Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường - tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh . thì không cần phải có sự lanh đạo của Đảng Cộng Sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm "vướng chân" sự vận hành của kinh tế. Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng Sản - là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
38 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 18821 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật mới vào sản xuất để giảm hao phí lao động cá biệt của mình, giảm giá trị cá biệt của hàng hoá do mình sản xuất ra. Từ đó làm cho kỹ thuật của toàn xã hội càng phát triển lên trình độ cao
hơn, năng suất càng tăng cao hơn.
Như thế là chúng ta thấy phương thức sản xuất tư liệu sản xuất luôn bị biến đổi, dẫn đến sự phân công tỉ mỉ hơn dùng nhiều máy móc hơn, lao động trên một quy mô lớn đưa đến lao động trên một quy mô lớn hơn như thế nào.
Đó là quy luật luôn hất sản xuất ra con đường cũ và luôn buộc sản xuất phải làm cho sức sản xuất của lao động khẩn trương hơn. Quy luật đó không gì khác mà là quy luật nhất định giữ cho giá cả hàng hoá nghang bằng với chi phí sản xuất của
chính hàng hoá đó, trong giới hạn của những biến động chu kì của thương
mại.
Theo Mác thì trong sự vận động bên ngoài những tư bản, những quy luật bên
trong của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành những quy luật bắt buộc của sự
cạnh tranh, rằng dưới hình thức đó đối với những nhà tư bản những quy luật biểu
hiện thành động cơ của những hoạt động của họ, rằng như vậy là muốn phân tích
một cách khoa học sự cạnh tranh thì trước đó phải phân tích tính chất bên trong
của tư bản, cũng như chỉ người nào hiểu biết sự vận động thực sự của các thiên thể tuy là các giác quan không thể thấy được, thì mới có thể hiểu được sự vận động
bề ngoài của những thiên thể ấy.
1.2.3 Phân hoá những người sản xuất thành người giàu, người nghèo.
Trong xã hội những người sản xuất cá thể, đã có mầm mống của một phương thức sản xuất mới. Trong sự phân công tự phát, không có kế hoạch nào thống trị xã hội, phương thức sản xuất ấy đã xác lập ra sự phân công, tổ chức theo kế hoạch, trong những công xưởng riêng lẻ; bên cạnh sản xuất của những người sản xuất cá thể nhỏ đã làm xuất hiện sản xuất xã hội. Sản phẩm của hai loại sản xuất đó cùng bán trên một thị trường, do đó giá cả ít ra cũng sấp xỉ nhau. Nhưng so với sự phân công tự phát thì tổ chức có kế hoạch đương nhiên mạnh hơn nhiều; sản phẩm của công xưởng dùng lao động xã hội là rẻ hơn so với sản phẩm của những người sản xuất nhỏ ,tản mạn. Sản xuất của những người sản xuất cá thể gặp thất bại từ nghành này đến nghành khác. Trong nền sản xuất hàng hoá, sự tác động của các quy luật kinh tế, nhất là quyluật giá trị tất yếu dẫn đến kết quả: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, nhiều vốn, có kiến thức và trình độ kinh doanh cao, trang bị kĩ thuật tốt sẽ phát tài, làm giàu. Ngược lại không có các điều kiện trên, hoặc gặp rủi ro sẽ mất vốn phá sản. Quy luật giá trị đã bình tuyển, đánh giá những người sản xuất kinh doanh.
Sự bình tuyển tự nhiên ấy đã phân hoá những người sản xuất kinh doanh ra thành người giàu người nghèo. Người giàu trở thành ông chủ người nghèo dần trở thành người làm thuê. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá đã chỉ ra là quá trình phân hoá này đã làm cho sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển chủ nghĩa tư bản, cùng sự bần cùng hoá của nhân dân là những
hiện tượng ngẫu nhiên. Hai điều đó tất nhiên đi kèm với sự phát triển của nền kinh
tế hàng hoá dựa trên sự phân công lao động xã hội. Vấn đề thị trường hoàn toàn bị
gạt đi, vì thị trường chẳng qua chỉ là biểu hiện của sự phân công đó và của sản xuất
hàng hoá. Người ta sẽ thấy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản không những là có
thể có mà còn là sự tất nhiên nữa,vì một khi kinh tế xã hội đã xây dựng trên sự phân công và trên hình thức hàng hoá của sản phẩm, thì sự tiến bộ về kỹ thuật không thể không dẫn tới chỗ làm cho chủ nghĩa tư bản tăng cường và mở rộng thêm.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN QUY LUẬT GIÁ TRỊ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
2.1.1 Khái niệm kinh tế thị trường .
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận động theo cơ chế thị trường.
