Trong các thể loại văn bản, văn nghị luận là loại văn bản tiêu biểu thể
hiện rõ nhất năng lực văn học của học sinh trong nhà trường THPT. Để có thể tạo lập
được một văn bản nghị luận, học sinh trước hết phải được trang bị tốt các tri thức
cũng như kĩ năng làm văn nghị luận cơ bản. Điều làm nên sức sống của một văn bản
nghị luận là sự chặt chẽ, lôgic trong mạch lập luận, vì vậy, trong các tri thức, kĩ năng
cơ bản cần có thì kĩ năng lập luận (bao gồm cách triển khai hệ thống luận điểm, các
thao tác nghị luận, cách diễn đạt trong văn nghị luận) là một kĩ năng hết sức quan
trọng, thiết yếu cần rèn luyện cho HS ngay từ đầu.
Đề tài luận văn đi từ việc phân tích mối quan hệ giữa tiếp nhận văn bản
và tạo lập văn bản, khẳng định việc sử dụng các văn bản tác phẩm nghị luận trong giờ
dạy tiếp nhận như một văn bản “mẫu” chuẩn mực nhất, tốt nhất để giúp rèn kĩ năng
làm văn nghị luận cho học sinh THPT hiện nay. Bởi lẽ, một bài văn như một bài tập
lớn, cần phải được rèn luyện qua một quá trình luyện tập thực hành nhiều kĩ năng
mới có thể xây dựng được một văn bản hoàn chỉnh, đạt yêu cầu. Các kĩ năng làm văn
không chỉ được hình thành trong giờ dạy tạo lập mà còn được tích hợp thực hiện
bằng việc phân tích các tác phẩm nghị luận tiêu biểu trong giờ dạy tiếp nhận văn bản
văn học. Từ đó, luận văn bước đầu xây dựng quy trình vận dụng quan điểm tích hợp
giờ dạy đọc hiểu văn bản với giờ dạy làm văn nghị luận cụ thể ở trường THPT. Trên
thực tế, những đề xuất trong luận văn về phương pháp, quy trình vận dụng mối quan
hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho HS THPT
vẫn chưa được thực hiện rộng rãi mà đang ở giai đoạn nghiên cứu, khảo sát thử
nghiệm, vì vậy chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét, bổ sung từ nhiều
người để có thể xây dựng hoàn chỉnh một quy trình tốt nhất về việc vận dụng quan
điểm tích hợp giờ dạy đọc hiểu văn bản với giờ dạy làm văn nghị luận cụ thể ở
trường THPT.
141 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng quan hệ tích hợp giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thân người
viết trước cảnh rừng bị tàn phá.
Trên cơ sở các bài tập nhận diện và thực hành tạo lập như trên, giáo viên
cần hướng dẫn để các em nắm vững vấn đề: Việc kết hợp các phương thức biểu đạt
trong bài văn nghị luận do yêu cầu của đề tài, của bản thân nội dung cần trình bày đòi
hỏi, cần phối hợp hài hòa các phương thức biểu đạt để việc trình bày đề tài đảm bảo
thông tin cơ bản, rõ ràng, sinh động và thuyết phục.
Bài Luyện tập vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn
nghị luận – chương trình Ngữ văn 12, là bài học rèn luyện tổng hợp việc vận dụng
các phương thức biểu đạt trong quá trình tạo lập văn bản, nhất là văn bản nghị luận.
Học sinh đã nắm được cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong quá
trình học Ngữ văn ở THCS. Bài học này nhằm củng cố và nâng cao kĩ năng đó, giúp
học sinh chủ động hơn khi trình bày những vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có sự linh
hoạt, uyển chuyển trong việc vận dụng các phương thức biểu đạt.
Tóm lại, trong quy trình vận dụng quan điểm tích hợp giờ dạy đọc hiểu
văn bản với giờ dạy làm văn nghị luận cụ thể ở trường THPT như đã trình bày ở trên,
phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp khai thác “mẫu” trong Làm văn.
“Mẫu” được sử dụng ở đây hầu hết là các văn bản tác phẩm nghị luận được giảng dạy
trong chương trình Ngữ văn THPT trải dài ở ba cấp lớp 10, 11, 12. Phương pháp khai
thác “mẫu” giúp vạch ra một quy trình rèn luyện kĩ năng lập luận cụ thể với các bước:
- Một là phân tích mẫu để học sinh hiểu;
- Hai là giúp học sinh nắm vững cơ chế tạo mẫu;
- Ba là giúp học sinh mô phỏng mẫu để sáng tạo cái mới tương tự, dựa trên
cơ sở của việc bắt chước mẫu;
- Cuối cùng là kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm về sản phẩm tiếp nhận
hoặc sản sinh lời nói thông qua hoạt động rèn luyện theo mẫu của giáo viên
và học sinh.
Và tất nhiên là phương pháp khai thác “mẫu” trong dạy Làm văn phải
được vận dụng theo hướng tích cực hóa, nghĩa là không cung cấp cho HS ngay các
kết quả có sẵn mà phải thông qua thực hành, phân tích, suy nghĩ, trao đổi và tự rút ra
kết luận.
Chương 3: THỰC NGHIỆM
3.1. Ý kiến đánh giá của tổ chuyên môn
Để đánh giá vấn đề vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn
bản để rèn luyện các kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận cho học sinh THPT, luận văn
đã tiến hành khảo sát lấy ý kiến giáo viên tổ bộ môn Văn của các trường: THPT Bùi
Thị Xuân, THPT Thủ Đức, THPT Sao Việt và bước đầu nhận được những kết quả
như sau:
Tiêu chí đánh giá Đồng ý
Đánh giá về KHẢ NĂNG LẬP LUẬN TRONG LÀM VĂN
NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH
- Khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh hiện
nay là TỐT
- Khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh hiện
nay là KHÁ
- Khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh hiện
nay là TRUNG BÌNH
- Khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh hiện
nay là YẾU
0%
5%
30,5%
64,5%
Đánh giá về TÌNH HÌNH DẠY HỌC LÀM VĂN
NGHỊ LUẬN CỦA GIÁO VIÊN
- Dạy làm văn nghị luận còn gặp những khó khăn vì học sinh
bị hổng kiến thức từ cấp dưới, yếu và thiếu kĩ năng viết văn
nghị luận
- Dạy làm văn nghị luận còn gặp những khó khăn vì thời
lượng phân phối cho phân môn làm văn và cho từng tiết dạy
còn quá ít
- Dạy làm văn nghị luận còn gặp những khó khăn vì tính tích
80,3%
94,8%
78,8%
hợp giữa các phân môn Văn học – Làm văn – Tiếng Việt chưa
được chú ý vận dụng hiệu quả
- Dạy làm văn nghị luận còn gặp những khó khăn vì chương
trình SGK còn nặng nề, kiến thức hàn lâm, nặng về lí thuyết, ít
tính thực tiễn
80%
Đánh giá về VIỆC VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ
GIỮA TIẾP NHẬN VÀ TẠO LẬP VĂN BẢN ĐỂ RÈN
KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH
- Việc vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn
bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT
hiện nay:
+ Rất quan trọng, rất cần thiết
+ Quan trọng, cần thiết
+ Không quan trọng, không cần thiết
- Vấn đề vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn
bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT
có khả năng ứng dụng vào thực tiễn dạy học Văn hiện nay:
+ Khả năng ứng dụng cao
+ Khả năng ứng dụng chưa cao
+ Không có khả năng ứng dụng
- Để vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản
để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT, cần
có những yêu cầu:
+ Trang bị đầy đủ cho giáo viên SGK, SGV, tài liệu
tham khảo có khả năng áp dụng, thực hành cao
+ Thay đổi cách đánh giá hoạt động dạy – học của giáo
68,5%
28,5%
3%
60,7%
35,5%
3,8%
65,7%
viên và học sinh
+ Thay đổi cách nghĩ về phương pháp khai thác “mẫu”
trong dạy học làm văn
+ Tăng thời lượng dạy làm văn trên lớp
+ Không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ yếu dạy
cho học sinh cách học, cách vận dụng tri thức tiếp nhận
vào thực hành tạo lập văn bản nghị luận
- Cần rút kinh nghiệm về vấn đề nào cho việc vận dụng mối
quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng
làm văn nghị luận cho học sinh THPT:
+ Chương trình SGK cần biên soạn hệ thống, đảm bảo
khả năng tích hợp cao giữa tiếp nhận và tạo lập, nhất là
đối với văn bản nghị luận
+ Đổi mới cách ra đề, kiểm tra, đánh giá
+ Có tài liệu hướng dẫn kĩ về phương pháp vận dụng
mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các
kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT
+ Tăng thời lượng dạy thực hành tạo lập văn bản
+ Chú trọng dạy cho học sinh phương pháp, cách thức
vận dụng tri thức tiếp nhận văn bản văn học để tạo lập
một văn bản tương tự
95%
70,6%
75%
78,8%
78%
80,2%
85,5%
75%
80%
Từ kết quả khảo sát trên, có thể thấy đa số GV đều đánh giá khả năng
lập luận trong làm văn nghị luận của HS hiện nay còn rất kém: 95% GV đánh giá
trình độ lập luận của HS hiện nay chỉ ở mức trung bình - yếu. Các khó khăn mà GV
thường gặp phải khi dạy làm văn nghị luận là: chương trình SGK còn nặng nề, kiến
thức hàn lâm, nặng về lí thuyết, ít tính thực tiễn (80%), học sinh bị hổng kiến thức từ
cấp dưới, yếu và thiếu kĩ năng viết văn nghị luận (80,3%), thời lượng phân phối cho
phân môn làm văn và cho từng tiết dạy còn quá ít (94,8%), tính tích hợp giữa các
phân môn Văn học – Làm văn – Tiếng Việt chưa được chú ý vận dụng hiệu quả
(78,8%).
