những nội dung cơ bản của quy chế, quyền hạn, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động và phương pháp triển khai thực hiện quyền dân chủ cơ sở. Cùng với việc tuyên truyền triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thì việc tuyên truyền phổ biến pháp luật, làm cho người lao động nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình. Công đoàn cơ sở và người sử dụng lao động chỉ đạo sâu sát các công đoàn bộ phận trong việc nâng cao chất lượng nội dung của các hoạt động dân chủ cho người lao động. Công đoàn triển khai việc kiện toàn Ban thanh tra nhân dân ở các đơn vị, theo quy định của pháp luật là nhiệm vụ cơ bản của các cấp công đoàn trong thời gian tới để Ban thanh tra nhân dân thực sự là một trong những công cụ của công đoàn cơ sở trong việc đại diện người lao động kiểm tra, giám sát, thực hiện quyền dân chủ cho người lao động, triển khai mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn về các lĩnh vực liên quan tới quyền và lợi ích của người lao động. Tiếp tục phát huy mạnh mẽ phong trào hoạt động cán bộ công nhân viên chức lao động ở cơ sở, nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác, sản xuất kinh doanh cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người lao động. Thực hiện quyền dân chủ cơ sở nhằm mang lại lợi ích cụ thể, thiết thực đó là phát huy trí tuệ tập thể, tháo gỡ khó khăn trong công tác hoạt động của Công đoàn, cũng như trong sản xuất kinh doanh nhằm làm nâng cao hiệu quả công việc, giải quyết những vấn đề mà người lao động đang thực sự quan tâm như: việc làm, đời sống, dân chủ, công bằng, như vậy mới tạo được động lực cho việc thực hiện quyền dân chủ cơ sở. Công đoàn thường xuyên tổ chức chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị bộ phận của mình, kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm hay để nhân rộng ra các đơn vị thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, phê bình xử lý nghiêm những người sai phạm, nắm tâm tư nguyện vọng của quần chúng, phải chú ý nghe thông tin nhiều chiều và phân tích xử lý khách quan các thông tin, phê phán và khắc phục thái độ chủ quan, duy ý chí, phiến diện dân chủ hình thức. Trong thời gian tới công đoàn cần phải tiếp tục phối hợp với ban lãnh đạo với các phòng ban chức năng tham gia thảo luận xây dựng sửa đổi bổ sung những chính sách cho phù hợp với tình hình hiện nay trong việc xây dựng phối hợp thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. 3.2.6. Nâng cao trình độ và bản lĩnh cán bộ công đoàn Trong công cuộc đổi mới của đất nước, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cũng như công cuộc cách mạng khoa học ngày càng phát triển, lực lượng sản xuất tăng nhanh thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các thành phần kinh tế, tính tất yếu khách quan là hoạt động công đoàn ngày càng đổi mới. Trước hết phải đổi mới phương pháp tư duy nhằm nâng cao nhận thức, trong mỗi cán bộ Công đoàn để đáp ứng được nhu cầu của tổ chức, các cấp công đoàn cần quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, người cán bộ công đoàn trước hết phải là tiêu biểu cho lý tưởng cách mạng, cho lẽ sống, là người có tri thức hiểu rõ, hiểu sâu những vấn đề đặt ra cho tổ chức Công đoàn nói chung. Muốn vậy, người cán bộ không ngừng học tập, nâng cao trình độ kiến thức cả về chuyên môn và nghiệp vụ để làm cho người cán bộ Công đoàn là người quyết định thành công hay thất bại trong mọi hoạt động và để người cán bộ hiểu rằng công tác công đoàn cần coi như một nghề " nghề cán bộ Công đoàn" từ đó mỗi cán bộ Công đoàn nhận thức được trách nhiệm của mình để tự phấn đấu, hăng say, tâm huyết với nghề của mình có như vậy mới có thể đáp ứng được nhu cầu của thời đại mới. Mở rộng và củng cố các cơ sở đào tạo cán bộ công đoàn các cấp, coi trọng bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ tổ công đoàn, đảm bảo cho 100% cán bộ công đoàn cơ sở, công đoàn bộ phận và tổ công đoàn được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về lý luận, nghiệp vụ công đoàn, nhất là những kỹ năng cần thiết cho cán bộ công đoàn hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Mở rộng địa bàn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cán bộ công đoàn không chỉ được đào tạo tại trường, lớp, tại các cơ quan, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng mà còn được đào tạo, bồi dưỡng ở những nơi có nhu