Nhận thức được tầm quan trọng nói trên, từ lâu và nhất là trong giai đoạn đổi
mới hiện nay ở nước ta, việc nghiên cứu vấn đề sở hữu và vận dụng vào công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thu hút được sự chú ý đông đảo các nhà nghiên cứu
và bước đầu đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, một mặt do sở hữu là
một vấn đề phức tạp, trên phương diện lý luận, nhiều lĩnh vực vẫn chưa được làm
sáng rõ; mặt khác, thực tiễn quá trình biến đổi sở hữu nước ta thời gian qua đã và
đang đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải làm rõ về mặt cơ sở lý luận: quá trình
chuyển biến từ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng đã và đang diễn ra thường
xuyên và phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước tình hình đó, tôi chọn:
“Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta” làm đề tài
luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.
107 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2495 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp có vai trò hết sức to lớn, đó là động lực trực tiếp
thúc đẩy quá trình sản xuất nền nông nghiệp hàng hóa theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn, hiện đại.
Để thực hiện mục tiêu trên, cần tăng cường nghiên cứu, áp dụng các thành quả
mới nhất của khoa học và công nghệ, nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực
tại chỗ, cung cấp kịp thời các tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, các quy trình sản
xuất tiên tiến vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Đối với các chủ thể sản xuất chế biến và tiêu thụ nông sản (nông hộ, trang
trại, hợp tác xã, doanh nghiệp) được hỗ trợ kinh phí, hoặc trợ giá một phần cho việc
đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.
Thực hiện chính sách ưu đãi về các loại thuế, mức lãi suất tín dụng… như
không điều tiết thuế thu nhập trong những năm đầu đối với nguồn thu do ứng dụng
thành công tiến bộ khoa học và công nghệ, giảm lãi suất tín dụng đối với nguồn vốn
vay đầu tư cho việc ứng dụng khoa học và công nghệ. Miễn, giảm thuế cho các tổ
chức hoạt động ứng dụng khoa học và công nghệ vào các hợp tác xã và hộ nông
dân.
Miễn giảm một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện
mạng lưới cán bộ làm nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến việc ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ đến nông dân.
Tăng cường đội ngũ cán bộ hợp tác xã, cán bộ quản lý cấp xã về kiến thức
khoa học và công nghệ để triển khai có hiệu quả các chương trình dự án về ứng
dụng tiến bộ khoa học công nghệ ở nông thôn. Trên cơ sở đó giúp cho hợp tác xã
trở thành cầu nối thực sự giữa cơ quan nghiên cứu khoa học với nông hộ, trang trại
nhằm nâng cao hiệu quả quá trình chuyển giao khoa học và công nghệ vào thực tiễn
sản xuất.
Tăng cường đầu tư kinh phí cho các cơ sở hoạt động nghiên cứu khoa học phục
vụ nông nghiệp từ khâu giống đến phương pháp canh tác, sản xuất và sử dụng phân
bón, thuốc trừ sâu phù hợp yêu cầu phát triển bền vững của nền nông nghiệp sinh thái,
trên cơ sở phát huy các lợi thế của nông nghiệp nước ta.
Tăng cường hoạt động của các trung tâm khuyến nông trong việc hướng dẫn,
phổ biến, sử dụng phương pháp canh tác mới đến hộ nông dân thông qua các tổ
chức kinh tế hợp tác. Đồng thời tăng cường quan hệ giữa các cơ quan nghiên cứu
khoa học với các tổ chức kinh tế hợp tác, các trung tâm khuyến nông để rút ngắn
thời gian chuyển giao, áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất.
Về chính sách thị trường
Thị trường có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển nền nông nghiệp
hàng hóa tiến lên sản xuất lớn hiện đại. Trong nhiều trường hợp, thị trường là yếu tố
cơ bản quyết định chiến lược phát triển sản xuất từng loại nông sản phẩm.
Khi đặt vấn đề phát triển sản xuất một loại sản phẩm nào đó, trước hết các
chủ thể sản xuất nông nghiệp buộc phải tính đến việc trả lời câu hỏi: ai là khách
hàng của nó, hay thị trường tiêu thụ ở đâu? Quá trình sản xuất nếu không gắn với
thị trường sẽ lâm vào trình trạng sản xuất “mù quáng”, vô định, “mò mẫm” và do
vậy thất bại là điều khó tránh. Bởi vậy, nhằm tạo điều kiện cho nền nông nghiệp
hàng hóa phát triển, nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình hình
thành đồng bộ các loại thị trường, bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu
ra, thị trường địa phương, thị trường thống nhất cả nước và thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó nhà nước cũng cần đầu tư cho việc hình thành hệ thống các cơ
quan nghiên cứu, dự báo, nắm bắt nhu cầu thị trường nông sản trên thế giới và trong
nước nhằm tư vấn, xây dựng chiến lược phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, tạo
ra những nông sản chủ lực, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Đồng thời, các cơ quan này
còn phải làm tốt nhiệm vụ thông tin, tư vấn, giúp đỡ kinh tế hộ và kinh tế trang trại
giá đình hình thành thói quen của người sản xuất hàng hóa.
Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu nông
sản hàng hóa, đặc biệt là phát triển đa dạng các hình thức tiêu thụ nông sản. Trước
hết là phát huy vai trò của hợp tác xã làm dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hóa cho
kinh tế hộ, kinh tế trang trại.
Về chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ hợp tác xã và đào tạo nghề cho lao
động nông thôn
Trước nhiệm vụ to lớn của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, trong thời gian tới phải gấp rút phát triển nguồn nhân lực cho
nông nghiệp, nông thôn. Bởi vì, hiện nay, trình độ cán bộ hợp tác xã còn thấp nhiều
so với yêu cầu, số chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn. Đây là một khó khăn lớn cho
việc thực hiện chủ trương phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong điều kiện hiện
nay. Do vậy, từ cấp Trung ương đến địa phương cần có đề án cụ thể về công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã. Trước hết là chủ nhiệm, kế toán trưởng và trưởng
ban kiểm soát hợp tác xã.
Trong thời gian tới, Nhà nước cần hỗ trợ 100% kinh phí đào tạo. Đồng thời
có sự phân cấp đào tạo từ Trung ương đến địa phương. Cùng với công tác đào tạo
cán bộ hợp tác xã, cần coi trọng khâu sử dụng cán bộ hợp tác xã phù hợp với trình
độ năng lực của họ nhằm đảm bảo tính thiết thực và có hiệu quả
Cần coi trọng đúng mức khâu đào tạo lao động nông thôn. Hiện nay, lao động
nông thôn đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp, lực lượng lao động trẻ ở nông thôn chưa
qua đào tạo chiếm tới hơn 60%. Bởi vậy, việc đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động
nông thôn phải được coi là chương trình quốc gia. Trước mắt, bằng ngân sách nhà
nước thông qua các chương trình, dự án và người lao động tự đóng góp để nhanh
chóng nâng cao trình độ lao động nông thôn.
