Tuy nhiên cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được KTTT là
những phẩm chất tốt đẹp nhất hình thành con người. Có những lúc, những 
nơi KTTT không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp 
hơn mà có thể ngược lại còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người 
thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻđạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức 
mạnh đồng tiền và lợi ích cá nhân sẵn sàng chàđạp lên nhân phẩm, văn hoá, 
đạo đức, luân lý. Bên cạnh những tác động tích cực KTTT cũng có nhiều hạn 
chế gây ra những tác động xấu: tệ nạn thương mại ho á trường học, xem nhẹ
truyền thống tôn sư trọng đạo, quan hệ hàng hoá tièn tệ làm sôi động thị
trường nhưng cũng xói mòn nhân cách và hạ thấp phẩm giá của con người. 
Thật không sai nếu hình dung KTTT là con dao hai lưỡi nếu dùng không cẩn 
thận sẽ bị đứt tay.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 22 trang
22 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4944 | Lượt tải: 8 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
Luận văn: 
“Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích những 
mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị 
trường định hướng XHCN ở Việt Nam” 
 2 
LỜI NÓI ĐẦU 
Mâu thuẫn không chỉ có trong lĩnh vực xã hội mà nó còn tồn tại trong 
cả lĩnh vực tư nhiên và trong chính tư duy của con nguời. 
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc 
tồn tại của mình. Trong mỗi sự vật mâu thuẫn hình thành không chỉ có một 
mà có nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập, 
mâu thuần này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành. 
Trong hoạt động kinh tế hiện tượng đó cũng mang tính phổ biến, chẳng 
hạn như mâu thuẫn giữa cung- cầu, tích luỹ-tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của 
từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng 
hoá. 
Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo 
đã giành được những thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng 
trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp 
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. 
Trong những chuyển biến đóđãđạt được những thành tựu to lớn nhưng trong 
những thành công đó luôn tồn tại những vấn đề mâu thuẫn làm kìm hãm sự 
phát triển của đất nước, của công cuộc đổi mới đòi hỏi phải được giải quyết 
nó sẽ thúc đẩy cao sự phát triển của nền kinh tế. 
 Sau khi đãđược học một số các kiến thức về triết học Mác-Lê Nin và 
một số kiến thức xuất phát từ chính thực tế của đất nước, em đã chọn đề tài 
“vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích những mâu thuẫn trong quá 
trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xhcn ở Việt Nam” làm tiểu 
luận cho môn triết học Mác-LêNin. 
 3 
CHƯƠNG 1 
CÁCVẤNĐỀCƠSỞLÝLUẬN 
Để tiến hành nghiên cứu bất cứ vấn đề nào trong thực tế, ta đều phải có 
cơ sở lý luận về vấn đề cần nghiên cứu. Trong thế giới ngày nay, mỗi sự vật 
hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được tạo thành với các mặt, 
các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau, 
chúng tạo thành các mâu thuẫn tồn tại trong sự vật, hiện tượng. 
Vậy ta hãy xem xét cơ sở lý luận của vấn đề mâu thuẫn trong nền kinh 
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 
I. Khái quát về nội dung của qui luật mâu thuẫn. 
1.1. Một số khái niệm cơ bản của qui luật. 
1.1.1. Mâu thuẫn: 
 Thuyết Âm dương - Ngũ Hành của Trung Hoa có đề cập tới các mâu 
thuẫn Âm - Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên Kim, Mộc, Thuỷ, 
Hoả và Thổ. 
Theo quan niệm của triết học Mác - Lênin, mâu thuẫn là sự thống nhất 
của các mặt đối lập. Nhưng không phải mọi cái đối lập đều tạo nên mâu 
thuẫn mà chỉ có những xu hướng đối lập nào là tiền đề tồn tại của nhau mới 
tạo thành mâu thuẫn. Để xác định một mâu thuẫn biện chứng thì phải đáp ứng 
hai điều kiện là các xu hướng đối lập nhau và các xu hướng làđiều kiện tồn 
tại và phát triển của nhau. 
1.1.2 .Vai trò của quá trình đấu tranh của các mặt đối lập: 
- Mặt đối lập là gì: là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những 
khuynh hướng phát triển ngược nhau cùng tồn tại trong một sự vật, hiện 
tượng, chúng luôn có xu hướng loại trừ nhau nhưng lại là điều kiện tồn tại 
của nhau. 
 4 
-Đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ làđộng lực của mọi sự phát 
triển và mở rộng ra mà còn làđộng lực của mọi sự vận động nói chung. Bởi vì 
sự biến đổi (vận động) của sự vật được tạo ra bởi nguyên nhân là tác động 
của các yếu tố cấu thành sự vật trong đó sự tác động mạnh mẽ nhất là các yếu 
tố cấu thành mâu thuẫn của chúng. 