Cũng chính vì vậy, có đến khoảng 97% GV cho rằng vấn đề vận dụng
mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho
học sinh THPT hiện nay là rất quan trọng và rất cần thiết, có khả năng ứng dụng cao
trong vào thực tiễn dạy học văn hiện nay. Xuất phát từ thực tế dạy học làm văn nghị
luận của bản thân, các giáo viên đều thống nhất một số yêu cầu và kinh nghiệm cần
rút ra khi vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn kĩ năng làm
văn nghị luận cho học sinh THPT hiện nay: chương trình SGK cần biên soạn hệ
thống, đảm bảo khả năng tích hợp cao giữa tiếp nhận và tạo lập, nhất là đối với văn
bản nghị luận (78%), có tài liệu hướng dẫn kĩ về phương pháp vận dụng mối quan hệ
giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh
THPT (85,5%), tăng thời lượng dạy học làm văn trên lớp (75%), đổi mới cách ra đề,
kiểm tra, đánh giá (80,2%), thay đổi cách nghĩ về phương pháp khai thác “mẫu” trong
dạy học làm văn (70,6%), không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ yếu dạy cho
học sinh cách học, cách vận dụng tri thức tiếp nhận vào thực hành tạo lập văn bản
nghị luận (78,8%).
Qua kết quả khảo sát về vai trò, tác dụng của vấn đề vận dụng mối quan
hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận cho học
sinh, có thể khẳng định nếu HS được trang bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng tạo lập
(bao gồm cách lập luận, thao tác lập luận, cách diễn đạt) qua các giờ dạy tiếp nhận
lẫn tạo lập văn bản nghị luận, các em sẽ có thể tự mình thực hành tạo lập được một
văn bản nghị luận tương tự và khả năng lập luận của các em sẽ được nâng cao. Vì vậy,
một lần nữa chúng ta lại thấy được sự cần thiết phải rèn kĩ năng nghị luận cho HS.
Một trong những con đường nhanh nhất và hiệu quả nhất chính là vận dụng quan hệ
tích hợp giữa tiếp nhận và tạo lập đối với văn bản nghị luận. Song, cũng cần phải
thấy rằng là chúng ta sẽ bắt đầu con đường này từ một mặt bằng chất lượng về kĩ
năng lập luận rất thấp (64,5% GV đánh giá khả năng lập luận trong làm văn nghị luận
của HS hiện nay là YẾU). Vì thế, rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận cho HS THPT
hiện nay là một vấn đề rất cấp bách và không kém phần khó khăn, phức tạp. Theo
chúng tôi, để thực hiện thành công con đường này, phải xác định và xây dựng cho
được một hệ thống lý thuyết và phương pháp vận dụng hiệu quả, đặc biệt phải đề ra
được một quy trình với các thao tác cụ thể về việc vận dụng tri thức tiếp nhận văn
bản nghị luận vào thực hành tạo lập một văn bản nghị luận tương tự hoặc hay hơn
văn bản “mẫu” mà các em đã học được trong giờ tiếp nhận văn bản nghị luận.
3.2. Thiết kế thể nghiệm giáo án giảng dạy tiếp nhận văn bản nghị luận
BÀI: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
(Chương trình Ngữ văn 12)
A/ Những điểm cần chú ý
I/ Mục tiêu
- Kiến thức:
+ Thấy được ý nghĩa to lớn và giá trị nhiều mặt của bản Tuyên ngôn
Độc lập cùng vẻ đẹp tư tưởng và tâm hồn của tác giả.
+ Qua việc tiếp nhận tác phẩm, giúp học sinh nắm vững tri thức về thể
loại văn nghị luận.
- Kĩ năng:
+ Cách tiếp nhận thể loại văn nghị luận
+ Tích hợp rèn các kĩ năng lập luận trong văn nghị luận
- Thái độ:
+ Trân trọng, tự hào đối với nền độc lập, tự do của dân tộc
+ Nhận ra tầm quan trọng của nghệ thuật lập luận trong bài văn nghị
luận
II/ Phương pháp
- Nêu vấn đề
- Gợi mở
- Thảo luận nhóm
III/ Phương tiện
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo
IV/ Phần yêu cầu học sinh chuẩn bị
Để tiếp nhận tốt văn bản Tuyên ngôn Độc lập, học sinh cần ôn lại những
kiến thức cũng như các kĩ năng, thao tác lập luận trong văn nghị luận đã học ở lớp 11:
- Về thể loại văn nghị luận
- Luận điểm và triển khai luận điểm
- Các thao tác lập luận: phân tích, so sánh, bình luận, bác bỏ, diễn dịch
- Diễn đạt trong văn nghị luận: ngôn ngữ, giọng điệu
B/ Tiến trình bài dạy
HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH ĐỊNH HƯỚNG CỦA GIÁO VIÊN
I/ TÌM HIỂU TIỂU DẪN
1/ Hoạt động 1: HS tự đọc và tóm tắt,
gạch chân nội dung chính trong
phần Tiểu dẫn
2/ Hoạt động 2: Tìm hiểu đối tượng
và mục đích nghị luận
- GV đặt câu hỏi:
(?): “Viết cho ai?”, “Viết để làm
gì?”, từ đó mới quyết định “Viết cái
gì?” và “Viết như thế nào?” – đó là
điều Hồ Chí Minh luôn quan tâm trước
khi đặt bút viết. Căn cứ vào Tiểu dẫn,
anh (chị) hãy cho biết Bác đã trả lời
như thế nào về hai câu hỏi đầu tiên khi
Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc
I/ TÌM HIỂU CHUNG:
1/ Hoàn cảnh sáng tác: (SGK)
2/ Giá trị lịch sử và giá trị văn học:
(SGK)
3/ Mục đích và đối tượng hướng tới:
a/ Viết cho ai? – đối tượng hướng tới
của bản Tuyên ngôn:
- Nhân dân Việt Nam
- Nhân dân trên toàn thế giới
- Thực dân và đế quốc xâm lược
b/ Viết để làm gì? – mục đích của
bản Tuyên ngôn
- Tuyên bố xóa bỏ chế độ thực
dân phong kiến
- Khẳng định quyền tự chủ và vị
lập?