3.2. TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TY CỔ PHẦN NHẰM THỰC HIỆN XÃ
HỘI HOÁ SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT
TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Nâng cao hiệu quả kinh tế ở các doanh nghiệp công hữu là là nội dung trọng
yếu của cải cách kinh tế ở Việt Nam, nhất là từ khi chúng ta xác định xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Làm thế nào để kinh tế công
hữu phát triển lớn mạnh trong điều kiện kinh tế thị trường luôn luôn là một vấn đề
lý luận và thực tiễn trọng đại mà chúng ta phải đối mặt. Cổ phần hóa được coi là
một trong những biện pháp, là con đường ngắn nhất và hiệu quả để thực hiện cải
cách chế độ công hữu ở nước ta.
Ở Việt Nam, sự xuất hiện của công ty cổ phần còn khá mới mẻ, nhưng đối
với nền kinh tế thế giới nó đã xuất hiện từ khoảng giữa thế kỷ XVIII. Trong quá
trình phát triển, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ làm xuất hiện
những lĩnh vực kinh doanh mới cần có quy mô vốn lớn, do yêu cầu của sự cạnh
tranh buộc các nhà tư bản nhỏ thỏa hiệp, liên minh với nhau để tập trung tư bản cá
biệt thành tư bản lớn, đủ sức giành ưu thế trên thị trường, từ đó hình thành những
công ty cổ phần, với chủ sở hữu không phải là một mà là nhiều cá nhân có vốn tham
gia. Sự xuất hiện của các công ty cổ phần là mở đầu của việc phủ định chế độ sở
hữu tư bản tư nhân.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các hình thức tổ chức kinh tế
hết sức đa dạng và phong phú, trong đó phổ biến và quan trọng nhất là công ty cổ
phần. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng đang có
những yêu cầu khách quan đòi hỏi sự hình thành và phát triển các công ty cổ phần
trong nền kinh tế. Cụ thể là:
Thứ nhất, hiện nay thiếu vốn đang là vấn đề gay cấn và bức bách nhất đối
với hầu hết các đơn vị sản xuất kinh doanh ở nước ta. Nhu cầu mở rộng thị trường,
đổi mới công nghệ đều đòi hỏi nguồn vốn to lớn và kịp thời. Công ty cổ phần là một
tổ chức kinh tế thích hợp để giải quyết vấn đề đó. Công ty cổ phần là công cụ có thể
huy động được vốn nhanh chóng, với quy mô lớn. Thông qua phát hành cổ phiếu,
trái phiếu, công ty cổ phần có thể huy động được những khoản tiền nhàn rỗi, tản
mạn trong xã hội để tập trung lại đầu tư vào những công trình đòi hỏi nguồn vốn
lớn, dài hạn mà từng cá nhân, doanh nghiệp không thể làm nổi.
Thứ hai, công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro nhằm hạn chế
những tác động tiêu cực về kinh tế - xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng
khủng hoảng.
Thứ ba, công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến trong nền
kinh tế thị trường, có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn
thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Do công ty cổ phần có ưu điểm lớn nên chúng ta không chỉ tiến hành cổ
phần hóa ở các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước mà còn cần thiết có chính sách
khuyến khích thành lập các công ty cổ phần trong tất cả các lĩnh vực công nghiệp,
thương mại, dịch vụ,v.v.. Việc khuyến khích các tổ chức kinh tế thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau thành lập công ty cổ phần là rất phù hợp với hoàn cảnh nước
ta hiện nay, bởi vì hình thức tổ chức kinh tế này không những đem lại hiệu quả kinh
tế cao mà nó còn là hình thức, để khi thấy cần thiết, nhà nước có thể dễ dàng thâm
nhập vào nó, điều tiết nó theo định hướng của mình bằng cách góp vốn mua cổ
phiếu với tỷ lệ khống chế.
Để đẩy mạnh cổ phần hóa, cần thực hiện các giải pháp sau:
Các giải pháp tuyên truyền, giáo dục đổi mới nhận thức về cổ phần hóa,
giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước:
Qua phân tích các yếu tố cản trở, làm sai mục tiêu quá trình cổ phần hóa và
các biện pháp tái cấu trúc khác, yếu tố hàng đầu là chưa thống nhất hành động bắt
nguồn từ nhận thức của các bên tham gia vào quá trình này. Nhận thức chưa đúng
về cổ phần hóa và các biện pháp tái cấu trúc khác mang tính phổ biến ở cả bốn
nhóm đối tác tham gia: các cơ quan lãnh đạo, các cơ quan chức năng quản lý nhà
nước, lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động.
Vì vậy, thời gian tới cần phải tuyên truyền làm rõ những vấn đề sau đây để
có nhận thức thống nhất:
Thứ nhất, cổ phần hóa và các biện pháp tái cấu trúc khác chắc chắn không
làm mất đi kinh tế nhà nước, ngược lại, chắc chắn nó sẽ góp phần làm cho doanh
nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn, qua đó góp phần tích cực để doanh
nghiệp nhà nước thực hiện đúng vai trò của mình.
Thứ hai, bản thân mô hình công ty cổ phần là một hình thức sở hữu công cộng về
tư liệu sản xuất, do vậy mô hình này là phù hợp cho phát triển chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Điều này đã được C.Mác khẳng định cách đây hơn 100 năm khi phân tích mô hình
công ty cổ phần.
Thứ ba, những cản trở xuất phát từ lợi ích có tính cục bộ của ngành, địa
phương, tổng công ty, doanh nghiệp cần phải khắc phục để đảm bảo lợi ích toàn cục
của nền kinh tế.
Các giám đốc và cán bộ lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước cần
phải thông hiểu và thực thi chủ trương cổ phần hóa, bất kể về mặt lợi ích cá nhân họ
có lợi hay không. Tuy nhiên, để tránh các xáo trộn không cần thiết, cần có chính
sách thỏa đáng đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước trước khi doanh
nghiệp tiến hành cổ phần hóa, không được để tình trạng cán bộ lãnh đạo doanh
nghiệp gây cản trở cổ phần hóa như ở nhiều doanh nghiệp hiện nay.
Đối với người lao động ở các doanh nghiệp trong diện cổ phần hóa, tâm lý
chung của đại đa số là không muốn cổ phần hóa do mất đi tính an toàn khá lớn về công
ăn việc làm. Tuy nhiên, phải tuyên truyền cho người lao động hiểu rằng, trong nền kinh
tế thị trường, những đặc quyền hiện có của người lao động ở doanh nghiệp nhà nước sẽ
dần mất đi và thay vào đó là chế độ sử dụng lao động chung cho mọi loại hình doanh
nghiệp. Các biện pháp giáo dục, tuyên truyền, kết hợp cho họ tham quan thực tế ở
những doanh nghiệp đã cổ phần hóa thành công…sẽ giúp người lao động nhiệt tình
hưởng ứng các giải pháp tái cấu trúc. Mặt khác, chế độ, chính sách cho người lao động
cũng phải rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu để khắc phục sự nghi ngờ, thiếu niềm tin của họ.
