Luận văn Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay

Sinh viên một bộ phận quan trọng trong xã hội, sinh viên có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của đất nước trong tương lai. Bối cảnh toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường những năm qua đang chi phối đến sự vận động và phát triển của đạo đức sinh viên. Sinh viên hiện nay có những phẩm chất quý báu, chứa đựng những tiềm năng phát triển về thể chất, tinh thần, trí tuệ, tài năng, những phẩm chất đạo đức Để những phẩm chất ấy phát huy trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một mặt thường xuyên tạo mọi điều kiện, cơ hội để đào tạo sinh viên các kiến thức về khoa học -công nghệ, mặt khác cần quan tâm tới công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên.

pdf104 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3361 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p sinh viên nói riêng. Thứ hai, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thực hiện tốt chính sách xã hội, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu Nền kinh tế thị trường đã phát triển mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển, ở nước đó hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và mọi việc đều được xử lý theo pháp luật. Hệ thống pháp luật này đảm bảo cho các nhà chức trách, quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh và cả người lao động có được một hành lang pháp lý bảo vệ, đồng thời ngăn chặn các hoạt động phi pháp. Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, sự chuyển đổi nhanh của nền kinh tế làm cho pháp luật phát triển không kịp và chưa đồng bộ. Do chưa có hệ thống pháp luật đồng bộ, thiếu chặt chẽ và chưa nghiêm minh, là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện tình trạng lừa đảo, cướp giật, tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, trốn thuế, hàng giả… làm giàu bất chính và những biểu hiện tiêu cực của đời sống sinh viên. Trong bất cứ xã hội nào thì đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, cả hai đều thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người. Sự khác nhau giữa pháp luật và đạo đức là ở các hình thức biểu hiện. Sự điều chỉnh pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước, còn đạo đức biểu hiện ý chí của xã hội. Pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các nhân và xã hội bằng các điều luật mang tính cưỡng bức. Còn đạo đức điều chỉnh các hoạt động của con người trong quan hệ xã hội chủ yếu bằng các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức dựa trên dư luận xã hội, sự cắn rứt lương tâm, danh dự. Sự khác biệt và thống nhất giữa đạo đức và pháp luật là cơ sở của tác động qua lại, bổ trợ cho nhau. Cho nên, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật sẽ góp phần nâng cao vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội, trong đó có hoàn thiện đạo đức của sinh viên. Ở Việt Nam hiện nay, sự thống nhất của pháp luật và đạo đức được dựa trên cơ sở kinh tế của nó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, pháp luật thực sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền dân chủ tự do rộng rãi cho nhân dân lao động. Để bảo vệ quyền tự do của mỗi người, để thực hiện nhiệm vụ đó, nhà nước thực sự của dân, chăm lo lợi ích của nhân dân. Đây chính là cơ sở để khẳng định pháp luật và đạo đức thể hiện lợi ích và ý chí của nhân dân lao động. Tất cả sự điều chỉnh của pháp luật và đạo đức đối với hành vi của con người trong các quan hệ xã hội, tất cả đều hướng tới mục tiêu cao đẹp làm cho xã hội phát triển lành mạnh, con người được tự do và phát triển toàn diện. Cho nên, hệ thống pháp luật ở Việt Nam phải là hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, hướng tới các giá trị nhân văn. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm giáo dục pháp luật cho thế hệ trẻ, đặc biệt là tầng lớp sinh viên, để họ nhận thức được các quy định của pháp luật và tích cực đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ thì Đảng và Nhà nước cần phải có một hệ thống chính sách xã hội đảm bảo sự phân phối về vật chất và tinh thần của con người trên cơ sở bình đẳng, bảo đảm lợi ích chung cho xã hội. Chính sách xã hội thể hiện bản chất nhân đạo, tiến bộ của một chế độ xã hội, phụ thuộc vào tính chất ưu việt của giai cấp cầm quyền. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân là giai cấp nắm vai trò lãnh đạo, là giai cấp đứng vào vị trí trung tâm của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân, dựa trên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để thực hiện sứ mệnh lịch sử được cả dân tộc giao phó. Đó chính là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đảm bảo: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển” [17, tr.26]. Đối tượng trong chính sách xã hội của Nhà nước ta luôn quan tâm chú ý đó là tầng lớp sinh viên, như: chính sách cho sinh viên vay vốn để hỗ trợ học tập, chính sách hỗ trợ và miễn giảm học phí cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, sinh viên gia đình chính sách…đã làm rõ bản nhân đạo, hướng tới mục tiêu: ai ai cũng được học hành. Thực hiện tốt chính sách xã hội là cầu nối giữa kinh tế và đạo đức. Kinh tế không tác động trực tiếp đến đạo đức mà luôn thông qua một khâu trung gian, đó là các chính sách kinh tế - xã hội. Muốn thực hiện tốt các chính sách xã hội, thì điều đầu tiên là phải phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Chính kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện tốt chính sách xã hội, ngược lại chính sách xã hội lại tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực, trong đó sinh viên chính là nguồn nhân lực chất lượng cao. Tại Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển kinh tế xã hội” [17, tr.26]. Thông qua chính sách xã hội và cách thức tiến hành thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước để khẳng định những chuẩn mực đạo đức mới được hình thành và phát triển. Khi những chính sách xã hội đảm bảo công bằng, vì nhân dân thì các giá trị đạo đức mới có cơ sở để bám rễ vào đời sống nhân dân, có đủ điều kiện để đẩy mạnh giáo dục đạo đức mới cho sinh viên. Hồ Chí Minh đã từng phê phán nghiêm khắc chủ nghĩa quan liêu, tham nhũng, người cho rằng: “Tham ô là trộm cướp …tham ô, lãng phí là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ…tham ô lãng phí và bệnh quan liêu dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Tội lỗi ấy nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám” [57, tr.489]. Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 1 - 1994) Đảng ta đã khẳng định: đất nước ta đang đối diện với bốn nguy cơ lớn. Một trong bốn nguy cơ đó là: tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Theo báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng về kết quả thực hiện nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII trên lĩnh vực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong nhiệm kỳ Đại hội IX đã nêu ra năm biểu hiện chủ yếu: + Suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng cả về số lượng và phạm vi. + Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng. + Tệ nói nhiều, làm ít, nói nhưng không làm, làm không đến nơi, đến chốn còn diễn ra ở nhiều nơi. + Tệ quan liêu xa dân, thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật còn tồn tại ở các cấp, các ngành. + Tham nhũng, nhũng nhiễu nhân dân, gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, làm thất thoát tài sản, tiền của của nhà nước, của nhân dân, tiền vay của nước ngoài, gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Không tập trung đấu tranh quyết liệt để ngăn chặn, đẩy lùi được tham nhũng, quan liêu thì sẽ không giải quyết được các vấn đề xã hội, công bằng xã hội, kỷ cương phép nước, không giữ được các chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Khắc phục được nạn tham nhũng, tệ quan liêu sẽ tạo môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh, đẩy mạnh phát triển kinh tế, hoàn thành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Từ đó, sẽ tạo ra được các cơ sở, điều kiện, tiền đề kinh tế - xã hội cho sự hình thành đạo đức mới cho sinh viên - đạo đức xã hội chủ nghĩa. Thực tế trong mấy năm qua cho thấy, đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu không phải là công việc dễ dàng, khi những con người tham nhũng là người có chức, có quyền, đủ hiểu biết pháp luật. Tham nhũng, quan liêu biến tướng dưới nhiều dạng tinh vi, ẩn nấp sau kẽ hở của pháp luật, hay là những người thực thi pháp luật. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đẩy mạnh việc phòng chống tham nhũng bằng các hoạt động cụ thể: Luật phòng chống tham nhũng ra đời, các vụ án lớn tham nhũng tài sản của nhà nước được đưa ra ánh sáng (vụ PMU 18, vụ dự án 112 của Chính phủ, vụ án của ngành Hàng không, vụ đất đai ở Đồ Sơn - Hải Phòng v.v.v). Nếu chúng ta không tiến hành những giải pháp và biện pháp đồng bộ để khắc phục và ngăn chặn thì tệ nạn tham nhũng, quan liêu sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của nhân dân, trong đó có lớp trẻ mà chủ yếu là sinh viên, thế hệ tương lai của nước nhà; tạo ra tâm lý chán nản, ngại phấn đấu, có nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu là việc làm cấp bách trong giai đoạn hiện nay, các giải pháp và biện pháp đấu tranh chống tham nhũng và quan liêu phải được quán triệt từ trên xuống dưới một cách đồng bộ và cần phải thực hiện một cách triệt để. Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã từng khẳng định: “Nếu chúng ta không kiên quyết chặn đứng, đẩy lùi sự suy thoái đang diễn ra trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước thì sẽ dẫn đến nguy cơ làm biến chất Đảng, đe doạ sự sống còn của chế độ, độc lập và an ninh của tổ quốc” [65, tr.4]. Vì vậy, việc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu cần được xử lý một cách nghiêm túc, đúng người, đúng tội và có những hình phạt thoả đáng. Xử lý nghiêm túc vấn đề tham nhũng, quan liêu sẽ tác động rất mạnh tới tâm lý của sinh viên, tầng lớp xã hội đặc thù, chủ nhân tương lai của nước nhà. Các cấp uỷ đảng và người đứng đầu các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương phải chịu trách nhiệm chống tham nhũng, quan liêu mà ở nơi đơn vị mình phụ trách. Thực hiện quy chế dân chủ, tăng cường khả năng giám sát của nhân dân, cán bộ đảng viên phải thực hiện tự phê bình và phê bình trong công việc. Quán triệt tinh thần đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng, bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; những người bao che cho tham nhũng, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ [17, tr.129]. Những giải pháp trong phòng chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta đang gây ra những tiếng vang lớn trong dư luận xã hội, tác động đến nhận thức và hành động của sinh viên, làm cho sinh viên tin tưởng vào lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Để giáo dục và hình thành đạo đức mới cho sinh viên hiện nay cần phải có một quá trình rèn luyện lâu dài, gian khổ. Chính trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội đầy phức tạp, sinh viên dần dần hình thành và giác ngộ các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức: chủ nghĩa tập thể, tinh thần yêu nước, yêu lao động, chủ nghĩa nhân đạo. Từ giác ngộ đó, sẽ mang lại cho sinh viên có khả năng tiếp nhận kinh nghiệm xã hội và chuẩn bị mọi mặt để hoàn thành vai trò xã hội mà sau này sinh viên - thế hệ tiếp cận sẽ đảm nhận. 2.