Luận văn Vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở cơ quan báo chí

Đài phát thanh Sóc Sơn ra đời trên cơ sở tách ra từ phòng văn hoá thông tin huyện Sóc Sơn nên ngay từ bước đầu hoạt động đã có những kết quả tốt và được nhân dân các vùng lân cận hưởng ứng, khen ngợi. Trải qua 31 năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự quan tâm lãnh đạo của Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện và Ban giám đốc Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội, Đài phát thanh Sóc Sơn đã không ngừng đầu tư, phát triển. Từ chỗ Đài chỉ có 3-4 cán bộ công nhân viên, với trang thiết bị truyền thanh hữu tuyến phục vụ khu vực huyện Đa Phúc và 3 xã là: Tiên Dược, Phù Linh và xã Tân Minh. Hệ thống cơ sở vật chất và máy móc thô sơ ( hơn 4Km đường dây và vài chục loa loại 25W và 1/4W). Ban đầu chỉ có 2 chương trình được phát mỗi tuần với thời lượng 15 phút, chất lượng phát sóng thấp. Đến nay Đài phát thanh Sóc Sơn đã biên chế được gần 20 cán bộ công nhân viên, có trình độ quản lý chuyên môn nghiệp vụ cao, với một màng lưới các Đài truyền thanh cơ sở gồm 14 Đài xã ( trong đó có 12 Đài truyền thanh xã với công nghệ truyền thanh không dây) và 156 trạm Đài ở các thôn làng, khu dân cư, với công suất các máy tăng âm là 500W, cột ăngten cao 40m, hàng trăm km đường dây và hơn 1.500 loa phóng thanh loại 25W. Đài phát thanh Sóc Sơn đã thực hiện phát sóng các chương trình phát thanh trên sóng FM tần số 93,8MHZ phủ sóng toàn huyện, truyền thông tin tới toàn dân, thông qua mạng lưới các Đài truyền thanh cơ sở và máy thu thanh dân dụng.

doc20 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3560 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở cơ quan báo chí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở cơ quan báo chí Mục lục MỞ ĐẦU Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa nhân loại, xã hội ngày một đổi mới và phát triển, nhu cầu tiếp cận thông tin của con người ngày một nâng cao. Báo chí ra đời đã đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng. Chính vì thế, báo chí là một hiện tượng xã hội, báo chí ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức của con người. Mặc dù ngành báo chí ra đời chưa được 5 thế kỷ nhưng đã phát huy hết được vai trò, sức mạnh của mình. Trong suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội góp phần nâng cao dân trí, giáo dục nhận thức con người. Ở nước ta, báo chí là công cụ chính trị của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể. Trong lý luận hoạt động thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò và sức mạnh của báo chí. Đảng xác định “ Báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, vừa là diễn đàn của nhân dân ”. Trong đấu tranh cũng như trong hòa bình, Đảng luôn tin tưởng và coi trọng tiếng nói báo chí. Những thông tin mà báo chí mang lại trên sóng phát thanh hay các phương tiện thông tin đại chúng là kênh thông tin hữu hiệu trong việc tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần đưa đất nước tiến tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1. Lý do chọn đề tài Ở mỗi quốc gia, mợi thời đại, báo chí luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Báo chí là sản phẩm tinh thần không thể thiếu của mỗi con người. Nó lấy hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh, mục đích cung cấp cho công chúng cái nhìn toàn cảnh, sinh động, chính xác về tất cả các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống. Trên thế giới báo chí được xem như là cơ quan quyền lực thứ tư sau cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều này chứng tỏ ở bất kỳ một xã hội nào, tổ chức nào… cũng đều phải đặt báo chí lên mối quan tâm hàng đầu. Còn ở Việt Nam, hơn một thế kỷ đã trôi qua hệ thống báo chí nước ta đã và đang phát triển không ngừng, phù hợp với sự phát triển của thời đại. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng với nhu cầu thị hiếu của công chúng, bạn đọc ngày càng tăng, đòi hỏi báo chí phải luôn luôn tự đổi mới phục vụ đắc lực cho công tác tuyên truyền, làm sao cho công chúng luôn có cái nhìn mới về mỗi sản phẩm báo chí do phóng viên, nhà báo làm ra. Giúp cho công chúng không chỉ biết mà còn hiểu và lắm bắt được những gì mà báo chí muốn đề cập tới. Có được sự phát triển như vậy, đóng góp một vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu đó chính là nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí, mà trong đó có đội ngũ phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên… có trình độ năng lực, phẩm chất chính trị, luôn phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, Nhà nước. Phục vụ Đảng, phục vụ Nhà nước là cầu nối giữa Đảng - Nhà nước - với quần chúng nhân dân. Vì vậy việc tìm hiểu vấn đề nguồn nhân lực trong các cơ quan báo chí nó không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có tính thực tiễn sâu sắc. Nhưng để biết và hiểu được nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí có vai trò, nhiệm vụ, trình độ năng lực, phẩm chất chính trị … như thế nào thì đòi hỏi mỗi chúng ta phải tự tìm tòi, nghiên cứu, đi sâu vào thực tế để tự mình quan sát đánh giá để có cái nhìn tổng quan nhất về hệ thống nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí ở nước ta. Xuất phát từ tầm quan trọng trên, cùng với những kiến thức đã học. Tôi đã chọn “vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở cơ quan báo chí” để nghiên cứu và làm đề tài báo cáo tốt nghiệp cho mình. Đồng thời để từ đây giúp bản thân có thể hiểu rõ hơn về hệ thống nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí ở nước ta hiện nay. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Đề tài “ vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở cơ quan báo chí ” là một trong những đề tài hết sức phổ biến và đã được nhiều nhà trường như (Học viện báo chí tuyên truyền, Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Cao đẳng truyền hình, Cao đẳng Phát thanh truyền hình… ) triển khai cho những sinh viên làm luận văn tốt nghiệp ra trường và đã phần nào mang lại hiệu quả. Tuy nhiên do số lượng sinh viên thực tập ở nhiều Đài, cơ quan khác nhau. Cơ chế, cơ cấu tổ chức ở mỗi Đài, cơ quan lại khác nhau. Cùng với thời gian nghiên cứu còn hạn chế và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, điều kiện vật chất còn thiếu nên mức độ nghiên cứu còn chưa sâu. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Nguồn nhân lực là gốc rễ, là cội nguồn của mọi cơ quan báo chí. Muốn có cơ quan báo chí phát triển thì nguồn nhân lực phải phát triển. Do đó, vấn đề sử dụng nguồn nhân lực như thế nào ở cơ quan báo chí là rất quan trọng. Nghiên cứu đề tài này, tôi không chỉ nghiên cứu những kiến thức sơ lược, tổng quan về nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí. Mà còn muốn tìm hiểu sâu về cơ cấu tổ chức hoạt động, chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban, cá nhân... với hy vọng những nghiên cứu của tôi có thể phần nào nâng cáo hơn nữa hiệu quả vai trò của từng thành viên trong cơ quan báo chí. Hơn nữa là một sinh viên chuyên nghành báo chí sắp ra trường, việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp tôi có những định hướng tốt hơn cho tương lai. * Phạm vi nghiên cứu Đây là một đề tai khá rộng nhưng lại rất thiết thực cho mỗi cơ quan báo chí. Trong tiểu luận này, tôi chỉ tập chung nghiên cứu vấn đề sử dụng và phát triển nguồn nhân lực, công tác đào tạo nguồn nhân lực... ở Đài phát thanh Sóc sơn trong thời gian từ ngày 10 tháng 10 năm 2011 đến ngày 02 tháng 12 năm 2011. 4. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp chủ yếu sử dụng để làm tiểu luận gồm: Phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích, đối chiếu, nghiên cứu tài liệu, thống kê, phân loại… Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp kiểm chứng, khảo sát hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở đài phát thanh địa phương. 5. Kết cấu tiểu luận Kết cấu tiểu luận gồm có: MỞ ĐẦU NỘI DUNG Chương I: Khái quát chung về nguồn nhân lực của cơ quan báo chí Chương II: Khảo sát nguồn nhân lực tại Đài phát thanh huyện Sóc Sơn Chương III: Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực E KẾT LUẬN NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CỦA CƠ QUAN BÁO CHÍ QUAN NIỆM VỀ NGUỒN NHÂN LỰC Quan niệm Nguồn nhân lực hay nói cách khác là nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ, tri thức, vị thế xã hội tạo nên năng lực của con người được phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Khi nói tới nguồn lực con người là nói tới con người với tư cách là chủ thể lao động sáng tạo, tham gia cải tạo tự nhiên và làm biến đổi xã hội. Nguồn lực con người gồm hai yếu tố số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được xây dựng trên quy mô dân số, độ tuổi, giới tính sự phân bố giữa các vùng miền, giữa các ngành, nghề, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Còn chất lượng là thể lưc, trí lực, năng lực quản lý, tay nghề, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Xã hội muốn phát triển nhanh, bền vững thì phải quan tâm tới cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Bất kỳ tổ chức, cơ quan báo chí nào, nếu muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực mạnh. Vì vậy, yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất trong các tổ chức, cơ quan báo chí là nguồn nhân lực. 1.1 Quan niệm của Mác - Lênin về nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố thuộc về vật chất tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ nhận thức, vị thế xã hôi… tạo thành năng lực của con người, của cộng đồng người có thể phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nguồn lực con người bằng số lượng nguồn nhân lực cộng với chất lượng nguồn lực. Số lượng nguồn nhân lực xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối các thế hệ giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng miền, lãnh thổ, giữa các nghanh kinh tế, các lĩnh vực đời sống xã hội. Yếu tố quyết định nguồn nhân lực là phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn, vì nó nói lên mức độ trưởng thành của con người, ngoài ra nó còn quyết định phương pháp tư duy, nhân cách nối sống của con người. 1.2 Quan niệm, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý. Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN. Tiêu chuẩn của con người của XHCN là phải có tư tưởng XHCN mình vì mọi người, có ý thức khả năng làm chủ, có đạo đức lối sống XHCN, lao động có kỷ luật, kỹ thuật. Hồ Chí Minh quan niệm báo chí là một mặt trận và mọi người hoạt động trên lĩnh vực đó đều được coi là chiến sỹ. Người khẳng định “cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạn,. cây bút trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. 2. Đặc điểm nguồn nhân lực 2.1 Đặc điểm nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí Việc đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ nào, giai đoạn nào cũng được Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng. Nguồn nhân lực có vai trò quyết định đến sự thành công của bất cứ một ngành nghề nào, đặc biệt đối với báo chí một lĩnh vực rộng lớn đòi hỏi một lực lượng đông đảo. Trước tình hình đất nước ngày càng đổi mới và hội nhập như hiện nay, nguồn nhân lực lại càng đóng một vai trò hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc phát triển sự nghiệp báo chí. Nó thúc đẩy cho cơ quan báo chí hoạt động mạnh, giúp cho cơ quan báo chí luôn phát huy được nguồn lực sẵn có của mình để phục vụ đất nước. Bởi báo chí nó luôn phản ánh tất cả các mặt của đời sống. Do vậy, những người làm báo phải có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau. Nói đến cơ quan báo chí là chúng ta nhắc tới đội ngũ phóng viên, biên tập viên là những người trực tiếp tìm hiểu thông tin, sáng tạo tác phẩm báo chí để duy trì hoạt động của cơ quan báo chí. Nguồn nhân lực của cơ quan báo chí là toàn bộ những con người làm trong cơ quan báo chí. Trong đó người đứng đầu cơ quan báo chí giữ vai trò quan trọng trong việc điều hành lãnh đạo, còn đội ngũ phóng viên, biên tập viên giữ vai trò chủ trốt. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên báo chí nước ta phát triển theo tính kế thừa theo xu hướng ngày càng trẻ hóa và được đào tạo chính quy. Lớp phóng viên trẻ từ 25 - 40 tuổi phần lớn được đào tạo cơ bản từ các trường đào tạo báo chí trong và ngoài nước. một số được đào tạo từ các chuyên ngành như kinh tế, tài chính, ngoại ngữ, luật… rồi chuyển sang làm báo chí. Báo chí nước ta đang kiên toàn tổ chức, điều chỉnh bố chí lại cán bộ ở các phòng ban, để tạo sự hợp lý, tạo tính chuyên sâu trong công việc, đồng thời báo chí cũng đang tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ chiến sỹ có bản lĩnh chính trị vững vàng, được rèn luyện nghiệp vụ báo chí, pháp luật, kiến thức kinh tế, xã hội, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức của người làm báo chí. Cán bộ, phóng viên, biên tập viên yêu nghề, say sưa gắn bó với nghề, không chủ quan, tự mãn luôn ý thức phấn đấu vươn lên không ngừng trở thành những nhà báo vững vàng về chính trị, có chuyên môn giỏi để đáp ứng với nhu cầu hội nhập ngày càng cao. Hạn chế phổ biến nhất của đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí nước ta hiện nay là tỷ lệ thành thạo ngoại ngữ chưa cao, số phóng viên giỏi chưa nhiều, số phóng viên giỏi có tiếng đã chuyển sang làm công tác quản lý bên canh đó một số phóng viên trẻ nhiệt tình, xông xáo lại chưa đủ sắc sảo, vốn sống lại hạn chế nên thường gặp một số trở ngại và khó khăn khi tác nghiệp. Ở các lĩnh vực như xây dựng Đảng, kinh tế, chính trị, ngoại giao, lại đang thiếu những cây bút đủ tầm. Kinh tế nước ta đang dần hội nhập với thế giới nên một số phóng viên chạy theo kinh tế thị trường dẫn đến đã cho ra những tác phẩm xa rời đường lối của Đảng hay những tác phẩm câu khách mang tính chất thị trường. 2.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí. Bác Hồ đã nói: “ Nói đến báo chí trước hết phải nói đến những người làm báo, là chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa, quyết định đến hiệu quả, chất lượng của tờ báo” và Đại Hội lần thứ II của Hội Nhà Báo Việt Nam(1959) khi đặt vấn đề về trách nhiệm của báo chí bác cũng khẳng định: “ Báo chí là người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức chung, người lãnh đạo chung, vì vậy nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng vẻ vang”. Như vậy nói đến nguồn nhân lực là nói đến con người hoạt động trong cơ quan báo chí, cơ quan báo chí nào muốn hoạt động có hiệu quả thì phải có đầy đủ nguồn nhân lực từ phóng viên chuyên nghiệp của cơ quan, các biên tập viên, kĩ thuật viên cho đến đội ngũ cộng tác viên. Đội ngũ phóng viên, cộng tác viên họ là những người đi sâu vào quần chúng nhân dân để tìm hiểu những vấn đề xảy ra trong xa hội một cách nhanh nhất, kịp thời nhất. Tuyên truyền nhân rộng những điển hình làm kinh tế giỏi, cổ vũ động viên những nhân tố mới. Họ thường xuyên đi cơ sở thâm nhập thực tế vào đời sống của nhân dân để tìm ra những mặt tốt mặt xấu của xã hội, từ đó lên án hay phê phán, biểu dương nhân dân những gương người tốt việc tốt, giáo dục quần chúng hướng dẫn dư luận,đồng thời họ cũng tìm hiểu tâm tư nguyện vọng giải dáp mọi thắc mắc cuar quần chúng nhân dân về chủ trương đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, các vấn đề xảy ra trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, các thế lực thù địch từ bên ngoài đang tìm cách chống phá nhà nước ta vì vậy vai trò của mỗi cơ quan báo chí và mỗi cá nhân nói chung là vô cùng quan trọng. 