Như vậy, để đẩy nhanh cổ phần hóa, ngoài việc ban hành các nghị quyết và
nghị định còn phải chú ý hơn nữa trong việc thống nhất quan điểm, phát động
phong trào, vận động tư tưởng, đi đôi với các biện pháp tổ chức cán bộ hiệu quả thì
mục tiêu cổ phần hóa mới có hy vọng sớm hoàn thành.
Cần lưu ý rằng, trong một số văn bản nghị quyết của Đảng ta có khẳng định
chủ trương “cổ phần hóa” của Việt Nam không phải là “tư nhân hóa” và yêu cầu các
cấp, các ngành không được biến cổ phần hóa thành tư nhân hóa doanh nghiệp nhà
nước. Chủ trương này cho đến nay vẫn còn đúng và hoàn toàn có giá trị thời sự. Tư
nhân hóa muốn ám chỉ ở đây là lợi dụng cổ phần hóa để nhanh chóng chuyển các
doanh nghiệp nhà nước vào tay tư nhân thao túng. Tuy nhiên, thực hiện chủ trương
này, cũng cần khắc phục xu hướng cực đoan, sợ cổ phần hóa là tư nhân hóa, từ đó
do dự hoặc thậm chí cản trở quá trình cổ phần hóa. Về mặt học thuật, nếu hiểu tư
nhân hóa theo nghĩa rộng thì nó có nghĩa: chuyển sở hữu thuần túy của nhà nước
sang sở hữu công cộng của các cá nhân và nhà nước, thực chất là chuyển sở hữu tư
nhân về vốn thành sở hữu công cộng hỗn hợp giữa cá nhân với nhà nước về các tài
sản. Nếu hiểu như vậy thì cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa mà là một hình
thức lôi cuốn sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng hỗn hợp giữa nhà nước với tư
nhân. Đó là một hình thức thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước, dùng kinh tế nhà
nước để đưa tư nhân vào quỹ đạo của kinh tế nhà nước.
Những giải pháp vĩ mô của Nhà nước:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX đã tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 3 khóa IX về các giải pháp vĩ mô của Nhà nước trong việc đẩy mạnh cổ
phần hóa.
Thứ nhất, để thực hiện thành công, đúng thời hạn đề án sắp xếp lại cần phải
trao mạnh quyền hơn nữa cho các cấp bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, hội đồng quản trị
các tổng công ty 91 trong lựa chọn hình thức cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê,
giao doanh nghiệp hoặc chuyển chúng thành đơn vị sự nghiệp, sự nghiệp có thu.
Việc quyết định doanh nghiệp nào nhà nước cần giữ cổ phần chi phối cũng nên giao
cho các cấp bộ, ngành, địa phương, không nên khống chế quá chặt và cấp quyết
định quá cao như hiện nay.
Thứ hai, đẩy mạnh cổ phần hóa các tổng công ty lớn, có uy tín trên thị
trường. Biện pháp này đã được đưa ra tại Hội nghị Trung ương 9 khóa IX, nhưng để
thực hiện nhanh trên thực tế, cần có các biện pháp rất cụ thể của Chính phủ và các
bộ liên quan. Do vậy, cần đưa các chỉ tiêu về tiến độ, danh mục các công ty cần cổ
phần hóa vào kế hoạch thực hiện của Chính phủ và giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ
trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Thứ ba, khẩn trương làm các thủ tục giao đất và tính giá trị quyền sử dụng
đất vào giá trị doanh nghiệp. Mặc dù đây là giải pháp có tính kỹ thuật, nhưng trong
điều kiện về thể chế đất đai hiện nay, thẩm quyền và tính phức tạp của nó vượt xa ra
ngoài khuôn khổ kỹ thuật. Các cấp quản lý và quy hoạch phải nhanh chóng xác định
doanh nghiệp nào được nhận quyền sử dụng đất, doanh nghiệp nào sử dụng đất
không đúng mục đích cần phải thu hồi.
Những giải pháp kỹ thuật
Xét về khía cạnh kỹ thuật, cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh
nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường là những hoạt động mang tính kỹ thuật
mua bán - trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc thị trường. Do đó, việc thực hiện các
biện pháp này phụ thuộc vào ba yếu tố: người bán, người mua và thể chế thực hiện.
Song nếu không quan tâm đúng mức sẽ dẫn tới sự thất thoát lớn tài sản nhà nước.
- Về phía người bán cổ phần doanh nghiệp nhà nước
Thực tiễn quá trình cổ phần hóa vừa qua cho thấy cả dư luận và các cơ quan
quản lý nhà nước đều quá lo ngại tới hiện tượng thất thoát tài sản nhà nước qua các
hoạt động cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê. Hơn nữa, quá trình định giá theo
Nghị định 28/CP và 44/CP cũng cho thấy, nhiều doanh nghiệp khi đã cổ phần hóa
hoặc đã định giá quá thấp do chính sách và phương pháp định giá hiện nay mang
nặng tính chủ quan, không theo nguyên tắc thị trường. Dưới góc độ tổ chức thực
tiễn, có thể kết luận rằng, khó có thể có phương án cổ phần hóa nào mà chủ sở hữu
nhà nước tận dụng được toàn bộ giá trị từ việc bán tài sản doanh nghiệp. Ngay cả ở
những nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Anh, Pháp với rất nhiều tổ chức
định giá chuyên nghiệp, lành nghề mà nhiều khi việc định giá doanh nghiệp vẫn có
sai sót dẫn đến thất thoát tài sản. Do đó, cần chấp nhận quan điểm thu hồi giá trị vốn
nhà nước có tính tương đối, tất nhiên thể chế cổ phần hóa phải cụ thể loại bỏ các
hành vi câu kết nhằm biển thủ tài sản của Nhà nước.
Phương thức định giá theo kiểu hội đồng của nước ta hiện nay tỏ ra không phù
hợp, vừa mất thời gian vừa không chính xác. Trong thời gian tới, trên cơ sở rút kinh
nghiệm các biện pháp đã áp dụng và áp dụng thử nghiệm, phải kiên quyết và triệt để
tiến hành định giá doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường khi tái cấu trúc. Các biện
pháp sau đây cần được nghiên cứu áp dụng:
Thứ nhất, về xử lý nợ, các biện pháp xử lý nợ trong thời gian tới cần phải
kiên quyết, triệt để và bài bản hơn theo hướng sau: sửa đổi các văn bản pháp quy để
đổi mới thể chế xử lý nợ tồn đọng; nhanh chóng phân loại doanh nghiệp nhà nước
xét theo tiêu chí xử lý nợ để các công ty mua bán nợ tiến hành thủ tục mua lại nợ,
tạo điều kiện lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp; gấp rút ban hành hạn mức vay
nợ nước ngoài, chấm dứt tình trạng nợ nước ngoài của doanh nghiệp quá lớn và nhà
nước phải là người trả thay.