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác quản lý, giáo dục đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa con người với hoàn cảnh, cũng như tính quyết định xã hội đối với nhân cách, một trong những giải pháp quan trọng để xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay là phải biết kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình với xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. Mỗi một thành tố này có vị trí, vai trò và thế mạnh nhất định trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên. Có thể xem xã hội là một cơ thể sống hoàn chỉnh và không ngừng biến đổi được “sắp xếp, tổ chức” theo nhiều mối quan hệ trong đó gia đình được xem là một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội được sinh thành, vận động và biến đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất xác định và có vai trò quy định đối với gia đình. Những xã hội ấy tồn tại thông qua các hình thức kết cấu và quy mô gia đình. Mỗi gia đình hạnh phúc, hoà thuận thì cả cộng đồng và xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Xã hội tốt thì gia đình càng phải tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý đến hạt nhân cho tốt. Nền kinh tế thị trường tác động mạnh đến các thành viên trong gia đình, có những gia đình có truyền thống gia giáo, các thành viên trong như ông, bà, cha, mẹ, chú, bác đều là công chức nhà nước, thế nhưng con, cháu lại rơi vào các tệ nạn xã hội, tuột khỏi vòng tay thân ái của gia đình. Bối cảnh toàn cầu hoá tác động mạnh mẽ vào giới trẻ, đặc biệt là sinh viên, tầng lớp trí thức tiếp cận nhanh với cái mới nhưng kinh nghiệm sống còn ít ỏi. Cho nên, họ dễ tiếp nhận những thói hư tật xấu, rất nhiều sinh viên đã sa vào các tệ nạn: chơi lô đề, đánh bạc, chơi cá độ bóng đá, thậm chí nghiện hút, dẫn tới bị đình chỉ học làm các bậc cha mẹ phải đau lòng. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, khi mọi người đều chạy theo lợi nhuận, một số gia đình mải lo làm ăn không còn thời gian chăm lo con cái, dẫn đến sự thiếu hụt về tình cảm gia đình, gia đình đã không còn là chỗ dựa cho các em. Đã có rất nhiều sinh viên do gia đình buông lỏng trong giáo dục, rèn luyện, bỏ mặc trách nhiệm quản lý con mình cho nhà trường và xã hội, nên dẫn tới kết quả nhiều sinh viên phạm tội. Thực tế trên cho chúng ta thấy, cần phải nhìn nhận lại cách giáo dục gia đình cho thế hệ trẻ, đặc biệt là tầng lớp sinh viên, để họ được trang bị các giá trị giáo dục đạo đức gia đình trong cuộc sống. Gia đình là môi trường hết sức quan trọng ảnh hưởng rất lớn tới tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách của sinh viên, tất cả mọi hoạt động của gia đình từ: lời nói, cử chỉ, việc làm của cha mẹ đều ảnh hưởng tới con cái. Giáo dục ở gia đình là sự nêu gương, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh nêu gương trong giáo dục đạo đức. Chính người là tấm gương sáng về đạo đức cho cán bộ đảng viên, cả cuộc đời người luôn là tượng đài uy nghi, lừng lẫy cho việc giáo dục đạo đức. Nêu gương đạo đức ở gia đình là tấm gương phản chiếu từ ông, bà, cha, mẹ đối với con cái, tất cả mọi người phải là cái gương đạo đức chuẩn mực cho con cái noi theo. Thế mạnh của giáo dục gia đình là đánh sâu vào tâm lý tình cảm của mỗi người, bằng sự quan tâm, gắn bó, chăm sóc đến từng thành viên của mình. Từ đó, các thành viên trong gia đình biết được mặt mạnh, mặt yếu của từng người, trên cơ sở đùm bọc thương yêu lẫn nhau và trách nhiệm của gia đình có thể tìm ra các phương pháp hữu hiệu để cảm hoá, tác động đến đối tượng cần giáo dục mà nhà trường và xã hội không thể có được. Ngoài việc chăm lo giáo dục cho con cái về mặt trí tuệ, gia đình cần phải bồi dưỡng đạo đức nhân cách, kết hợp những phương pháp giáo dục truyền thống với hiện đại cho phù hợp với hoàn cảnh mới, làm sao cho gia đình trở thành nơi lưu giữ nếp xưa và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác, tăng cường giáo dục nếp sống mới, lối sống mới, xây dựng gia đình văn hoá mới. Với tầm quan trọng của gia đình trong giáo đạo đức, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ: Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc [17, tr.103 - 104]. Bên cạnh gia đình, còn có vai trò quản lý, giáo dục của nhà trường và xã hội (các tổ chức đoàn thể) có vai trò hết sức to lớn đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên. Nhà trường là một thiết chế xã hội - văn hoá rất quan trọng trong giáo dục đạo đức, có chức năng dạy chữ, dạy nghề và dạy người. Ba chức năng đó đều hướng đến mục đích đào tạo các thế hệ con người có tài và có đức, phát triển toàn diện và hài hoà nhân cách. Bởi vì nhà trường là môi trường giáo dục chuyên nghiệp, có nề nếp, có kỷ cương kỷ luật, là nơi trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản và là nơi giáo dục cho sinh viên lý tưởng sống, là môi trường rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Trong thời đại khoa học - công nghệ đòi hỏi sự sáng tạo của các cá nhân. Các cá nhân phải tìm tòi những tri thức mới, tư tưởng mới, tư tưởng góp phần đưa xã hội tiến lên và khẳng định vai trò của cá nhân trong đời sống cộng đồng. Do vậy, nền giáo dục phải tạo điều kiện cho sự tự do phát triển của cá nhân, định hướng cho các nhân phát triển trong sự gắn bó với cộng đồng là một triết lý mang tính khách quan khoa học, đồng thời mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Muốn vậy, giáo dục trong nhà trường phải là hoạt động có mục đích, mang tính chiến lược, có kế hoạch được định hướng bởi các giá trị đạo đức. Giáo dục trong nhà trường không chỉ cung cấp những kiến thức cơ bản, chuyên ngành mà còn phải là nơi hướng người học tới các giá trị đạo đức mới và những giá trị của đạo đức truyền thống của dân tộc, qua đó hình thành cho sinh viên nếp sống mới, lối sống mới. Để hình thành nên lối sống có văn hoá cho sinh viên thì nhà trường cần tạo mọi điều kiện cho sinh viên tham gia các hoạt động văn hoá cộng đồng; mặt khác cung cấp cho sinh viên những quan điểm, những phạm trù của môn đạo đức học, trên cơ sở đó sinh viên hình thành ý thức, tính cảm, niềm tin đạo đức mới. Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường muốn đạt hiệu quả cao, thì vấn đề nêu gương của các thầy, cô giáo đóng góp một phần hết sức quan trọng. Hồ Chí Minh đã từng nói: Một tấm gương sáng còn có giá trị hơn một trăm lần bài diễn văn tuyên truyền. Các nhà trường từ mẫu giáo cho đến cao đẳng, đại học đã chú ý đến việc giáo dục đạo đức, phương châm này thể hiện rất rõ trong khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn”. Nhiều thầy, cô giáo giữ được phẩm chất tận tuỵ, chăm lo việc “trồng người” trong điều kiện khó khăn hiện nay. Tư cách của thầy cô giáo không chỉ được thể hiện ở trên lớp, mà còn thể hiện trong những sinh hoạt hàng ngày. Quan hệ thầy trò vẫn được giữ gìn theo đạo lý “tôn sư trọng đạo” của văn hoá dân tộc. Đây là nét đẹp văn hoá đạo đức của nhà trường mà chúng ta cần quan tâm gìn giữ cho đời sau. Để xây dựng và giáo dục đạo đức không chỉ chịu sự chi phối của gia đình, nhà trường mà còn chịu sự tác động của môi trường xung quanh, đó chính là sự tác động của môi trường xã hội. Xã hội giữ vai trò hết sức to lớn trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách của sinh viên, chính xã hội là vườn ươm của những tài năng và là nơi nảy nở các giá trị đạo đức. Xã hội là môi trường rộng lớn cũng là môi trường khắc nghiệt để các cá nhân, các đoàn thể, các mối quan hệ giao tiếp nhau trong lao động, học tập sinh hoạt thử sức và đánh giá. Chính vì thế, yếu tố hay khâu quyết định trong xã hội là vai trò của nhà nước về định hướng toàn diện về kinh tế, tư tưởng, đạo đức, pháp luật, hệ thống chính sách, chế độ đảm bảo sự phát triển của một đất nước, trong đó có sự phát triển của sinh viên. Nâng cao phẩm chất đạo đức cho sinh viên thì cần phải phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, mà nòng cốt là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam. Đây là hai tổ chức góp phần không nhỏ vào quá trình hình thành và phát triển đạo đức của sinh viên. Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên và Hội Sinh viên trong giai đoạn hiện nay là giáo dục, định hướng, xây dựng một lớp sinh viên giàu lòng yêu nước, biết đặt lợi ích của mình trong lợi ích thống nhất của quốc gia, dân tộc; có lý tưởng cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng; có tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi; thành thạo ngoại ngữ và tin học; có văn hoá và lối sống tình nghĩa; có sức khoẻ thể chất và tinh thần lành mạnh; giàu nhiệt huyết sáng tạo và tinh thần tình nguyện vì cộng đồng; biết giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết làm giàu văn hoá dân tộc bằng những giá trị và những tinh hoa văn hoá nhân loại. Những phong trào do Đoàn và Hội sinh viên tổ chức như: tham quan du lịch, sinh hoạt chính trị, hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao và các phong trào sinh viên tình nguyện, tiếp sức mùa thi mang ý nghĩa giáo dục đạo đức sâu sắc và được đông đảo sinh viên tham gia nhiệt tình. Đó là những hoạt động để sinh viên thể hiện tài năng, trí tuệ và bản lĩnh của tuổi trẻ thế hệ Hồ Chí Minh đang lớn lên và trưởng thành, đủ sức tiếp nối các thế hệ cha anh đi trước. Gia đình, nhà trường, xã hội có những vị trí chức năng khác nhau nhưng tất cả đang đóng góp sức mình vào việc giáo dục, xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam. Vì vậy, gia đình, nhà trường, xã hội tất cả phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, phải có sự thống nhất trong nhận thức và hành động trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả cho việc kết hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong công tác giáo dục đạo đức mới cho sinh viên chúng ta cần chú ý những vấn đề sau: Thứ nhất, để tiếp tục phát huy hiệu quả cao trong giáo dục đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay thì phải có sự kết hợp thống nhất giữa gia đình, nhà trường, xã hội về quan điểm, nội dung phương pháp và phải xây dựng được môi trường văn hoá lành mạnh. Chúng ta phải tạo ra sự tin tưởng cho sinh viên ở trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội, để họ tự giác phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trở thành người công dân tốt. Gia đình trở thành cầu nối giữa nhà trường và xã hội, gia đình phải thường xuyên liên hệ với nhà trường, nắm bắt được tình hình học tập và sinh hoạt cộng đồng của sinh viên như thế nào, tránh việc gia đình ngăn cấm sinh viên tham gia các hoạt động do Đoàn và Hội sinh viên tổ chức. Để tạo ra được môi trường văn hoá lành mạnh, trước tiên giáo dục gia đình phải nền tảng. Một gia đình hạnh phúc, chăm lo tới con mình sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành nhân cách, đạo đức của sinh viên. Ông, bà, cha, mẹ phải là tấm gương đạo đức cho con cháu, họ là những người sẽ định hướng cho các sinh viên về các mối quan hệ trong xã hội và cách ứng xử các mối quan hệ đó như thế nào cho nó phù hợp với văn hoá đạo đức. Nhà trường là thiết chế xã hội, do đó nhà trường cần phải nâng cao ý thức kỷ luật, tạo ra môi trường dạy học thân thiện: “trường ra trường, lớp ra lớp, trò ra trò, thầy ra thầy” để giúp sinh viên nhận thức đúng trách nhiệm của mình trước gia đình, nhà trường và xã hội. Mối quan hệ thầy trò hiện nay đang bị tác động mạnh của nền kinh tế thị trường, do đó phải làm trong sạch mối quan hệ này, phát huy tinh thần “tôn sư, trọng đạo” thầy ra thầy, trò ra trò, thầy cô phải là người định hướng cho sinh viên về những giá trị đạo đức tốt trong xã hội; mặt khác thầy cô là tấm gương sáng về đạo đức, tinh thần tự học, tự rèn luyện cho sinh viên. Các tổ chức đoàn thể phải thể hiện được mình là thủ lĩnh của các phong trào sinh viên, thể hiện vai trò lãnh đạo và cũng như là trách nhiệm của mình trước sinh viên. Phải quan tâm, khuyến khích, giúp đỡ, động viên, khích lệ sinh viên trước các hoạt động mang tính chất giáo dục chính trị tư tưởng và cũng phải kỷ luật nghiêm khắc trước những sinh viên vi phạm kỷ luật. Chính môi trường xã hội sẽ tạo cho sinh viên về việc tự nhận thức, tự giáo dục và tự rèn luyện bản thân