3. Cơ cấu, bố trí nhân lực trong cơ quan báo chí II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGUỒN NHÂN LỰC 1. Điều kiện để thành lập cơ quan báo chí Tổ chức muốn thành lập cơ quan báo chí phải có đủ các điều kiện sau * Có người đủ tiêu chuẩn để đứng đầu cơ quan báo chí đó là : - Người đứng đầu cơ quan báo chí là Tổng biên tập (báo in) hoặc tổng giám đốc, Giám đốc (đài phát thanh, truyền hình, cơ sở thực hiện chương trình nghe, nhìn thời sự). - Người đứng đầu cơ quan báo chí phải là người có quốc tịch việt nam, có địa chỉ thường trú tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do nhà nước quy định. - Người đứng đầu cơ quan báo chí lãnh đạo và quản lyscow quan báo chí về mọi mặt, bảo đảm thực hiện tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí. * Xác định rõ tên gọi, tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, phạm vi phát hành chủ yếu, công suất, thời gian, tần số phạm vi tỏa sóng và ngôn ngữ thể hiện của cơ quan báo chí. * Có trụ sở chính và có các điều kiện cần thiết khác để đảm bảo cho hoạt động của cơ quan báo chí. 2. Thực hiện chức năng nhiệm vụ của cơ quan báo chí 2.1 Cơ quan báo chí có chức năng Là cơ quan ngôn luận của đảng bộ, chính quyền và nhân dân, đồng thời là cầu nối thông tin giữa Đảng, chính quyền với nhân dân là đơn vị sự nghiệp có thu, hoạt động báo chí theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 2.2 Cơ quan báo chí có nhiệm vụ + Thông tin, tuyên truyền về đường 1ối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của đảng bộ, chính quyền địa phương; giáo dục lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lối sống lành mạnh, truyền thống tốt đẹp, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. + Tham gia phát động và tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, nêu gương các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến. Tham gia tổng kết thực tiễn, đúc rút và phổ biến kinh nghiệm, góp phần bổ sung, hoàn thiện quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương, đưa đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. + Tổ chức tiếp nhận, xử 1ý, đăng tải thông tin kịp thời, chính xác; thực hiện là diễn đàn của nhân dân theo quy định của pháp luật; góp phần xây dựng đảng bộ và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương vững mạnh. + Chủ động đấu tranh kiên quyết, sắc bén với những âm mưu và hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tích cực giám sát, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực, góp phần định hướng tư tưởng và dư luận xã hội. + Xây dựng cơ quan báo vững mạnh; xây dựng đội ngũ công chức, viên chức và người lao động có lập trường, quan điểm vững vàng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và có đạo đức nghề nghiệp. 3. Vai trò nhiệm vụ của từng thành viên trong cơ quan báo chí Về cơ cấu tổ chức, trong một cơ quan báo chí bao giờ cũng phân ra thành các phòng, ban các bộ phận riêng. Trong đó các cán bộ phóng viên, biên tập viên, kĩ thuật viên đều có chức năng nhiệm vụ riêng của mình. Nhưng tựu chung lại đều là lao động sáng tạo, phục vụ sự nghiệp truyền thông đại chúng. 3.1 Lãnh đạo Ban lãnh đạo gồm những nhiệm vụ cụ thể, được coi là bộ não của tòa soạn, có vai trò quyết định đến nội dung và hình thức của tác phẩm báo chí của cơ quan mình. Lãnh đạo của cơ quan báo chí thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước thực hiện tôn chỉ mục đích của tòa báo đặt ra. Tổ chức lập kế hoạch trước mắt và lâu dài của tờ báo. Đề xuất sáng kiến, tổ chức thực hiện sáng kiến đó Tổ chức hội nghị cộng tác viên, gặp gỡ bạn đọc. Ban lãnh đạo cũng có thể tham gia trực tiếp viết tin, bài và duyệt bài. Người làm công tác lãnh đạo cơ quan báo chí chính là người trực tiếp tổ chức phân công công việc và lên kế hoạch cho cán bộ nhân viên trong cơ quan báo chí. Là người chịu trách nhiệm quản lý và bao quát cơ quan, chính vì vậy người lãnh đạo cần phải có tư tưởng chính trị vững vàng, có quan điểm lập trường rõ ràng. không những như vậy người lãnh đạo cần có vốn hiểu biết uyên thâm, trình độ học vấn cao. Một yêu cầu đặt ra cho người lãnh đạo hiện nay đó là phải có đạo đức, phẩm chất và nhân cách. Phải thích ứng nhanh với biến động của thời cuộc, phải biết xử lý nhanh trước mọi biến cố. Phải luôn rà soát kiểm tra, kịp thời phát hiện những sai sót để có phương hướng nhanh nhất để sửa chữa. Từ đó tạo mọi điều kiện thuận lợi để cơ quan báo chí của mình phát triển ổn định vả hiệu quả. 3.2 Tổng biên tập ( Tổng giám đốc) Là người đứng đầu cơ quan báo chí, trực tiếp lãnh đạo, tổ chức và giáo dục tập thể soạn, chăm no khối đoàn kết nội bộ và xây dựng mối liên hệ với quần chúng. Tổng biên tập chịu trách nhiệm về chất lượng, nội dung chínhvà hình thức của tờ báo, cụ thể: Chịu trách nhiệm trước bạn đọc và nhân dân, chịu trách nhiệm trước tòa soạn của mình, trước cơ quan chủ quản và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đó là trách nhiệm nặng nề của tổng biên tập, tổng biên tập do cơ quan chủ quản trực tiếp bổ nhiệm, sau khi có sự thống nhất bằng văn bản của cơ quan chỉ đạo và quản lí báo chí, luật báo chí ghi rõ: + Người đứng đầu cơ quan báo chí là tổng biên tập( báo in) hoặc tổng giám đốc, giám đốc ( đài phát thanh – truyền hình) cơ sở thực hiện nghe nhìn thời sự. + Người đứng đầu cơ quan báo