- HS dựa vào SGK trả lời
- GV đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh
thấy được tầm quan trọng của việc xác
định đối tượng và mục đích nghị luận
trong tạo lập:
(?): Vậy, từ việc trả lời các câu
hỏi trên, chúng ta học được bài học gì
cho mình khi chuẩn bị viết một bài văn
nghị luận?
- HS suy nghĩ rút ra bài học cho việc
viết bài văn nghị luận của mình:
Khi tạo lập một văn bản nghị
luận, mục đích nghị luận sẽ
quyết định nội dung viết và cách
viết – cách sắp xếp các luận
điểm và mức độ lớn nhỏ của các
luận điểm.
II/ HƯỚNG DẪN TIẾP NHẬN VĂN
BẢN, KẾT HỢP RÈN KĨ NĂNG
NGHỊ LUẬN
1/ Hoạt động 1: GV hướng dẫn HS
cách đọc:
đọc với giọng trang trọng, khúc
chiết, rõ ràng, có âm vang
thế bình đẳng của dân tộc trên toàn thế
giới
- Bẻ gãy những luận điệu xảo trá
của kẻ thù đang dã tâm nô dịch đất
nước ta
II/ ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN:
1/ Giọng văn nghị luận
- Phần đầu: trang trọng
- Phần nội dung: đanh thép,
hùng hồn
- Phần kết: trang trọng, hùng
biện
Tăng tính thuyết phục
2/ Hoạt động 2: HS đọc văn bản
Tuyên ngôn độc lập
3/ Hoạt động 3: Tìm hiểu giọng văn
nghị luận
- GV đặt câu hỏi:
(?): Nhận xét giọng điệu của văn
bản? Tác dụng của giọng điệu ấy đối
với bài văn nghị luận?
- HS thảo luận và trả lời:
Phần đầu văn bản có giọng điệu
trang trọng khi bàn về quyền
bình đẳng, hạnh phúc của con
người; phần nội dung có giọng
điệu hùng hồn, đanh thép để tô
đậm tội ác của thực dân Pháp;
phần tuyên ngôn và tuyên bố
cuối cùng có giọng trang trọng,
hùng biện. Sự đa dạng trong sắc
thái, giọng điệu của văn bản đã
góp phần làm tăng tính thuyết
phục, đạt được mục đích đề ra
của bản Tuyên ngôn.
4/ Hoạt động 4: Tìm hiểu mạch lập
luận
- GV đặt câu hỏi:
(?): Trình bày bố cục văn bản và
phát biểu nội dung của mỗi phần?
2/ Bố cục, mạch lập luận
a/ Bố cục: 3 phần
- Phần mở đầu: (“Hỡi đồng
bàokhông ai chối cãi được”): Mọi
người, mọi dân tộc trên thế giới đều có
quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự
- HS dựa vào văn bản trả lời
- GV hướng dẫn HS tìm hiểu sâu bố
cục của mạch lập luận:
(?): Từ việc tìm hiểu nội dung
từng phần của bản Tuyên ngôn như
trên, theo anh (chị), có thể thay đổi trật
tự các phần trên mà vẫn đạt tới cái
đích cảu văn bản một cách hiệu quả
nhất không?
- HS thảo luận để chỉ ra giá trị của
mạch lập luận:
Mục đích của bản Tuyên ngôn
không phải chỉ để tuyên bố mà
còn nhằm đánh vào kẻ thù, bẻ
gãy luận điệu xảo trá của kẻ thù.
Vì lẽ đó, bản Tuyên ngôn trước
hết phải xác định cơ sở pháp lí,
điểm tựa vững chắc, thuyết phục
cho mạch lập luận ngay từ phần
mở đầu. Đây sẽ là căn cứ thống
nhất để vạch tội kẻ thù, chỉ ra
tính chất phi nghĩa của chúng,
đồng thời cũng là cơ sở để
khẳng định tính chính nghĩa
thuận theo “lẽ phải” của ta. Từ
đó mới đanh thép hùng hồn
khẳng định xóa bỏ chế độ quân
chủ, tuyên bố thoát hẳn quan hệ
thực dân với Pháp.
do.
- Phần nội dung: (“Thế
màphải được độc lập”): Tội ác của
thực dân Pháp và quá trình nhân dân ta
nổi dậy giành chính quyền.
- Phần kết: (còn lại): Lời tuyên
ngôn và tuyên bố độc lập.
b/ Mạch lập luận:
- Mạch lập luận lôgic chặt chẽ: từ
cơ sở lí luận đối chiếu vào thực tiễn,
rút ra kết luận phù hợp, đích đáng
không thể không công nhận.
Mạch lập luận thuyết phục
người đọc ở tính lôgic chặt chẽ:
từ cơ sở lí luận đối chiếu vào
thực tiễn, rút ra kết luận phù
hợp, đích đáng không thể không
công nhận.
- GV bổ sung thêm: Cách lập luận như
trên chúng ta từng bắt gặp trong tác
phẩm nghị luận “thiên cổ hùng văn”
Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi).
Trước khi lời đại cáo cất lên, điểm tựa
lí luận quán xuyến được tác giả đặt ra
là: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân –
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, từ
nguyên lí chung đó mà kết tội giặc
Minh: “Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn
kế - Gây binh kết oán trải hai mươi
năm” và tuyên bố độc lập.
5/ Hoạt động 5: Tìm hiểu nội dung
và cách lập luận trong phần mở đầu
của bản Tuyên ngôn
- HS: Đọc lại phần mở đầu
- GV đặt câu hỏi:
(?): Khép lại phần mở đầu, Hồ
Chí Minh khẳng định: “Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được”. “Lẽ
phải” mà Bác muốn nói đến ở đây là
gì? Người đã chỉ ra và khẳng định lẽ
3/ Phần mở đầu – Cơ sở pháp lí và
chính nghĩa của bản Tuyên ngôn
- “Lẽ phải”: quyền bình đẳng,
quyền sống tự do, quyền sung sướng,
hạnh phúc của mỗi một cá nhân, mỗi
một dân tộc
Chân lí khách quan, đúng đắn.
phải đó bằng cách thức nào? Tại sao
ngay trong phần mở đầu, tác giả đã
chốt lại bằng một câu văn đanh thép và
quyết liệt như vậy?
- HS thảo luận và trả lời câu hỏi dưới
sự hướng dẫn, gợi mở của GV
- GV hướng dẫn HS mở rộng phân tích
cách lập luận:
+ Tác giả đã lựa chọn cách tiếp
cận chân lí mà tác giả gọi là “lẽ phải”
đó bằng cách trích dẫn những tác
phẩm bất hủ, được ra đời và thử thách
qua các cuộc cách mạng lớn trên thế
giới.
Chiến thuật: “gậy ông đập lưng
ông”: dùng lí lẽ của đối thủ để
bác bỏ chính đối thủ.
Hai bản tuyên ngôn được lựa
chọn trích dẫn đã trở thành hàng
rào pháp lí vừa khéo léo, mềm
mỏng, vừa kiên quyết, cứng cỏi.
Cách lập luận khéo léo ở chỗ
Bác không những trích dẫn
tuyên ngôn của họ mà Người còn
trân trọng đánh giá đó là những
điều “bất hủ”. Song, cứng cỏi,
kiên quyết khi chốt lại bằng một
câu văn đanh thép: “Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi
- Tiếp cận chân lí bằng cách
trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai
bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại:
+ Tuyên ngôn Độc lập của
nước Mĩ (1776)
+ Tuyên ngôn về Dân quyền
và Nhân quyền của nước Pháp (1791)
Vừa khéo léo vừa kiên quyết
được”.
+ Chốt lại bằng câu văn đanh
thép, quyết liệt “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”:
Câu văn được tách thành một
đoạn riêng. Cụm từ “không ai
chối cãi được” làm cho câu văn
mang tính tranh biện, luận
chiến.
Trong chỉnh thể bài văn, đây là
cái chốt quan trọng của mạch
lập luận. Nó khẳng định những
điều được nói ở phía trên là
chân lí đúng đắn, tạo nên một
tường thành lí luận vững chắc
cho bản Tuyên ngôn.