mình. Thứ hai, sinh viên hiện nay đang sống trong bối cảnh toàn cầu hoá, một thế giới bùng nổ thông tin, được học hỏi và giao lưu với nhiều nền văn hoá trên thế giới. Điều đó, có tác động to lớn đến đời sống văn hoá, tinh thần và lối sống của sinh viên, họ là tầng lớp tri thức nên hết sức nhạy cảm, dễ tiếp thu cái mới mà dễ dàng quên đi các giá trị truyền thống của dân tộc. Thực tế đã cho thấy rất nhiều sinh viên hiện nay do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá, họ đã tiếp nhận lối sống xa lạ thích ăn chơi, hưởng thụ mà không chịu học tập rèn luyện. Họ thờ ơ với mọi việc xẩy ra xung quanh, suốt ngày chỉ nghĩ đến game, vũ trường và các chất kích thích khác, làm cho đời sống sinh viên hiện nay có sự xáo trộn nhất định. Mặt khác, do nền kinh tế thị trường nên những sân chơi bổ ích cho sinh viên ngày một bị thu hẹp đi, các hoạt động phong trào còn mạng tính hình thức, chưa thực sự thu hút được sinh viên tham gia. Chính vì vậy, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội để hạn chế những tiêu cực trong lối sống của sinh viên hiện nay. Bằng các biện pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội, đặc biệt là tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cần phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, các đơn vị vũ trang để tổ chức các hoạt động văn hoá, hoạt động thể thao…để sinh viên tham gia. Bên cạnh đó, cần phải có những biện pháp tuyên truyền hữu ích cho sinh viên thấy được mặt trái của toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường và những tấm gương tiêu biểu sinh viên vượt khó đạt kết quả cao trong học tập và rèn luyện đạo đức. Đây là những hoạt động bổ ích, giúp sinh viên tự rèn luyện, nâng cao sức khoẻ, ý thức và nghĩa vụ của mình đối với gia đình, nhà trường, xã hội. Tóm lại, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đạo đức cho sinh viên là một giải pháp hết sức căn bản, là nguyên tắc xây dựng đạo đức mới, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Vai trò của mối quan hệ giữa gai đình, nhà trường và xã hội được Đảng ta đánh giá cao và nêu ra chủ trương: “Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội” [11, tr.60]. Tuy nhiên, mối quan hệ này trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, thực tế việc kết hợp gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo đạo đức vẫn còn hạn chế, Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2 khoá VIII khẳng định: “Gia đình và các tập thể, cộng đồng xã hội chưa phát huy vai trò quan trọng trong giáo dục, chưa phối hợp chặt chẽ với nhà trường giáo dục thế hệ trẻ, nhất là về chính trị, đạo đức, đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm đồi truỵ” [9, tr.21]. Do vậy, chúng ta phải tạo ra một quá trình thống trong việc kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đạo đức cho sinh viên. 2.2.4. Đổi mới nội dung, thiết kế lại chương trình, đa dạng hoá hình thức giáo dục đạo đức mới cho sinh viên Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, các nước không chỉ giao lưu trao đổi về kinh tế, chính trị, văn hoá mà còn giao lưu hợp tác về giáo dục đào tạo. Nền giáo dục nước ta trong mấy năm trở lại đây đã phát triển mạnh, có rất nhiều trường ở nhiều quốc gia khác nhau đã tham gia đào tạo tại Việt Nam, điều đó có làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục của Việt Nam. Sự ảnh hưởng, tác động ấy không chỉ diễn ra ở khoa học cơ bản, lĩnh vực chuyên môn mà ngay cả với nhận thức, thái độ, quan điểm, đạo đức của học sinh, sinh viên. Trong nhiều năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, có rất nhiều lần Bộ đã tổ chức biên soạn giáo trình và tài liệu tham khảo để phục vụ giảng dạy môn học; tổ chức nhiều hội thảo đánh giá về thực trạng đạo đức sinh viên nước ta. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, môn đạo đức học vẫn chưa được các trường Đại học, Cao đẳng đưa vào giảng dạy. Ngoài trừ một số trường thuộc khối sư phạm và khoa học xã hội nhân văn đưa vào giảng dạy. Về nội dung, một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đào tạo là nội dung chương trình. Nội dung chương trình càng hiện đại, thiết thực, phù hợp với đối tượng và môn học bao nhiêu thì kết quả, chất lượng của quá trình đào tạo càng cao bấy nhiêu. Hiện nay, nội dung chương trình đạo đức được đưa vào giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng nhìn chung còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được đòi hỏi của sinh viên. Giáo viên dạy môn đạo đức học phần lớn giảng dạy kiêm môn, đa số giáo viên dạy môn đạo đức xuất phát từ giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin. Họ chưa được đào tạo chuyên sâu về đạo đức học, vì vậy gặp không ít khó khăn trong quá trình giảng dạy, chưa đáp ứng được mục tiêu của môn học; từ đó chất lượng giảng dạy môn đạo đức còn thấp, hiệu quả mang lại chưa cao. Do vậy, đổi mới nội dung môn đạo đức học là tất yếu, khách quan, rất cần thiết và cần có chiến lược cụ thể mang tính lâu dài. Thực tế cho thấy rằng, sinh viên để trở thành con người có đạo đức không nhất thiết phải học tập và nghiên cứu môn đạo đức. Có thể thông qua việc giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội, đặc biệt là các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, truyền thống, pháp luật cho sinh viên. Thế nhưng để sinh viên phấn đấu trở thành người công dân tốt, mẫu mực, thực sự có đạo đức, thì cần phải có một niềm tin khoa học thực sự, không bằng con đường nào khác và tốt hơn là nghiên cứu và học tập môn đạo đức học và các thành tựu của các ngành khoa học khác. Cho nên, các trường đại học và cao đẳng cần xây dựng đội ngũ giảng viên chuyên giảng dạy môn đạo đức học, sớm đưa môn đạo đức học vào giảng dạy và trở thành một môn học bắt buộc, với nội dung và chương trình hợp lý, phù hợp với sự vận động phát triển của xã hội. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Đạo đức học phải là ngành khoa học xã hội nhân văn và những người có trách nhiệm phải đi sâu nghiên cứu chuyên cần hơn nữa, phải trở thành môn khoa học không thể thiếu được trong các trường Đại học” [27, tr.79]. Về phương pháp: Phương pháp được hiểu là cách thức, biện pháp mà con người dùng để nhận thức và hoạt động nhằm biến đổi hiện thực. Theo cách hiểu đó, phương pháp giảng dạy được hiểu: là cách thức hoạt động tác động giữa người dạy (chủ thể dạy - người thầy) trực tiếp hoặc gián tiếp (qua các phương tiện như: sách, nghe nhìn…) với người học (vừa là đối tượng của việc dạy vừa là chủ thể học, tự học) nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung dạy học. Phương pháp giảng dạy là một trong những nhân tố thực hiện thắng lợi mục tiêu giáo dục đào tạo. Khi đã xác định được mục tiêu, xây dựng xong nội dung chương trình thì phương pháp giảng dạy sẽ quyết định chất lượng của quá trình đào tạo. Phương pháp giảng dạy càng phù hợp với đối tượng và môn học bao nhiêu thì kết quả, chất lượng của quá trình dạy học càng cao bấy nhiêu. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, cho nên đạo đức có nội dung và phương pháp khác với các ngành khoa học khác. Nội dung của đạo đức là đưa ra các phạm trù mang tính chất chuẩn mực giá trị của xã hội, để từ đó các chủ thể có thể lựa chọn, nhận thức và đánh giá các công việc của mình có ý nghĩa tích cực, được lương tâm và danh dự đồng tình, dư luận xã hội tán thành. Trong thực tế việc giảng dạy môn đạo đức học chưa đưa lại hiệu quả cao, một mặt là do nội dung chương trình sáo rỗng, chưa phù hợp; phương pháp giảng dạy môn đạo đức học hiện nay mang tính chất truyền thống, nặng về thuyết trình, giáo viên vẫn là trung tâm của lớp học. Cho nên, sinh viên tiếp thu đạo đức học một cách thụ động, họ không đưa ra được chứng kiến của mình trước các vấn đề bất cập của đạo đức xã hội hiện nay. Làm cho các buổi học môn đạo đức của sinh viên nhàm chán, họ thấy không thiết thực, học với mục tiêu là không phải thi lại, chứ không phải học để từ đó ứng dụng vào thực tế rèn luyện bản thân. Dẫn đến kết quả, khi thi, kiểm tra, sinh viên chỉ biết thuộc bài, nhắc lại những kiến thức đã được lĩnh hội ở lớp một cách máy móc, thiếu sáng tạo, năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn còn nhiều hạn chế, tạo ra giữa khoảng cách lý luận và thực tiễn. Để đổi mới phương pháp giảng dạy môn đạo đức học cho sinh viên cần phải chú ý tới một số vấn đề sau: Thứ nhất, trong giảng dạy đạo đức học hiện nay, cần phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp giáo dục truyền thống và hiện đại, tránh sự áp đặt, giáo dục một chiều với những nội dung chung chung, trừu tượng. Mà phải sử dụng các phương pháp sư phạm linh hoạt, mềm dẻo, tuỳ vào những ngành mà sinh viên đang theo học để truyền thụ cho họ. Với phương pháp truyền thống cần phải sử dụng tốt phương pháp nêu gương, với những ví dụ cụ thể về người tốt việc tốt trong các phong trào thi đua và cũng kịch liệt phê phán những hành vi trái với đạo đức, lương tâm và danh dự theo chuẩn mực đạo đức mà các ngành quy định. Phương pháp giảng dạy hiện đại là lấy sinh viên làm trung tâm, kết hợp sử dụng các phương tiện kỹ thuật vào giảng dạy (máy tính, đầu chiếu hắt, projector, video, âm thanh); đặt ra những tình huống có vấn đề để sinh viên trao đổi, đánh giá, đưa ra những kinh nghiệm ứng xử của mình. Kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống và hiện đại phải hướng tới người học, tạo ra hứng thú cho người học, làm cho sinh viên luôn trăn trở về những kiến thức đạo đức mình được tiếp nhận và thực tế công việc hàng ngày của mình. Muốn làm được điều đó, thì phải kết hợp giáo dục đạo đức cho sinh viên với hoạt động thực tiễn mà nền kinh tế thị trường đang đặt ra cho các chuẩn mực đạo đức. Bài giảng của giảng viên phải luôn mang hơi thở của thời đại, các nội dung đạo đức phải được làm phong phú, thiết thực. Để công tác giáo dục đạo đức mang lại hiệu quả, không chỉ là đổi mới nội dung và phương pháp mà cần phải có chiến lược con người hợp lý. Đó chính là đội ngũ giảng viên giảng dạy môn đạo đức học, cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đây là vấn đề then chốt nhất mang ý nghĩa quyết định. Cần phải đào tạo giảng viên có trình độ chuyên sâu về môn đạo đức học, thường xuyên có những lớp bồi dưỡng kiến thức đạo đức học cho giảng viên. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phải kết hợp với các bộ, ban ngành khác để cung cấp thực tiễn đạo đức trong các ngành của mình quản lý cho các giảng viên trong các đợt tập huấn hàng năm. Mặt khác, các giảng viên giảng dạy môn đạo đức phải là tấm gương đạo đức cho sinh viên, họ phải ý thức được mình đang giảng dạy môn học có ý nghĩa quan trọng hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho người học. Thứ hai, phải đa dạng hoá các hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên. Đó chính là chúng ta lồng ghép các nội dung giáo dục đạo đức trong các hoạt động xã hội, từ các sân chơi giải trí cho đến các cuộc thi, các phong trào do Đoàn và Hội sinh viên tổ chức. Bằng các phương pháp như sử dụng truyền thông, tổ chức các sân chơi trên truyền hình, giáo dục qua thực tế các tấm gương đạo đức, giáo dục thông các hoạt động mang tính chính trị - xã hội của các phong trào sinh viên. Thế giới và nước ta đang đứng trước bối cảnh toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ đã làm cho xã hội bùng nổ thông tin, sinh viên tiếp thu tri thức phong phú và đa dạng trên nhiều kênh thông tin khác nhau. Do vậy, giáo dục đạo đức cho sinh viên phải có những hình thức phù hợp, thu hút được mọi người tham gia, giáo dục thông qua tấm gương đạo đức để lại ấn tượng rất lớn. Hiện nay, nhân dân cả nước đang hưởng ứng cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phát động phong trào: “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” với nội dung rèn đức, luyện tài đang có tác động rất lớn tới nhận thức và