Luận văn Vận dụng cặp phạm trù khả năng và hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay

Tiềm năng biển Việt Nam là một lợi thế lớn, là niềm tự hào của đất nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tiềm năng đó vẫn chỉ là tiềm năng, nếu thiếu đi một chiến lược tổng thể, cùng những mục tiêu, biện pháp cụ thể. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) có thể nói là một công cụ dẫn đường kịp thời và đắc lực để phát huy vững chắc các tiềm năng đó

doc35 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7636 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng cặp phạm trù khả năng và hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
húc đẩy sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay và tương lai 4. đối tượng và phạm vi nghiên cứu - đối tượng nghiên cứu: Khả năng và hiện thực trong triết học Mác-lênin Việc phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay -phạm vi nghiên cứu +Về không gian: phạm vi nghiên cứu bao gồm toàn bộ vùng biển của nước ta +Về thời gian: phạm vi nghiên cứu bắt đầu từ năm 2000 trở lại cho đến nay 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac-lenin nói chung và cặp phạm trù khả năng và hiện thực nói riêng, và quan điểm của Đảng ta về việc phát triển kinh tế biển - Phương pháp nghiên cứu: tiểu luận là dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp khác như: phân tích tổng hợp, thống kê, đánh giá, 6. kết cấu của tiểu luận Tiểu luận bao gồm 3 phần: mở đầu, nội dung, danh mục tài liệu tham khảo, ngoài ra còn có trích dẫn và phục lục, trong phần nội dung tiểu luận bao gồm 3 chương 9 tiết. B NỘI DUNG CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC 1.1 KHÁI NIỆM KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC “Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên thực tế. khả năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế, nhưng sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng”[3,tr222] Khả năng là để chỉ cái hiện chưa có chưa tới nhưng sẽ tới sẽ có khi có các điều kiện thích hợp Khả năng là “ cái hiện chưa có” nhưng bản thân khả năng với tư cách là “ cái chưa có” đó lại tồn tại. tức là các sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, nhưng bản thân khả năng được đề xuất hiện sự vật đó thì tồn tại Ví dụ: trước mắt ta có đủ gỗ, cưa, bào, đục, đinh… đó là hiện thực. Từ đó nảy sinh khả năng xuất hiện một cái bàn. Trong trường hợp này sự vật này là chưa có, chưa tồn tại trên thực tế nhưng khả năng xuất hiện cái bàn thì tồn tại trên thực sự Hiện thực là phạm trù triết hóc dùng để chỉ cái tồn tại thực sự, cái đã tới đã có, hiện thực bao gồm : Hiện thực khách quan ( hay là vật chất ) tất cả những gì đang tồn tại độc lập với ý thức của con người. Hiện thực chủ quan ( hiện tượng tinh thần) nó cũng tồn tại như tồn tại trong óc của con người; ví dụ như ý thức, tu duy Như vậy dấu hiệu căn bản để phân biệt khả năng với hiện thực ở chỗ: khả năng là cái chưa có, còn hiện thực là cái hiện đang có, đang tồn tại 1.2 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. điều đó có nghĩa là trong sự vật hiện tượng đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có nhưng điều kiện lại biến thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. Điều đó thể hiện ở chỗ cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng Ví dụ: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, sau khin phân tích tình hình trong nước, tình hình thế giới và khu vực đã nhận định rằng, đất nước ta hiện nay đang “ có cả cơ hội và thách thức lớn”, những cơ hội lớn tạo điều kiện để chúng ta có khả năng “ tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực- nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý và mở rộng thị trường, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thách thức lơn đó là 4 nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và quan lieu, “ diễn biến hòa binh” do thế lực thù địch gây ra Như vậy chúng ta thấy hiện nay đang cùng tồn tại rất nhiều khả năng( cả thuận lợi, lẫn khó khăn) phát triển đất nước ta. Điều đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải thừa nhận thức rõ để chủ động tranh thủ thời cơ vượt qua thách thức đưa đất nước vững bước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện Ví dụ : nước ra vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của nhân dân còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh trang quốc tế ngày càng quyết liệt để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng sản xuất kinh doanh, trao đổi mua bán càng lớn. Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến khả năng thành hiện thực, có thể điều khiền khả năng phát triển theo chiều hướng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng. không thấy vai trò của nhân tố chủ quan của con người sẽ rơi vào sai lầm hữu khuynh chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng không được tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan mà xem thường những điều kiejn khách quan. Như vậy chúng ta rễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm duy ý chí 1.3 Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng để sinh ra chủ trương, phương hướng hành động của mình V.I Lê-nin cho rằng: “ chủ nghĩa Mác căn cứ vào những sự thật chứ không phải dựa vào những khả năng. Người macxit chỉ có thể sử dụng, để làm căn cứ cho chính sách của mình, những sự thật được chứng minh rõ rệt và không thể chối cãi được”[4,tr226] Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả năng nhưng chúng ta cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn Trong xã hội, chúng ta phải chú ý đế việc phát huy nguồn lực con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là : tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan; hai là: hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực CHƯƠNG 2: KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TRONG NÔNG NGHIỆP 2.1.1 Trong đánh bắt 2.1.1.1 khả năng Diện tích mặt biển nước ta rộng tới hơn 1 triệu km2 chính vì vậy nguồn lợi đánh bắt hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. “Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển… Riêng cá biển đã phát hiện hơn 2.000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá trị kinh tế cao với tổng trữ lượng hải sản khoảng 3- 4 triệu tấn, khả năng cho phép khai thác 1,5- 1,8 triệu tấn/năm”[5,tr30]. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi Cùng với đó là nguồn nhân lực nước ta dồi dào, đặc biệt là vùng biển nước ta, đa số là những người ở độ tuổi đang lao động, cộng với kinh nghiệm đi biển lâu đời. Với tiềm năng như vậy đánh bắt thủy hải sản thực sự có thể đem lại nguồn lợi vô cùng quan trọng cho đất nước 2.1.1.2 hiện trạng Đánh bắt hải sản là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước ta, là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam, đó là: khai thác tiềm năng nguồn lợi hải sản tạo sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tạo công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển; đảm bảo sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển. Từ năm 1993, sau khi thuỷ sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, nghề đánh bắt thuỷ sản đã có những bước phát triển đáng kể. Trong giai đoạn 1995-2005, sản lượng thuỷ sản tăng bình quân 7,7%/năm, sản lượng khai thác tăng bình quân 5%/năm, tính riêng trong năm 2011 giá trị sản lượng đánh bắt thủy hải sản của nước ta đạt khoảng 2,4 triệu tấn so với năm năm 1990 chỉ đạt 728 nghìn tấn hiện nay nước ta đã hình thành 4 ngư trường lớn trọng điểm đã được xác định đó là : “ngư trường Cà Mau – Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng – Quảng Ninh, ngư trường Hoàng Sa – Trường Sa”[6,tr100], sản lượng thủy hải sản đánh bắt được hàng năm ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước còn là nguyên liệu quan trọng trong ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu sang nước ngoài. Đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho hơn 5 vạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá. Số lượng tàu thuyền cũng tăng đều đặn qua các năm, theo thống kê trong khoảng 15 năm (1990 - 2005), tàu cá Việt Nam tăng 4,7 lần về số lượng (95.000 chiếc năm 2005 so với 41.000 chiếc năm 1990) và 5,7 lần về công suất, bình quân công suất đã vượt quá 60 CV/tàu (so với công suất bình quân 18 CV/tàu năm 1991 và 44 CV/tàu năm 2000). Tuy nhiên, nghề khai thác hải sản của Việt Nam đang đứng trước không ít khó khăn và bất cập. Sự dễ dãi tiếp cận khai thác nguồn lợi hải sản, những bất cập trong quản lý, kiểm soát khai thác và những hạn chế về tài chính, đội tàu cá Việt Nam được đầu tư phát triển theo phong trào, thiếu quy hoạch, tập trung tăng về công suất máy đẩy và tăng về số lượng dẫn đến, sau gần vài thập kỷ tập trung khai thác, nguồn lợi hải sản đã có những biến động đáng kể về mật độ sản lượng, chủng loài, kích thước… đặc biệt vùng biển ven bờ, tập trung trên 80% tổng số phương tiện nghề cá, sản lượng khai thác hằng năm chiếm từ 70 -80% tổng sản lượng hải sản của cả nước. Ba ngư trường trọng điểm là Hải Phòng-Quảng Ninh, Ninh Thuận-Bình Thuận và Cà Mau-Kiên Giang, những khu vực tập trung trên 50% tổng số phương tiện nghề cá tham gia đánh bắt hàng năm, qua kết quả khảo sát, mật độ sản lượng đều giảm. Cùng với những thay đổi về sản lượng, chủng loài hải sản cũng biến động đáng kể về mật độ, kích cỡ và ngày càng có nhiều loài trở thành quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng. Sự thay đổi trên là nguyên nhân giảm năng suất, sản lượng khai thác của nhiều nhóm nghề (khai thác cá nổi nhỏ ven bờ, cá đáy, câu cá rạn…), đồng thời tăng thời gian khai thác thực tế trên biển, thời gian tìm kiếm ngư trường, chi phí, giá thành sản phẩm… Thống kê gần đây cho thấy dấu hiệu dư thừa cục bộ phương tiện đánh bắt hải sản đã xuất hiện, công suất huy động tàu tham gia đánh bắt giảm dần, có tàu chỉ huy động khoảng 50% thời gian hoạt dộng (khai thác cá nổi, tôm biển…) Nghề cá biển thuộc nhóm nghề vất vả, tai nạn luôn rình rập, đặc biệt đối với những quốc gia nằm trong khu vực thường chịu tác động của các hiện tượng thời tiết bất thường như Việt Nam. Môi trường hoạt động khai thác hải sản rất khắc nghiệt, song đội tàu cá lại chưa được đầu tư tương thích. Trong khoảng 95.000 phương tiện nghề cá hiện nay, loại dưới 50 CV và thuyền thủ công có khoảng 64.500 chiếc, chiếm 68%, số tàu cá lắp máy từ 90 CV trở lên có khoảng 13.600 chiếc, chiếm khoảng 14,3%. Cơ cấu đội tàu cá Việt Nam hiện nay, xét về sự tương thích với ngư trường, với nguồn lợi hải sản cho thấy không có sự bất cập lớn, song chất lượng kém của vỏ, máy, các thiết bị an toàn hàng hải đã hạn chế thời gian hoạt động hữu ích trong năm. Từ năm 1997, thực hiện Chương trình đánh bắt cá xa bờ, Nhà nước đã đầu tư 1.300 tỷ đồng đóng 1.292 chiếc tàu đánh bắt xa bờ, tuy nhiên cho đến nay Chương trình này bị đánh giá là không hiệu quả. Ngoài ra, chất lượng đội tàu, lao động trên tàu còn nhiều bất cập nên số vụ tai nạn tàu cá trên biển có xu hướng ngày càng tăng. Thống kê chưa đầy đủ, trong vòng 15 năm gần đây, mỗi năm trên các vùng biển xảy ra khoảng 500 vụ tai nạn tàu cá, gây thiệt hại đáng kể về người và tài sản, chỉ riêng ba tháng cuối năm 2006 và hai tháng đầu năm 2007 có gần 400 vụ, trong đó hơn 50% vụ tàu bị hỏng máy, vỏ bị phá nước. Bên cạnh đó, tàu cá bị các nước trong khu vực bắt, bị cướp biển trong những năm gần đây là vấn đề phức tạp, không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ láng giềng giữa Việt Nam và các quốc gia vùng biển giáp ranh, mà tác động trực tiếp đến tâm lý ngư dân tham gia đánh bắt hải sản. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ 1999 đến 2002 cả nước đã có 274 tàu thuyền bị các nước lân cận bắt. Những vất vả vốn có của nghề đánh bắt hải sản và những thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của đất nước đã tác động không nhỏ đến nghề đánh bắt hải sản, đòi hỏi nghề này sớm được cải thiện để phát triển bền vững. 2.1.2 Trong nuôi trông 2.1.2.1 khả năng Với diện tích mặt biển rộng tới hơn 1 triệu km2 và với 3260km bờ biển thì nước ta hoàn toàn có thể phát triển nuôi trồng thủy hải sản thêm nữa là vùng biển nước ta năm trong vùng khí hậu nhiệt đới cho nên biển nước ta còn có hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái cỏ biển, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái đảo, hệ sinh thái bờ đá… trong các dạng hệ sinh thái này, tính đa dạng sinh học rất cao, tiềm năng nuôi trồng thủy hải sản nước lợ, nước mặn trong các vùng cửa sông, đầm phá, vũng vịnh là rất lớn trong đó tiềm năng diện tích nuôi trồng thủy hải sản nước ta ước tính đạt 2 triệu km2 và dọc ven biển có trên 37 vạn héc ta mặt nước các loại có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như tôm, cua, rong câu… Riêng diện tích nuôi tôm nước lợ có tới 30 vạn ha. Ngoài ra còn hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ như Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn Phong… là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển. Với tiềm năng trên, trong tương lai có thể phát triển mạnh ngành nuôi, trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại với sản lượng hàng chục vạn tấn/ năm. 2.1.2.2 hiện trạng Bên cạnh đánh bắt hải sản, nuôi trồng hải sản cũng đem lại nhiều giá trị cao về kinh tế, tính tổng giá trị nuôi trồng thủy hải sản nước ta năm 1990 chỉ đạt 162 nghìn tấn ,thì đến năm 2005 tổng sản lượng giá trị đạt 1478 nghìn tấn, và ước tính tổng sản lượng nuôi trồng thủy hải sản nước ta năm 2011 đạt tới 2,5 triệu tấn. Cùng với đó giống loài thủy sản nuôi phong phú, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm hùm, cá song, cá giò, cá cam, cá hồng, cá đù đỏ, cua, ghẹ, hải sâm, bào ngư, nuôi trai lấy ngọc, nuôi ngao, nghêu, hầu, trồng rong sụn, nuôi sứa đỏ và san hô... Trước tình trạng nguồn lợi hải sản đang suy kiệt, ngư dân đã chuyển từ khai thác sang nuôi trồng thủy sản ở biển với nhiều hình thức đa dạng. Nhà nước đã ban hành các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo. Nhà nước phân cấp cho ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao, cho thuê đất và mặt nước biển cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu sử dụng mặt nước biển, đất trên đảo để nuôi trồng hải sản, tạo điều kiện để nhà đầu tư tự quản lý đất mặt nước, yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Nhà nước đã đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho quy hoạch nuôi hải sản trên biển, hải đảo; cho nhập khẩu giống gốc một số loài đặc sản sạch bệnh có giá trị kinh tế cao, quý hiếm và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo đòi hỏi công nghệ sản xuất cao và nuôi thương phẩm hải sản trên biển và hải đảo; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật; ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác khuyến ngư nuôi hải sản; hỗ trợ các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu của các vùng nuôi hải sản biển. Ngân hàng chính sách, các tổ chức tín dụng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đủ điều kiện vay vốn nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiều biện pháp hỗ trợ lãi suất vốn vay, ưu tiên bố trí nguồn vốn cho vay của Quỹ quốc gia về việc làm cho các dự án nuôi trồng hải sản khả thi. Kết quả là, trong những năm qua, nuôi trồng hải sản đã phát triển khá mạnh ở nhiều địa phương trên cả nước. “Thí dụ, chỉ tính riêng hình thức nuôi lồng bè, trong giai đoạn 2006-2010, tổng số lồng bè nuôi hải sản trên biển đã tăng lên hơn 1,6 lần. Năm 2006, tổng số lồng bè nuôi trên biển là 23.989 chiếc, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là 19.912 chiếc, nuôi cá biển là 4.077 chiếc. Năm 2010 tổng số lồng bè nuôi tôm, cá trên biển đã tăng đến 38.965 lồng, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là 30.115 lồng, nuôi cá là 8.850 lồng. Sản lượng nuôi lồng bè nước mặn năm 2006 chỉ đạt 5.635 tấn, năm 2004 đạt hơn 16.000 tấn”[7,tr128]. Thủy sản nuôi trên biển có chất lượng và giá trị hàng hóa cao, có thị trường tiêu thụ rộng mở, được khách hàng thế giới ưa thích. Vì vậy, hải sản nuôi trên biển có đóng góp quan trọng cho xuất khẩu của nước ta. Bên cạnh nuôi trồng hải sản tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, nước ta cũng đã sản xuất được giống một số loài như cá giò, cá song chấm nâu, cá sú chấm (cá Hồng Mỹ), cá vược, bào ngư, ốc hương, cua... và chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cho nhiều địa phương phát triển sản xuất. Việc phát triển nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo giúp các tổ chức, giúp người dân có cơ hội đầu tư phát triển, góp phần điều chỉnh nghề khai thác ven bờ bằng phương tiện thủ công sang nuôi trồng thủy sản biển (nhất là người dân ở các xã nghèo vùng bãi ngang ven biển, hải đảo), bảo vệ và phát triển được nguồn lợi thủy sản. Nuôi trồng thủy sản biển còn giúp người dân có điều kiện tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, thay đổi cơ cấu kinh tế; góp phần bảo vệ an ninh vùng biển và hải đảo. Ngành thủy sản dự kiến đến năm 2010 nuôi cá biển ở nước ta ước đạt khoảng 200.000 tấn, nuôi nhuyễn thể đạt 380.000 tấn, rong biển đạt 50.000 tấn khô, đuổi kịp và vượt các nước tiên tiến trong khu vực và vùng lãnh thổ về trình độ nuôi hải sản trên biển. Tuy nhiên, nuôi trồng hải sản nước ta hiện nay mới tập trung vào một số doanh nghiệp, xí nghiệp liên doanh và các hộ có vốn lớn, sản xuất mang tính tự phát ở một số vùng ven biển; còn đại bộ phận người dân ven biển chưa có sự hiểu biết và điều kiện tham gia nuôi trồng hải sản trên biển. Việc sử dụng diện tích mặt nước biển để nuôi hải sản chưa đáng kể, việc giao, cho thuê mặt nước biển còn nhiều bất cập, sản lượng nuôi chưa nhiều, giống loài thủy sản tham gia sản xuất còn ít, giá trị kim ngạch xuất khẩu so với tiềm năng hiện có còn thấp. Chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ và xây dựng cơ sở hạ tầng hầu như chưa có gì đáng kể để phục vụ yêu cầu sản xuất, đã làm hạn chế phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo. 2.1.3 Trong sản xuất muối 2.1.3.1 khả năng Với đường bờ biển dài 3260km trong đó có 29 tỉnh thành phố giáp biển, không những vậy vùng biển nước ta mà đặc biệt là biển miền trung thường có độ mặn cao, bên cạnh đó nguồn lực tham gia vào sản xuất muối vô cùng lớn, với điều kiện này nước ta hoàn toàn có thể phát triển ngành muối và đem lại những giá trị to lớn về kinh tế 2.1.3.2 hiện trạng Nghề làm muối là một nghề có truyền thống lâu đời của Việt Nam, gắn chặt với biển và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết. Trong những năm qua, mặc dù điều kiện