1.2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn 
1.2.1. Tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn 
Đối lập với các quan điểm của triết học cũ, phép biện chứng duy vật 
khẳng định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan 
đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu 
thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng qui định. 
Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất kì một hiện tượng siêu tự nhiên 
nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều 
là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập 
nhau. 
Mâu thuẫn không những là một hiện tượng khách quan mà còn là một 
hiện tượng phổ biến. 
Tính phổ biến của nó thể hiện ở chỗ nó là một hiện tượng có trong tất 
cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Đặc biệt là trong xã 
hội loài người, mâu thuẫn trở nên phức tạp, đó là mâu thuẫn giữa QHSX và 
LLSX, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa các giai cấp đối kháng 
.v.v. Như vậy, các hoạt động kinh tế của con người chắc chắn không thể 
tránh khỏi những mâu thuẫn, điều quan trọng là trong thực tiễn phải biết phân 
tích từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, 
khuynh hướng vận động, phát triển mà giải quyết cho đúng. 
Như vậy, tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn đó được các nhà 
tư tưởng lớn khẳng định và chứng minh tính khoa học đúng đắn của nó. 
 5 
1.2.2. Sựđấu tranh của các mặt đối lập trong tính thống nhất của nó tạo ra 
nguồn gốc và nguồn lực cho môi số vấn đề và phát triển. 
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm là sự khái quát các thuộc 
tính, khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, tồn taị trong cùng một sự 
vật hiện tượng và tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Do đó cần phải phân biệt 
rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong, trong 
các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại trong đó 
hai mặt đối lập. Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng 
một sự vật như một chỉnh thể nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều 
nhau, bài trừ, phủđịnh và chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá này tạo thành 
nguồn gốc động lực đồng thời quy định các bản chất, khuynh hướng phát 
triển của sự vật thì hai mặt đối lập như vậy mới được gọi là hai mặt đối lập 
tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất của hai mặt đối lập làđiều kiện tồn tại của 
nhau. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định 
không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là 
diều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật, hiện tượng 
nào. 
Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng của bản thân sự vật tạo 
nên. 
Ví dụ: Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị 
trường (KTTT) làđiều kiện cho sự tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới 
nền kinh tếở Việt Nam, hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau về bản chất và 
những biểu hiện của nó nhưng nó lại hết sức quan trọng vì nó là sự thống 
nhất tạo nên quá trình đổi mới kinh tếở Việt Nam. Thiếu sự thống nhất này 
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó. 
Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Khi 
lực lượng sản xuất (LLSX) phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất 
(QHSX) cùng phát triển, hai mặt này chính làđiều kiện tiền đề cho sự phát 
 6 
triển của phương thức sản xuất. LLSX là yếu tốđộng, luôn luôn vận động 
theo hướng hoàn thiện còn QHSX phải vận động theo để cho kịp với trình độ 
của LLSX, tạo động lực phát triển LLSX và có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế. 
Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối. Bản thân 
khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó. Thống nhất của cái đối lập, 
trong thống nhất đã bao hàm trong đó sựđối lập. 
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách 
rời sựđấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại 
trong cùng một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không 
nằm yên màđiều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của 
bản thân sự vật. Sựđấu tranh chuyển hoá và bài trừ và phủđịnh lẫn nhau giữa 
các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. 
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối 
kháng, mâu thuẫn giữa LLSX tiên tiến với QHSX lạc hậu, kìm hãm nó diễn 
ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng 
nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách 
cơ bản. 
Sựđấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Thông 
thường khi mới xuất hiện, mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt, 
người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác 
nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn chỉ có những mặt khác nhau, tồn tại 
trong cùng một sự vật hiện tượng liên kết hữu cơ với nhau, phát triển ngược 
chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển khi hai măt ấy mới 
hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát 
triển đến giai đoạn xung đột gay gắt nó biến thành độc lập. Nếu hội đủ các 
mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Sự vật cũ mất đi, sự vật 
mới xuất hiện. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt 
đối lập cũđược thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt 
 7 
đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được 
giải quyết sự vật mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn. Cứ như thếđấu 
tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp đến 
cao. Chính vì vậy Lê Nin khẳng định” sự phát triển là một cuộc đấu tranh 
giữa các mặt đối lập”. 
Khi bàn về mối quan hệ thống nhất vàđấu tranh củacác mặt đối lập Lê 
Nin đã chỉ ra rằng: Mặc dù thống nhất chỉ làđiều kiện để sự vật tồn tại với ý 
nghĩa nó chính là nó nhờ có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà chúng ta 
nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản 
thân sự thống nhất chỉ là tương dối tạm thời, đấu tranh giữa các mặt đối lập 
mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn 
tại của sự vật, kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi chuyển hoá 
nhảy vọt về chất của các mặt đối lập, là cóđiều kiện thoáng qua, tạm thời 
tương đối. Sựđấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng 
như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối. 