cầu, tại cơ sở. Nâng cấp đào tạo cán bộ công đoàn, phấn đấu đào tạo sau đại học và trên đại học cho cán bộ công đoàn. Chú trọng đào tạo cán bộ công đoàn từ nguồn công nhân ưu tú, từ cán bộ hoạt động trực tiếp trong phong trào công nhân và hoạt động công đoàn cơ sở. Củng cố hệ thống trường lớp, thành lập các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn của khu vực, tỉnh, thành phố lớn. Đầu tư kinh phí thoả đáng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn. Nghiên cứu cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn ngoài quốc doanh. Thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với cán bộ công đoàn ngoài quốc doanh, nhất là các quy định về chế độ phụ cấp hoạt động cho cán bộ công đoàn ngoài quốc doanh từ nguồn kinh phí do Nhà nước hỗ trợ. Gắn đào tạo với quy hoạch, sử dụng cán bộ; tránh tình trạng đào tạo không đúng đối tượng quy hoạch, cũng như đào tạo xong không được sử dụng hợp lý, làm lãng phí các khoản đầu tư cho đào tạo và lãng phí cả cán bộ được đào tạo. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với Đảng và Nhà nước - Đối với Đảng: Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức Đảng cơ sở trong các doanh nghiệp, đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong các thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong tương lai, công nhân, lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển, họ sẽ là một trong những lực lượng quan trọng trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng cần tập hợp, bồi dưỡng và phát triển lực lượng ở khu vực này để đảm bảo lãnh đạo toàn diện, đúng hướng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Đất nước. Công tác phát triển đoàn viên và xây dựng công đoàn ở khu vực ngoài quốc doanh có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động, xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn vững mạnh, đẩy mạnh sự phát triển và ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cấp uỷ Đảng. Bộ Chính trị cần có chỉ thị cho các cấp uỷ Đảng thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chỉ thị phát triển đoàn viên, xây dựng Công đoàn cơ sở trong thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đảng cần nghiên cứu để có hướng dẫn hoặc có quy định cho đại diện tổ chức công đoàn các cấp là những đoàn viên ưu tú, có phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ có thể tham gia vào thường vụ Đảng uỷ cấp đó để nâng cao vị thế công đoàn, tạo điều kiện cho công đoàn hoạt động, nhất là DNNQD thì đại diện công đoàn có đủ tư cách như một đảng viên giới thiệu công nhân, lao động ưu tú để Đảng xem xét kết nạp. - Đối với Nhà nước: Đẩy mạnh chỉ đạo các cấp, các ngành kiểm tra việc thực hiện Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm luật như cản trở thành lập Công đoàn cơ sở, cản trở hoạt động Công đoàn. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm thoả ước lao động, tranh chấp lao động, nợ lương, trả lương sai quy định, không đóng bảo hiểm cho người lao động … Nghiên cứu ban hành quy định bảo vệ cán bộ Công đoàn, tạo điều kiện để cán bộ Công đoàn hoạt động. Coi cán bộ Công đoàn là một nghề đặc biệt được pháp luật bảo vệ. Trong chương trình đào tạo cán bộ công đoàn mà đặc biệt là cán bộ công đoàn khu vực ngoài quốc doanh để đáp ứng yêu cầu hoạt động công đoàn trong kinh tế thị trường. Nghiên cứu chỉ đạo triển khai thực hiện cơ chế ba bên: Nhà nước, Công đoàn, giới chủ. Cần thể chế hoá những quy định hoạt động của cơ chế ba bên. Đề nghị Chính phủ xem xét nên có quy định để các DNNQD trích nộp kinh phí công đoàn, bảo đảm sự bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phấn kinh tế và tạo điều kiện cho công đoàn cơ sở có kinh phí hoạt động. Thực chất hoạt động công đoàn là vì lợi ích của doanh nghiệp, của tập thể lao động và người lao động. 3.3.2. Kiến nghị với Tổng liên đoàn lao động Việt Nam Đề nghị Tổng Liên đoàn có những biện pháp tích cực cụ thể hơn nữa nhằm đẩy mạnh việc phát triển đoàn viên, xây dựng công đoàn cơ sở khu vực ngoài quốc doanh. Bởi hiện nay khu vực này còn nhiều cơ sở chưa có tổ chức công đoàn, công nhân, lao động chưa thiết tha vào công đoàn. Mặt khác, hoạt động công đoàn khu vực này còn nhiều hạn chế. Đề nghị Tổng Liên đoàn cần có biện pháp tích cực, xây dựng hệ thống tổ chức nhằm phát huy hiệu quả cao nhất cho hoạt động Công đoàn, tránh trùng chéo về chỉ đạo giữa Liên đoàn Lao