Thứ hai, những doanh nghiệp lớn, có uy tín, có thể bán ngay cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán thì phải triệt để sử dụng thị trường chứng khoán trong định giá
doanh nghiệp. Kinh nghiệm xác định giá trị cổ phần của công ty Vinamilk đã minh
chứng cho khả năng hiện thực và ý nghĩa của giải pháp này. Ngoài ra, khi xác định
giá trị, phải có sự tham gia của các công ty chuyên nghiệp về định giá. Đối với
doanh nghiệp nhỏ, không có tiếng tăm, khó định giá bằng các phương pháp chuyên
gia, nên chăng cần thành lập một số trung tâm bán đấu giá tài sản doanh nghiệp để
có môi trường định giá thị trường các loại tài sản không có đối chứng. Cũng có thể
đấu giá qua cung cách cổ đông tự bỏ giá mua cổ phần. Thậm chí cần phải chấp nhận
có những doanh nghiệp nhà nước không thể giao cho ai, bán cho ai thì phải giải thể,
phá sản theo luật và đem tài sản bán đấu giá để giải quyết các nghĩa vụ tài chính của
doanh nghiệp. Ở đây cũng cần học tập kinh nghiệm của nhiều nước trong xử lý các
doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, sau khi đối chiếu so sánh giá trị còn lại với các
khoản nợ phải trả, trách nhiệm đối với công nhân viên, có thể chỉ cần bán với giá trị
tượng trưng - thực chất là cho không để nghiệp vụ bán diễn ra đúng luật, đồng thời
vẫn thực hiện được các mục tiêu khác.
Thứ ba, do nhà nước là người bán đặc biệt, không chỉ cần bán được doanh
nghiệp nhà nước với đúng giá trị để thu hồi vốn, chuyển từ sở hữu hiện vật sang sở hữu
vốn bằng tiền để nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực khác. Ngoài ra sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước còn phải đáp ứng các yêu cầu như ổn định nền kinh tế, ổn định xã hội,
chính trị, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động. Cho nên, đối với những doanh
nghiệp nhỏ không thể cổ phần hóa hoặc bán, cần mạnh dạn áp dụng giải pháp giao
doanh nghiệp nhà nước cho những người có thực lực, có khả năng đem lại sức sống
mới cho doanh nghiệp nhà nước. Những chủ thể có thực lực phải là người có vốn, có
kinh nghiệm, có những mối quan hệ làm ăn, đảm bảo được các cam kết khi nhận giao
doanh nghiệp. Tuy nhiên qua nghiên cứu kinh nghiệm tư nhân hóa của quốc tế, qua
thực tiễn thực hiện Nghị định 103/CP về giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp,
trong thời gian tới chỉ nên áp dụng hình thức bán đứt doanh nghiệp, bãi bỏ các hình
thức giao, khoán, cho thuê toàn bộ doanh nghiệp nhà nước.
- Xác định rõ quyền, nghĩa vụ và điều kiện của người mua.
Hiện nay đa số người mua cổ phần là cán bộ và người lao động trong doanh
nghiệp, số cổ đông bên ngoài rất ít. Thực trạng đó là do hai nguyên nhân cơ bản:
giới quản lý doanh nghiệp nhà nước lo ngại người ngoài doanh nghiệp (nhất là nhà
đầu tư nước ngoài có thực lực) mua nhiều cổ phiếu sẽ có khả năng điều khiển, trở
thành chủ của công ty; Nhà nước có chính sách bán cổ phiếu ưu đãi giảm giá cho
người lao động trong doanh nghiệp. Tình trạng bán nội bộ này làm cho các công ty
cổ phần sau cổ phần hóa vẫn không năng động hơn mà hoạt động vẫn theo cung
cách quản lý cũ, hiệu quả khó cải thiện triệt để. Điều này càng đúng đối với các
công ty cổ phần mà Nhà nước sở hữu trên 50% cổ phần. Trong khi đó, điều lệ công
ty khi cổ phần hóa hoặc điều kiện bán cổ phần không có ràng buộc cụ thể, điều đó
dẫn đến khả năng cổ phần được mua bán lại trên thị trường thứ cấp không chính
thức gây nên những tranh chấp rất phức tạp trong tổ chức quản trị công ty hậu cổ
phần hóa. Do vậy để đảm bảo đạt được các mục tiêu của tái cấu trúc doanh nghiệp,
cần mở rộng tỷ lệ số cổ phần bán cho các cổ đông ngoài doanh nghiệp; đồng thời,
nếu nhu cầu xã hội lớn mà doanh nghiệp không thuộc diện đặc biệt thì không nên
khống chế mức giữ lại sở hữu nhà nước. Song song với biện pháp trên, cần quy định
rõ điều kiện sở hữu cổ phần, trách nhiệm, nghĩa vụ của người mua, đặc biệt là trong
trường hợp bán toàn bộ cổ phần doanh nghiệp ra ngoài.
Ngoài ra, không nên coi những người mua cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước
cổ phần hóa là cổ đông sáng lập. Một mặt, Nhà nước có vai trò nhất định thông qua
đại diện phần vốn của mình ở công ty cổ phần để đảm bảo không có sự lừa đảo các
cổ đông trong việc phát hành cổ phiếu. Mặt khác, những người có cổ phần lớn, có
tư cách sáng lập phải được quy định rõ ràng và cam kết trách nhiệm vật chất theo
luật doanh nghiệp, điều này phải được ghi cụ thể trong điều lệ doanh nghiệp. Tất cả
các cổ đông tự do, phải được quyền chuyển nhượng cổ phiếu.
- Về thể chế thực hiện cổ phần hóa và chuyển đổi sở hữu
Cổ phần hóa hay giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước đều cần
thể chế thực hiện. Lâu nay ở Việt Nam vẫn làm cổ phần hóa theo kiểu hành chính,
tức là đơn phương tổ chức và đưa ra giá từ phía Nhà nước với sự tư vấn của hội
đồng định giá. Cách làm này gây ra nhiều dư luận bất bình khi cách định giá khá tùy
tiện. Về lâu dài, để người bán, người mua dễ dàng, thuận lợi trong việc thực hiện
chuyển đổi cần thực hiện đồng bộ các loại thị trường với các trung tâm giao dịch
chuẩn hóa cho phép cung cấp các thông tin tin cậy. Đồng thời phải phát triển đồng bộ
các loại hình dịch vụ thị trường đầu tư, tư vấn tài chính, các tổ chức định giá, các tổ
chức buôn bán chứng khoán… để hỗ trợ doanh nghiệp khi chuyển đổi. Trước mắt,
do nước ta chưa thể hình thành ngay các loại dịch vụ này cho nên cần các giải pháp
trung gian như hình thành các công ty mua bán nợ, khuyến khích công ty đầu tư
chứng khoán mở rộng dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, có cơ
chế bắt buộc doanh nghiệp nhà nước phải phối hợp với các công ty này trong việc
định giá doanh nghiệp…Có thể áp dụng ngay giải pháp thuê các công ty tư vẫn
quốc tế đối với những trường hợp khó. Hoặc cũng có thể áp dụng cơ chế bỏ thầu giá
đối với các cổ đông chọn lọc trên cơ sở các tài liệu do chính các tổ chức chuyên
môn của doanh nghiệp soạn thảo, có kiểm toán độc lập và lấy đó làm giá tham chiếu
để xác định giá bán cho người mua.