1.3 Một số loại mâu thuẫn 
 1.3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài 
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nằm ngay trong chính bản thân sự 
vật. Mâu thuẫn này bao giờ cũng là nhân tố quyết định bản chất và xu thế vận 
động của chính bản thân sự vật. Ví dụ như mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX 
trong phương thức sản xuất. 
 Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tượng với 
nhau. Đó là mâu thuẫn giữa KTTT tư bản chủ nghĩa và định hướng XHCN 
của nhà nước ta. 
 Mâu thuẫn bên ngoài là phổ biến nhưng mâu thuẫn bên trong lại quyết 
định mâu thuẫn bên ngoài, vì không thông qua mâu thuẫn bên trong thì mâu 
thuẫn bên ngoài tự nó không thể phát huy được vai trò của mình. 
 8 
Việc phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài là rất cần 
thiết. Bởi mỗi loại mâu thuẫn có vị trí và ảnh hưởng nhất định đến sự phát 
triển của sự vật. Nhận thức từ vai trò của từng loại mâu thuẫn, Đảng ta trong 
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, một mặt đó tập trung mọi khả năng 
nhằm khai thác tốt nhất tiềm lực hiện có trong nước. Mặt khác, có chính sách 
đối ngoại năng động, thu hút và kỹ thuật nước ngoài hỗ trợ tích cực cho sự 
phát triển kinh tế trong nước. 
 1.3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản 
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định từ bản chất, khuynh hướng 
phát triển của bản thân các sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở hình thành và chi 
phối tất cả các mâu thuẫn khác trong sự vật, trong đó có mâu thuẫn không cơ 
bản. 
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không quyết định trực tiếp bản 
chất và khuynh hướng phát triển của sự vật nhưng có vai trò ảnh hưởng nhất 
định đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản tồn 
tại gắn liền với mâu thuẫn cơ bản trong cùng một sự vật và chịu sự chi phối 
của mâu thuẫn cơ bản. 
Khi nghiên cứu kết cấu kinh tế của xã hội TBCN ta thấy mâu thuẫn cơ 
bản của xã hội ấy là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và tính chất 
tư nhiên của chế độ chiếm hữu. Từ mâu thuẫn này sinh ra một số mâu thuẫn 
không cơ bản như: mâu thuẫn giữa tính chất có tổ chức của sản xuất trong 
từng xí nghiệp riêng rẽ với tính chất và tổ chức của sản xuất trong toàn xã 
hội, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. 
 1.3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu 
 Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn được nói lên hàng đầu ở mỗi giai 
đoạn nhất định của quá trình phát triển của sự vật. 
 Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn không đúng vai trò quyết định 
đối với quá trình phát triển của sự vật. 
 9 
 Tuy vậy, sự phân biệt giữa hai mâu thuẫn trên chỉ có tính chất tương 
đối. Trong từng điều kiện hoàn cảnh, mâu thuẫn chủ yếu có thể trở thành thứ 
yếu và ngược lại. Ta xem xét lại mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, nói chung 
thì LLSX có vai trò quyết định. Song, trong những điều kiện nhất định, 
QHSX lại có tác dụng chủ yếu và quyết định, khi mà, nếu không thay đổi 
QHSX thì LLSX không thể phát triển, lúc đó sự thay đổi QHSX lại có tác 
dụng chủ yếu và quyết định. 
 1.3.4. Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng 
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn đặc trưng chỉ có trong lĩnh vực đời 
sống xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những tầng lớp xã hội có 
lợi ích căn bản đối lập nhau đến mức không thể điều hoà được. Ví dụ như 
mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản, giữa những tàn dư của kinh tế bao cấp và 
KTTT .v.v. và chỉ cú thể giải quyết thông qua các cuộc cách mạng xã hội. 
 Mâu thuẫn không đối kháng là những mâu thuẫn xuất hiện giữa những 
lực lượng xã hội mà lợi ích về căn bản nhất trí với nhau. Ví dụ mâu thuẫn 
giữa KTTT xã hội chủ nghĩa và KTTT tư bản chủ nghĩa .v.v. 
 Nhưng hai loại mâu thuẫn trên có thể chuyển hoá cho nhau, ta xem xét 
điều đó qua mâu thuẫn giữa kinh tế thành thị và nông thôn. Trong xã hội 
TBCN, ở đó thành thị do giai cấp tư sản thống trị, bóc lột tàn khốc nông thôn 
- đó là một mâu thuẫn hết sức đối kháng. Nhưng ở xã hội XHCN, mâu thuẫn 
đối kháng đã biến thành không đối kháng, mà đến xã hội cộng sản thì mâu 
thuẫn đó sẽ hết. 