2.1.2 Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH, những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn còn tồn tại. Do đó, sự tồn tại kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan:
Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn
còn tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay. Phân công lao động xã hội phát triển thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở nước ta ngày càng đa dạng, phong phú, chuyên môn hóa sâu. Tác động của phân công lao động:
Góp phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây
và thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
Là cơ sở và là động lực để nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa là làm
cho nền kinh tế ngày càng có nhiều sản phẩm thặng dư dùng để trao đổi, mua bán. Do đó, làm cho trao đổi, mua bán hàng hóa ngày càng phát triển hơn.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: Do tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do
đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật - công nghệ, về trình độ quản lý nên chi phí sản xuất và hiệu quả cũng khác nhau nên quan hệ kinh tế giữa họ phải thực hiện bằng quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công lao động quốc tế
mỗi quốc gia riêng biệt là chủ sở hữu đối với mỗi hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường, sự trao đổi này phải trên nguyên tắc ngang giá.
Với 4 lý do trên, kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu. Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định mô hình nền kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn đó là xuất phát từ những lợi ích của việc phát triển kinh tế - xã hội đem lại cho nước ta.
2.2. MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA.
Nước ta với tư cách là nước phát triển muộn về kinh tế thị trường, lại diễn ra trong bối cảnh khoa học kỹ thuật khá phát triển ở các nước. Việt nam lúc đó vừa thoát khỏi chiến tranh dành lại độc lập dân tộc.
Nền kinh tế hàng hòa kém phát triển, chưa có nền kinh tế phát triển, đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế chuyển biến từ nền kinh tế hàng hóa kém phát triển mang tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa phát triển từ thấp đến cao. Và nền kinh tế này còn phát triển tự phát nhưng có sự điều tiết của Đảng Cộng Sản lãnh đạo theo hướng củng cố và phát triển chế độ công hữu XHCN. Giảm hản phần kế hoạch pháp lệch, kế hoạch trực tiếp thay thế bằng kế hoạch định hướng .
Trong quá trình thực hiện cần nắm bắt “cơ hội”, vượt qua “thách thức” rút ngắn khoảng cách lạc hậu, giữ vững định hướng XHCN đã chọn. Do nước ta đang cách khá xa so với các nước trên thế giới vì vậy mà không thể phát triển theo quy mô kinh tế thị trường cổ điển, mà nên chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường rút ngắn, hiện đại là thích hợp. Tuy nhiên không hoàn toàn giống với các nước đi trước về mô hình này, nhất là về tính định hướng XHCN. Mô hình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta bao gồm các đặc trưng chủ yếu sau:
Phát triển trong sự hài hòa giữa quy luật phát triển tuần tự với quy luật phát
triển nhảy vọt
Phát triển cùng lúc ba trình độ phát triển của hình thái kinh tế hàng hóa, đó
là kinh tế hàng hóa đơn giản, kinh tế thị trường tự do (cổ điển) và kinh tế thị trường hỗn hợp (hiện đại). Tất nhiên, trong từng thời điểm,tính trội của mỗi trình độ là khác nhau.
Phát triển trong sự kết hợp hài hòa giữa sức mạnh dan tộc và sức mạnh thời
đại, coi trọng việc kết hợp vai trò thúc đẩy sự ra đời các nhân tố của kinh tế thị trường và vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước XHCN trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường hiện đại
Ba hình thức nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đặc trưng thứ ba có vai trò quyết định.