hành động của sinh viên cả nước. Những tấm gương đạo đức sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sinh viên, dễ lôi cuốn họ tự nguyện rèn luyện mình theo các chuẩn mực đạo đức từ những tấm gương tốt. Giáo dục đạo đức cho sinh viên thông qua các hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên như: Phong trào sinh viên tình nguyện, phong trào hiến máu nhân đạo, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn… để sinh viên hoà mình thực sự vào các phong trào đó, chứng kiến sự vận động, phát triển của đất nước. Đồng thời họ cảm nhận được sự khó khăn, thiếu thốn, thậm chí cả mất mát đau thương của nhân dân, từ đó họ đồng cảm và có tinh thần trách nhiệm với cuộc sống. Đây là cách giáo dục đạo đức thực tế và dễ đi sâu vào đời sống sinh viên, làm cho lương tâm và trách nhiệm của mỗi sinh viên được trỗi dậy và từ đó hình thành phẩm chất đạo đức của họ. Giáo dục đạo đức cho thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng, là vấn đề cần thiết của đất nước trong giai đoạn hiện nay, đây là vấn đề Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm và có chiến lược lâu dài cùng với chiến lược xây dựng con người Việt Nam, con người xã hội chủ nghĩa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp hiện đại hoá đất nước. Xây dựng đạo đức mới cho sinh viên cần phải huy động sức mạnh tổng hợp của gia đình, nhà trường, xã hội để các em hoàn thiện nhân cách, phát triển toàn diện “đức - trí - thể - mỹ”. Mặt khác, phải giáo dục cho sinh viên ý thức tự học, tự rèn luyện, tự chịu trách nhiệm, hăng hái tham gia các phong trào sinh hoạt đoàn thể nhằm giúp cho sinh viên hiểu rõ giá trị của cuộc sống, các giá trị của nhân văn, giá trị đạo đức trong cuộc sống. Tiểu kết chương 2 Thực trạng đạo đức của sinh viên nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá đang đặt ra nhiều vấn đề, đặc biệt là trong quá trình nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mới có phần mâu thuẫn với kinh tế thị trường, nó đang đặt ra những câu hỏi lớn yêu cầu cần phải được giải quyết để đất nước phát triển bền vững. Để làm được vấn đề đó, trước hết cần phải có sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, làm lành mạnh hoá nền kinh tế thị trường, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, bồi dưỡng những giá trị nhân văn cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản. Trên cơ sở đó, đổi mới về mặt nội dung, phương pháp trong giáo dục đạo đức hiện nay, coi công tác giáo dục đạo đức là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong mấy năm trở lại đây, qua các lần hội nghị của Đảng, vấn đề đạo đức của toàn xã hội nói chung và đạo đức sinh viên nói riêng được đặt ra một cách cấp thiết. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam” [17, tr.206]. Là một trong những định hướng chiến lược phát triển của ngành giáo dục, đạo tạo hiện nay. Để thực hiện được chỉ đạo của Đảng trong việc xây dựng con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải có chiến lược lâu dài về đào tạo con người vừa đủ đức, đủ tài. Trong khi nền kinh tế thị trường và bối cảnh toàn cầu hoá đang tác động tới mọi người, đồng tiền đang trở thành sức mạnh chi phối mọi người. Sinh viên tầng lớp trẻ, năng động dễ bị tác hại của nền kinh tế thị trường làm tổn thương, do đó cần phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức mới cho sinh viên. Do giáo dục đạo đức học ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu mà xã hội đặt ra. Để xây dựng đạo đức mới cho sinh viên cần phải tiến hành những giải pháp đồng bộ: Xây dựng ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện trong tu dưỡng đạo đức trong sinh viên. Ngăn chặn những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, những phức tạp và mặt trái của toàn cầu hoá; Tạo lập môi trường giáo dục thân thiện, môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh có tác động tích cực đến xây dựng đạo đức mới cho sinh viên; Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác quản lý, giáo dục đạo đức mới cho sinh viên; Đổi mới nội dung, thiết kế lại chương trình, đa dạng hoá hình thức giáo dục đạo đức mới cho sinh viên. KẾT LUẬN Sinh viên một bộ phận quan trọng trong xã hội, sinh viên có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của đất nước trong tương lai. Bối cảnh toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường những năm qua đang chi phối đến sự vận động và phát triển của đạo đức sinh viên. Sinh viên hiện nay có những phẩm chất quý báu, chứa đựng những tiềm năng phát triển về thể chất, tinh thần, trí tuệ, tài năng, những phẩm chất đạo đức …Để những phẩm chất ấy phát huy trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một mặt thường xuyên tạo mọi điều kiện, cơ hội để đào tạo sinh viên các kiến thức về khoa học - công nghệ, mặt khác cần quan tâm tới công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. Đây chính là yêu cầu khách quan và cần thiết để đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với đường lối đổi mới, Việt Nam tham gia hội nhập thế giới, đất nước ta hiện nay đang chịu sự chi phối mạnh mẽ của bối cảnh toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá đã mở ra cho đất nước ta cơ hội để hoà nhập với quốc tế, đẩy nhanh tốc độ phát triển. Nhưng bên cạnh đó, toàn cầu hoá đang để lại cho đất nước ta những ảnh hưởng tiêu cực, nếu chúng ta không nhanh chóng giải quyết sẽ làm cản trở sự phát triển của đất nước, ảnh hưởng tới cuộc sống của nhân dân. Một trong những ảnh hưởng tiêu cực đó là sự xuống cấp của nền văn hoá, đặc biệt là trong đời sống đạo đức của nhân dân nói chung, sinh viên nói riêng. Sự xuống cấp về tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ sinh viên đang làm cho cả xã hội lo ngại. Trong thực tế đã xuất hiện một số sinh viên có nhận thức về xã hội kém, không chịu phấn đấu rèn luyện, lập trường sống không vững vàng, mờ nhạt về lý tưởng, lối sống buông thả chạy theo đồng tiền và những thị hiếu tầm thường, dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội. Thực trạng đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay là một bức tranh nhiều màu sắc. Cái tiến bộ và cái lạc hậu, mặt tích cực và mặt tiêu cực…đan xen, hoà quyện vào nhau. Để có được những nhân cách sinh viên phát triển toàn diện đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi chúng ta phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên, để họ thực sự xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2005), Tư tưởng Hồ chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Đào Trọng Dung (2006), “Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng tạo nguồn phát triển Đảng viên trong thanh niên”, Xây dựng Đảng, (số 3). 