thời tiết không thuận, song nhờ những bước tiến mới trong công tác quy hoạch, đầu tư sản xuất muối, đặc biệt là muối công nghiệp, cho nên nghề muối Việt Nam đã phần nào giảm bớt những khó khăn. Cả nước hiện nay có 20 tỉnh thành có nghề sản xuất muối biển với tổng diện tích hơn 12 nghìn ha và sản lượng bình quân đạt từ 800 nghìn tấn đến 1,2 triệu tấn muối/năm, tạo việc làm cho hơn 90 nghìn lao động. Hiện nay, ngành muối Việt Nam đang tích cực triển khai các dự án xây dựng đồng muối công nghiệp, đổi mới công nghệ sản xuất muối, nhất là công nghệ sản xuất muối sạch, nhằm thực hiện được mục tiêu đến năm 2010 đạt 1,5 triệu tấn muối và đến năm 2020 đạt 2 triệu tấn, trong đó các đồng muối công nghiệp đảm bảo 53 – 67% tổng sản lượng muối tiêu thụ. Hoạt động đầu tư về vốn, công nghệ sản xuất trên đồng muối có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng xã hội hoá. Ngoài nguồn vốn xây dựng cơ bản của ngành nông nghiệp dành để đầu tư một số dự án về muối, ngành muối đang tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dự án sản xuất, chế biến, tiêu thụ muối công nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang đẩy mạnh cổ phần hoá toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước trong ngành muối; xây dựng chính sách đầu tư cho vùng muối để đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng muối của nhân dân, ngành Công nghiệp và các ngành khác. Tuy nhiên, hiện nay ngành muối chưa hội tụ đủ các yếu tố để phát triển ổn định và bền vững vì nhiều nguyên nhân: diện tích quy hoạch các vùng sản xuất muối luôn bị thay đổi; một số địa phương vùng biển lại không mặn mà với nghề muối, đời sống của diêm dân nhiều vùng bấp bênh, vì diện tích đất dành cho sản xuất muối lớn, nhưng nguồn thu cho ngân sách lại không nhiều, nên lãnh đạo địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến việc chỉ đạo và tạo nguồn vốn đầu tư phát triển ngành này cũng như hỗ trợ cho diêm dân; nhiều sức ép cạnh tranh, nhất là về chất lượng và giá cả, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Hiện tại, phần lớn diện tích, sản lượng, lao động đang duy trì phương pháp sản xuất muối truyền thống đã có từ hàng trăm năm nay với phương tiện lạc hậu, thao tác thủ công, quy mô nhỏ, phân tán, cho nên năng suất và chất lượng sản phẩm thấp. Nhiều chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với ngành muối trong thời gian qua hiệu lực thấp, bất cập và thiếu đồng bộ, như chính sách mua muối theo giá sàn, chính sách cho dân vay vào thời điểm giáp vụ để mua sắm  vật tư, chuẩn bị sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất qua chủ trương xây dựng các mô hình hợp tác xã muối kiểu mới, đầu tư chiều sâu nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất để tăng năng suất, sản lượng..., tất cả đều chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ ràng và tích cực. Sự vào cuộc của nhà nước còn chậm nhiều nơi chính quyền địa phương lo đầu ra cho sản phẩm muối phần nhiều còn mang tính hình thức. Chẳng hạn, việc giao cho UBND các địa phương công bố giá sàn mua muối cho diêm dân ngay từ đầu vụ sản xuất là không khả thi vì UBND không đủ thông tin và căn cứ để đưa ra giá sàn hợp lý có tương quan với giá muối các địa phương bạn trên cùng khu vực và cả nước 2.2 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TRONG CÔNG NGHIỆP 2.2.1 tiềm năng và hiện trạng khai thác dầu khí nước ta 2.2.1.1Tiềm năng Dầu khí là một nguồn tài nguyên quan trọng mà bất ky một quốc gia nào muốn sở hữu, bởi dầu khí là một tài nguyên năng lượng quan trọng để duy trì hoạt động sản xuất của mỗi quốc gia, trong đó chỉ tính riêng dầu mỏ là nguyên liệu trực tiếp hay gián tiếp cho sự hoạt động của hơn 50 ngành công nghiệp khác nhau, và khí đốt cũng là nhiên liệu quan trọng để sản tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp, cũng là năng lượng quan trọng để phục vụ đời sống của nhân dân cho nên dầu khí là tài nguyên đặc biệt quan trọng của nước ta và dầu khí là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng nhất trên vùng biển và thềm lục địa Việt Nam Qua tìm kiếm thăm dò cho đến nay, các tính toán dự báo đã khẳng định tiềm năng dầu khí Việt Nam tập trung chủ yếu ở thềm lục địa, trữ lượng khí thiên nhiên có khả năng nhiều hơn dầu. Với trữ lượng đã được thẩm định, nước ta có khả năng tự đáp ứng được nhu cầu về sản lượng dầu khí trong những thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ 3. “Tổng tiềm năng dầu khí tại các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Cửu Long, Ma lay - Thổ Chu, Vùng Tư Chính - Vũng Mây... đã được xác định tiềm năng và trữ lượng đến thời điểm này là từ 0,9 đến 1,2 tỷ m3 dầu và từ 2.100 đến 2.800 tỷ m3 khí. Trữ lượng đã được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỷ m3 khí”[8,tr232]. Trữ lượng khí đã được thẩm lượng, đang được khai thác và sẵn sàng để phát triển trong thời gian tới vào khoảng 400 tỷ m3. Với các biện pháp đồng bộ, đẩy mạnh công tác tìm kiếm - thăm dò, năm 2010 khoảng từ 40 đến 60% trữ lượng nguồn khí thiên nhiên của nước ta đã được phát hiện. 2.2.1.2 thực trạng khai thác dầu khí nước ta hiện nay Ngành dầu khí Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển đầy ý nghĩa kể từ khi dòng dầu đầu tiên được khai thác ở mỏ dầu Bạch Hổ vào năm 1986. Trước đó nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc nặng nề vào các sản phẩm dầu mỏ nhập khẩu từ Liên bang Xô Viết. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ ba về sản lượng dầu mỏ trong các quốc gia Đông Nam Á, chỉ sau Inđônêsia và Malaysia. Nếu tốc độ phát triển hiện tại tiếp tục được duy trì, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn thứ 30 trên thế giới.tính đến năm 2011 nước ta đã khai thác được 15 triệu thùng dầu thô, cùng với 8,5 tỷ tấn khí đốt, giá trị chiếm 20% GDP của cả nước.Hiện nay, ngành Dầu khí nước ta đang khai thác dầu khí chủ yếu tại 6 khu mỏ bao gồm: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bunga Kekwa - Cái Nước và chuẩn bị chính thức đưa vào khai thác mỏ khí Lan Tây - lô 06.l. Công tác phát triển các mỏ Rạng Đông, Ruby và Emeral, Lan Tây - Lan Đỏ, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Hải Thạch, Rồng Đôi, Kim Long, Ác Quỷ, Cá Voi... đang được triển khai tích cực theo chương trình đã đề ra, đảm bảo duy trì và tăng sản lượng khai thác dầu khí cho những năm tới..Sản xuất và tiêu thụ khí đốt tự nhiên của Việt Nam đang tăng lên và dự kiến còn tăng thêm nữa khi có thêm các mỏ được đưa vào khai thác. Tuy nhiên, dầu và khí đốt nằm khá sâu 3.000 – 4.000 m dưới lòng đất nên việc tìm kiếm và khai thác dầu khí là việc rất khó khăn, cần nhiều vốn, kinh nghiệm và trình độ kỹ thuật cao. Cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam có các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Hiện có 25 công ty dầu khí nước ngoài từ 13 quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam, trong khuôn khổ 27 dự án khác nhau. Các công ty dầu khí nước ngoài đã đầu tư hơn 7 tỷ USD vào Việt Nam. Có nhiều đối tác nước ngoài đã làm việc với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) trong nhiều thập kỷ. Trong số đó, có liên doanh Vietsopetro giữa Petro Vietnam với công ty Zarubezhneft của Nga, hiện đang hoạt động tại các mỏ Bạch Hổ ở ngoài khơi phía Nam. Những công ty dầu khí thượng nguồn nước ngoài hàng đầu khác ở Việt Nam bao gồm Conoco Phillips, BP, Petronas, Chevron, Tập đoàn Dầu lửa Quốc gia Hàn Quốc, và Talisman Energy. Những công ty này hoạt động với tư cách là nhà thầu cho Petro Vietnam và chia sản lượng dầu khai thác được theo thỏa thuận. Về chế biến dầu khí, Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất (tỉnh Quảng Ngãi) với số vốn đầu tư 2,5 tỷ USD và công suất 50 triệu thùng/năm, và đang tiến hành xây dựng một số dự án khác như: dự án Polypropylen, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, nhà máy đạm Cà Mau, tổ hợp hóa dầu phía Nam. Tuy nhiên, nhìn chung phần lớn các dự án này đều đang bị chậm tiến độ. Đến nay, Việt Nam mới chỉ có Nhà máy Đạm Phú Mỹ hoàn thành và đang hoạt động bình thường với công suất tối đa 740.000 tấn/năm. 2.2.3 tiềm năng và thực trạng các tài nguyên phục vụ cho công nghiệp khác 2.2.3.1 tiềm năng Ngoài tài nguyên dầu khí là tài nguyên quan trọng trên biển thì trên biển nước ta còn nhiều tài nguyên khoáng sản khác Các loại sa khoáng ven bờ như ilmenit với trữ lượng dự đoán khoảng 13 triệu tấn; cát thủy tinh, trữ lượng ước tính hàng trăm tỷ tấn. Ngoài ra, còn một khối lượng lớn vật liệu xây dựng khổng lồ có thể được khai thác từ đáy biển (cát sạn sỏi cho xây dựng hoặc san lấp) để thay thế cho nguồn này trên lục địa đang bị cạn kiệt dần. Ngoài ra còn có cát thủy tinh ở Vân Hải (Quảng Ninh), Ba Đồn (Quảng Bình), Cam Ranh (Khánh Hòa), v.v.. với trữ lượng nhiều tỷ tấn. Trên sườn lục địa - chân lục địa và đáy biển sâu còn có tiểm năng các kết hạch sắt - mangan, bùn đa kim rất đáng kể mà đến nay chưa thể xác định được trữ lượng. Một loại khoáng sản khác rất có triển vọng trong trầm tích đáy biển Việt Nam được các nhà địa chất mới phát hiện trong thời gian gần đây là khí cháy (Hydrat methan) 2.2.3.2 hiện trạng Tài nguyên biển nước ta nói chung và tài nguyên khoáng sản biển nước ta nói riêng vô cùng đa dạng và phong phú, với những tài nguyên khoáng sản biển sẵn có thì đây là một nguồn lực quan trọng thúc đẩy nền công nghiệp đất nước, tuy vậy hầu hết tài nguyên khoáng sản biển đều ở dạng tiềm năng, hầu như là chưa khai thác, bởi lẽ các tài nguyên khoáng sản biển nước ta mới phát hiện và vẫn ở dạng tiềm năng, chưa khảo sát hết toàn bộ giá trị, thêm nữa với trình độ khoa học kỹ thuật còn kém, và các tài nguyên này thường năm sâu dưới đáy biển, cho nên việc khai thác còn nhiều trở ngại, vì vậy đây vẫn là một tiềm năng vô cùng lớn cho nước ta đầu tư phát triển ngành khai khoáng biển trong giai đoạn mới 2.3 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VỀ DU LỊCH BIỂN 2.3.1 tiềm năng phát triển du lịch biển nước ta Tài nguyên du lịch biển cũng là một ưu thế đặc biệt, mở ra triển vọng khai thác tổng hợp để phát triển mạnh, với đường bờ biển dài 3260km với một hệ thống các đảo và quần đảo trải dài từ bắc trí Nam, thêm với đó vùng biển nước ta năm trong vùng biển khí hậu nhiệt đới, nước biển ấm, tài nguyên sinh vật biển đa dạng với hàng nghìn loài động thực vật biển tạo nên muôn hình muôn vẻ cho biển, thêm với đó địa hình bờ biển của nước ta rất đa dạng và độc đáo do được phát triển trên các loại đất đá khác nhau trong điều kiện khí hậu có sự phân hóa rõ rệt theo chiều bắc - nam. Trên bờ biển của nước ta lại có nhiều mũi đá nhô ra sát biển tạo nên các hoành sơn thiên nhiên tráng lệ, như Đèo Ngang, đèo Hải Vân, Đèo Cả. Đó là địa hình karst phát triển trên đá vôi ở vịnh Hạ Long và Bái Tử Long ở Hòn Đỏ (Ninh Thuận), địa hình “karst giả” phát triển trên cát đỏ ở khu vực Suối Tiên - Mũi Né (Bình Thuận), “karst giả” phát triển trên đá granit ở khu vực mũi Kê Gà và một số nơi khác của tỉnh khác ở Trung Bộ. Các vách đá hùng vĩ ở mũi Đá Vách, mũi Đại Lãnh, đèo Hải Vân, phát triển trên đá bazan ở Phú Yên. Có nhiều bãi tắm đẹp với cát mịn và sạch rải rác từ Trà Cổ (Móng Cái, Quảng Ninh) đến Bãi Nai (Hà Tiên, Kiên Giang) và nhiều bãi tắm còn rất hoang sơ trên các đảo (Ngọc Vừng, Quan Lạn ở Quảng Ninh; Hòn La ở Quảng Bình, Côn Đảo, Phú Quốc, v.v.). Đường bờ biển của nước ta lại rất khúc khuỷu. lại được các đảo che chắn (vịnh Hạ Long và Bái Tử Long), có nhiều vũng vịnh (Vũng Áng, vịnh Đà Nẵng, An Hòa, Dung Quất, Quy Nhơn, Xuân Đài, Vũng Rô, Vân Phong, v.v.) và nhiều cửa sông lớn đổ trực tiếp vào Biển Đông, với nhưng tiềm năng sẵn có nước ta hoàn toàn có thể phát triển du lịch biển lên một tầm cao mới trên thế giới 2.3.2 hiện trạng ngành du lịch biển nước ta Du lịch và giải trí biển là một lĩnh vực hoạt động kinh tế không mới ở nước ta. Tuy nhiên, trong khoảng 10 năm trở lại đây, đặc biệt từ năm 2000, du lịch và nghỉ dưỡng cũng như giải trí biển đã được mở rộng đáng kể. Hiện nay, nước ta có nhiều trung tâm du lịch biển quan trọng có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên tuyến du lịch quốc tế Đông Nam Á, như: Vũng Tàu, Phan Thiết, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Quảng Ninh... Một số loại hình du lịch biển mới cùng đã được dưa vào nước ta như lướt ván, thuyền buồm, v.v. Song, tắm biển vẫn là hình thức phổ biến nhất, bởi vì dọc theo chiều dài bờ biển nước ta ở đâu cũng có bãi cát từ bãi Trà