2.3. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CŨNG NHƯ TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế Thế giới với chính sách mở cửa hợp tác với các nước. Ngay từ đầu, Đảng ta đã đưa ra quan điểm rõ ràng "Một nền kinh tế phát triển theo mô hình nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và dưới sự quản lý của nhà nước". Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta chiụ tác động của nhiều nhân tố khách quan, một trong những nhân tố khách quan chủ yếu là quy luật giá trị. Đó là một quy luật kinh tế căn bản nó tác động vào nền kinh tế như một tất yếu khách quan, ở đâu có hàng hoá và sản xuất hàng hoá thì quy luật giá trị còn tồn tại và phát sinh tác dụng, thông qua đó ta thấy vai trò to lớn của quy luật giá trị nó duy trì và mở rộng sản xuất của xí nghiệp và của xã hội. Việc phân phối thu nhập quốc dân và theo đó đạt những cân đối cần thiết của nền kinh tế theo hình thức giá trị, mặt khác nó còn kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, đồng thời tính toán kinh tế để bố trí lực lượng sản xuất trong cả nước nhằm thực hiện tốt yêu cầu của quy luật phát triển kinh tế có kế hoạch. Với những vai trò đó quy luật giá trị tác động mạnh trong phân phối xã hội chủ nghĩa: Phân phối theo lao động thông qua giá cả, tiền tệ... nó có tác động đẩy nhanh hoặc kìm hãm tốc độ thực hiện kế hoạch lưu thông, hoàn thiện hoặc phá vỡ kế hoạch đó.
Nhưng trong đó nhân tố giá cả là yếu tố biểu hiện cơ bản của quy luật gía trị. Trong thực trạng nước ta hiện nay nó đang biểu hiện nhiều mặt tích cực, kích thích lưu thông nâng cao hiệu quả sản xuất, nhưng bên cạnh nó những biểu hiện nhiều mặt tiêu cực... Hạn chế rất lớn đối với sự phát triển của nước ta hiện nay vì vậy cần phải nghiên cứu kỹ quy luật giá trị để có những hiểu biết thêm về những biểu hiện mới của nó từ đó có những chính sách và hướng đi rõ ràng cụ thể để nước ta ngày càng phát triển đi lên.Với các đặc trưng của mô hình này như đã nói ở trên, các quy luật kinh tế được phép huy tác dụng của nó trong đó quy luật kinh tế căn bản chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế.
2.3.1 Trong lĩnh vực sản xuất
Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải thành hàng hóa. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị - sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:
Xét ở tầm vĩ mô: mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm
cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.
Xét ở tầm vĩ mô: mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, giảm thì gian lao động xã hội cần thiết.
Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì trong xã sản xuất giá trị cá biệt của từng xí nghiệp phải phù hợp hoặc thấp hơn giá trị xã hộ, do đó quy luật giá trị dùng làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trogn sản xuất kinh doanh. Các cấp quản lí kinh tế cũng như các ngành sản xuất, các đơn vị sản xuất ở cớ sở, khi đặt kế hoạch hay thực hiện hoạch kinh tế đều phải tính dến giá thành, quan hệ cung cầu, để định lượng, kết cấu hàng hóa,…
Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của CNXH và quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân, tuy nhiên quy luật giá trị không phải không có ảnh hưởng đến sản xuất. Những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù đắp vào sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất, đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức hàng hóa và chịu sản xuất sự tác động của quy luật giá trị. Trong những thành phần kinh tế khác nhau, tác động của quy luật giá trị có những điểm không giống nhau. Vì thế các xí nghiệp của chúng ta không thể và không được bỏ qua quy luật giá trị.
Do vậy, nhà nước đua ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thải của nó: loại bỉ những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân, ngành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có táy nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hóa, chuyên môn hóa lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây là những vận dụng đúng đắn của nhà nước.
2.3.1.1 Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế
Việc chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong hoạt động đáng bởi các chi tiêu sản xuất mà nhà nước đưa ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì.
Mặt khác, cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán , thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA. WTO; mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể đứng vững khi bão táp của quá trình hội nhập quốc tế hội nhập đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức canh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài , giữa các cá nhân trong nước và các nhân nước ngoài.
2.3.1.2 Tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường việt nam.
Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế năng động lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm cho mình một con đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh doanh tạo nên sự sản xuấ hiệu quả nhất. Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau, luôn tạo ra những lĩnh vực sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh năng động sẽ làm cho sản phẩm hàng hóa đa dạng về mẫu mã, nhiều chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy luật giá trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng.
Sự năng động thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Vì, việc phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các thành phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng hóa thu lợi nhuận hay nâng cao trình độ sản xuất một ngành, một lĩnh vực nhất định.
2.3.1.3 Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc.
Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận, sự đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.
Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên có nước cần vốn thì nước thừa vốn. Do tốc độ phát triển khác nhau nên có nước phát triển có nước lạc hậu; do sự phân bố tài nguyên khác nhau nên mỗi nước lại có điều kiện sản xuất khác nhau và tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường. Điều này thúc đẩy sự chuyên môn hóa, hiệu tác sản xuất để có chi phí sẽ làm cho giá cả thấp, và do đó thắng trên thương trường.