5. Ngô Văn Điểm (2004), Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp Trung ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Báo Hà Nội mới ra ngày 1/4/2002. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng trong công tác tư tưởng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ báy Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Đạo đức học (1991), Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. 20. Đại học quốc gia Hà Nội (2003), Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội. 21. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay, Báo cáo khoa học chuyên đề, Hà Nội. 22. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Điều tra tình hình tư tưởng và nhận thức chính trị của thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội. 23. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Tổng quan tình hình sinh viên, công tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VII (2003 - 2008), Hà Nội. 24. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong thời kỳ hội nhập, Kỷ yếu khoa học, Hà Nội. 25. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và các phong trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ 2002 - 2007, Hà Nội. 26. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Lịch sử phong trào sinh viên, học sinh và hội sinh viên Việt Nam(1925-2008), Nxb Thanh niên, Hà Nội. 27. Phạm Văn Đồng (1989), Chủ tịch Hồ Chí Minh tinh hoa dân tộc, lương tâm của thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Lê Quý Đức - Hoàng Chí Bảo (2007), Văn hoá đạo đức nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp, Nxb Văn hoá - Thông tin & Viện văn hoá, Hà Nội. 29. Nguyễn Tĩnh Gia (1997), “Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người quản lý”, Nghiên cứu lý luận, (2), tr. 24 - 31. 30. Trần Văn Giàu (1983), Trong dòng chủ lưu của văn hoá Việt Nam: tư tưởng yêu nước, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 31. Gbandzeladze (1985), Đạo đức học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 32. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Triết học (2006), Giáo trình: Đạo đức học (dùng cho hệ cử nhân), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I - Khoa Triết học (2008), Giáo trình: Đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Hội sinh viên Việt Nam (2009), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Hội sinh viên Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội sinh Việt Nam lần thứ VIII, Hà Nội. 35. Trịnh Duy Huy (2007), Vấn đề xây dựng đạo đức mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 36. Nguyễn Khánh (1995), "Một số vấn đề về phát triển xã hội ở nước ta hiện nay", Thông tin công tác tư tưởng, 37. Đoàn Văn Khiêm (2001), “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay”, Triết học, (2). 38. Vũ Khiêu (1974) Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 39. Trần Hậu Kiệm (1997), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Nguyễn Thế Kiệt (2001), Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và xu hướng biến động, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 42. V.I Lênin (1982), Bàn về thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 43. V.I Lênin (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. V.I Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 45. V.I Lênin (1979), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 46. C.Mác - Ph.Ăngghen (1992), Bàn về thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Toàn tập, tập 12, Nxb Sự thật, Hà Nội. 50. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Hồ Chí Minh (1976), Về đạo đức cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 53. Hồ Chí Minh (1985), Về công tác tư tưởng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 54. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Hồ Chí Minh (2000, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 56. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Hồ Chí Minh (2000, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 59. Hồ Chí Minh (2000, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 60. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 61. Trần Văn Miều (2007), “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5). 62. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 63. Lê Hữu Nghĩa, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2007), Xu thế toàn cầu hoá trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 64. Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999), Sự thay đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 65. Lê Khả Phiêu (1995), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường”, Tạp chí Cộng sản, (6). 66. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 67. Trần Văn Phòng (1997), Đạo đức cán bộ quản lý nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội. 68. S-Utkin (1962), Tiêu chuẩn đạo đức học theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Hà Nội. 69. Vietnamnet.edu.net.vn 70. Websitewww.ĐangCongsan.or.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.pdf
Luận văn liên quan