Cổ (Móng Cái, Quảng Ninh) đến Bãi Nai (Hà Tiên, Kiên Giang). Doanh thu từ du lịch và số lượt khách du lịch người nước ngoài (du lịch nói chung) cũng tăng theo thời gian. “ Doanh thu từ du lịch nói chung trong giai đoạn 2000 - 2006 tăng lên gần 5 lần: năm 2000 là 3.458,5 tỷ đồng, năm 2006 là 16.732,0 tỷ đồng. Còn số lượt khách nước ngoài đã vượt con số 2 triệu kể từ năm 2005. Vùng biển và ven biển của Việt Nam tập trung tới ba phần tư khu du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề của cả nước’’[9,tr332]. Hàng năm, vùng biển thu hút 73% số lượt khách du lịch quốc tế, với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 12,6%/ năm, và thu hút hơn 50% số lượt khách du lịch nội địa, với tốc độ tăng trưởng bình quân 16%/năm. Có thể nói những tuyến điểm du lịch biển Vũng Tàu, Nha Trang, Phú Quốc, Phan Thiết, Hạ Long... không thua kém hoặc có thể nói vượt trội về độ hấp dẫn so với những tuyến điểm biển nổi tiếng ở Đông Nam Á như Pattaya, Phuket, Ko-Samui (Thái Lan), Bali (Inđônêsia)... Thời gian gần đây, nhiều địa phương có lợi thế biển đã và đang chọn mô hình phát triển du lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn, tăng nguồn thu, giải quyết công ăn việc làm, là động lực thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế đầu tư, thương mại, văn hóa, xã hội. Hệ thống cơ sở lưu trú vùng ven biển không ngừng tăng lên, đặc biệt số lượng những cơ sở lưu trú từ 3 sao trở lên phần lớn tập trung ở các địa phương ven biển. Theo thống kê, vùng ven biển có gần 1.400 cơ sở lưu trú với trên 45.000 buồng. Đội ngũ lao động du lịch vùng ven biển hiện chiếm khoảng 65% tổng số lao động trực tiếp làm du lịch của cả nước, tập trung nhiều nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu (trên 60%); Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng (8,5%); Hải Phòng - Quảng Ninh (8,1%). Bên cạnh đó, sự phát triển của du lịch biển còn tạo việc làm gián tiếp cho 60 vạn lao động là các dân cư ven biển. Nhiều nhà đầu tư du lịch lớn quốc tế đã và đang chọn Việt Nam làm địa điểm đầu tư. Sản phẩm du lịch bắt đầu đa sắc, không chỉ còn gói gọn loại hình nghỉ dưỡng mà mở rộng sang du lịch kết hợp tìm hiểu văn hóa lịch sử truyền thống, thể thao, hội nghị hội thảo, tổ chức sự kiện quy mô hơn. Nguồn khách quốc tế đến bằng đường biển đang tăng lên. Sắp tới có thêm những hãng tàu du lịch quốc tế khác đến nước ta, trong đó Saigontourist đã ký thỏa thuận với một hãng tàu du lịch lớn Hoa Kỳ mở tour du lịch đường biển hành trình Bắc - Nam. Tuy nhiên, việc khai thác những lợi thế của vùng biển cho phát triển du lịch còn nhiều hạn chế. Trong một thời gian dài, tỷ trọng khách du lịch, thu nhập từ du lịch biển so với du lịch cả nước không có sự thay đổi đáng kể, mặc dù vùng ven biển là lãnh thổ có nhiều thuận lợi hơn những vùng lãnh thổ khác về tài nguyên du lịch. Du lịch biển Việt Nam vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch. Năm 2006, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam bằng đường biển chỉ chiếm khoảng trên 6% trong tổng lượt khách quốc tế. Thời gian neo đậu của tàu du lịch ở các cảng chỉ từ 8 đến 24 giờ, do đó, khách không có nhiều cơ hội tham quan, giải trí mua sắm. Nguyên nhân được các chuyên gia đưa ra là hiện nay ở Việt Nam hầu hết các cảng biển là cảng hàng hóa, chưa có cảng chuyên biệt cho tàu du lịch. Nhiều tàu có trọng tải lớn không thể cập bờ và phải di chuyển khách bằng canô hoặc tàu du lịch mất nhiều thời gian, giảm hứng thú cho du khách. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền và quảng bá về du lịch biển Việt Nam lâu nay chưa được quan tâm đúng mức. Du lịch Việt Nam chưa tham gia các hội nghị, hội chợ chuyên về du lịch biển và du lịch tàu biển trên thế giới. Một vấn đề đáng quan tâm nữa là hiện nay có không ít địa phương do nóng vội đã đưa ra các chiến lược phát triển thiếu tính bền vững, gây trùng lắp, thiếu quy hoạch chi tiết phù hợp để bảo vệ môi trường và văn hóa bản địa, tính thương mại hóa quá cao, trong khi đáng lẽ phải tìm ra sự khác biệt, bản sắc riêng của du lịch biển. 2.4 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VỀ GIAO THÔNG ĐƯỜNG BIỂN 2.4.1 tiềm năng phát triển giao thông biển Như đã nói, vùng biển - đảo nước ta hoàn toàn nằm trong vùng nhiệt đới và có diện tích rộng tới khoảng 3,5 triệu km2, quanh năm nước không đóng băng. Đây chính là điều kiện để giao thông - thương mại phát triển. Biển Việt Nam nói riêng và Biển Đông nói chung nằm ở vị trí có nhiều tuyến đường biển quan trọng của khu vực cũng như của thế giới, giữ một vai trò rất lớn trong vận chuyển lưu thông hàng hóa thương mại phục vụ đắc lực cho xây dựng nền kinh tế của nước ta cũng như các nước quanh bờ Biển Đông. Biển Việt Nam nối thông với nhiều hướng, từ các hải cảng ven biển của Việt Nam thông qua eo biển Malakka để đi đến Ấn Độ Dương, Trung Đông, Châu Âu, Châu Phi qua eo biển Basi có thể đi vào Thái Bình Dương đến các cảng của Nhật Bản, Nga, Nam Mỹ và Bắc Mỹ; qua các eo biển giữa Philippin, Indonesia, Singappor đến Australia và New Zealand, v.v.. Đây là điều kiện rất thuận lợi để ngành giao thông vận tải biển nước ta phát triển, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới 2.4.1 hiện trạng phát triển giao thông biển nước ta Như đã trình bày ở phần trước, nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển. Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và cảng sông với khoảng trên 90 cảng lớn nhỏ và được phân bố tương đối đều dọc theo bờ biển từ bắc vào nam. Hệ thống cảng biển của nước ta được chia thành 6 nhóm: nhóm cảng biển phía bắc (cảng Hải Phòng, Cái Lân, Cửa Ông, Hòn Gai,), Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ (các cảng quan trọng là Nghi Sơn, Vũng Áng), Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi gồm các cảng chính Hòn La, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất) nhóm cảng biển Nam Trung Bộ (từ Bình Định đến Bình Thuận có cảng Quy Nhơn, Nha Trang, tương lai là Vân Phong) Nhóm cảng vùng Đông nam Bộ (cảng Sài Gòn, Vũng Tàu - Thị Vải và cảng Cái mép đang xây dựng), nhóm cảng đồng bằng sông Cửu Long. Trong những năm vừa qua vận tải hàng hóa bằng đường biển đã tăng lên đáng kể từ 7.306.900 tấn năm 1995 tăng lên 15.552.500 tấn năm 2000 và 42.639.400 tấn năm 2006. Như vậy tổng lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển trong 12 năm qua (1995 - 2006) đã tăng gần 6 lần. Trong 10 năm qua, đội tàu biển quốc gia Việt Nam đã có những bước phát triển đáng khích lệ, bình quân tăng gần 10%/năm về số lượng tàu và trên 10%/năm về trọng tải. Tuy nhiên, đội tàu của Việt Nam còn tương đối nhỏ bé, đặc biệt là so với các nước trong khu vực. Thí dụ, Singapore chỉ có khoảng 900 tàu các loại, song tổng trọng tải lên tới 37000 tấn; Inđônêsia có 718 tàu với trọng tải 4,3 triệu DWT, thậm chí trọng tải của đội tàu của Campuchia còn lớn hơn trọng tải đội tàu của nước ta tới gần 1 triệu DWT. Với chiến lược đầu tư không rõ ràng, manh mún, không bền vững, đội tàu Việt Nam cũng kém đa dạng. Trong khi thế giới đang ngày càng chú trọng đến việc phát triển các thế hệ tàu biển có sức chở lớn cũng như các tàu chuyên dụng thì các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có phần lớn các tàu vận tải hàng khô với trọng tải nhỏ, chủ yếu không quá 20.000 tấn. Xu hướng vận tải của thế giới hiện nay là hàng container, trong khi đội tàu container của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2% số lượng tàu với 7% số tấn trọng tải. Trong tổng số trên 1.000 tàu của đội tàu quốc gia chỉ có hơn 300 tàu hoạt động tuyến quốc tế và chủ yếu chỉ làm nhiệm vụ trung chuyển hàng hóa đến các cảng lớn trong khu vực như Singapore, Malaysia, Hồng Kông, Hàn Quốc để đưa lên tàu lớn đi các các châu lục khác.. Tóm lại, năng lực cạnh tranh của đội tàu biển Việt Nam thấp, không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực, thậm chí thua ngay trên sân nhà. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU CỦA ĐẢNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1 Phương hướng chỉ đạo của Đảng phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay Ngày 22-9-1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời với việc tiếp tục nhấn mạnh chủ trương lớn xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển, phát triển kinh tế - xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu cầu bảo vệ đất nước, Đảng và Nhà nước xác định cần đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương tác với các vùng và trong xu thế hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với xu hướng chung về tăng cường phát triển kinh tế biển của các quốc gia có biển trên thế giới và để tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển phục vụ yêu cầu phát triển, Hội nghị Trung ương 4 (khoá X) của Đảng đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Từ những văn kiện này, quan điểm chung về phát triển kinh tế biển của Việt Nam hiện nay và những năm tới được xác định như sau: Một là, xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển, có cơ cấu kinh tế hiện đại, thực sự làm động lực thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển. Tạo ra một sự kết hợp giữa kinh tế ven biển, kinh tế trên biển và kinh tế hải đảo với các khu vực nội địa để đưa đất nước phát triển nhanh, ổn định và bền vững. Hai là, tiếp tục mở cửa, hợp tác quốc tế mạnh mẽ để phát triển kinh tế biển và vùng ven biển một cách toàn diện. Phát huy triệt để và có hiệu quả các nguồn lực bên trong, kết hợp với tranh thủ sự hợp tác và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài theo nguyên tắc cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, hội nhập. Ba là, coi phát triển kinh tế biển và vùng ven biển là động lực để lôi kéo, thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. Kinh tế biển và vùng ven biển là "hạt nhân" tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển và vùng ven biển với bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái, tái tạo và phát triển các nguồn tài nguyên biển, bảo đảm sự phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường sống của vùng biển, ven biển và các hải đảo. Từ chủ trương đó, những mục tiêu chủ yếu của kinh tế biển được xác định: Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh trong đó Thứ nhất, mở rộng phạm vi khai thác biển, nhằm góp phần đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế biển và vùng ven biển. Mở rộng quy mô và nâng cao hơn tỷ trọng GDP của kinh tế biển và ven biển, qua đó đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế vững mạnh về biển với tỷ trọng kinh tế biển đạt từ 53% - 55% GDP. Xây dựng cơ cấu ngành nghề hiện đại, phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện cơ cấu kinh tế biển và vùng ven biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ hai, nâng tỷ trọng xuất khẩu của kinh tế biển và vùng ven biển trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hình thành một số ngành và sản phẩm mũi nhọn, tạo nguồn tích lũy lớn cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời có giá trị xuất khẩu cao và ổn định. Thứ ba, phát triển nhanh kinh tế - xã hội ở một số trung tâm đô thị ven biển và hải đảo, làm căn cứ hậu cần đủ mạnh để khai thác các vùng biển khơi. Trên cơ sở đó, nâng cao mọi mặt đời sống kinh tế, văn hoá của cư dân vùng biển, giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo. Theo quy hoạch, đến năm 2020, kinh tế hàng hải sẽ đứng thứ hai và sau năm 2020, sẽ đứng đầu trong 5 lĩnh vực phát triển kinh tế biển và góp phần củng cố quốc phòng, an ninh. Riêng khu kinh tế ven biển đóng góp vào tổng GDP của cả nước khoảng 15% - 20% và tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho khoảng 1,3 - 1,5 triệu người. 3.2 giải pháp phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay Về kinh tế - xã hội  Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển; phát triển khoa học - công nghệ biển; xây dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với phát triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng tuyến đường ven biển, trong đó có một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc trên biển. Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế để ra biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Đến năm 2020, phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển gồm: khai thác, chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải sản; phát triển du lịch biển và kinh tế hải đảo; xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Trước mắt, sẽ tập trung đầu tư phát triển du lịch biển, xây dựng cảng biển, phát triển công nghiệp đóng tàu, phát triển những ngành dịch vụ mũi nhọn như vận tải biển, các khu kinh tế ven biển; tạo các điều kiện cần thiết bảo đảm an ninh, an toàn cho người dân hoạt động, sinh sống trên biển, đảo và ở những vùng thường bị thiên tai.  Về chiến lược quốc phòng và an ninh đối ngoại Phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc gắn với thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ trang, nòng cốt là hải quân, không quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển mạnh, làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần kinh tế sản xuất và khai thác tài nguyên biển. Sớm xây dựng chính sách đặc biệt để thu hút và khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra đảo định cư lâu dài và làm ăn dài ngày trên biển, phát triển kinh tế kết hợp làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.  Về phát triển khoa học công nghệ biển Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, phục vụ hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng khoa học - công nghệ, phục vụ công tác điều tra cơ bản, dự báo thiên tai và khai thác tài nguyên biển; nhanh chóng nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ cho nghiên cứu và khai thác tài nguyên biển, đáp ứng được yêu cầu giai đoạn phát triển mới của đất nước. Về xây dựng kết cấu hạ tầng biển  Phát triển mạnh hệ thống cảng biển quốc gia, xây dựng đồng bộ một số cảng đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đặc biệt chú trọng các cảng nước sâu ở cả ba miền của đất nước, tạo những của mở lớn vươn ra biển thông thương với thế giới. Tăng cường đầu tư chiều sâu, cải tiến đồng bộ và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, sớm khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ kỹ thuật - công nghệ các cảng; tăng nhanh năng lực bốc xếp hàng hoá, giảm thiểu tối đa chi phí, bảo đảm có sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sớm hoàn chỉnh khai thác có hiệu quả hệ thống sân bay ven biển, xây dựng tuyến đường ven biển và đường cao tốc Bắc - Nam trên biển v.v… Đánh giá chung: Tiềm năng biển Việt Nam là một lợi thế lớn, là niềm tự hào của đất nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tiềm năng đó vẫn chỉ là tiềm năng, nếu thiếu đi một chiến lược tổng thể, cùng những mục tiêu, biện pháp cụ thể. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) có thể nói là một công cụ dẫn đường kịp thời và đắc lực để phát huy vững chắc các tiềm năng đó Cùng với sự chỉ đạo, lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành, quản lý hiệu quả của nhà nước; cần có sự nỗ lực nhiều hơn nữa của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương và toàn dân để có thể nhanh chóng biến mục tiêu thành hiện thực. Với một chiến lược biển tổng thể, đúng đắn và phù hợp, cùng với quyết tâm cao của các cấp, các ngành và toàn dân, nhất định chúng ta sẽ khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng biển đẹp, giàu của đất nước, góp phần quan trọng và xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc C DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Đỗ Văn Chiến Sách kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2011 NXB Thống Kê 2 Nguyễn Địch Dỹ (Chủ biên), Vũ Cao Minh, Trần Minh, Đinh Văn Thuận, Mai Thành Tân, 1995. Các kiểu đường bờ biển Việt Nam. Hà Nội, NXB Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam 3 Đảng Cộng Sản Việt Nam văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khóa X (2/2007) NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nôi,2007 4 5 Phùng Ngọc Đĩnh, Tài nguyên Biển Đông Việt Nam. NXB Giáo Dục 6 GS.TS Nguyễn Ngọc Long- GS.TS. Nguyễn Hữu Vui Giáo Trình Triết Học Mác-lenin NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 2006 7 PGS.TS Vũ Văn Phái Biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam, quá khứ, hiện tại và tương lai, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội 8 PGS.TS Vũ Văn Phái, 2007. Cơ sở địa lý tự nhiên biển và đại dương. NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội 9 Đoàn Thiên Tích, 2009. Dầu khí Việt Nam. NXB Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh 10 11 Lê Thông (tổng chủ biên) Địa lí 12 NXB Giáo Dục 12 Niêm giám thống kê 2006 , NXB bản thống kê TRÍCH DẪN 1. Đảng Cộng Sản Việt Nam văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khóa X (2/2007) 2. Các kiểu đường bờ biển Việt Nam Nguyễn Địch Dỹ (Chủ biên), Vũ Cao Minh, Trần Minh, Đinh Văn Thuận, Mai Thành Tân, 1995 3. Giáo Trình Triết Học Mác-lenin GS.TS Nguyễn Ngọc Long- GS.TS. Nguyễn Hữu Vui 4. Giáo Trình Triết Học Mác-lenin GS.TS Nguyễn Ngọc Long- GS.TS. Nguyễn Hữu Vui 5. Biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam, quá khứ, hiện tại và tương lai PGS.TS Vũ Văn Phái 6. Địa lí 12 Lê Thông ( tổng chủ biên) 7. kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2011 Đỗ Văn Chiến 8. Dầu khí Việt Nam Đoàn Thiên Tích 9. Niêm giám thống kê 2006 PHỤC LỤC A MỞ ĐẦU 1. lý do chọn đề tài 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5. Cơ sở Lý luận và phương pháp nghiên cứu 6. Kết cấu của tiểu luận B NỘI DUNG CHƯƠNG 1: Lý Luận chung về cặp phạm trù khả năng và hiện thực 1.1 Khái niệm cặp phạm trù khả năng và hiện thực 1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù khả năng và hiện thực 1.3 Ý nghĩa phương pháp luận CHƯƠNG 2: Khả năng và hiện trạng trong việc phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay 2.1 Khả năng và hiện trạng việc phát triển kinh tế biển trong nông nghiệp 2.2 Khả năng và hiện trạng việc phát triển kinh tế biển trong công nghiệp 2.3 Khả năng và hiện trạng việc phát triển kinh tế biển về du lịch biển 2.4 Khả năng và hiện trạng việc phát triển kinh tế biển về giao thông đường biển CHƯƠNG 3: Phương hướng chỉ đạo, mục tiêu của Đảng và giải pháp phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay 3.1 Phương hướng chỉ đạo của Đảng phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay 3.2 giải pháp phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_triet_hoc_7018.doc
Luận văn liên quan