+ Đồng thời với việc lựa chọn
trích dẫn, tác giả còn dùng thao tác lập
luận so sánh tương đồng (phép suy
luận tương đồng) tạo mối liên hệ so
sánh giữa Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ,
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Cách mạng Pháp với Tuyên ngôn
Độc lập của ta: “Suy rộng ra”.
Không chỉ dân tộc ta có quyền
độc lập, tự do như các dân tộc
đó mà Tuyên ngôn độc lập của
ta cũng có giá trị pháp lí như
tuyên ngôn của họ.
- Với lập luận chặt chẽ, đanh
thép, Bác đã xác định được một lẽ phải
từ những chân lí của lịch sử làm cơ sở
pháp lí và chính nghĩa cho bản Tuyên
ngôn Độc lập, và khẳng định được
quyền tự do và độc lập của dân tộc
Việt Nam bằng chính những lời lẽ của
tổ tiên người Pháp và người Mĩ.
Đặt 3 bản tuyên ngôn, 3 cuộc
cách mạng, 3 nền độc lập ngang
hàng nhau thể hiện niềm tự hào
dân tộc và khẳng định được tư
thế của dân tộc Việt Nam trên
thế giới.
6/ Hoạt động 6: Tìm hiểu cách lập
luận trong phần nội dung của bản
Tuyên ngôn
- GV đặt câu hỏi:
(?): Tác giả đã vạch rõ những
tội ác nào thực dân Pháp gieo rắc trên
đất nước ta hơn suốt 80 năm qua?
- HS dựa vào văn bản trả lời
(?): Tác giả đã lập luận như thế
nào để làm nổi bật những tội ác đó và
tăng cường sức mạnh tố cáo?
- HS thảo luận, chỉ ra nghệ thuật lập
luận:
+ Thao tác lập luận so sánh
tương phản được sử dụng để nhấn
mạnh tội ác của thực dân Pháp. Người
Pháp được hưởng những quyền lợi cụ
thể từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của họ, thế mà cũng với “những
quyền ấy”, họ lại bắt người Việt Nam
phải chịu cảnh nô lệ, tù đày, chết chóc.
Cho nên, “hành dộng của chúng trái
4/ Phần nội dung – Cơ sở thực tế của
bản Tuyên ngôn
a/ Tố cáo tội ác của thực dân Pháp
- Bản Tuyên ngôn đã vạch trần
bản chất thực dân xảo quyệt, tàn bạo và
man rợ bằng những lí lẽ xác đáng và sự
thật lịch sử không thể chối cãi được:
+ Với luận điệu “khai hóa
văn minh” nhưng thật chất:
• Về chính trị: tước đoạt quyền tự
do, thi hành luật pháp dã man,
dùng chính sách “chia để trị”,
“tắm các cuộc khởi nghĩa của ta
trong bể máu”
• Về kinh tế: “bóc lột dân ta đến
xương tủy”, “cướp không ruộng
đất, hầm mỏ, nguyên liệu”,
“khiến dân ta nghèo nàn, thiếu
thốn, dân ta xơ xác, tiêu điều”
+ Mang danh “bảo hộ” nhưng
thực chất:
• Trong 5 năm, bán nước ta hai lần
hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
+ Biện pháp liệt kê, tăng cấp
được sử dụng hữu hiệu trong việc vạch
ra những tội ác về mọi mặt mà Pháp
nhân danh “bảo hộ” để biến người dân
Việt Nam thành nô lệ. Mỗi ý liệt kê lại
được tách ra thành những đoạn văn
riêng biệt để tô đậm ấn tượng về tội ác
của giặc.
+ Hệ thống từ ngữ nghị luận: dã
man, thẳng tay, bể máu, ngu dân,
xương tủy, cướp không, tàn nhẫn, quỳ
gối giúp tăng cường hiệu quả diễn
đạt và sức tố cáo cho bài văn nghị
luận. Hai chữ “Thế mà” không chỉ là
từ nối liên kết đoạn mà còn làm nổi bật
mối quan hệ tương phản giữa lí lẽ tốt
đẹp và những hành động trắng trợn
của giặc.
+ Kết hợp giữa những đoạn văn
ngắn, trùng điệp, liệt kê là những đoạn
văn dài ghi mốc thời gian cụ thể theo
diễn tiến khi tác giả kể tội hai lần bán
nước ta của thực dân Pháp cho phát xít
Nhật.
- GV đặt câu hỏi:
cho Nhật
• Thẳng tay khủng bố người Việt
Nam yêu nước
• Không đáp ứng liên minh cùng
Việt Minh chống Nhật
• Tội ác tày trời của Pháp và Nhật
khiến hơn hai triệu đồng bào ta
chết đói
Đoạn văn tố cáo hùng hồn, đanh
thép tội ác mọi mặt của giặc đối
với nhân dân ta một cách súc
tích, đầy sức thuyết phục.
b/ Cuộc đấu tranh chính nghĩa của
dân tộc ta
(?): Lấy “lẽ phải” làm tiền đề
cho mọi lập luận, tác giả đã nêu bật
quá trình nổi dậy giành chính quyền
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Mặt trận Việt Minh như thế nào?
- HS dựa vào văn bản để tóm tắt, tái
hiện
- GV dẫn dắt, yêu cầu:
(?): Tất cả những điều được đề
cập trong phần nội dung của bản
Tuyên ngôn đầu là “sự thật”. Sự thật
về tội ác chính trị, kinh tế của thực dân
Pháp. Sự thật về việc “bảo hộ” của
Pháp ở Đông Dương. Sự thật về vai trò
và hoạt động của Việt Minh lãnh đạo
nhân dân giành chính quyền.
Nhưng có một “sự thật” được
láy đi láy lại hai lần trước khi lời tuyên
ngôn và tuyên bố cuối cùng đươc cất
lên.
- Trước ngày 9 – 3, Việt Minh
đã nhiều lần kêu gọi người Pháp liên
minh chống Nhật. Như vậy, Việt Minh
quả thực đã cùng chiến tuyến với phe
đồng minh đẩy lùi thảm họa phát xít
trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
- Việt Minh giữ thái độ khoan
hồng, nhân đạo đối với người Pháp:
giúp họ chạy qua biên giới, cứu họ ra
khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng,
tài sản cho họ.
- Việt Minh đã lãnh đạo cả nước
giành chính quyền, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa khi Nhật đầu
hàng Đồng minh.
c/ Phủ định chế độ thuộc địa, chế độ
thực dân Pháp và khẳng định quyền
tự do của dân tộc
- Phủ định dứt khoát và triệt để
mọi đặc quyền, đặc lợi của thực dân
Pháp đối với đất nước Việt Nam.
- Khẳng định mạnh mẽ quyền
độc lập, tự do của dân tộc.
Theo anh (chị), tại sao nhà văn
lại chủ ý điệp đi nhấn lại “sự thật” ấy
mà không phải là những bằng chứng
hùng hồn khác?
- HS thảo luận, trả lời
+ Nội dung của “sự thật” đó là:
từ mùa thu 1940, nước ta là thuộc địa
của Nhật chứ không phải thuộc địa của
Pháp nữa; dân ta lấy lại nước từ tay
Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
+ Gắn với hoàn cảnh sáng tác,
mục đích và đối tượng hướng tới của
bản Tuyên ngôn, “sự thật” này có vai
trò bẻ gãy mọi luận điệu xảo trá của kẻ
thù trước dư luận thế giới. Không có
điều gì mạnh mẽ và giàu sức thuyết
phục như những bằng chứng hùng hồn
phơi bày hiển hiện. Vậy hãy để cho “sự
thật” lên tiếng bóc trần bộ mặt tráo trở
của kẻ thù. Chúng là kẻ đầu hàng, là
người bỏ chạy trước phát xít Nhật,
cũng có nghĩa chúng là người quay
lưng lại với Đồng minh trong cuộc tấn
công phe phát xít. Vậy chúng còn cách
gì để để tuyên bố quay trở lại Đông
Dương? Từ đó, bản Tuyên ngôn tạo
được sự thuyết phục mạnh mẽ đối với
Đồng minh và nhân dân thế giới ủng
hộ nền độc lập của Việt Nam.