chí phải là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ thường trú tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị , đặc điểm và nghiệp vụ báo chí do nhà nước quy định. + Người đứng đầu cơ quan báo chí lãnh đạo và quản lí cơ quan báo chí về mọi mặt, đảm bảo thực hiện tôn chỉ mục đích, mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí. Như vậy, tổng biên tập là người đứng đầu cơ quan báo chí ở nước ta, được pháp luật quy định về chức danh, tiêu chuẩn và quyền hạn, trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước. Chủ nghĩa Mác – Lê nin xem tổng biên tập là “ linh hồn chính trị” cuẩ nhà báo V.I Lê Nin goi tổng biên tập là” ngọn cờ” của tờ báo, Chủ Tịch Hồ Chí minh xá định tổng biên tập và các nhà báo là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng, đồng chí Nguyễn Đức Bình nguyên ủy viên Bộ Chính Trị nói: “Tổng biên tập là các tờ báo, đài, vô tuyến truyền hình có vai trò quan trọng.họ có trách nhiệm chính trị cực lớn, họ là linh hồn của tờ báo. Tổng biên tập là một chức năng không gì thay thế được”. Đúng, hay, tốt, xấu của tờ báo trước hết ở tổng biên tập. Tổng biên tập là người như thế nào trong quan điểm chính trị và tư tưởng đạo đức nghề nghiệp thì cả cơ quan báo chí được hình thành theo hướng đó và cả tờ báo đi theo hướng đó. Tóm lại, tổng biên tập là linh hồn, chính trị, tư tưởng của tờ báo có vai trò đặc biệt quan trọng dẫn dắt cơ quan đi đúng hướng của Đảng, pháp luật của nhà nước. Luôn nắm bắt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí minh, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước để chủ động vững vàng giải quyết công việc của cơ quan. Như vậy, người đứng đầu cơ quan báo chí có xứ hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong lao động, quản lí, điều hành cơ quan không dễ dàng và đơn giản. Vì vậy, Đảng và Nhà nước, nhân dân luôn đánh giá cao vai trò của tổng biên tập, đồng thời cũng đòi hỏi rất cao phẩm chất năng lực của họ. Và điều quan trọng là mỗi tổng biên tập, giám đốc cơ quan thông tấn báo chí luôn phải không ngừng nâng cao tầm nhìn để hoàn thành nhiệm vụ và đưa báo chí phát triển ngày càng vững mạnh. 3.3 Phó tổng biên tập( phó tổng giám đốc, phó giám đốc) Là nhân vật quan trọng thứ hai trong tòa soạn, số lượng tổng biên tập nhiều hay ít hoặc không có tùy thuộc vào quy mô, vị trí của từng tờ báo. VD; đài truyền hình Việt Nam, Thông Tấn Xã Việt Nam, Đài Tiếng Nói Việt Nam có từ 3 đến 4 phó tổng biên tập, các tờ báo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có từ 1 đến 2 phó tổng biên tập. Phó tổng biên tập là do cơ quan chủ quản bổ nhiệm trên cơ sở đề đạt của Tổng biên tập và được sự đồng ý bằng văn bản cuat các cơ quan chỉ đạo quản lí nhà nước về báo chí. Nhiệm vụ của phó tổng biên tập là giúp việc cho Tổng biên tập, thông thường Tổng Biên tập phụ trách chung về đối ngoại, tổ chức và phân công các phó tổng biên tập phụ trách từng mảng công việc của tòa soạn, chịu trách nhiệm trước Tổng biên tập về các công việc đó. VD: Tòa soạn báo Công an Nhân Dân Tổng biên tập: Thiếu tướng Hữu Ước Phó tổng biên tập nội dung: Lưu Vinh Phó tổng biên tập phụ trách hành chính kinh tế dịch vụ: Phạm Văn Miên – Nguyễn Như Long - Đặng Văn Lâm – Hồng Thanh Quang. Nói chung Tổng biên tập có trách nhiệm phân công hợp lý các công việc lớn của tòa soạn, phù hợp với khả năng và sở trường của từng người. Các Phó tổng biên tập là hàng ngũ lãnh đạo của tòa soạn, có vai trò trách nhiệm lớn. Vì vậy, ngoài việc tham gia điều hành chung bộ máy của tòa soạn, còn trực tiếp tham gia viết bài, duyệt bài, trực ban. Tóm lại, Phó tổng biên tập là một chức dang lao động là trợ thủ đắc lực của Tổng biên tập, có vai trò vị trí nhất định trong tòa soạn. 3.4 Đội ngũ phóng viên, biên tập viên * Với biên tập viên Là viên chức chuyên môn nghiệp vụ tại các cơ quan Thông Tấn báo chí, Đài phát thanh – Truyền hình. Biên tập viên là người làm nhiệm vụ biên tập, xử lý tin bài của phóng viên, cộng tác viên, thông tin vieenhoanf thiện tin bài nhằm nâng cao chất lượng lên mức tối đa để đảm bảo toàn diện các tính chất của tin tức, bài vở, tranh ảnh cho việc xuất bản, phát hành. Nhiệm vụ chính của Biên tập viên: + Xử lý tin bài, ảnh của nhiều tác giả + Nắm chắc nội dung tư tưởng cơ bản của đường lối chính sách, chú ý tìm những giá trị cơ bản và thực chất của đương lối chính sách đó. + Tổ chức được nhiều chương trình phong phú. + Có kế hoạch đưa tin ngắn ngày, phù hợp + Gợi ý chủ đề theo đợt đưa tin bài Yêu cầu đối với các biên tập viên trong cơ qua báo chí là phải tường xuyên trao đổi nghiệp vụ. Tham gia vào đời sống thực tiễn để có cái nhìn xác thực nhất đối với những biên động của đời sống xã hội. Phải tham gia vào các lớp bồi dưỡng, đào tạo về công tác biên tập do cơ quan tổ chức. Phải có đạo đức và phẩm chất của người làm báo cách mạng. * Phóng viên Phóng viên là lực lượng chính trong cơ quan báo chí, đó là nguồn lực quan trọng. Họ là những người cung cấp tin bài, ảnh cho cơ quan báo chí, là người đảm bảo tin bài để cơ quan báo chí đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng, gánh vác vai trò như vâ nêm người phóng viên là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao: + Phải nhanh nhẹn và nhạy bén