Ngoài ra, quy luật giá trị tác động có tác dụng giáo dục những cán bộ lãnh đạo kinh tế tiến hành sản xuất hợp lý, tôn trọng kỉ luật, học hỏi tiềm lực của sản xuất, tính toán chính xác, nắm bắt tình hình thực hiện của sản xuất, biết tìm cách lực lượng dự trữ tiềm tàng giấu kín trong sản xuất.
Tuy nhiên vẫn còn các cán bộ lãnh đạo, các nhà chuyên môn về công tác kế hoạch đều hiểu không thấu đáo tác dụng của quy luật giá trị, không nghiên cứu và không biết chú ý đến tác dụng đó trong khi tính toán. Là nguyên nhân vì sao chính sách nước ta còn hay mơ hồ.
2.3.2 Trong lĩnh vực lưu thông.
Phân phối và lưu thông trong xã hội chủ nghĩa có sự tác động khách quan của quy luật giá trị. Việc vận dụng quy luật lưu thông, phân phối được thể hiện ở những mặt sau.
2.3.2.1 Hình thành giá cả
Giá cả là một phạm trù phức tạp, sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là một tất yếu khách quan của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị vào những mục đích nhất định, đã phải tính đến những nhiệm vụ kinh tế, chính trị trước mắt và lâu dài, căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Hình thành giá cả là hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, cho nên khi xác định giá cả phải đảm bảo yêu cầu khách quan là lấy giá trị cơ sở, phản ánh đầy đủ những hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hóa. Giá cả phải bù đắp chi phí sản xuất hợp lý, tức là bù đắp giá thành sản xuất, đồng thời bảo đảm một mức lãi thích đáng để tái sản xuất mở rộng. Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ biến cho mọi quan hệ trao đổi, quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh nghiệp với nhau, cũng như nhà nước với nông dân.
2.3.2.2 Nguồn hàng lưu thông.
Trong nền kinh tế XHCN, việc cung cấp hàng hóa cho thị trường thực hiện một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc tế dân sinh, nếu cung cầu không cân đối thì nhà nước dùng biện pháp đẩy mạnh sản xuất, tăng cường thu mua, cung cầu theo định lượng, theo tiêu chuẩn mà không thay đổi giá cả. Chính thông qua hệ thống giá cả quy luật có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, gái bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ, và ngược lại.
Do đó mà nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh gái trị để kích thích cải tiến kĩ thuật tăng cường quản lí. Không những thế nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa trong từng thời kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sả xuất và lưu thông , điều chỉnh cung cầu cà phân phố. Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội.
Ví dụ như là giá cả của sản phẩm công nghiệp nặng lại đặt thấp hơn giá trị để khuyến khích sự đầu tư phát triển, áp dụng kĩ thuật vào sản xuất.
Tuy nhiên sự điều chỉnh này ở nước ta không phải bao giờ cũng phát huy tác dụng tích cực, nhiều khi những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn, tạo điều kiện cho hàng hóa nước ngoài tràn vào nước do giá cả hợp lý hơn.
Kinh tế thị trường tuân thủ nguyên tắc trao đổi ngang giá hàng hóa, theo đuổi hiệu quả phân phối tối ưu của các nguồn. Thước đo giá trị chú trọng hiệu quả kinh tế thị trường; một khi mở rộng, vận dụng vào lĩnh vực đời sống xã hội và quan hệ con người, không tránh khỏi sản sinh những quan hệ khác nhau gắn bó đạo đức con người đó chuẩn mực giá trị coi trọng tình nghĩa, xem thường lợi ích hay coi trọng lợi ích, xem thường tình nghĩa . “do vậy, ở nước ta, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải chú ý sự chuyển đổi quan niệm sao cho phù hợp với đạo đức dân tộc truyền thống và hiện đại. thể hiện rõ nhất ở nước ta hiện nay là nạn nhân hàng giả, trốn thuế, buôn lậu…..”