động địa phương và Công đoàn ngành. Công đoàn ngành địa phương nên để Công đoàn ngành Trung ương chỉ đạo trực tiếp, Liên đoàn Lao động địa phương phối hợp chỉ đạo. Công đoàn cần có biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ công đoàn, cần thường xuyên phối hợp với chính quyền định kỳ mở các lớp bồi dưỡng về pháp luật, về các thể chế chính sách không chỉ cho cán bộ công đoàn mà cho cả chủ doanh nghiệp, cần có chính sách, chế độ đối với cán bộ công đoàn kiêm nhiệm để thu hút, khuyến khích người có năng lực, trình độ tham gia hoạt động công đoàn. Nghiên cứu các biện pháp nhằm đa dạng hoá hình thức tập hợp các đối tượng tham gia hoạt động Công đoàn dựa trên cơ sở nhiệm vụ chuyên môn. Thực hiện hài hoà, linh hoạt nguyên tắc tổ chức theo ngành, nghề và vùng, lãnh thổ, không cứng nhắc, rập khuôn như hiện nay. Chủ động đề xuất với nhà Nhà nước và nghiên cứu những quy định về cơ chế phối hợp ba bên: (Nhà nước, Công đoàn (đại diện cho người lao động), giới chủ) để sớm triển khai thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn. Đề nghị Tổng Liên đoàn khi quyết định số lượng cán bộ chuyên trách Công đoàn ở các ngành, các cấp cần căn cứ vào số lượng đoàn viên thực tế. đối với cấp công đoàn cơ sở nên lấy mốc 500 đoàn viên trở lên để quy định số lượng cán bộ chuyên trách Công đoàn, có như vậy Công đoàn cơ sở mới có điều kiện để hoạt động và làm cho Công đoàn cơ sở bớt lệ thuộc vào chủ doanh nghiệp về mặt kinh tế nhằm phát huy tính độc lập tương đối của tổ chức Công đoàn. Chính sách tiền lương đối với cán bộ Công đoàn hiện nay chưa đủ sức giữ cán bộ Công đoàn cũng như thu hút cán bộ giỏi chuyển sang làm công tác Công đoàn. Trong khi chờ Nhà nước có những quy định cụ thể thì Tổng Liên đoàn giải quyết chính sách đãi ngộ cho cán bộ Công đoàn bằng khả năng tài chính hiện có của mình. Trong công tác tập huấn cán bộ Công đoàn cơ sở, nội dung và phương pháp chưa phù hợp với tình hình thực tế cho nên đề nghị Tổng Liên đoàn giao cho Trường Đại học Công đoàn biên soạn tài liệu chuyên bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ Công đoàn cơ sở, nhất là cơ sở DNNQD, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đề nghị Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tăng cường hơn nữa việc thâm nhập thực tế, cử cán bộ hướng dẫn, giúp đỡ cấp dưới một cách thiết thực. Việc quy định định suất lương cho cán bộ Công đoàn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh từ nguồn kinh phí hỗ trợ của Chính phủ theo “Quy định tạm thời trả lương cho cán bộ Công đoàn chuyên trách đang làm việc tại các DNNQD” ban hành theo Quyết định số 1724/QĐ/TLĐ, ngày 02/12/2001 của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn có nhiều điểm không còn phù hợp. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam nên căn cứ vào số lượng đoàn viên, số Công đoàn cơ sở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của từng ngành, từng địa phương để phân bổ kinh phí, giao cho Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở chủ động tính toán thực hiện trợ cấp định suất này cho cán bộ Công đoàn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực thuộc, sau đó quyết toán với Công đoàn cấp trên và Tổng Liên đoàn. Trước khi tham gia với Nhà nước về các chủ trương chính sách có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động, đề nghị Tổng Liên đoàn cần tham khảo ý kiến của cơ sở, của các ngành, địa phương để tính khả thi của việc tham gia được cao hơn. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn vững về lý luận giỏi về thực hành nghiệp vụ. Có chính sách đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ Công đoàn, có chính sách ưu đãi những người có tâm huyết, có năng lực thực sự. Có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ cán bộ Công đoàn, tạo điều kiện cho cán bộ Công đoàn yên tâm làm việc. Kết luận Trong những năm vừa qua, Nhà nước và người sử dụng lao động đã có nhiều cố gắng đầu tư tài chính, công nghệ để cải thiện điều làm việc cho người lao động. Nhìn chung điều kiện làm việc, môi trường làm việc của người lao động ở một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được cải thiện một bước. Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ mới cùng với đổi mới thiết bị, dây chuyền sản xuất đã làm thay đổi về chất điều kiện lao động của người lao động, giảm bớt lao động thủ công nặng nhọc, giảm bớt tiếp xúc với nhiều yếu tố nguy hiểm độc hại, giảm bớt được sự ô nhiễm. Đó là kết quả tác động ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới từ các chính sách của Đảng và Nhà nước được thể hiện trong các luật Đầu tư nước ngoài, luật Lao động, luật Công đoàn. Hiệu quả cao của sản xuất thuộc khu vực ngoài quốc doanh cũng thúc đẩy nhiều hơn việc cải thiện môi trường làm việc, điều kiện làm việc, cải thiện tốt hơn tình trạng sức khoẻ và thu nhập của người công nhân. Điều đó cũng phản ánh sự quan tâm của doanh nghiệp đối với người lao động. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có một số doanh nghiệp chưa thực sự thực hiện tốt nội dung này. Xét ở góc độ các chủ doanh nghiệp, do những yếu tố khách quan có thể dẫn đến người lao động thất nghiệp, ngoài ra việc trả lương cho người lao động, quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho người lao động, cũng là những vấn đề nóng bỏng. Môi trường lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thường có hiện tượng các doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ chế độ chính sách cho người lao động và đây là một trong những hạn chế chung đối với các doanh nghiệp trong quá trình thực thi các chính sách đối với người lao động và cũng là yếu tố có nhiều nguy cơ dẫn đến đình công. Hơn nữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, đang tác động sâu sắc tới sự chuyển biến đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và đời sống công nhân lao động nói riêng. Tình trạng thất nghiệp gia tăng, giá cả leo thang, tiền lương thực tế giảm mạnh, ô nhiễm môi trường, điều kiện lao động xuống cấp ở nhiều doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng đang là nỗi ám ảnh đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay. Giải quyết khó khăn này là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung và của tổ chức công đoàn nói riêng. Công đoàn xuất phát từ vai trò, vị trí của mình phải tích cực đổi mới tổ chức, nội dung và phương pháp hoạt động để bảo vệ lợi ích của người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu của sự nghiệp đổi mới do Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Hoàng Chí Bảo (2000), "Xây dựng giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - từ lý luận đến thực tiễn", Lao động và Công đoàn, (2). 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1997), Đề cương bài giảng môn triết học Mác - Lênin, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Đặng Ngọc Chiến (2000), "Công nhân, viên chức, lao động và Công đoàn Việt Nam với phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (20). 4. Chính phủ (1995), Nghị định 06/CP ngày 20/1/1995. 5. Hoàng Minh Chúc (1998), "Phong trào Công đoàn Việt Nam trong hơn mười năm đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (14). 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đinh Đăng Định (2002), Giá trị bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 11. Cù Thị Hậu (2001), "Giai cấp công nhân Việt Nam đi đầu thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo", Lao động và Công đoàn, (243). 12. Hội đồng Bộ trưởng (1992), Nghị định số 302/HĐBT ngày 19/8/1992 về quyền và trách nhiệm của công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, cơ quan. 13. Nguyễn Văn Khởi (2000), "Về vai trò của cán bộ công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp", Lao động và Công đoàn, (243). 14. V.I.Lênin (1971), Công đoàn trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội 15. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 16. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 17. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 18. Luật Công đoàn (1990), Nxb Lao động, Hà Nội. 19. C.Mác và Ph. Ăngghen (1983), Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội. 20. C.Mác và Ph.Ăngghen (1980), Bàn về công đoàn, tập 1, Nxb Lao động, Hà Nội. 21. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Hồ Chí Minh (1981), Đường Cách mệnh, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. 24. Đỗ Đức Ngọ (2000), "Công cụ và phương pháp công tác tư tưởng của Công đoàn Việt Nam", Lao động và Công đoàn, (215). 25. Văn Nhân (1999), "Bàn về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn", Lao động và Công đoàn, (8). 