Tóm lại, cần áp dụng triệt để những nguyên tắc thị trường vào cơ chế thực
hiện chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế thị trường sẽ giúp tổ chức triển
khai và định giá nhanh hơn, công bằng hơn, dễ được xã hội chấp nhận hơn, bảo đảm
được không làm thất thóat tài sản của nhà nước, duy trì và nâng cao được sức sống,
sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Đồng thời, cần tuân thủ nguyên tắc công khai,
minh bạch quá trình bán cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hóa cũng như quá
trình chuyển giao doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức giao, bán, khoán, cho thuê.
3.3. ĐA DẠNG HOÁ CÁC LOẠI HÌNH KINH TẾ TƯ BẢN NHÀ
NƯỚC, TẬP TRUNG ƯU TIÊN PHÁT TRIỂN NHỮNG LOẠI HÌNH PHÙ
HỢP VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, đa dạng hóa các loại hình kinh tế tư bản nhà nước là một trong những giải
pháp quan trọng đẩy nhanh xu hướng chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng
về tư liệu sản xuất.
Đa dạng hóa các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước là đa dạng hóa các
hoạt động đầu tư trên cơ sở phát huy nguồn lực của nhà nước để khai thác các tiềm
năng phong phú trong nước và ngoài nước, đặt nó trong cơ cấu thúc đẩy lẫn nhau,
tạo điều kiện cho nhau tăng trưởng. Việc mở rộng các hình thức chủ nghĩa tư bản
nhà nước nhằm để thực hiện mục tiêu chung: tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý tiên tiến, tạo việc làm, tận dụng các nguồn lực trong nước, tăng thu ngân
sách, đẩy mạnh xuất khẩu,…Tuy nhiên không thể đạt được tất cả các mục tiêu đó
trong mỗi một hình thức cụ thể. Do đó, cần phải mở rộng tất cả các hình thức chủ
nghĩa tư bản nhà nước nhằm khai thác tối đa ưu thế của mỗi loại hình để phát triển
kinh tế đất nước.
Về cơ bản, trong điều kiện nước ta hiện nay, hướng chủ yếu để lựa chọn và
mở rộng các loại hình chủ nghĩa tư bản nhà nước là:
Hình thức liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với tư bản nước ngoài:
Trong điều kiện của nước ta hiện nay như đã phân tích ở phần thực trạng,
mặc dù trong thời gian thu hút đầu tư nước ngoài, liên doanh là hình thức được ưa
chuộng nhất so với các hình thức khác và là hình thức thu hút vốn nhiều nhất.
Nhưng trên thực tế, trong thời gian gần đây, hình thức xí nghiệp liên doanh đang
bộc lộ những giới hạn của nó. Điều đó cho thấy không phải lúc nào hình thức liên
doanh cũng phù hợp và có thể đạt hiệu quả như mong muốn, nhất là trong tình hình
vốn góp và cán bộ là những điểm yếu của ta hiện nay. Vì vậy, chúng tôi cho rằng
việc xây dựng ồ ạt các xí nghiệp liên doanh, thậm chí vội vã lập các liên doanh giữa
các doanh nghiệp nhà nước với các đối tác nước ngoài vừa yếu về năng lực tài
chính, vừa kém về phẩm chất càng làm cho liên doanh kém hiệu quả, dẫn đến thất
thoát tài sản của nhà nước. Phải lấy việc bảo toàn và phát triển vốn, sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực trong nước làm mục tiêu chứ không chạy theo số lượng liên
doanh. Những năm đầu khi chưa kịp đào tạo cán bộ, còn thiếu cán bộ tốt, có năng
lực, Nhà nước thiếu vốn và để tập trung tốt hơn cho những liên doanh có hiệu quả
thì cần hạn chế tỷ lệ xí nghiệp liên doanh giữa nhà nước với các nhà đầu tư nước
ngoài và nên khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn của tư nhân trong và
ngoài nước dưới hình thức tô nhượng hay cho thuê đất và các tư liệu sản xuất khác
của Nhà nước. Khuyến khích hình thức liên doanh giữa tư bản tư nhân trong nước
với tư bản nước ngoài với những dự án vừa và nhỏ trong các lĩnh vực mà nhà nước
không cấm.
Trước mắt, để hạn chế thiệt hại và nâng cao hiệu quả của xí nghiệp liên doanh
trong điều kiện hiện nay ở nước ta cần phải thực hiện một số công việc sau:
- Lựa chọn kỹ các doanh nghiệp nhà nước liên doanh với nước ngoài. Khi
chọn các đối tác tham gia liên doanh cần lưu ý: những doanh nghiệp nào nếu thuộc
những ngành có sản phẩm tiêu thụ trong nước, vốn liếng và công nghệ không quá
sức. Những ngành có những sản phẩm đã từ lâu có chỗ đứng vững chắc trên thị
trường trong nước thì nhà nước không nên cho liên doanh. Công ty bia Sài Gòn là
một thí dụ điển hình minh chứng cho chủ trương đúng đắn này. Đây là một nhà máy
mà gần như toàn bộ thiết bị mới bên trong từ nhà xưởng đến dây chuyền sản xuất
đều do công nhân nhà máy tạo nên. Mặc dù không liên doanh với nước ngoài nhưng
từ lâu sản phẩm của nhà máy đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường nên công
suất hàng năm tăng lên đáng kể, nộp ngân sách ngày càng cao.
