Tóm lại, luận văn đã đề cập và giải quyết tương đối có hệ thống vấn đề văn hoá
gia đình và xây dựng gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở chỉ
ra thực trạng, luận văn đã mạnh dạn nêu lên những phương hướng cơ bản và đề xuất
những giải pháp chủ yếu trong việc xây dựng văn hoá gia đình cũng như gia đình văn hoá
trong thời gian tới. Tuy nhiên, để vấn đề này thực sự phát huy có hiệu quả thì các giải
pháp phải được thực thi một cách đồng bộ để vấn đề xây dựng văn hoá gia đình và gia
đình văn hoá góp phần quan trọng vào sự thay đổi diện mạo của quê hương Hà Tĩnh
trong sự phát triển kinh tế cũng như tiến bộ xã hội tạo đà cho sự hoà nhập với đất nước và
thế giới.
104 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4071 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Hà tĩnh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyết định của gia đình đối
với trình độ văn hoá và ý thức đạo đức của con người trong mọi ứng xử. Ngày nay, có thể
nói rằng nguyên nhân chủ yếu của mọi tệ nạn xã hội bắt đầu từ sự suy thoái của gia đình.
Văn hoá gia đình Hà Tĩnh đang trong quá trình chuyển đổi từ giá trị văn hoá
truyền thống sang giá trị văn hoá hiện đại. Do đó, khó tránh khỏi những vấp váp, lúng
túng, lệch chuẩn do những tư tưởng bảo thủ và hành động cực đoan chi phối - cũng cần
phân biệt được giá trị và phản giá trị, những hạn chế và tiêu cực, sự chối bỏ những giá trị
nhân văn và hiện đại, sự lệch chuẩn và sai lầm trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá
để góp phần giáo dục nhân cách thế hệ trẻ.
Nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường là môi trường khách quan có thể làm
cho các gia đình chủ động hơn và phát huy những tiềm năng vốn có, sản xuất làm ăn, thu
nhập cao hơn cải thiện được điều kiện Đảng và mức sống trong mỗi gia đình tạo điều
kiện cho mỗi thành viên sống dân chủ, tự do, bình đẳng và công bằng hơn trước. Tuy
nhiên, nó cũng có những mặt trái như: sự thiếu chăm lo tình cảm tâm lý gia đình, sự
xuống cấp về đạo đức do thế lực đồng tiền và vấn đề đặt quyền lợi cá nhân, vật chất lên
trên mọi đạo lý thông thường trong quan hệ các thành viên của gia đình và trong cộng
đồng xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ
rõ “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò
gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hoá. Xây dựng mối
quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội” [17, tr.60].
Trước thực trạng văn hoá gia đình hiện nay, Đảng và nhà nước ta tiếp tục và duy
trì cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá. Với những thành tựu đã đạt được, phát huy
truyền thống tốt đẹp của cha ông, phong trào xây dựng gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh ngày
một có những bước tiến đáng kể, phấn đấu để gia đình văn hoá là gia đình phát triển về
vật chất, tinh thần, thể hiện qua nề nếp, kỷ cương, hoà thuận thương yêu đùm bọc lẫn
nhau và có trách nhiệm đối với nhau giữa các thành viên. Có hướng xây dựng gia đình
giàu có ít con, tiến bộ, hạnh phúc. Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: gia đình
tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Vì thế việc xây dựng gia đình văn
hoá Hà Tĩnh và rộng hơn là môi trường văn hoá Hà Tĩnh trong sáng, lành mạnh, văn
minh không chỉ có tác động mạnh mẽ đối với quá trình phát triển bền vững của tỉnh mà
còn có ý nghĩa lớn lao đối với việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc trên phạm vi cả nước.
3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hoá
3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức
Để công tác xây dựng gia đình văn hoá đạt hiệu quả, phải nâng cao nhận thức từ
các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội và mọi tầng lớp nhân dân về mục tiêu, vai trò của
phong trào xây dựng gia đình văn hoá.