26. Tôn Trung Phạm (1995), Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội. 27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Dương Văn Sao (2005), Thực trạng và những giải pháp đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 29. Dương Văn Sao (2007), Tác động tới việc làm, đời sống của người lao động khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới và các giải pháp hoạt động công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội. 30. Văn Tạo (1997), Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đan Tâm (2002), Công đoàn Việt Nam thế kỷ 21 phát triển trong thách thức, Nxb Lao động, Hà Nội. 32. Hoàng Ngọc Thanh (1998), "Phác thảo chân dung đội ngũ cán bộ công đoàn nước ta hiện nay", Lao động và Công đoàn, (211). 33. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1996), 50 năm hoạt động quốc tế của công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 34. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (1998), Điều lệ Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 35. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Trường đại học Công đoàn (1999), Giáo trình lý luận và nghiệp vụ công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội. 36. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1999), Các tổ chức công đoàn trên thế giới, Nxb Lao động, Hà Nội. 37. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1999), Văn kiện Đại hội lần thứ IX, Nxb Lao động, Hà Nội. 38. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện công nhân và công đoàn (1999), Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội. 39. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Báo cáo tóm tắt kết quả khảo sát xã hội học về vai trò của Công đoàn và thái độ của công nhân, viên chức và lao động với một số vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách hiện nay. 40. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và công đoàn (2001), Xu hướng biến động của giai cấp công nhân Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Lao động, Hà Nội. 41. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Trường Đại học Công đoàn (2002), Giáo trình Lý luận và nghiệp vụ công đoàn, Tập 1, 2, 3, Nxb Lao động, Hà Nội. 42. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nxb Lao động, Hà Nội. 43. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Toàn cầu hoá và phong trào công đoàn quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội. 44. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Trường Đại học Công đoàn (2004), Một số vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội. 45. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (7/2005), Thông tin hoạt động công đoàn, số 160. 46. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Những tác động tới việc làm đời sống của người lao động và các giải pháp hoạt động công đoàn khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới, Nxb Lao động, Hà Nội. 47. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Tài liệu đào tạo cán bộ công đoàn Việt Nam, Hà Nội. 48. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội. 49. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ X, Nxb Lao động, Hà Nội. 50. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội lần thứ X, Nxb Lao động, Hà Nội. 51. Trường Đại học Công đoàn (2002), Giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH , Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội. 52. Trương Đình Tuyển (1998), "Công đoàn giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyện môn", Thương mại, (12). 53. Nguyễn Văn Tư (1998), "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn", Lao động và Công đoàn, (210). 54. Nguyễn Viết Vượng (2003), Công đoàn tham gia quản lý doanh nghiệp, Nxb Lao động, Hà Nội. 55. Nguyễn Viết Vượng (2003), Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Lao động, Hà Nội. 56. Nguyễn Viết Vượng (2005), Lý luận Mác-Lênin về công đoàn và vận dụng vào hoạt động công đoàn Việt Nam trong kinh tế thị trường, Nxb Lao động, Hà Nội. 57. Nguyễn Viết Vượng (2007), Giáo trình lịch sử phong trào công nhân, công đoàn thế giới và Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 58. Nguyễn Viết Vượng (2007), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội. 59. Nguyễn Viết Vượng (2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong sự nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vấn đề phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay.pdf
Luận văn liên quan