+ Chỉ bằng 9 từ: “Pháp chạy,
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” rất
ngắn gọn, bản Tuyên ngôn đã chỉ ra
những thắng lợi của dân tộc Việt Nam:
đánh đổ chế độ thực dân, phát xít và
bọn phong kiến tay sai để dành độc
lập.
7/ Hoạt động 7: Tìm hiểu cách lập
luận trong lời tuyên bố độc lập
- GV đặt câu hỏi:
(?): Tác giả đã phát biểu lời
tuyên ngôn và tuyên bố cuối cùng như
thế nào?
- HS dựa vào văn bản trả lời
Với cách diễn đạt rõ ràng, hùng
hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn
và tuyên bố cuối cùng được láy
đi láy lại nhiều lần kèm theo
những lí lẽ thuyết phục đã thâu
tóm tinh thần, tư tưởng, nguyện
vọng của dân tộc Việt Nam quyết
giữ vững nền độc lập tự do ấy.
5/ Phần kết – Lời tuyên bố độc lập
- Lời tuyên bố thể hiện lí lẽ đanh
thép, vững vàng của Hồ Chủ tịch về
độc lâp, tự do của dân tộc:
+ Về mặt pháp lí: có quyền hưởng tự
do độc lập
+ Về mặt thực tế: dự thật đã trở thành
nước tự do độc lập
+ Ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập
tự do bằng bất cứ giá nào
III/ TỔNG KẾT
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện
8/ Hoạt động 8: Củng cố tri thức thể
loại văn nghị luận
- GV đặt câu hỏi:
(?): Tuyên ngôn Độc lập không
chỉ là một văn kiên lịch sử vô giá mà
còn là một áng văn chính luận mẫu
mực của mọi thời đại. Anh (chị) hãy
chỉ ra giá trị văn chương của tác
phẩm?
- HS thảo luận, trả lời:
+ Hệ thống lập luận chặt chẽ,
đanh thép, giàu sức thuyết phục:
• Bố cục, mạch lập luận hợp lí,
lôgic: (1) Phần đầu, nêu nguyên
lí phổ quát, đây cũng là luận
điểm nền tảng; (2) Phần tiếp
theo, triển khai luận điểm bằng
thực tế; (3) Phần cuối, luận điểm
kết luận, tuyên bố độc lập.
• Thao tác lập luận phân tích kết
hợp so sánh tương đồng và
tương phản để nhấn mạnh tội ác
của thực dân Pháp và khẳng
định chủ quyền độc lập của dân
lịch sử tuyên bố trước quốc dân và
đồng bào thế giới về việc chấm dứt chế
độ thực dân, phong kiến ở nước ta,
đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của
nước Việt Nam mới.
IV/ CỦNG CỐ
Tuyên ngôn Độc lập không
chỉ là một văn kiên lịch sử vô giá mà
còn là một áng văn chính luận mẫu
mực của mọi thời đại: lập luận chặt
chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng
hồn, vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của
thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái
chiếm nước ta của các thế lực thù địch
và cơ hội, vừa bộc lộ tình cảm yêu
nước, thương dân và khát vọng độc lập,
tự do cháy bỏng cuả tác giả và toàn dân
tộc.
tộc ta.
• Thủ pháp “gậy ông đập lưng
ông”, dùng lí lẽ của đối thủ để
bác bỏ chính đối thủ ấy.
+ Diễn đạt rõ ràng, ngôn ngữ
hùng hồn:
• Hệ thống từ ngữ nghị luận: Thế
mà; Bởi thế cho nên, chúng
tôi; Vì những lẽ trên, chúng
tôi; Tuy vậy
• Kết hợp các kiểu câu: câu khẳng
định, câu trần thuật, câu cảm
thán; câu ngắn đan xen câu dài;
đặc biệt là thủ pháp điệp cấu
trúc câu được sử dụng liên tiếp:
“Sự thật là từ mùa thu Sự thật
là dân ta”, “Một dân tộc đã
gan góc chống ách nô lệ, môt
dân tộc đã gan góc đứng về,
dân tộc đó phải được tự do! Dân
tộc đó phải được độc lập!”.
• Giọng điệu khi trang trọng khi
hùng hồn, đanh thép
+ Kết hợp các phương thức biểu
đạt: tự sự, miêu tả và đặc biệt là yếu tố
biểu cảm.
• Phía sau những lập luận chặt
chẽ, sắc sảo, mang tính đối
thoại, xác định giá trị pháp lí
của chủ quyền dân tộc, là dòng
cảm xúc, tình cảm của người viết
Tuyên ngôn. Mỗi dòng chữ là
niềm tự hào khi sánh cách mạng
dân tộc với các cuộc cách mạng
lớn trên thế giới. Mỗi dòng chữ
là niểm hạnh phúc vô biên khi
đất nước được tự do, độc lập.
Lời tuyên bố cuối cùng của bản
Tuyên ngôn là sự kết tinh quyết
tâm, ý chí của toàn dân được
điệp đi nhấn lại như một lời thề
sắt đá: “Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc
lập ấy.
Và như vậy, sức thuyết phục của
áng văn nghị luận đối với người
đọc không chỉ ở hệ thống lập
luận chặt chẽ, sắc sảo mà còn ở
tình cảm chan chứa, sâu sắc của
người viết.
Về vị trí, yêu cầu của giờ học theo quy định của chương trình, SGK Ngữ
văn 12 có quy định đơn vị học tập về giờ dạy tiếp nhận văn bản Tuyên ngôn Độc lập
như sau:
- Giúp học sinh thấy được giá trị nhiều mặt và ý nghĩa to lớn của bản
Tuyên ngôn Độc lập.
- Hiểu vẻ đẹp tư tưởng và tâm hồn tác giả qua bản Tuyên ngôn Độc lập.
Như vậy, theo quy định của chương trình, mục tiêu của giờ học này là
giúp học sinh nắm vững kiến thức về mặt nội dung, giá trị tư tưởng của văn bản. Xuất
phát từ yêu cầu đổi mới giờ dạy tiếp nhận văn bản văn học, dạy theo đặc điểm thể
loại văn bản, dựa trên mối quan hệ chặt chẽ giữa tiếp nhận và tạo lập đối với văn bản
nghị luận, yêu cầu và mục tiêu của bài học không dừng lại ở việc cung cấp kiến thức
về nội dung mà còn có thể qua văn bản nghị luận Tuyên ngôn Độc lập tích hợp rèn
luyện các kĩ năng lập luận trong văn bản nghị luận. Từ đó, giáo án thể nghiệm xác
định thêm một số yêu cầu về kiến thức và kĩ năng như sau:
- Qua việc tiếp nhận tác phẩm, giúp học sinh nắm vững tri thức về thể
loại văn nghị luận, từ đó biết cách tiếp nhận thể loại văn nghị luận.
- Tích hợp rèn các kĩ năng lập luận trong văn nghị luận: luận điểm và
triển khai luận điểm, vận dụng kết hợp các thao tác lập luận, diễn đạt trong văn nghị
luận, vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt
Mục tiêu này được thể hiện cụ thể và rõ nét trong nội dung bài giảng của
giáo án thể nghiệm.
Về nội dung bài giảng, giáo án thể nghiệm vừa đáp ứng được các mục
tiêu về nội dung, kiến thức theo quy định của chương trình, vừa vận dụng được
nguyên lí tích hợp trong dạy học, sử dụng văn bản như một “mẫu” tiêu biểu để rèn
luyện kĩ năng thực hành tạo lập văn bản nghị luận cho học sinh. Hướng đến hai mặt
kiến thức và kĩ năng, tiếp nhận và tạo lập, giáo án thể hiện sự đổi mới theo tinh thần
tích hợp – một yêu cầu bức thiết trong dạy học hiện đại.
Về nội dung cụ thể, ở mỗi phần của bài học, bên cạnh hệ thống câu hỏi
khai thác giá trị nội dung văn bản, giáo án đều có ý thức hướng đến rèn luyện kĩ năng
thực hành tạo lập văn bản nghị luận qua hệ thống câu hỏi phân tích ngữ liệu:
- Hoạt động 2: Tìm hiểu đối tượng và mục đích nghị luận
(?): “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, từ đó mới quyết định “Viết cái gì?” và
“Viết như thế nào?” – đó là điều Hồ Chí Minh luôn quan tâm trước khi đặt bút viết.