- Phải tìm hiểu và nhận thức rõ đối tác bên ngoài. Muốn quản lý có hiệu quả
thì phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc về đối tượng của mình, không thể chỉ dựa vào
kinh nghiệm. Những hạn chế về kết quả trong hợp tác liên doanh vừa qua, một phần
cũng do chúng ta chưa nhận rõ đối tác bên ngoài. Thông thường khi nói về nguyên
tắc liên doanh hai bên cùng có lợi, nhưng trong thực tế những năm qua, nguyên tắc
này chưa được thực hiện. Nhìn chung, nước ngoài có lợi nhiều mặt, còn phía Việt
Nam thua lỗ không ít. Rất nhiều liên doanh, chính phía nước ngoài đã cạnh tranh,
lợi dụng khai thác triệt để thế yếu của Việt Nam, bất chấp sự sống còn của liên
doanh như thế nào. Để hạn chế thiệt hại về phía mình, trước hết cần phải tìm hiểu,
lựa chọn đối tác phù hợp với điều kiện, yêu cầu của chúng ta, chứ không để tình
trạng đầu tư vào lĩnh vực nào cũng được. Thực tiễn cho thấy cần phải lựa chọn nhà
đầu tư nước ngoài có sức nặng về tài chính, công nghệm, quản lý - họ thường làm
ăn lâu dài, nghiêm túc và giữ gìn uy tín vốn có.
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là đầu tư trực tiếp nước ngoài thông
qua những chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia. Nó cũng có những mặt tích
cực, những mặt tiêu cực. Vì vậy, chúng ta phải biết sử dụng những ưu thế của nó để
phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, đồng thời chủ động phòng ngừa
để hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực của doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài.
Để doanh nghiệp 199% vốn nước ngoài phát huy có hiệu quả trong điều kiện
nước ta hiện nay, việc vận dụng chúng cần phải dựa vào những tiêu chuẩn sau:
- Các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực có công nghệ cao như: điện tử, tin
học, cơ khí chính xác, sản xuất thiết bị quang học.
- Các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất “sạch” không gây ô nhiễm môi
trường.
- Các doanh nghiệp mà hoạt động sản xuất có tác dụng lan tỏa, nghĩa là sự
hoạt động của các doanh nghiệp nàycó tác dụng kích thích sự phát triển các doanh
nghiệp có liên quan hoặc để phục vụ sản xuất, hoặc gia công sản xuất sản phẩm
hoàn chỉnh.
- Có cơ chế kiểm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp loại này nhằm hướng chúng vận động theo đúng quỹ đạo chung.
- Trong quá trình phát triển, khuyến khích các chủ doanh nghiệp nước ngoài
cho các chủ thể kinh tế trong nước tham gia đầu tư qua hình thức mua cổ phần. Nếu
thực hiện được cách này, doanh nghiệp 100 vốn nước ngoài sẽ dần chuyển hóa
thành doanh nghiệp liên doanh.
Cần chú ý rằng, các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước không tồn tại cố
định, giữa chúng có thể có sự chuyển hóa tùy theo điều kiện kinh doanh và ý
nguyện của chủ sở hữu. Chẳng hạn, hình thức ban đầu là xí nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài, nhưng trong quá trình hoạt động, xí nghiệp này có thể kêu gọi góp vốn
cổ phần của Nhà nước và do đó nó sẽ chuyển sang hình thức xí nghiệp liên doanh;
ngược lại , nếu xét thấy sự tham gia của kinh tế nhà nước vào xí nghiệp liên doanh
là không hiệu quả thì có thể mạnh dạn chuyển sang hình thức xí nghiệp 100% vốn
nước ngoài. Trong trường hợp đó, sự chi phối của kinh tế nhà nước không cần thiết
phải là sự tham gia trực tiếp của nó vào một đơn vị kinh doanh.
Khuyến khích các nhà tư bản đầu tư vào các khu chế xuất, khu công
nghiệp, khu kinh tế:
Đây là một hình thức sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước
ta. Trong thời gian tới, để tạo ra kết quả khả quan hơn nữa trong quá trình phát triển
khu chế xuất, khu công nghiệp và khu kinh tế ở nước ta thì cần phải hoàn thiện
chính sách và pháp luật trong lĩnh vực quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất,
đặc biệt là chính sách khuyến khích mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư vào khu chế xuất, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư trong
nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài bỏ vốn và chất xám tham gia xây
dựng xí nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế. Bên cạnh
đó, phải thường xuyên nâng cao trình độ tổ chức quản lý ở các cấp. Thực hiện chế
độ “một cửa” là một cải tiến về thủ tục hành chính đã góp phần trực tiếp cho thành
công ban đầu.
Nhanh chóng thúc đẩy việc triển khai hình thức “xây dựng - kinh doanh -
chuyển giao” (BOT)
Nhu cầu vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng ở nước ta là vô cùng bức bách,
không những đòi hỏi vốn lớn mà còn là điều kiện có tính chất cơ sở quyết định của
tiến trình phát triển và sử dụng các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta.
Sử dụng hình thức BOT là để giải tỏa một phần sự căng thẳng vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước và cho phép các doanh nghiệp nước ngoài và cả tư nhân trong nước
đầu tư vốn, xây dựng, vận hành, bảo dưỡng và kinh doanh trong một thời gian sau
đó chuyển giao cho nhà nước Việt Nam.
Đây là hình thức mới được áp dụng ở nước ta không chỉ đối với tư bản nước
ngoài mà cả đối với tư bản tư nhân trong nước. Hình thức này tỏ ra rất phù hợp và
cần thiết sử dụng rộng rãi trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay, nhu cầu xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng đang rất cấp bách ở nước ta. Vì
vậy, để thúc đẩy nhanh việc triển khai hình thức BOT, nhà nước cần sớm có quy
định cụ thể và rõ ràng, xác lập khuôn khổ pháp lý, đặc biệt là quy hoạch tổng thể
xây dựng kết cấu hạ tầng vùng, cũng như các hạng mục đầu tư cần gọi vốn - cần
thiết áp dụng các biện pháp kích thích đặc biệt như miễn tiền thuê đất theo quy định
của pháp luật về đất đai đối với diện tích đất được thuê hoặc được giao để thực hiện
dự án BOT; áp dụng mức thuế thấp nhất của thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập
công ty.
Ngoài ra, việc thành lập công ty cổ phần, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước và phát triển hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước - hợp tác xã cũng là những
hình thức quan trọng trong chủ nghĩa tư bản nhà nước.
3.4. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ PHÂN PHỐI BẢO ĐẢM HÀI HOÀ CÁC
LỢI ÍCH: LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG, LỢI ÍCH CỦA DOANH
NGHIỆP, LỢI ÍCH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỂ BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SỞ
HỮU CÔNG CỘNG
Phân phối là một mắt khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất, nó có thể
tác động làm cho sản xuất phát triển hoặc kìm hãm sự phát triển. Chế độ phân phối
phải dựa trên quan điểm bảo đảm hài hòa quan hệ lợi ích của người lao động, của
doanh nghiệp và Nhà nước, bảo đảm mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Đây
được coi là cơ sở bền vững cho sự phát triển của sở hữu công cộng. Để thực hiện
được mục tiêu trên, trong những năm tới cần hoàn thiện từng bước cơ chế chính
sách phân phối đảm bảo công bằng xã hội theo các hướng chủ yếu sau:
Một là, tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động trong các đơn vị
kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Hai là, trích lập và sử dụng hợp lý quỹ tiền thưởng và phúc lợi doanh nghiệp.