2.3.3 Tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Áp dụng Quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, chúng ta thấy được những thế mạnh của nó khi tác động vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, đó là:
2.3.3.1 Quy luật giá trị góp phần điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Trong sản xuất, nếu như một mặt hàng nào đó có giả cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy và lợi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hoá khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng. Còn nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi ở ngành khác lại có thể tăng lên. Trường hợp còn lại, mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thỡ người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này. Như vậy, quy luật giá trị đó tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tốc động điều tiết lưu thông hàng hoá của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, và do đó, góp phần làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
2.3.3.2 Quy luật giá trị kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm:
Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy người sản xuất hàng hoá nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lợi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất. Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống. Trong thực tiễn, chúng ta đã cải tiến không ngừng trong các khâu thực hiện:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Đảng ta xác định “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Các nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Vì vậy, chúng ta cần phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hóa những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
Công nghiệp hóa là tất yếu với các nước chậm phát triển. Ở nước ta, công nghiệp hóa còn nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập vì công nghiệp hóa trong điều kiện chiến lược kinh tế mở có thể đi nhanh nếu chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ quốc tế. Song chúng ta cũng gặp trở ngại do “trật tư” của nền kinh thế thế giới mà các nước tư bản thiết lập không có lợi cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Huy động nguồn vốn và sử dụng chúng hiệu quả:
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Trong đó, nguồn vốn trong nước được tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở hiệu quả sản xuất. Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyến định vì đó là nhân tố bên trong đảm bảo cho xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Và để thoát ra cái vòng luẩn quẩn: vì nghèo nên tích lũy thấp, tích lũy thấp thì tăng trưởng nền kinh tế chậm và khó thoát khỏi đói nghèo, chúng ta cần tận dụng mọi khả năng để thu hút nguồn vốn bên ngoài. Đây là nguồn vốn quan trọng vì nó không những giúp các nước lạc hậu thoát khỏi đòi nghèo mà còn góp phần nâng cao trình độ quản lý và công nghệ, tạo việc làm cho người lao động. Song, khi sử dụng nguồn vốn nước ngoài, chúng ta phải chấp nhận bị bóc lột, tài nguyên bị khai thác, nợ nước ngoài tăng lên…Vì vậy, cũng cần phải cân nhắc và sử dụng hợp lý nguồn vốn nước ngoài.
Đào tạo nguồn nhân lực:
“ Nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên”. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội" Đảng ta đó chỉ rõ: Phương hướng lớn của chính sách xã hội. Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội "công bằng, nhân ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng ta "tăng trưởng nguồn lực con người khi quá hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc" chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha hoá, không xa rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả Kinh tế đối ngoại:
Sau thời kỳ khá dài vì đóng cửa, hiện nay, mở cửa nền kinh tế là nhu cầu cấp bách đối với nền kinh tế nước ta. Trong mở cửa hội nhập, phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm nhằm thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Việt Nam gia nhập WTO là dấu mốc quan trọng trong nền kinh tế thị trường của nước ta, đẩy việc sản xuất và kinh doanh lên một tầm cao mới mà chính những người trong cuộc cần phải năng động và linh hoạt lên rất nhiều. Tuy nhiên, chúng ta luôn phải tự nhắc nhở chính mình lời kêu gọi của Chính phủ: “Hòa nhập nhưng không hòa tan”.
2.3.3.3 Phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo:
Trong xã hội những người sản xuất cá thể , đã có mầm mống của một phương thức sản xuất mới .Trong sự phân công tự phát ,không có kế hoạch nào thống trị xã hội, phương thức sản xuất ấy đã xác lập ra sự phân công ,tổ chức theo kế hoạch ,trong những công xưởng riêng lẻ ;bên cạnh sản xuất của những người sản xuất cá thể nhỏ đã làm xuất hiện sản xuất xã hội .Sản phẩm của hai loại sản xuất đó cùng bán trên một thị trường ,do đó giá cả ít ra cũng sấp xỉ nhau.Nhưng so với sự phân công tự phát thì tổ chức có kế hoạch đương nhiên mạnh hơn nhiều ;sản phẩm của công xưởng dùng lao động xã hội là rẻ hơn so với sản phẩm của những người sản xuất nhỏ,tản mạn.Sản xuất của những người sản xuất cá thể gặp thất bại từ nghành này đến nghành khác .Trong nền sản xuất hàng hoá ,sự tác động cuả các quy luật kinh tế ,nhất là quyluật giá trị tất yếu dẫn đến kết quả:những người có điều kiện sản xuất thuận lợi ,nhiều vốn,có kiến thức và trình độ kinh doanh cao ,trang bị kĩ thuật tốt sẽ phát tài ,làm giàu.Ngược lại không có các điều kiện trên ,hoặc gặp rủi ro sẽ mất vốn phá sản.Quy luật giá trị đã bình tuyển ,đánh giá những người sản xuất kinh doanh .