Căn cứ vào Tiểu dẫn, anh (chị) hãy cho biết Bác đã trả lời như thế nào về hai câu hỏi
đầu tiên khi Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập?
(?): Vậy, từ việc trả lời các câu hỏi trên, chúng ta học được bài học gì cho
mình khi chuẩn bị viết một bài văn nghị luận?
- Hoạt động 3: Tìm hiểu giọng văn nghị luận
(?): Nhận xét giọng điệu của văn bản? Tác dụng của giọng điệu ấy đối với bài
văn nghị luận?
- Hoạt động 4: Tìm hiểu mạch lập luận
(?): Từ việc tìm hiểu nội dung từng phần của bản Tuyên ngôn như trên, theo
anh (chị), có thể thay đổi trật tự các phần trên mà vẫn đạt tới cái đích cảu văn bản
một cách hiệu quả nhất không?
- Hoạt động 5: Tìm hiểu nội dung và cách lập luận trong phần mở đầu
của bản Tuyên ngôn
(?): Khép lại phần mở đầu, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. “Lẽ phải” mà Bác muốn nói đến ở đây là gì? Người đã chỉ
ra và khẳng định lẽ phải đó bằng cách thức nào? Tại sao ngay trong phần mở đầu,
tác giả đã chốt lại bằng một câu văn đanh thép và quyết liệt như vậy?
- Hoạt động 6: Tìm hiểu cách lập luận trong phần nội dung của bản
Tuyên ngôn
(?): Tác giả đã lập luận như thế nào để làm nổi bật những tội ác đó và tăng
cường sức mạnh tố cáo?
(?): Tất cả những điều được đề cập trong phần nội dung của bản Tuyên ngôn
đầu là “sự thật”. Sự thật về tội ác chính trị, kinh tế của thực dân Pháp. Sự thật về
việc “bảo hộ” của Pháp ở Đông Dương. Sự thật về vai trò và hoạt động của Việt
Minh lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.
Nhưng có một “sự thật” được láy đi láy lại hai lần trước khi lời tuyên ngôn và
tuyên bố cuối cùng được cất lên.
Theo anh (chị), tại sao nhà văn lại chủ ý điệp đi nhấn lại “sự thật” ấy mà
không phải là những bằng chứng hùng hồn khác?
- Hoạt động 7: Tìm hiểu cách lập luận trong lời tuyên bố độc lập
(?): Tác giả đã lập luận như thế nào trong lời tuyên ngôn và tuyên bố cuối
cùng?
- Hoạt động 8: Củng cố tri thức thể loại văn nghị luận
(?): Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn kiện lịch sử vô giá mà còn là
một áng văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại. Anh (chị) hãy chỉ ra giá trị văn
chương của tác phẩm?
Hệ thống câu hỏi trên đây có tác dụng giúp học sinh tự phân tích, lí giải
cách lập luận lôgic, chặt chẽ của văn bản, qua đó, học sinh học được cách triển khai
hệ thống luận điểm của bản Tuyên ngôn, cách sử dụng kết hợp các thao tác nghị luận
phân tích và so sánh, cách diễn đạt – sử dụng từ ngữ, câu văn và giọng văn nghị luận,
cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả và biểu cảm để tạo
nên tính thuyết phục mạnh mẽ cho văn bản nghị luận. Để đạt được yêu cầu trên, đòi
hỏi học sinh phải có sự chuẩn bị trước ở nhà các kiến thức đã học ở lớp dưới về lý
thuyết làm văn nghị luận và tri thức thể loại văn nghị luận. Những kiến thức và kĩ
năng nghị luận mà các em tích lũy được trong giờ học tiếp nhận văn bản Tuyên ngôn
Độc lập sẽ là nền tảng để các em thực hành rèn luyện tạo lập một văn bản nghị luận.
Thật khó có thể thiết kế được những giờ học mẫu. Xuất phát từ sự đổi
mới phương pháp và quan điểm dạy học, giáo án thiết kế thể nghiệm Tuyên ngôn
Đôc lập chỉ là một hướng xây dựng giáo án theo tinh thần tích hợp, đảm bảo mối
quan hệ liên môn giữa các phân môn của chương trình Ngữ văn. Không cần đến
những bài văn mẫu mà chính những tác phẩm văn học sẽ là một “mẫu” tốt nhất, đáng
tin cậy nhất để rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh, vừa tiết kiệm thời gian lại vừa
mang lại hiệu quả cho cả giờ dạy tiếp nhận văn học lẫn giờ dạy tạo lập văn bản.
KẾT LUẬN
Trong các thể loại văn bản, văn nghị luận là loại văn bản tiêu biểu thể
hiện rõ nhất năng lực văn học của học sinh trong nhà trường THPT. Để có thể tạo lập
được một văn bản nghị luận, học sinh trước hết phải được trang bị tốt các tri thức
cũng như kĩ năng làm văn nghị luận cơ bản. Điều làm nên sức sống của một văn bản
nghị luận là sự chặt chẽ, lôgic trong mạch lập luận, vì vậy, trong các tri thức, kĩ năng
cơ bản cần có thì kĩ năng lập luận (bao gồm cách triển khai hệ thống luận điểm, các
thao tác nghị luận, cách diễn đạt trong văn nghị luận) là một kĩ năng hết sức quan
trọng, thiết yếu cần rèn luyện cho HS ngay từ đầu.
Đề tài luận văn đi từ việc phân tích mối quan hệ giữa tiếp nhận văn bản
và tạo lập văn bản, khẳng định việc sử dụng các văn bản tác phẩm nghị luận trong giờ
dạy tiếp nhận như một văn bản “mẫu” chuẩn mực nhất, tốt nhất để giúp rèn kĩ năng
làm văn nghị luận cho học sinh THPT hiện nay. Bởi lẽ, một bài văn như một bài tập
lớn, cần phải được rèn luyện qua một quá trình luyện tập thực hành nhiều kĩ năng
mới có thể xây dựng được một văn bản hoàn chỉnh, đạt yêu cầu. Các kĩ năng làm văn
không chỉ được hình thành trong giờ dạy tạo lập mà còn được tích hợp thực hiện
bằng việc phân tích các tác phẩm nghị luận tiêu biểu trong giờ dạy tiếp nhận văn bản
văn học. Từ đó, luận văn bước đầu xây dựng quy trình vận dụng quan điểm tích hợp
giờ dạy đọc hiểu văn bản với giờ dạy làm văn nghị luận cụ thể ở trường THPT. Trên
thực tế, những đề xuất trong luận văn về phương pháp, quy trình vận dụng mối quan
hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho HS THPT
vẫn chưa được thực hiện rộng rãi mà đang ở giai đoạn nghiên cứu, khảo sát thử
nghiệm, vì vậy chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét, bổ sung từ nhiều
người để có thể xây dựng hoàn chỉnh một quy trình tốt nhất về việc vận dụng quan
điểm tích hợp giờ dạy đọc hiểu văn bản với giờ dạy làm văn nghị luận cụ thể ở
trường THPT.
Song, điều làm chúng tôi băn khoăn khi thực hiện đề tài này là làm thế
nào để GV lẫn HS thay đổi quan điểm về phương pháp dạy học làm văn theo “mẫu”,
nhất là trong thực trạng “chép văn mẫu” của HS hiện nay. Vì vậy, khi đụng chạm tới
những vấn đề “mẫu”, chẳng hạn như: theo mẫu, dẫn mẫu, lấy mẫu, phân tích mẫu
nhiều người lấy làm e ngại. Tuy nhiên trong làm văn, quan sát mẫu, phân tích và
nhận xét mẫu, tập xây dựng theo mẫu, sáng tạo từ mẫu lại chính là các phương
pháp đặc thù. Là sự thể hiện của phương châm trăm nghe không bằng một thấy,
“mẫu” trong làm văn được giáo viên sử dụng trong giờ dạy có giá trị như những
“giáo cụ trực quan” để hình thành tri thức cũng như kĩ năng làm văn cho HS. Mặt
khác, “mẫu” này lại là những văn bản tác phẩm nghị luận mẫu mực được giảng dạy
trong chương trình Ngữ văn THPT. Như vậy, có thay đổi cách nghĩ về phương pháp
khai thác “mẫu” trong làm văn mới có thể thấy được quan hệ tích hợp giữa tiếp nhận
và tạo lập đối với văn bản nghị luận, và vận dụng tốt mối quan hệ này trong việc rèn
luyện kĩ năng thực hành tạo lập văn bản nghị luận cho HS THPT hiện nay. Theo
chúng tôi, trong bối cảnh tri thức nhân loại phát triển như vũ bão thì đây là một trong
những con đường tiết kiệm thời gian mà mang lại hiệu quả cao trong dạy học làm văn.