Nhà nước thực hiện quản lý chặt chẽ việc trích lập từ lợi nhuận vào quỹ phúc lợi
cũng như quỹ tiền thưởng theo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ba là, đảm bảo công bằng trong việc phân phối lợi nhuận cho cá nhân và cho
nhà nước theo vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Kể từ khi áp dụng hình thức phân phối theo vốn của cá nhân đưa vào sản xuất
kinh doanh ở doanh nghiệp nhà nước, nhiều mặt tích cực đã được khẳng định. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng còn không ít những bất cập nảy sinh. Vì vậy, trong những năm
tới cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho người lao
động trong doanh nghiệp nhà nước được mua cổ phần khi doanh nghiệp chuyển
sang công ty cổ phần. Tuy nhiên việc xác định người lao động như thế nào được coi
là nghèo và được đưa vào diện cấp cổ phần, cũng như số lượng cổ phần nên cấp là
bao nhiêu, cần phải được xem xét để bảo đảm công bằng, tránh tình trạng người có
mức thu nhập không coi là nghèo nhưng thực sự rất khó khăn ở gia đình thì không
được hưởng ưu đãi. Trong điều kiện thực tế hiện nay, để bảo đảm chính xác khi
thực hiện chính sách ưu đãi đối với người nghèo, một mặt, thực hiện thông tư số
03/1999 TT-LĐTBXH sửa đổi tiêu chuẩn nghèo mua cổ phần ở doanh nghiệp quy
định phải có thu nhập bình quân bằng và thấp dưới 1/3 lương bình quân trong năm
do Bộ Lao động Thương binh xã hội công bố. Mặt khác, cần căn cứ vào mức thu
nhập thức tế của mỗi thành viên và điều kiện hoàn cảnh gia đình người lao động.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để đảm bảo công bằng khi thực hiện chính
sách tạo điều kiện cho người lao động trong các công ty cổ phần có vốn cổ phần,
ngoài các yêu cầu trên cần thực hiện các biện pháp:
- Cho phép ban lãnh đạo công ty được mua cổ phần ưu đãi theo tiêu chuẩn
như mọi người lao động khác, tương xứng với công lao của họ, không nên giới hạn
bằng hình thức bình quân cổ phiếu ưu đãi của các cổ đông, để khuyến khích tính
tích cực trong quá trình cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty.
- Nâng tỷ lệ giá trị cổ phần được mua chịu của người lao động ở những
doanh nghiệp có vốn nhà nước quá thấp để thu hẹp chênh lệch về thu nhập từ lợi tức
cổ phần của người lao động giữa các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có
vốn nhà nước thấp, nguồn vốn tự bổ sung lớn, nhà nước có thể cho phép các doanh
nghiệp đó trích 50% vốn tự bổ sung để bán cổ phần ưu đãi cho người lao động.
- Việc bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà
nước khi chuyển sang công ty cổ phần chỉ được thực hiện lần đầu khi doanh nghiệp
tiến hành cổ phần hóa. Những cổ phần bán ưu đãi trả dần không phải trả lãi theo kỳ
hạn sẽ không được phép bán lại nhằm tránh việc lợi dụng những ưu đãi của chính
sách cổ phần hóa để hưởng chênh lệch giá chứ không có ý định trở thành cổ đông
lâu dài của doanh nghiệp.
+ Cần phân biệt cổ phiếu ghi tên (đối với cổ phần nhà nước và cổ phần của
các cổ đông sáng lập) được ứng cử, bầu sử vào Hội đồng quản trị và chuyển nhượng
có điều kiện, còn cổ phiếu không gi tên được chuyển nhượng tự do trong thị trường
vốn nhưng không có quyền ứng cử, bầu cử vào Hội đồng quản trị nhằm hạn chế
việc đầu cơ cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, thao túng việc quản lý doanh
nghiệp.
+ Giải pháp về phân chia cổ tức:
Thứ nhất, phân chia cổ tức cần theo hướng vừa khuyến khích được người lao
động góp vốn, vừa dành nhiều lợi nhuận để đầu tư vào phát triển sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, lợi tức cổ phần cho các cổ
đông chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp nhà nước
tiến hành cổ phần hóa trong khi thị trường chứng khoán mới hình thành nên cổ phần
phát hành đều theo mệnh giá. Các doanh nghiệp đang cổ phần hóa phần lớn lại dành
nhiều lợi nhuận sau thuế để chia cổ tức và chỉ dành số ít cho quỹ đầu tư phát triển
sản xuất của doanh nghiệp. Vì thế nhà nước cần có các chính sách thuế ưu đãi
khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tích lũy mở rộng sản xuất tạo thêm việc
làm. Việc chia lợi tức quá cao so với lãi suất tiết kiệm và và lãi suất vay ngân hàng
như đã diễn ra đúng là có lợi trước mắt cho các cổ đông, nhưng xét dưới góc độ
phát triển lâu dài kinh tế đất nước nói chung và doanh nghiệp nói riêng thì việc
dành một phần lợi nhuận thích đáng của doanh nghiệp cho đầu tư phát triển có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng hiện nay.
Thứ hai, phân chia cổ tức đảm bảo tính mềm dẻo , phù hợp với đặc điểm,
điều kiện sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Không nên ghi vào điều lệ
của doanh nghiệp cổ phần hóa mức phân phối lợi nhuận sau thuế để chia cổ tức một
cách cụ thể cứng nhắc như một số doanh nghiệp tiến hành. Việc chia cổ tức do Hội
đồng quản trị và Đại hội cổ đông xem xét giải quyết hàng năm căn cứ vào hiệu quả
kinh doanh và yêu cầu về các mặt: phát triển kinh doanh, bảo vệ lợi ích cho cổ
đông, chăm lo phúc lợi cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp.
Thứ ba, thực hiện phân chia công bằng lợi tức cổ phần cho các cổ đông. Các
cổ đông dù là nhà nước hay người lao động đều có sự bình đẳng hưởng lợi tức theo
vốn góp. Hiện nay, việc chia lãi theo vốn góp cổ phần trong các công ty cổ phần
được thực hiện theo Nghị định 59/CP về quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh
doanh đối với doanh nghiệp nhà nước ngày 3 - 10 - 1996 của Chính phủ và được sửa
đổi theo Nghị định 27/CP ngày 20 - 4 1999. Tuy nhiên trong nghị định này còn có
những điều chưa hợp lý. Theo điều 32 của nghị định này, lợi nhuận thực hiện của
doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được phân phối như sau:
1) Bù khoản lỗ của các năm trước đối với các khoản lỗ không được trừ vào
lợi nhuận trước thuế;
2) Nộp tiền vốn sử dụng ngân sách nhà nước.