Sự bình tuyển tự nhiên ấy đã phân hoá những người sản xuất kinh doanh ra thành người giàu người nghèo.Người giàu trở thành ông chủ người nghèo dần trở thành người làm thuê.Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá đã chỉ ra là quá trình phân hoá này đã làm cho sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ,cùng sự bần cùng hoá của nhân dân là những hiện tượng ngẫu nhiên.Hai điều đó tất nhiên đi kèm với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự phân công lao động xã hội.Vấn đề thị trường hoàn toàn bị gạt đI,vì thị trường chẳng qua chỉ là biểu hiện của sự phân công đó và của sản xuất hàng hoá.Người ta sẽ thấy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản không những là có thể cómà còn là sự tất nhiên nữa,vì một khi kinh tế xã hội đã xây dựng trên sự phân công và trên hình thức hàng hoá của sản phẩm ,thì sự tiến bộ về kỹ thuật không thể không dẫn tới chỗ làm cho chủ nghĩa tư bản tăng cường và mở rộng thêm.
2.4. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ VẬN DỤNG TỐT HƠN QUY LUẬT GIÁ TRỊ
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NƯỚC TA THỜI GIAN TỚI.
Năm 1986 là năm đánh dấu công cuộc đổi mới khi chúng ta từng bước tiến hành chuyển dần từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang thực hiện cơ chế thị trường. Đối với nền kinh tế thị trường thì quy luật giá trị là một quy luật rất quan trọng. Thông qua sự điều tiết của quy luật giá trị với nền sản xuất hàng hóa đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của kinh tế đất nước. Như vậy việc áp dụng quy luật giá trị vào việc phát triển nền kinh tế quốc gia là điều tối cần thiết đặc biệt nước ta là một nước đang phát triển, từng bước hội nhập nền kinh tế quốc tế cần phải vận dụng đúng quy luật quy giá trị trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hươn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ qua độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thì trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (thang 3-1989), khóa VI, phát trển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dại, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kính tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm "kinh tế thị trường". Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hơn 10 năm qua, kể twg khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7%/năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,... Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
2.4.1 Những giải pháp của đảng và nhà nước ta.
Để phát huy các tác động tích cực, đẩy lùi các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường cần nâng cao vai trò quản lý của nhà nước thông qua quy hoạch, kế hoạch, công cụ tài chính,; qua các phương thức kích thích , giáo dục, thuyêt phục và cả cưỡng chế nữa. Chủ trương của Đảng ta trong thời gian tới là:
Phát triển kinh tế , công nghiệp hoá, hiện đại hoá là trung tâm .
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta.Phát triển kinh
tế,công nghiệp hoá ,hiện đại hoá để từ đó tạo đà để thực hiện những nhiệm vụ
khác,đưa nước ta nhanh chóng phát triển ,tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thi trường, tăng cường vai
trò quản lý kinh tế của nhà nước.
Đây là một yêu cầu cấp thiết ,là đIều kiện cơ bản để xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội , nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đây là nhiệm vụ nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị với nền kinh tế nước ta
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tếvà khu vực theo tinh thần phát huy tối đa
nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế , bảo đảm độc lập, tự chủvà định hướng
xã hội chủ nghĩa , bảo vệ lợi ích dân tộc , giữ vững an ninh quốc gia , giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
2.4.2 Những giải pháp của bản thân.
Bản thân chúng em, là những sinh viên còn đang ngồi trên ghế nhà trường, tương lai sẽ là nhân lực trong các nghành kinh tế, chúng em đang cố gắng nỗ lực hết sức học tập, rèn luyện bản thân đáp ứng nhu cầu của xã hội. Để đứng vững trên thương trường, để không bị đào thải bởi sự cạnh tranh gay gắt với những cá nhân trong nước và nước ngoài, Chúng em tự nhận thấy rằng ngay từ bây giờ phải trau dồi kiến thức chuyên môn tốt, tham gia tích cực các hoạt động xã hội nâng cao sự tự tin, tăng hiểu biết, không ngừng học hỏi, nâng cao tính kỉ luật, tự giác, tích cực, sáng tạo trong mọi vấn đề, hoàn thiện bản thân về tài năng cũng như về tâm. Có như, chúng em mới đáp ứng được đòi hỏi ngày càng gay gắt của xã hội, mới luôn tỉnh táo để chọn cho mình một con đường là con đường đúng đắn nhất, hiệu quả nhất để di đến thành công.