 Trên đây ta đó nêu và phân tích những nội dung cơ bản của quy luật 
mâu thuẫn, đó chính là cơ sở lý luận cho việc vận dụng quy luật này vào việc 
xác định những nguyên tắc chung trong quá trình xây dựng và phát triển. 
 10
CHƯƠNG 2 
NHỮNGMÂUTHUẪNTRONGNỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNG 
ĐỊNHHƯỚNGXÃHỘICHỦNGHĨAỞ VIỆT NAMHIỆNNAY 
2.1 Khái quát nền kinh tế thị trường của Việt Nam 
 2.1.1 Khái niệm 
 Kinh tế hàng hoáđược điều tiết bởi cơ chế thị trường hay vận động theo cơ 
chế thị trường được gọi là kinh tế thị trường. Hay theo cách khác, kinh tế thị 
trường là một nền kinh tế hàng hoá nhưng phát triển ở trình độ cao ởđó mọi 
yếu tốđầu vào của quá trình sản xuất cũng như các sản phẩm hàng hoá và 
dịch vụởđầu ra đều tồn tại dưới hình thức là hàng hoá, nóđều thông qua thị 
trường vàđều do thị trường quyết định. 
2.1.2 Nền kinh tế thị trường theo định hước XHCN ở nước ta 
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hướng XHCN là một tất yếu 
lịch sử, nó nhằm tới mục tiêu cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay cũđổi 
mới hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cả về kinh tế và chính trị - xã hội, 
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong 
hoàn cảnh, điều kiện mới. 
 Từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước XHCN đều 
thực hiện kinh tế kế hoạch tập trung. Cơ chế vận hành và quản ký kinh tế này 
được duy trì một thời gian khá dài và xem như là một đặc trưng riêng biệt của 
CNXH, là cái đối lập với cơ chế thị trường của CNTB. Sự thực thì không 
phải hoàn toàn như vậy, nền kinh tế tập trung đãđược các nước Tư bản áp 
dụng từ trước khi nhiều nước xác lập chếđộ XHCN nhưng các nước tư bản đã 
xoá bỏ cơ chế này sau khi chiến tranh kết thúc vàđãđạt được những thành tựu 
rất lớn vềkinh tế - xã hội. Công bằng mà nói, nền kinh tế thị trường cũng 
chưa phải là cái duy nhất bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của xã 
hội. 
 11
 Trong thời kỳ quáđộ lên CNXH thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng 
hoá là lẽđương nhiên. Như vậy có thể nói rằng nền kinh tế thị trường cũng 
như nền kinh tế tập trung không phải là thuộc tính cố hữu ,đặc thù của một 
chếđộ xã hội nào đó, vấn đềáp dụng mỗi nền kinh tếđó vào thời điểm, hoàn 
cảnh lịch sử nào cho phù hợp để giành laị hiệu quả cao nhất. Chúng ta đang 
trong giai đoạn quáđộđi lên chủ nghĩa xã hội, bởi thế việc phát triển KTTT là 
một tất yếu khách quan. 
Mới chỉ có hơn 10 năm đổi mới vừa qua với việc chuyển sang KTTT, 
Việt Nam đã cho nhân dân thế giới ngỡ ngàng. Từ chỗ chúng ta còn xa lạ, 
nay đã hội hội nhập được với nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Tất cả những 
thành tựu kinh tế mà chúng ta đạt được khi chuyển sang nền kinh tế thị 
trường đã nói lên công cuộc đổi mới ở nước ta là một cuộc cách mạng thật 
sự. 
Ở Việt nam cóđặc điểm là bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ 
nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là mục tiêu, nhiệm vụ không kém 
phần quan trọng, làm sáng tỏ thêm ý nghĩa và vai trò cách mạng của công 
cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta. 
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Đảng ta một lần nữa 
khẳng định những giá trị khoa học bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động. 
Nếu nhìn từ góc độ triết học. 
 Mô hình phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sựđiều tiết vĩ 
mô từ trung tâm, trong bối cảnh của thời đại ngày nay là một mô hình hợp lý 
hơn cả. Mô hình này, vềđại thểđáp ứng được những thách thức của sự phát 
triển. 
 Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là công cụ, là 
phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng XHCN. 
 12
Nền kinh tế nước ta hiện nay có thể nói đang trong giai đoạn quáđộ, 
chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị 
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, những 
đặc điểm của giai đoạn quáđộ trong nền kinh tế nước ta đương nhiên là một 
vấn đề cóý nghĩa, rất cần được nghiên cứu xem xét. Nhận thức được nhữmg 
đặc điểm đó chúng ta sẽ tránh được những sai lầm, chủ quan, duy ý chí, nóng 
vội hoặc những khuynh hướng cực đoan máy móc. 