với những biến động của đời sống xã hội + Phải luôn tìm tòi trau dồi kiến thức, thường xuyên học hỏi về nghiệp vụ để nâng cao chất lượng cho bài viết của mình. + Giữ cho ngòi bút của mình luon có đạo đức và thật sự là cầu nối của Đảng, nhà nước và nhân dân. + Làm tốt vai trò của người làm công tác tuyên truyền, lập trường và tư tưởng phải luôn vững vàng rõ ràng. Đây là lực lượng chủ chốt trong cơ quan báo chí, phải có chương trình đào tạo hợp lý để nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên. 3.5 Đội ngũ hành chính dịch vụ Đây là bộ phận mang tính chất hành chính, văn phòng, giúp việc cho cơ quan báo đài phát thanh, truyền hình đảm bảo các điều kiện cho cơ quan đó hoạt động liên tục hiệu quả. Đó là các phòng, ban, tổ: Trị sự tài vụ, quảng cáo, quản trị, phát hành, thư viện lưu trữ, tổ chức cán bộ, đội xe, văn thư, tổ điện nước tổ bảo vệ cơ quan. 4. Duy trì sự phát triển và cạnh tranh giữa các cơ quan báo chí 4.1 Duy trì sự phát triển của báo chí Ngày 21/6/1925 khi Nguyễn Ái Quốc sáng lập tờ báo Thanh Niên, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử báo chí Việt Nam, chính thức khai sinh nền báo chí cách mạng – một nền báo chí tiên phong lấy chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm ánh sáng dẫn đường, lấy độc lập dân tộc, hòa bình của nhân dân, giàu mạnh, phồn vinh của đất nước làm lý tưởng phấn đấu. Từ đó đến nay đã 85 năm, báo chí luôn giữ vai trò là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa của Đảng, đóng góp to lớn vào thành công chung của sự nghiệp cách mạng của đất nước.. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển về nhiều mặt, báo chí Việt Nam thời gian qua còn bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm, dù đã được nêu ra nhưng chậm được khắc phục. Đó là còn những biểu hiện non kém về nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, chưa nhận thức đúng và đủ về tinh thần trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của người làm báo. Hậu quả là một bộ phận không nhỏ người làm báo chưa thật sự bám sát tôn chỉ, mục đích, thậm chí vi phạm Luật Báo chí, chạy theo xu hướng thương mại hóa, coi nhẹ chức năng chính trị, tư tưởng của báo chí cách mạng; đã gây tổn hại nghiệm trọng với lòng tin của nhân dân, và là trở ngại cho sự phát triển của báo chí nước nhà.   Báo chí mắc phải tình hình trên là do nhiều nguyên nhân nhiều, nhưng nếu xét từ góc độ khoa học thì nguyên nhân trực tiếp nhất và căn bản nhất là nền báo chí của chúng ta có tính chuyên nghiệp chưa cao. Điều này bộc lộ ở nhiều phương diện, cấp độ của hệ thống báo chí, từ việc bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí; tuyển chọn và sử dụng người làm báo, xây dựng mô hình các cơ quan báo chí gồm đào tạo, quản lý nguồn nhân lực… cho đến ứng dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Vậy để duy trì được sự phát triển của báo chí thì trong định hướng và phát triển báo chí. “hướng đổi mới của báo chí phải đồng hành cùng quá trình đổi mới của đất nước”. Trong đó nền báo chí Việt Nam cần được phát triển trong cùng dòng chảy với báo chí cách mạng Việt Nam. Sức chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả xã hội, khả năng tạo được dư luận xã hội lành mạnh của báo chí chính là mục tiêu phát triển của nền báo chí cách mạng. Báo chí cần thực hiện phản biện xã hội nhằm hướng đến làm động lực cho sự phát triển. Để từ đó hướng đến một nền báo chí chuyên nghiệp hơn. Càng phát triển, báo chí Việt Nam càng vừa phải kế thừa và phát huy bản chất cách mạng tốt đẹp của mình, đồng thời phải nâng cao tính chuyên nghiệp. Để làm được điều đó, ngoài sự nỗ lực của bản thân mỗi nhà báo trong nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức báo chí, giữ vững tư tưởng, bản lĩnh, còn cần đến sự quản lý, tổ chức, đào tạo có tính hệ thống của Đảng và Nhà nước, cần đến hành lang pháp lý phù hợp để bảo vệ hoạt động tác nghiệp, cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của người làm báo. 4.2 Duy trì sự cạnh tranh giữa các cơ quan báo chí Trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng, thông tin là yếu tố quyết định đến mọi hoạt đông trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Trong xu hướng tất yếu đó, báo chí trên thế giới cũng như ở Việt Nam phát triển không ngừng để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển trong điều kiện mới. Các cơ quan báo chí luôn nỗ lực để tăng khả năng cung cấp thông tin nhanh chóng và trên phạm vi ngày càng mở rộng. Chính từ những yêu cầu cấp thiết trên mà các tờ báo giờ đây giờ không chỉ cạnh tranh nhau từng ngày mà là từng giờ, thậm chí từng phút. Mà còn chạy đua giờ báo lên khuôn, cạnh giờ thông tin lên báo mạng… Để đáp ứng đòi hỏi thông tin nhanh nhất từ độc giả, hầu hết các tòa soạn đều thành lập và phát triển báo điện tử. Thậm chí, các tờ báo điện tử chuyên nghiệp không có báo in ngày càng nở rộ và phát triển. Áp lực cạnh tranh thông tin khiến phóng viên, biên tập viên ăn không đúng bữa, ngủ không đủ giấc. Ở các sự kiện nóng, phóng viên không còn cầm cây bút, cuốn sổ mà tốc ký thật nhanh trên máy tính xách tay để có thể chuyển bài ảnh về tòa soạn sớm nhất. Với các tờ báo việc có tin nóng là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu. Nhưng