Đi theo con đường này, giáo viên phải hết sức chú ý nguyên tắc tích hợp
và dạy học liên phân môn trong dạy làm văn nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung.
Đề cao và ưu tiên cho thực hành, luyện tập: thị phạm, làm theo và sáng tạo. Hơn nữa,
cần lập ra một kế hoạch lâu dài cho quá trình rèn kĩ năng làm văn dựa trên quan hệ
tích hợp giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản nghị luận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A (chủ biên) (1997), Phương pháp dạy học Tiếng Việt, NXB Giáo dục.
2. Lê A (chủ biên), Nguyễn Trí, (2001), Làm văn, NXB Giáo dục.
3. Nguyễn Đức Ân, (1996), Một số vấn đề về dạy học giảng văn, TPHCM.
4. Nguyễn Đức Ân, (1997), Dạy học giảng văn ở nhà trường trung học phổ thông,
NXB Tổng hợp Đồng Nai.
5. Nguyễn Đức Ân, (2009), Bài giảng chuyên đề: Lý thuyết tiếp nhận với việc dạy
học tác phẩm văn chương ở trường THPT, TP HCM.
6. Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Quang Ninh, trần Ngọc Thêm (2000), Ngữ pháp
văn bản và việc dạy làm văn, NXB Giáo dục.
7. Trần Thanh Bình (1983), “Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ học và môn học
tiếng Việt – làm văn”, Đại học và THCN, số 4.
8. Trần Thanh Bình (1985), “Bàn thêm một số vấn đề của nguyên tắc dạy tiếng
Việt”, Đại học và THCN, số 3
9. Trần Thanh Bình (1986), “Về một hướng gắn bó ngữ pháp với tập văn”, Tập
san Giáo dục cấp III, số 1.
10. Lương Duy Cán, Rèn luyện kĩ năng làm văn, NXB Giáo dục.
11. Đỗ Hữu Châu, Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Cao Đức Tiến (1994), Tiếng Việt –
Làm văn 10 (Bồi dưỡng chuyên ban), Vụ giáo viên.
12. Tạ Phong Châu, Nguyễn Quang Lưu, Nguyễn Quốc Túy (1982), Tài liệu tham
khảo hướng dẫn giảng dạy tập làm văn THPT cấp III, NXB Giáo dục.
13. Nguyễn Viết Chữ, (2006), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo
loại thể, NXB ĐHSP, Hà Nội.
14. Trương Đăng Dung, (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB Khoa
học xã hội.
15. Phạm Văn Đồng, (1973), “Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện”, Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục, số 28.
16. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học vấn đề và suy
nghĩ, NXB Giáo dục.
17. Đặng Hiển, (2006), Dạy văn học văn, NXB ĐHSP TP.HCM.
18. Đỗ Kim Hồi (1997), Nghĩ từ công việc dạy văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Đỗ Kim Hồi (1986), “Vài ý nghĩ xung quanh vấn đề kiểu bài văn nghị luận”,
Tập san Giáo dục cấp III, số 1.
20. Nguyễn Thanh Hùng (1992), “Sự tồn tại của phương pháp dạy học là cụ thể”,
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2.
21. Nguyễn Thanh Hùng, (2002), Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục.
22. Nguyễn Thanh Hùng, (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giaó Dục.
23. Hà Thúc Hoan (2006), Làm văn nghị luận lý thuyết và thực hành, NXB Huế -
Thuận Hóa.
24. Hà Thúc Hoan (2003), Tiếng Việt thực hành, NXB Tổng hợp TPHCM.
25. Hà Thúc Hoan, Tiếng Việt - Làm văn (Tóm tắt giáo trình), Trường ĐHSP
TP.HCM.
26. L.Fkhalamôp (1978), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh cho các môn
học, ĐHCT.
27. M.B. Khrapchenco,(1984)Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, NXB
Khoa học xã hội。
28. Phan Trọng Luận (2006), “Đề văn và câu chuyện thi cử”, Văn nghệ trẻ, số 29.
29. Phan Trọng Luận (2005), Phan Trọng Luận – Tuyển tập, NXB Giáo Dục.
30. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương – Bạn đọc – Sáng tạo, NXB ĐHQG Hà
Nội.
31. Phan Trọng Luận (2000), Phương pháp dạy học Văn, NXB Giáo dục.
32. Phan Trọng Luận (1969), Rèn kuyện tư duy qua giảng dạy Văn học, NXB Giáo
dục.
33. Phan Trọng Luận (1978), Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn – Tài liệu bồi
dưỡng GVVH cấp III miền Nam, NXB Giáo dục.
34. Phan Trọng Luận (1995), “Chặng đường 40 năm của chuyên ngành PPGD
Văn”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2.
35. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 12 (T1, T2)- cơ bản, (SGV),
NXB Giáo dục.
36. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 12 (T1, T2)- cơ bản, (SGK),
NXB Giáo dục.
37. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 (T1, T2)- cơ bản, (SGV),
NXB Giáo dục.
38. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 (T1, T2)- cơ bản, (SGK),
NXB Giáo dục.
39. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 10 (T1, T2)- cơ bản, (SGV),
NXB Giáo dục.
40. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 10 (T1, T2)- cơ bản, (SGK),
NXB Giáo dục.
41. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2007), Bài tập Ngữ văn 10 (T1, T2)- cơ bản,
NXB Giáo dục.
42. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2007), Bài tập Ngữ văn 11 (T1, T2)- cơ bản,
NXB Giáo dục
43. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2007), Bài tập Ngữ văn 12 (T1, T2)- cơ bản,
NXB Giáo dục
44. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2000), Làm văn 11, NXB Giáo dục.
45. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2000), Làm văn 11 (SGV), NXB Giáo dục.
46. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2000), Dàn bài Tập làm văn 11 (SGV), NXB
Giáo dục.
47. Phương Lựu, (1997), Tiếp nhận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
48. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Đỗ Ngọc Thống, Lưu Đức Hạnh (1995),
Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo dục.
49. Nhiều tác giả (2007), Kỷ yếu Hội thảo khoa học dạy học Ngữ văn ở trường PT
theo chương trình và SGK mới, NXB Nghệ An.
50. Nhiều tác giả (2001), Đổi mới phương pháp dạy học Văn – Tiếng Việt ở trường
phổ thông, NXB ĐHQG Hà Nội.
51. Nhiều tác giả (2006), Nâng cao kỹ năng làm bài văn nghị luận, NXB Giáo dục.
52. Những bài văn đạt giải quốc gia học sinh giỏi THPT (2006), NXB Giáo dục.
53. Hoàng Phê (Chủ biên) (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb KHXH – Trung tâm từ
điển học.
54. Nguyễn Khắc Phục (2007), “Nền móng giáo dục chính là niềm tin”, báo Tuổi
trẻ, số 3/9.
55. Mai Thị Kiều Phượng, (2009), Giáo trình phương pháp dạy học làm văn, NXB
ĐHQG, Hà Nội.
56. Rez, Z .la (1983) Phương pháp luận văn học, NXB Giáo dục.
57. R. Jakobson, (2008)Thi học và ngôn ngữ học, NXB Văn học。
58. Lê Xuân Soan (2007), Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn, NXB ĐHQG TPHCM.
59. Tạ Thanh Sơn, Lê Bảo Châu, Thái Thành Vinh, (2010), Những bài văn nghị
luận đặc sắc, NXB ĐHQG Hà Nội.