Vậy, từ phương diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế 
quáđộ của nước ta hiện nay là gì? Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế tập 
trung quan liêu bao cấp, mọi chức năng kinh tế-xã hội của nền kinh tếđều 
được triển khai trong quá trình kế hoạch hoáở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp 
nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất, lưu thông, phân phối...khá nặng 
nề. Ở nước ta trước đây chếđộ hạch toán trên thực tế còn khá nặng nề về mặt 
hình thức. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lơịích cá nhân người lao động, một 
động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm thích đáng. Vì 
thế sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động. 
Kể từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đến nay, theo 
đường lói đổi mới, đất nước đã từng bước chuyển sang nền KTTT, với định 
hướng XHCN vàđiều đó có nghĩa là chúng ta đãđạt được những thành tựu hết 
sức quan trọng, mhững thành tựu cho phép chúng ta “điều chỉnh, bổ sung 
nhận thức, làm cho quan niệm CNXH ngày càng cụ thể hơn, đường lối, chủ 
trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. 
Những thành tựu đó trong một chừng mực nhất định cũng gián tiếp thừa nhận 
khả năng của KTTT trong việc chuyển hoá nền kinh tếđất nước. Bước sang 
cơ chế thị trường đương nhiên không tránh khỏi những tiêu cực của nó, 
nhưng nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị 
trường. Về thực chất của các bước chuyển này, dù nền kinh tế thị trường chỉ 
vừa mới được hình thành ở nước ta còn đang trong những bước chập chững 
 13
ban đầu vàđược điều tiết một cách cóý thức theo định hướng XHCN. Xong 
cũng có tác động khá rõ tới mọi mặt của đời sống xã hội vàđể lại ởđó những 
dấu ấn của mình về mặt văn hoá. Tác động quan tâm nhất của cơ chế thị 
trường là nóđã tạo ra ở nước ta những quan niệm thị trường không thuần 
khiết- những quan hệ thị trường. Sựđan xen, chi phối mành liệt của của các 
nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của xã hội vừa ra khỏi cơ 
chế hành chính- bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường bị “khúc xạ” theo 
nhiều hướng khác nhau. 
Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết thuộc về sựđổi mới các quan 
hệ sở hữu. Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu 
tương đối thuần khiết nhất với hai thành phần sở hữu chủđạo là: sở hữu nhà 
nước và sở hữu tập thể thì hiện nay cùng với thành phần sở hữu chủđạo là sở 
hữu Nhà nước còn tồn tại nhiều thành phần sử hữu khác. Những hình thức sở 
hữu đó ,trong thực tế vận hành của nền kinh tế không hẳn đãđồng bộ, đôi khi 
chúng có mâu thuẫn nhau. Xong về tổng thể, chúng là những bộ phận khách 
quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng đòi hỏi đa dạng và năng động của 
nền KTTT. 
Để giải quyết những mâu thuẫn đó thì không thể phủ nhận vai trò của 
nhà nước trong nền KTTT. Nhà nước ngoài việc phải trực tiếp quyết định 
như những vấn đề của bản thân nền kinh tế và các váan đề xã hội. Nhà nước 
với chính sách, luật lệ của mình, một mặt có khả năng làm cho nền kinh tếđạt 
tới một sự tăng trưởng có hiệu quả, nhưng mặt khác cũng chính là người phải 
lo giải quyết các vấn đề do chính sự tăng trưởng kinh tếđã tạo ra. Vềđại thể, 
chìa khoáđểđáp ứng những nhu cầu phức tạp và trái ngược nhau của xã hội 
nằm trong tay bộ máy quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên ở nước ta hiện 
nay nhà nước và nền kinh tế nhà nước có nhiều vấn đề cần được tháo gỡđể có 
thểđảm bảo được trọng trách to lớn của mình. Trên thực tế, bộ máy quản lý vĩ 
mô của nhà nước đối với nền kinh tế còn kém hiệu quả. Hầu hết các doanh 
 14
nghiệp kinh tế nhà nước đều hoạt động thiếu năng động và cóỷ lại vào Nhà 
nước. Trong một số trường hợp thậm chi kinh tế nhà nước còn vô tình hoặc 
cố tình bỏ rơi trận địa mà mình chiếm lĩnh tay cho phần tử tham nhũng tiêu 
cực. 
Điều đó có nghĩa đối với việc xác định đặc điểm của nền kinh tế 
quáđộđến thị trường ở nước ta hiện nay có lẽ vẫn là sự thừa nhận xu hướng 
chủ yếu của kinh tế Nhà nước, để kinh tế Nhà nước thực sự giữ vai trò 
chủđạo, làm đòn bẩy vàđiều chỉnh các hoạt đọng của toàn bộ nền kinh tế. 