Từng bước nâng cao nhận thức cho mọi người dân Hà Tĩnh thấy rõ sự cần thiết và
tính cấp bách của cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá nhằm hình thành một lối
sống, nếp sống có văn hoá trong mỗi gia đình, trong mỗi người dân đáp ứng nhu cầu phát
triển của xã hội hiện nay, đồng thời giữ gìn và phát triển tốt những tinh hoa truyền thống,
những mỹ tục mà cha ông ta đã để lại. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể từ tỉnh
đến cơ sở trước hết phải nhận thức được trách nhiệm của mình đối với cuộc vận động xây
dựng gia đình văn hoá, thấy rõ được tác dụng tích cực của cuộc vận động sẽ là động lực
thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh nhà.
Cần phải xác định trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp, các tổ
chức chính trị - xã hội Hà Tĩnh đối với cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá. Sự
quan tâm tới những nội dung hoạt động cụ thể của cuộc vận động xây dựng gia đình văn
hoá với mục tiêu giữ gìn sự ổn định của các gia đình, tế bào của xã hội, thực sự là tổ ấm
hạnh phúc cho mỗi thành viên. Tăng cường việc giáo dục và nâng cao hiểu biết một cách
đầy đủ những kiến thức khoa học và thẩm mỹ cần thiết trong đời sống gia đình cho mọi
người đặc biệt chú trọng đến tầng lớp thanh, thiếu niên và nhi đồng.
Đồng thời cần có quyết tâm, sự thống nhất về mặt tổ chức chỉ đạo của Tỉnh uỷ,
UBND, MTTQ và các đoàn thể trong quá trình triển khai cuộc vận động; đồng thời động
viên được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn
xã hội, trước hết quan tâm từ mỗi gia đình, cụm dân cư, phường, xã, thị trấn, khu tập thể,
cơ quan, xí nghiệp, trường học... trên mọi địa bàn. Nêu cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp uỷ Đảng, nâng cao trách nhiệm của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể mỗi
địa phương đối với quá trình thực hiện cuộc vận động ở từng cơ sở. Phải có sự phối hợp
thường xuyên và đồng bộ giữa chính quyền với mặt trận và các đoàn thể quần chúng dưới
sự lãnh đạo của Đảng, khơi dậy được tiềm năng, lòng nhiệt tình, tính tự giác của mọi tầng
lớp nhân dân.
Trong quá trình thực hiện, các ngành, các đoàn thể xây dựng cho được mô hình,
chương trình hành động cụ thể để phát huy cao nhất khả năng của từng thành viên. Thực
hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ trong mọi việc xây
dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, huy động mọi tiềm năng để đẩy mạnh cuộc vận động xây
dựng gia đình văn hoá và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
ở khu dân cư”. Đưa nội dung các cuộc vận động đến từng thôn, làng, tổ dân phố và các
gia đình để mỗi gia đình biết và phấn đấu đạt danh hiệu gia đình văn hoá, tổ dân phố văn
hoá, làng xã văn hoá, đơn vị văn hoá... UBND và MTTQ phải huy động các tầng lớp
nhân dân tham gia bàn bạc nhiều vấn đề thiết thực tại địa phương về phát triển kinh tế,
xây dựng và quản lý đô thị, về trật tự an toàn xã hội, trật tự an toàn giao thông...
Sự kết hợp chặt chẽ giữa UBND và MTTQ cùng các đoàn thể khác nhằm thống
nhất được các mục tiêu, xây dựng các chỉ tiêu cụ thể, những biện pháp thiết thực nhằm
tạo ra hành lang pháp lý cho cuộc vận động đồng thời thể hiện vai trò trách nhiệm của
chính quyền, mặt trận và các tổ chức thành viên, đề cao tinh thần trách nhiệm của mỗi
công dân trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá và đời sống văn hoá cơ sở.
Hội phụ nữ:
Hội phụ nữ có vị trí chủ đạo trong công cuộc xây dựng gia đình văn hoá bởi hội có
thế mạnh riêng, có thể thường xuyên vận động, tiếp cận với từng thành viên của gia đình
trong đó có người phụ nữ. Bằng các quan hệ về vật chất, tinh thần, tình cảm của các hội
viên mà Hội phụ nữ dễ dàng tiếp cận các thành viên trong gia đình. Qua đó, hội đề ra các
chủ trương, kịp thời điều chỉnh sự chỉ đạo cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn khách
quan.