3) Trừ các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật thuộc trách nhiệm của doanh
nghiệp
4) Lợi nhuận còn lại sau khi trừ các khoản 1, 2, 3 của điều này được phân
phối theo quy định dưới đây:
a) Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính; khi số dư quỹ bằng 25% vốn điều
lệ thì không trích nữa;
b) Trích 50% vào quỹ đầu tư phát triển;
c) Trích 5% vào quỹ dự phòng mất việc làm; khi số dư quỹ này bằng 6 tháng
lương thực hiện thì không trích nữa.
d) Đối với một số ngành đặc thù mà pháp luật cho phép trích lập các quỹ đặc
biệt từ lợi nhuận sau thuế thì doanh nghiệp được trích lập theo các quy định đó;
đ) Chia lãi cổ phần trong trường hợp phát hành cổ phiếu;
e) Số lợi nhuận còn lại sau khi trừ các khoản a, b, c, d, đ được trích lập hai
quỹ khen thưởng và phúc lợi…sau khi trích hai quỹ khen thưởng và phúc lợi như
trên được bổ sung toàn bộ vào quỹ đầu tư phát triển.
Với trình tự phân phối như trên sẽ diễn ra trường hợp ở các doanh nghiệp có
cổ phần của nhà nước và các tổ chức cá nhân khác thì việc chia lãi cho cổ phần nhà
nước bao giờ cũng nhiều hơn đối với các cổ phần của các tổ chức cá nhân khác. Bởi
vì khi doanh nghiệp có lãi, với lượng vốn cổ phần nhà nước nhất định, nhà nước
vừa được khoản thu tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước lại vừa được chia lãi cổ
phần theo tỷ lệ vốn góp như các cổ đông khác. Theo chúng tôi, để đảm bảo sự công
bằng khi phân chia lãi cho các cổ đông thì chế độ phân phối lợi nhuận trong các
công ty cổ phần cần bỏ mục “Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước”. Cần đổi
mới sang phương thức “thu lợi tức cổ phần” với tư cách nhà nước là một cổ đông
khi áp dụng rộng rãi chế độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
KẾT LUẬN
Sở hữu là mặt bên trong cơ bản nhất của quan hệ sản xuất và là một phạm trù
của kinh tế chính trị, có vị trí đặc biệt quan trọng trong học thuyết kinh tế của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Việc nhận thức và xử lý vấn đề sở hữu trong thực tiễn của các
đảng cầm quyền có liên quan trực tiếp đến sự thành bại của mô hình kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng nói trên, từ lâu và nhất là trong giai đoạn đổi
mới hiện nay ở nước ta, việc nghiên cứu vấn đề sở hữu và vận dụng vào công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thu hút được sự chú ý đông đảo các nhà nghiên cứu
và bước đầu đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, một mặt do sở hữu là
một vấn đề phức tạp, trên phương diện lý luận, nhiều lĩnh vực vẫn chưa được làm
sáng rõ; mặt khác, thực tiễn quá trình biến đổi sở hữu nước ta thời gian qua đã và
đang đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải làm rõ về mặt cơ sở lý luận: quá trình
chuyển biến từ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng đã và đang diễn ra thường
xuyên và phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước tình hình đó, tôi chọn:
“Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta” làm đề tài
luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn đã cố gắng làm rõ một số nội dung
cơ bản sau đây:
Một là, hệ thống hóa những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị
trí, vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất, sự biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
trong nền kinh tế thị trường và làm rõ cơ sở lý luận về sự biến đổi quan hệ sở hữu tư
nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Hai là, phân tích thực trạng vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở
hữu tư liệu sản xuất ở nước ta giai đoạn trước và sau đổi mới. Qua đó rút ra những
thành công, sai lầm và hạn chế và nguyên nhân của những thành công, sai lầm và hạn
chế đó.
Ba là, trên cơ sở phân tích thực trạng quá trình biến đổi sở hữu ở nước ta –
luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nhằm hoàn thiện quan hệ sở hữu tư
liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Sở hữu là một phạm trù rất trừu tượng, phức tạp và rộng lớn, cho đến nay
vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau, vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng nó đòi hỏi
phải có vốn kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm thực tế phong phú mới có thể giải
quyết được một cách đầy đủ và đúng đắn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Trọng Ân (2004), Tìm hiểu tác phẩm của Ph. Ăngghen: Nguồn gốc của gia
đình của chế độ tư hữu và của nhà nước, Nxb Đại học quốc gia, TP Hồ Chí
Minh.
2. Đỗ Trọng Bá (1994), Vấn đề sở hữu trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Luận án
phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1977), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu
lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
4. Ba mươi năm phát triển kinh tế - văn hóa của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
(1976), Nxb Sự thật, Hà Nội.
5. Bốn mươi năm nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985), Nxb
Sự thật, Hà Nội.
6. Phạm Thị Cần - Vũ Văn Phúc - Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Cúc - Kim Văn Chính (2006), Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
8. Bùi Ngọc Chưởng (1983), Học thuyết của Lênin về chủ nghĩa đế quốc, Nxb
Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội.
9. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam (1991), Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Lương Minh Cừ (1996), Quan niệm của C.Mác, Ph Ăngghen về vấn đề sở hữu
trong chủ nghĩa xã hội, Luận án phó tiến sĩ triết học, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1968), Văn kiện của Đảng về đường lối phát triển
nông nghiệp miền Bắc nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Hoàng (1999), “Một số quan điểm mới về chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (2), tr 32.
18. Nguyễn Đình Kháng (1993), Sở hữu tư tiệu sản xuất trong nền kinh tế nhiều
thành phần, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội.
19. Nguyễn Đình Kháng (1994), “Nhận thức sở hữu theo tinh thần của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế, (3), tr.43.
20. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
21. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
22. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
23. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
24. C.Mác (1978), Tư bản, quyển ba, tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.
25. C.Mác (1976), Những hình thức có trước sản xuất tư bản chủ nghĩa, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
26. C.Mác (1962), Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
27. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4 , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần I, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
37. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần II, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
38. C.Mác - Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Toàn tập, tập 46, phần I, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
40. Nguyễn Công Nghiệp (2006), Phân phối trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Ngọc (2000), Quan hệ biện chứng giữa các loại hình sở hữu trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học,
Hà Nội.
42. Lê Thanh Sinh (2000), Chính sách kinh tế mới của Lênin với công cuộc đổi mới
ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Thạo (2004), Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Thạo - Nguyễn Hữu Đạt (2004), Một số vấn đề về sở hữu ở nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Tiểu ban tổng kết hợp tác hóa nông nghiệp (1990), Dự thảo báo cáo tổng kết
hợp tác hóa nông nghiệp (1958 - 1990).
46. Nguyễn Văn Tuấn (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
47. Đỗ Thế Tùng (2004), “Lý luận của V.I.Lênin về các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (4), tr.11.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 141_4087.pdf