Trên cơ sởđó, giải quyết ngay các mâu thuẫn xã hội ở tầm vĩ mô, sao cho 
tăng trưởng kinh tế không trở nên mâu thuẫn gay gắt với trật tự bình thường 
của đời sống xã hội. Đương nhiên đây là những bài toán không phải có thể 
giải quyết ngay trong một sớm, một chiều. 
Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề trên là những vấn đề cơ bản của 
bản thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay, cơ chếquản lýđang ở 
dạng hình thành nên không đồng bộ, thiếu hụt, chúng ta chưa thực sự tạo ra 
môi trường an toàn vàổn định cho sản xuất và kinh doanh. Cơ chế pháp lý 
cho các hoạt động kinh tế còn nhiều bất cập, các hoạt động tài chính, ngân 
hàng... còn nhiều điều bất hợp lý. Do vậy, trong một số vụán kinh tế, cơ chế 
quản lýđôi khi vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của KTTT. Tính chất không 
rõ ràng, thiếu xác định cả trên phương diện kinh tế-xã hội dường nhưđang là 
một cái gìđó rất phổ biến, đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tếở nước 
ta hiện nay. 
2.2 Một số mâu thuẫn cơ bản trong nền KTTT ở Việt Nam hiện 
nay 
2.2.1 Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX 
Theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin thì kinh tế quyết định chính trị,” chính trị 
là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài 
người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa 
 15
có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và Nhà nước 
xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc 
về quan hệ giai cấp vàđấu tranh giai cấp. Trung tâm của vấn đề chính trị 
làđấu tranh giai cấp giữa các lực lượng xã hội nhằm giữ chính quyền Nhà 
nước và sử dụng chính quyền đó làm công cụđể xây dựng và bảo vệ chếđộ xã 
hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Vấn đề kinh tế không thể 
tách rời vấn đề chính trị mà nóđược xem xét, giải quyết theo một lập trường 
chính trị nhất định. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát 
triển của nền kinh tế thì tất yếu sẽ không mởđường cho kinh tếđi lên. Khi đó, 
việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nền 
kinh tế làđiêù kiện tiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng 
ta có thể khẳng định rằng kinh tế chính trị thống nhất biện chứng với nhau 
trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là phương pháp luận quan trọng 
trong việc nhận thức xã hội xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở 
Việt Nam nói riêng. Không những thế, việc phát triển kinh tế vàổn định về 
mặt chính trị cũng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà 
Nước.Chính những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua đã khẳng định 
điều đó. 
 Mặc dùđãđạt được nhiều thành tựu nhưng mâu thuẫn giữa LLSX-
QHSX là một mâu thuẫn hết sức phức tạp và những biểu hiện của nó xét trên 
phương diện triết học. Theo quan điểm của triết học Mác-Lê Nin, LLSX là 
nội dung của sự vật còn QHSX là hình thức của sự vật, LLSX quyết định 
QHSX. Nếu QHSX không phù hợp với sự phát triển của LLSX mới thì bắt 
buộc phải thay đổi. Chính QHSX phải vận động để phù hợp với LLSX, 
QHSX vận động theo đó thành quy luật kinh tế chung cho sự phát triển của 
xã hội. 
 2.2.2 Mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội 
 16
 Kinh tế xã hội càng phát triển thì sự phân tầng giữa các giai cấp trong 
xã hội càng rõ nét hơn. 
 Trước hết đó là mâu thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột.Nước ta đang ở 
thời kỳ quá độ lên CNXH, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, cú nhiều 
loại hình sở hữu và kinh doanh, trong đó có cả hình thức kinh doanh có thuê 
mướn lao động. Như vậy, ở đây đó xuất hiện một mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa 
lợi ích của nhà kinh doanh (bóc lột) và lợi ích của người lao động (bị bóc lột). 
Nếu không giải quyết tốt mâu thuẫn này thì có thể xảy ra hai trường hợp: 
hoặc là lợi ích của người lao động, hoặc là lợi ích của nhà kinh doanh bị vi 
phạm, cả hai trường hợp đều ảnh hưởng tới lợi ích của nhân dân, của Nhà 
nước. 
Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa bình đẳng và bất bình đẳng. 
Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn này là giữa bình đẳng xã hội với tính cách 
là mục tiêu của CNXH đó mâu thuẫn với sự bất bình đẳng trong hưởng thụ 
do sự không ngang bằng nhau của các cá nhân, nhóm xã hội trong lao động 
và đóng góp trong nền KTTT. Mâu thuẫn này nếu không được giải quyết 
thường xuyên và đúng đắn có thể xảy ra hai trường hợp: hoặc là, do nhận 
thức không đúng, Nhà nước can thiệp một cách chủ quan vào tiến trình xã 
hội, vi phạm những nguyên tắc của công bằng xã hội dẫn đến kìm hãm sự 
phát triển kinh tế; hoặc là, do sự phát triển tự phát của KTTT Nhà nước 
không có biện pháp điều chỉnh thích hợp dẫn đến sự bất bình đẳng tích lũy 
dần, phân cực xã hội sâu sắc, xã hội ngày càng xa dời mục tiêu XHCN. 
 2.2.3 Mâu thuần giữa các hình thái kinh tế trước đây trong KTTT. 
Trước đây người ta quan niệm rằng hình thức sở hữu trong chủ nghĩa 
xã hội là sở hữu CNXH, tồn tại dưới 2 hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu 
tập thể. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên CNCS của giai cấp công 
nhân và nông dân tập thể. 
 17
Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác 
xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường 
hợp tác xãđãđược tổ chức trên cơ sởđóng góp cổ phần và sự tham gia lao 
động trực tiếp của xã viên, phân phối theo hiệu quả lao động và theo cổ phần, 
mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung, điều này cho thấy 
kết cấu bên trong của sở hữu tập thểđã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước 
ta hiện nay. 
 2.2.4.Mâu thuẫn giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người 
XHCN. 
 Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước 
hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người đặc biệt giữ vai trò quan 
trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng 
tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, con người phát triển cao về 
trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tính thần, trong sáng vềđạo đức 
là sự nghiệp xây dựng của xã hội mới là mục tiêu của CNXH. 
KTTT là một loại hình thái kinh tế trong đó các mối quan hệ kinh tế 
giữa con người với con người được biểu hiện thông qua việc mua bán, trao 
đổi hàng hoá tiền tệ. KTTT phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của 
xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưỏng kinh tế thúc đẩy xã hội 
tiến lên. Tuy nhiên KTTT cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính 
tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp 
khủng hoảng chu kỳ. 
Xuất phát từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng đổi mới nước ta 
hiện nay không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố KTTT. 
Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ 
chế tập trung quan liêu bao cấp .. nền kinh tế của nước ta đã tụt hậu nghiêm 
trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó KTTT làđiều kiện rất 
 18
quan trọng đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng và phát triển, phục 
hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. 
 Tuy nhiên cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được KTTT là 
những phẩm chất tốt đẹp nhất hình thành con người. Có những lúc, những 
nơi KTTT không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp 
hơn mà có thể ngược lại còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người 
thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻđạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức 
mạnh đồng tiền và lợi ích cá nhân sẵn sàng chàđạp lên nhân phẩm, văn hoá, 
đạo đức, luân lý...Bên cạnh những tác động tích cực KTTT cũng có nhiều hạn 
chế gây ra những tác động xấu: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ 
truyền thống tôn sư trọng đạo, quan hệ hàng hoá tièn tệ làm sôi động thị 
trường nhưng cũng xói mòn nhân cách và hạ thấp phẩm giá của con người... 
Thật không sai nếu hình dung KTTT là con dao hai lưỡi nếu dùng không cẩn 
thận sẽ bịđứt tay. 
 Những phân tích trên cho thấy, KTTT là mục tiêu xây dựng con người 
XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. KTTT 
vừa tạo ra những điều kiện xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo 
ra những độc tốđầu độc, huỷ hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn đó là 
việc làm không đơn giản. Đối với nước ta mâu thuẫn đóđược giải quyết bằng 
vai trò lãng đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng 
XHCN. 
KẾT LUẬN 
Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt 
Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa đó và đang nảy sinh hàng loạt mâu 
thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa các kiểu kinh tế thị trường như là một đặc trưng 
của CNTB với việc thực hiện kinh tế thị trường ở nước ta; mâu thuẫn các 
tầng lớp trong xã hội với định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa lợi ích cá nhân 
và lợi ích xã hội; giữa sự yếu kém của quan hệ sản xuất với trình độ của lực 
lượng sản xuất; giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. 
 19
Sự thành công trong việc xây dựng CNXH ở Việt Nam phụ thuộc vào 
việc giải quyết giữa mâu thuẫn đó. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu những 
mâu thuẫn đó và tìm ra phương hướng giải quyết chung. Nghiên cứu mâu 
thuẫn là phải thấy được mâu thuẫn nào là cơ bản, mâu thuẫn nào là không cơ 
bản, rồi cuối cùng tìm ra phương hướng giải quyết mâu thuẫn, từ đó các mâu 
thuẫn không cơ bản sẽ được giải quyết. 
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn 
Thị Bích Thủyđã giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này. 