60. Nguyễn Quốc Siêu (2001), Kỹ năng làm văn nghị luận phổ thông, NXB Giáo
dục.
61. Trần Đình Sử, (2008), Lí luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục.
62. Trần Đình Sử (2003), “Đổi mới dạy học làm văn ở trường THPT”, Tạp chí
Văn học và Tuổi trẻ (số 8).
63. Trần Đình Sử (2001), “Về vấn đề dạy làm văn (Tạo lập văn bản trong chương
trình, SGK Tiếng Việt, Làm văn ở trường PT (từ lớp 1 – lớp12))”, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 16.
64. Trần Đình Sử (1998), “Môn văn thực trạng và giải pháp”, báo Văn nghệ, số 7.
65. Trần Đình Sử (Chủ biên), (2006), Làm văn 12, NXB Giáo dục.
66. Trần Đình Sử (Chủ biên), (2006), Dàn bài tập làm văn 12, NXB Giáo dục.
67. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2006), Làm văn 12 (SGV), NXB Giáo dục.
68. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 12 (T1, T2)- nâng cao, (SGV),
NXB Giáo dục.
69. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 12 (T1, T2)- nâng cao, (SGK),
NXB Giáo dục.
70. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 (T1, T2)- nâng cao, (SGV),
NXB Giáo dục.
71. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 (T1, T2)- nâng cao, (SGK),
NXB Giáo dục.
72. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 10 (T1, T2)- nâng cao, (SGV),
NXB Giáo dục.
73. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 10 (T1, T2)- nâng cao, (SGK),
NXB Giáo dục.
74. Tài liệu bồi dưỡng dạy SGK Làm văn 10, 11, 12, (1990, 1991, 1992), Vụ Giáo
viên, NXB Giáo dục.
75. Thủy Thanh (lược ghi) (2008), “Những câu văn “kinh dzị”, báo Thanh niên, số
164
76. Đỗ Ngọc Thống (2001), “Đề văn nghị luận”, Văn học và tuổi trẻ, số 11.
77. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và SGK Ngữ văn THPT, NXB
Giáo dục.
78. Đỗ Ngọc Thống (1997), Làm văn từ lý thuyết đến thực hành, NXB Giáo dục.
79. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tài liệu cho chuyên đề, Tài liệu lưu hành nội bộ.
80. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), (2007), Hệ thống đề mở Ngữ văn 10, NXB GD,
Hà Nội.
81. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), (2007), Hệ thống đề mở Ngữ văn 11, NXB GD,
Hà Nội.
82. Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Thành Thi, Phạm Minh Diệu, (2008),Làm văn,
NXB ĐHSP, Hà Nội.
83. Hà Bình Trị (2002), “Thực trạng dạy học Ngữ văn ở THPT”, Tạp chí Giáo dục,
số 10.
84. Hoàng Trinh, (1982)Kí hiệu học, NXB Khoa học xã hội。
85. Trịnh Xuân Vũ (2000), Văn chương và phương pháp giảng dạy văn chương,
NXB ĐHQG TPHCM.
PHỤ LỤC
PHIẾU PHỎNG VẤN GIÁO VIÊN
(Về việc vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản
để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT)
Kính gửi: Thầy / Cô:..........................................................................................
Dạy lớp: .............................................. Trường:
Xin quý thầy / cô vui lòng giúp chúng tôi khảo sát và trả lời các câu hỏi bên
dưới:
- Đối với câu hỏi đã có sẵn các phương án trả lời, thầy / cô hãy đánh dấu x vào
một hoặc nhiều ô vuông mà thầy cô cho là phù hợp.
- Đối với câu hỏi chưa có phương án trả lời, thầy / cô vui lòng viết ngắn gọn ý
kiến của mình vào phần để trống sau câu hỏi.
• Về việc vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn
các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT
Theo quan niệm hiện nay, dạy học văn trong nhà trường là dạy học sinh tiếp
nhận các kiểu văn bản; dạy học làm văn là dạy học sinh tạo lập văn bản. Thực tế cho
thấy hai hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó
với nhau trong suốt quá trình dạy học Văn. Dạy học tiếp nhận cung cấp cho học sinh
phương pháp, cách thức, kĩ năng giải mã văn bản; đồng thời những văn bản được giải
mã, đến lượt mình, sẽ trở thành “mẫu” tiêu biểu để hướng dẫn học sinh tạo lập những
văn bản tương ứng. Ngược lại, dạy học tạo lập văn bản cung cấp cho học sinh
phương pháp, cách thức, kĩ năng mã hoá văn bản; đồng thời, qua việc tự mình tạo lập
văn bản, học sinh sẽ hiểu biết rõ hơn về công việc giải mã những văn bản tương ứng.
Trong tất cả các kiểu văn bản, văn bản nghị luận là loại văn bản thể hiện mối quan hệ
rõ nhất và có sự tương đồng lớn nhất giữa thao tác tiếp nhận và tạo lập.
CÂU HỎI
1/ Theo thầy / cô, khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh
THPT hiện nay là
□Tốt □Khá □Trung bình □Yếu
2/ Dạy học làm văn nghị luận, thầy / cô còn gặp phải những khó khăn gì?
□ Học sinh bị hổng kiến thức từ cấp dưới, yếu và thiếu kĩ năng viết văn nghị
luận
□ Thời lượng phân phối cho phân môn làm văn và cho từng tiết dạy còn quá ít
□ Tính tích hợp giữa các phân môn Văn học – Làm văn – Tiếng Việt chưa
được chú ý vận dụng hiệu quả
□ Chương trình SGK còn nặng nề, kiến thức hàn lâm, nặng về lí thuyết, ít tính
thực tiễn
Những khó khăn khác: .......................................................................................
............................................................................................................................
...........................................................................................................................
3/ Thầy / cô suy nghĩ như thế nào về vai trò, sự cần thiết của việc vận dụng
mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị
luận cho học sinh THPT hiện nay?
□ Rất quan trọng, rất cần thiết
□ Quan trọng, cần thiết
□ Không quan trọng, không cần thiết
4/ Theo thầy / cô, vấn đề vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn
bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT có khả năng ứng
dụng như thế nào vào thực tiễn dạy học Văn hiện nay?
□ Khả năng ứng dụng cao
□ Khả năng ứng dụng chưa cao
□ Không có khả năng ứng dụng
5/ Theo thầy / cô, để vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản
để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT, cần có những yêu cầu
gì?
□ Trang bị đầy đủ cho giáo viên SGK, SGV, tài liệu tham khảo có khả năng áp
dụng, thực hành cao
□ Thay đổi cách đánh giá hoạt động dạy – học của giáo viên và học sinh
□ Thay đổi cách nghĩ về phương pháp khai thác“mẫu” trong dạy học làm văn
□ Tăng thời lượng dạy làm văn trên lớp
□ Không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ yếu dạy cho học sinh cách học,
cách vận dụng tri thức tiếp nhận vào thực hành tạo lập văn bản nghị luận
6/ Theo thầy / cô, cần rút kinh nghiệm về vấn đề nào cho việc vận dụng mối
quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận
cho học sinh THPT ?
□ Chương trình SGK cần biên soạn hệ thống, đảm bảo khả năng tích hợp cao
giữa tiếp nhận và tạo lập, nhất là đối với văn bản nghị luận
□ Đổi mới cách ra đề, kiểm tra, đánh giá
□ Có tài liệu hướng dẫn kĩ về phương pháp vận dụng mối quan hệ giữa tiếp
nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT
□ Tăng thời lượng dạy thực hành tạo lập văn bản trên lớp
□ Chú trọng dạy cho học sinh phương pháp, cách thức vận dụng tri thức tiếp
nhận văn bản văn học để tạo lập một văn bản tương tự
Những kinh nghiệm khác: ..................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
Xin trân trọng cảm ơn quý thầy / cô.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_dung_quan_he_tich_hop_giua_tiep_nhan_va_tao_lap_van_ban_de_ren_luyen_ky_nang_lam_van_nghi_luan_c.pdf