Em xin đưa ra một số biện pháp nhỏ nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta hiện nay.
Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp
nhà nước; đông thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là
nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã .
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ dianh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực
quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành cac loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bata động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã
hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội.
Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tao ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh.
Tiếp tục chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách - một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bào trừ các tệ nạn xã hộ, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại ... cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình đọ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Đây là vấn đề có
tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước.
Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới. Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng. cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường - tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh ... thì không cần phải có sự lanh đạo của Đảng Cộng Sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm "vướng chân" sự vận hành của kinh tế. Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng Sản - là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có cương lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước.
PHẦN KẾT LUẬN
Quy luật giá trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế thi
trường , nó là quy luật kinh tế căn bản chi phối sự vận động của nền kinh tế thị
trường . Sự tác động của quy luật giá trị một mặt thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế, mặt khác gây ra các hệ quả tiêu cực … Đối với nền kinh tế thi trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay, quy luật giá trị đóng một vai
trò cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên có phát huy được các mặt tích cưc , đẩy lùi các
mặt tiêu cực còn là một vấn đề phụ thuộc nhiều vào vai trò quản lý vĩ mô của nhà
nước và nhận thức của mỗi công dân.
MỤC LỤC
Phần mở đầu..............................................................................................................1
Chương 1: Cở sở lí luận về quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị với nền kinh tế thị trường ......................................................................................................2
1.1.Nội dung quy luật giá trị và sự vận động của quy luật giá trị.............................2
1.1.1Khái niệm quy luật giá trị..................................................................................2
1.1.2. Nội dung và sự vận động của quy luật giá trị .................................................2
1.1.3. Mối quan hệ giữa giá cả sản xuất, giá cả thị trường, giá cả độc quyền với giá trị hàng hoá................................................................................................................3
1.2. Vai trò quy luật giá trị với nền kinh tế thị trường ..............................................5
1.2.1 Điều tiết và lưu thông hàng hoá .......................................................................5
1.2.2 Kích thích lực lượng sản xuất phát triển..........................................................6
1.2.3 Phân hoá người sản xuất ..................................................................................7
Chương 2: Thực trạng vận dụng quy luật giá trị và giảI pháp nhằm tốt hơn quy luật giátrị ở nước ta thời gian tới .....................................................................................9
2.1. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam ..........................................................................................................................9
2.1.1.Khái niệm kinh tế thị trường ...........................................................................9
2.1.2 Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam ..................9
2.2. Mô hình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta .............................................................................................................................10
2.3. Thực trạng vận dụng cũng như tác động của quy luật giá trị với nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay .......................................................................................11
2.3.1 Trong lĩnh vực sản xuất..................................................................................12
2.3.2 Trong lĩnh vực lưu thông ...............................................................................15
2.3.3 Tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay...........................................................................................................................17
2.4. Những giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật giá trị với nền kinh tế nước ta thời gian tới .............................................................................................................21
2.4.1 Những biện pháp của đảng và nhà nước .......................................................23
2.4.2 Những biện pháp của bản thân.......................................................................24
Phần kết luận ..........................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình kinh tế chính trị
Trường đại học kinh tế quốc
Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình kinh tế chính trị
Trường đại học bách khoa Hà nội
Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình kinh tế chính trị
Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Giáo trình kinh tế chính trị ( Chương trình cao cấp).
Tập một: Chủ nghĩa tư bản . Học viện chính trị quốc gia .
Giáo trình kinh tế quốc tế.
Học viện tài chính Hà Nội.
Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế.
Học viện hành chính quốc gia Hà Nội .
Báo “phát triển kinh tế”
C.Mac: Sự khốn cùng của triết học
Nhà xuất bản sự thật,Hà nội, 1962
Văn kiện Đại hội Đảng IX
V.Lenin: Lenin toàn tập,cuốn Bàn về cái gọi là vấn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_dung_quy_luat_gia_tri_vao_nen_kinh_te_thi_truong_dinh_huong_xa_hoi_chu_nghia_cua_viet_nam_hien_nay__4921.doc