 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Triết học Mác Lênin dùng trong các trường Đại học và cao đẳng khối 
kinh tế, tập II, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, trang 58-69, 
172,178,241. 
2. Triết học Mác Lênin dùng chung cho các trường Đại học, cao đẳng, 
tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội 2000, trang 141,211. 
3. Văn Kiện Đại hội IV, NXB sự thật, Hà Nội, trang 42. 
4. Văn kiện đại hội lần thứ 3 ban chấp hành trung ương khoá VIII, NXB 
chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, trang 15. 
6. Nguyễn Tuấn Hùng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa' 
mâu thuẫn và phương hướng giải quyết, nghiên cứu lý luận, số 8-2000, trang 
18-21. 
Giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện tốt giữa tăng trưởng kinh tế và 
công bằng xã hội ở nước ta, triết học số 5 (111) - 10/1999, trang 20-23. 
7. Dương Thị Liễu: vai trò nhà nước trong việc định hướng xã hội chủ 
nghĩa kỹ thuật thị trường ở nước ta, kinh tế và phát triển số 36-5/6/2000 trang 
34-35. 
8. Đỗ Nguyên Phương: về hiện tượng phân tầng xã hội ở nước ta hiện 
nay, nghiên cứu trao đổi, số 3-1999 trang 30, 33. 
9. Phạm Đức Thành: mấy vấn đề về nguồn nhân lực Việt Na, kinh tế và 
phát triển, số 42-12/2000 trang 19. 
10. Phạm Trung Thanh: phương pháp thực hiện đề tài nghiên cứu khoa 
học. Trong sinh viên, NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội 2000, trang 104. 
11. Mai Hữu Thực về đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa ở Việt Nam, tạp chí Cộng sản số 4/ tháng 2-2000, trang 39-42. 
12. Thời báo kinh tế Việt Nam, số 146 (712) - thứ 4- 6/12/2000, số 151 
(717) thứ 2-18/12/2000. 
13. Kinh tế chính trị Mác Lênnin, tập I NXB giáo dục, Hà Nội 1996, 
trang 30,31. 
14. Kinh tế chính trị Mác Lênin dùng trong các trường Đại học, cao 
đẳng khối kinh tế tập II, NXB giáo dục Hà Nội, 1996, trang 104, 191. 
 21
MỤCLỤC 
LỜINÓIĐẦU ............................................................................................................ 1 
CHƯƠNG 1: CÁCVẤNĐỀCƠSỞLÝLUẬN ............................................................ 3 
I. Khái quát về nội dung của qui luật mâu thuẫn. ................................................ 3 
1.1. Một số khái niệm cơ bản của qui luật. .......................................................... 3 
1.1.1. Mâu thuẫn: ................................................................................................ 3 
1.1.2 .Vai trò của quá trình đấu tranh của các mặt đối lập: .................................. 3 
1.2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn................................................................. 4 
1.2.1. Tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn ............................................. 4 
1.2.2. Sựđấu tranh của các mặt đối lập trong tính thống nhất của nó tạo ra 
nguồn gốc và nguồn lực cho môi số vấn đề và phát triển. ................................... 5 
1.3 Một số loại mâu thuẫn .................................................................................. 7 
1.3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài ........................................... 7 
1.3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản ......................................... 8 
1.3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu ................................................. 8 
1.3.4. Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng ................................................. 9 
CHƯƠNG 2: 
NHỮNGMÂUTHUẪNTRONGNỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNGĐỊNHHƯỚNGX
ÃHỘICHỦNGHĨAỞ VIỆT NAMHIÊNNAY ............................................................. 10 
2.1 Khái quát nền kinh tế thị trường của Việt Nam ........................................... 10 
2.1.1 Khái niệm ................................................................................................ 10 
2.1.2 Nền kinh tế thị trường theo định hước XHCN ở nước ta .......................... 10 
2.2 Một số mâu thuẫn cơ bản trong nền KTTT ở Việt Nam hiện nay........... 14 
2.2.1 Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX ............................................................. 14 
2.2.2 Mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội ................................................. 15 
2.2.3 Mâu thuần giữa các hình thái kinh tế trước đây trong KTTT.................... 16 
2.2.4.Mâu thuẫn giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN. ............. 17 
KẾTLUẬN ...................................................................................................... 17 
 22
DANHMỤCCÁCTỪNGỮVIẾTTẮT 
LLSX: lực lượng sản xuất 
QHSX: quan hệ sản xuất 
KTTT: kinh tế thị trường 
CNXH: chủ nghĩa xã hội 
CNTB: chủ nghĩa tư bản 
CNCS: chủ nghĩa cộng sản 
XHCN: xã hội chủ nghĩa 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tr_14_1337.pdf tr_14_1337.pdf