việc có tin “độc”, bài vở hay lại càng quan trọng hơn nữa. Việc cạnh tranh với báo mạng đang hàng ngày cập nhật thông tin hàng giờ, hàng phút, để tồn tại, báo giấy càng phải trăn trở tìm đề tài tốt; đào sâu, tổng hợp phân tích vấn đề. Sự ganh đua để khẳng định mình của các loại hình báo chí, các tờ báo khác nhau khiến cho người đọc có được nhiều kênh về thông tin. Báo mạng là một loại hình báo chí tuy chỉ vừa xuất hiện trong vài năm trở lại đây nhưng đã có một chỗ đứng nhất định trong lòng mọi độc giả. Sự xuất hiện của báo mạng điện tử không ít thì nhiều đã gây ra những xáo trộn đối với các loại hình báo chí khác. Cuộc cạnh tranh giữa báo truyền hình, báo nói, báo viết và báo điện tử hiện nay vẫn chưa đến hồi ngã ngũ nhưng dường như tại thời điểm này báo điện tử đang chiếm ưu thế, khẳng định sức mạnh của một loại hình báo sinh sau đẻ muộn nhưng đầy tiềm năng. Theo các số liệu thống kê, số lượng độc giả của báo mạng tăng 30%, số lượng người đọc các tờ báo online hàng tháng là 55,5 triệu lượt. Sự vượt trội của báo mạng điện tử chính là khả năng cập nhật thông tin nhanh chóng cùng với sự phong phú đa dạng của các thông tin này. Với cùng một thông tin như nhau, nếu là báo hình hoặc báo nói thì phải đợi đến giờ phát sóng của các bản tin, hay với báo in thì phải chờ công đoạn kiểm duyệt thông tin, in báo, sau đó phải đợi đến tận ngày phát hành thì thông tin mới được đến tay bạn đọc. Trong khi đó với báo mạng bạn chỉ cần nhấp chuột tất cả những thông tin nóng hổi nhất sẽ luôn được cập nhật, gần như cùng một lúc với sự kiện diễn ra. Cái mà người đọc cần chính là sự nhanh nhạy trong các thông tin và báo mạng đã đáp ứng được nhu cầu đó của độc giả. Báo mạng điện tử đã tham gia vào đời sống xã hội với tư cách như một cơ quan đưa tin chuyên nghiệp. Bên cạnh đó những thông tin mà báo mạng đưa ra đều được trải rộng trên mọi lĩnh vực từ kinh tế chính trị đến lĩnh vực văn hóa xã hội hay thể thao thời tiết người đọc có thể tùy chọn theo từng mục đề mà mình thích để đọc báo. Một trong những lợi thế khác của báo mạng chính là khả năng lưu trữ dường như là vô tận của các thông tin. Độc giả chắc sẽ cảm thấy khó khăn nếu muốn lưu trữ hay bảo quản những thông tin đã được phát sóng ở những chương trình phát thanh hoặc truyền hình. Với báo điện tử, người đọc có thể tìm kiếm các tài liệu cần thiết, sau đó có thể dễ dàng lưu các thông tin đó để phục vụ cho mục đích của bản thân. Những tài liệu đó sẽ được lưu trữ một cách an toàn mà không chịu ảnh hưởng của thời gian, không gian như khi ta lưu giữ thông tin trên báo in. Nếu như báo truyền hình, báo phát thanh lượng thông tin phải phụ thuộc vào thời lượng phát sóng của từng chương trình, hay với báo viết phải phụ thuộc vào số lượng trang báo thì báo điện tử lại không hề bị giới hạn về lượng thông tin được đưa ra. Báo mạng còn có tính chủ động cao hơn so với các loại hình báo chí khác. Độc giả có quyền lựa chọn thông tin một cách nhanh chóng. Với một chương trình truyền hình, người xem có thể phải mất một khoảng thời gian để đánh giá chương trình hay dở thì với một thông tin trên báo mạng, người đọc dễ dàng nhận ra thông tin mình có muốn theo dõi hay không chỉ qua những dòng chữ đầu tiên. Chính những sự ưu việt của báo mạng điện tử đã giúp loại hình báo này lên ngôi, đồng thời đẩy những loại hình báo chí khác rơi vào khủng hoảng. đầu tiên phải kể đến báo in năm 2008 năm tờ báo lớn nhất nước mỹ đều sụt giảm lượng phát hành. Với báo hình, tại Mỹ số người xem truyền hình đã giảm 2,5tr chỉ trong vòng từ năm 2006 - 2008. Ngoài ra thời lượng xem tivi mỗi ngày cũng giảm một cách đáng kể từ trước đến nay. Trong tương lai gần báo mạng điện tử ngày càng phát triển với những ưu thế của nó khẳng định tính vượt trội và sự cạnh tranh với các loại hình báo chí khác. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI ĐÀI PHÁT THANH SÓC SƠN I. SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐÀI PHÁT THANH SÓC SƠN 1. Điều kiện tự nhiên và sự phát triển kinh tế xã hội của huyện Sóc Sơn Trước những năm 1954 đến giữa những năm 1977, Huyện Sóc Sơn được hình thành từ hai huyện Đông Anh và Đa Phúc. Vào giữa năm 1977 Chính phủ có quyết định hợp nhất một số huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó có huyện Đa Phúc và Kim Anh nhập thành một huyện lấy tên dãy núi “Sóc Sơn” với địa danh lịch sử nổi tiếng và đã đi vào huyền thoại để đặt tên cho huyện. Đến tháng 10/1977 huyện Sóc Sơn trở thành một cấp nhà nước quản lý có kế hoạch toàn diện, một đơn vị kinh tế Nông – Lâm – Công nghiệp. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng, mở đầu thời kỳ xây dựng các lĩnh vực Chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội của huyện trên đường phát triển và đổi mới. Lúc này huyện gồm 29 xã và 1 thị trấn, diện tích là 31.384 ha, dân số 13 vạn người, trong đó có 6 vạn lao động. Huyện nằm giữa cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội, phía Nam khu căn cứ địa Việt Bắc và khu công nghiệp Thái Nguyên, Việt Trì, là địa bàn có vị trí kinh tế, quân sự quan trọng của thành phố. Đến 01/04/1979, sau khi chiến tranh biên giới chấm dứt, là một huyện có vị trí quan trọng như vậy, nên đã được chuyển giao về trực thuộc thủ đô Hà Nội. Từ đây lại bắt đầu thêm một trang sử mới của huyện – Sóc Sơn trở thành địa danh hành chính của Hà Nội, sát cánh cùng nhân dân 15 quận huyện trực tiếp xây dựng bảo vệ thủ đô yêu quý – Trái tim của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trải qua quá trình phát triển 31 năm qua (1979 – 2010 ) Đảng bộ nhân dân Sóc Sơn đã đạt được nhiều thành tích mang lại sự khởi sắc và tiến bộ trên mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội… Hiện nay kinh tế trên địa bàn huyện Sóc Sơn đang được đầu tư phát triển với các Nhà máy, Xí nghiệp đóng trên địa bàn, như: Sân bay quốc tế Nội Bài và nhiều nhà máy đơn vị trường học của Trung ương đóng trên địa bàn đang hoạt động. Bên cạnh đó thì các khu công nghiệp cao đã bắt đầu hoạt động, như: Khu công nghiệp Nội Bài, Nhà máy chế tạo xe thể thao YAMAHA. Và các khu vui chơi giải trí, như: Sân Gôn Minh Trí, khu du lịch sinh thái hồ Đồng Quan, Đền Sóc Sơn, Phủ Thành Chương… Bên cạnh đó một số công trình đang khởi công xây dựng và thi công như: Khu công nghiệp Mai Đình, Sân Gôn Phù Linh, khu du lịch cuối tuần Đền Sóc… Trước những thế mạnh, nỗ lực sẵn có cùng với sự đóng góp sức mạnh đoàn kết của nhân dân, nhiều tổ chức xã hội, cơ quan đoàn thể, nền kinh tế Sóc Sơn đã bước sang một trang mới với nhiều hy vọng mới. Đây cũng là những yếu tố để nhân dân và Đảng bộ Sóc Sơn quan tâm phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng giầu đẹp xứng đáng với niềm tin của Đảng, của Thủ Đô. 2. Sự hình thành và phát triển của Đài phát thanh Sóc Sơn Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay thì phát thanh là hoạt động báo chí quan trọng trong việc cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Phát thanh là một hình thức tuyên truyền các thông tin về chính trị, kinh tế, văn hoá, thể thao… bằng sóng điện từ. Theo dòng lịch sử, Đài phát thanh ra đời đầu tiên ở Việt Nam là Đài tiếng nói Việt Nam, vào ngày 07/09/1945, bản tin được phát đầu tiên là bản tuyên ngôn độc lập lịch sử của dân tộc khai sinh ra nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945 với lời xướng: “Đây là tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Đài tiếng nói Việt Nam đã góp một phần quan trọng trong việc đưa tiếng nói Việt Nam đi khắp mọi miền tổ quốc, từ đồng bằng đến hải đảo, đến với các đồng bào sinh sống ở nước ngoài cũng như bạn bè quốc tế. Cùng với Đài tiếng nói Việt Nam, các Đài phát thanh, truyền thanh cơ sở cũng lần lượt ra đời ở các tỉnh thành và quận huyện trong cả nước. Ngày 20/09/1978, Đài truyền thanh Đa Phúc ( nay là Đài phát thanh Sóc Sơn ) ra đời và hoạt động độc lập. Mục đích của Đài là nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị: Đưa tiếng nói của Đảng đến với quần chúng nhân dân và đáp ứng nhu cầu thông tin về mọi lĩnh vực của nhân dân huyện Sóc Sơn. Đài phát thanh Sóc Sơn ra đời trên cơ sở tách ra từ phòng văn hoá thông tin huyện Sóc Sơn nên ngay từ bước đầu hoạt động đã có những kết quả tốt và được nhân dân các vùng lân cận hưởng ứng, khen ngợi. Trải qua 31 năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự quan tâm lãnh đạo của Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện và Ban giám đốc Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội, Đài phát thanh Sóc Sơn đã không ngừng đầu tư, phát triển. Từ chỗ Đài chỉ có 3-4 cán bộ công nhân viên, với trang thiết bị truyền thanh hữu tuyến phục vụ khu vực huyện Đa Phúc và 3 xã là: Tiên Dược, Phù Linh và xã Tân Minh. Hệ thống cơ sở vật chất và máy móc thô sơ ( hơn 4Km đường dây và vài chục loa loại 25W và 1/4W). Ban đầu chỉ có 2 chương trình được phát mỗi tuần với thời lượng 15 phút, chất lượng phát sóng thấp. Đến nay Đài phát thanh Sóc Sơn đã biên chế được gần 20 cán bộ công nhân viên, có trình độ quản lý chuyên môn nghiệp vụ cao, với một màng lưới các Đài truyền thanh cơ sở gồm 14 Đài xã ( trong đó có 12 Đài truyền thanh xã với công nghệ truyền thanh không dây) và 156 trạm Đài ở các thôn làng, khu dân cư, với công suất các máy tăng âm là 500W, cột ăngten cao 40m, hàng trăm km đường dây và hơn 1.500 loa phóng thanh loại 25W. Đài phát thanh Sóc Sơn đã thực hiện phát sóng các chương trình phát thanh trên sóng FM tần số 93,8MHZ phủ sóng toàn huyện, truyền thông tin tới toàn dân, thông qua mạng lưới các Đài truyền thanh cơ sở và máy thu thanh dân dụng. Tập thể cán bộ, công nhân viên trong Đài phát thanh Sóc Sơn tiếp tục nêu cao tinh thần trách nhiệm, ra sức rèn luyện phấn đấu nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, xây dựng Đài thành một tập thể đoàn kết vững mạnh. Nắm bắt và ứng dụng kịp thời những kỹ thuật công nghệ phát thanh tiên tiến hiện đại. Thường xuyên học hỏi nâng cao trình độ biên tập, sản xuất tin, bài phát thanh truyền hình, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu tiếp tục: “nâng cao chất lượng toàn diện sự nghiệp phát thanh – truyền thanh huyện Sóc Sơn trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá” mà Đại hội chi bộ Đài phát thanh đã xác định. Đáp ứng kịp thời sự lãnh đạo, điều hành của Huyện uỷ, UBND huyện và nhu cầu thông tin đa dạng của các tầng lớp nhân dân trong huyện.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnguon_nhan_luc_0862.doc
Luận văn liên quan