Từ cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá của Tỉnh nhà, Hội phụ nữ đã rút ra
được nhiều kinh nghiệm bổ ích và cần phát huy trong cuộc vận động này. Đó là phải làm
cho mọi người đặc biệt là các hội viên hiểu rõ quan điểm của Đảng, mục đích, ý nghĩa và
tầm quan trọng của cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá. Trong cuộc vận động phụ
nữ luôn đi đầu và phát huy vai trò nòng cốt. Trong quá trình tiến hành cuộc vận động cần
đôn đốc, kiểm tra, rút kinh nghiệm để chỉ đạo kịp thời, sát sao, đúng đắn. Luôn theo dõi,
giúp đỡ, tạo điều kiện cho các gia đình thực hiện được những tiêu chuẩn đã cam kết.
Chúng ta thấy rằng, cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh là một
công cuộc lâu dài, đòi hỏi nhiều công sức vì vậy người cán bộ hội phải kiên trì, nhẫn nại,
nhiệt tình và sâu sát.
Phương châm của cuộc vận động mà hội phải quán triệt là coi trọng tuyên truyền
bề rộng để gây khí thế, lôi cuốn được đông đảo quần chúng hưởng ứng, tham gia. Đồng
thời phải phát động chiều sâu giải quyết những việc cụ thể cho có kết quả thực tế, làm
cho quần chúng tin tưởng vào hiệu quả của phong trào.
Thông qua cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá, cán bộ các cấp hội phụ nữ
Hà Tĩnh sẽ nâng cao được năng lực tổ chức, tăng cường ý thức trách nhiệm công tác hội,
rèn luyện tác phong công tác, tình cảm giữa cán bộ hội và quần chúng. Tổ chức hội từ
nông thôn đến thành thị được củng cố và bổ sung cho nhau những kinh nghiệm của hoạt
động hội.
Từ sự phân tích trên chúng ta thấy rằng, Hội liên hiệp phụ nữ là nhân vật trung
tâm của cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá và là trung tâm gắn kết thường xuyên
của các mẫu hình văn hoá gia đình và gia đình văn hoá.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh:
Thanh niên luôn là lực lượng đi đầu trong mọi hoạt động, lực lượng thanh niên
hiện nay chiếm hơn 30% dân số của địa phương do đó có vị trí quan trọng trong cộng
đồng dân cư. Với tính nhạy bén, năng động và sáng tạo, có ý thức tự chủ, có thị hiếu văn
hoá lành mạnh, sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ nên thanh niên là lực lượng
chủ yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Phát huy những truyền thống tốt đẹp của thanh niên, tuổi trẻ Hà Tĩnh tiếp tục làm
tốt công tác tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức về cuộc vận
động xây dựng gia đình văn hoá và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá”. Tỉnh đoàn cùng với MTTQ, Hội phụ nữ, Hội nông dân phối hợp hành động
làm cho đời sống văn hoá của nhân dân ở cơ sở ngày càng thêm sinh động và phong phú.
Song song với việc thanh niên tham gia vào cuộc vận động xây dựng gia đình văn
hoá, cần phải bồi dưỡng cho họ những chuẩn mực giá trị tư tưởng chính trị, chuẩn mực
giá trị thẩm mỹ văn hoá truyền thống. Việc xây dựng môi trường văn hoá gia đình - văn
hoá xã hội là việc làm cần thiết bởi đây là yếu tố tác động đa chiều đến tâm hồn, tình
cảm, lối sống của thanh niên.
Phải khẳng định rằng Đoàn thanh niên Hà Tĩnh là một trong những lực lượng
xung kích trên mặt trận xây dựng văn hoá gia đình và gia đình văn hoá của tỉnh nhà. Sự
đóng góp của đoàn vào cuộc vận động là ở chỗ làm cho giới trẻ và quần chúng nhân dân
nhận thức rõ về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của cuộc vận động, đồng thời giáo dục
cho đoàn viên của mình về truyền thống gia đình, tổ tiên “Giúp hình thành cả thể chất và
tinh thần của mỗi công dân về tình yêu: yêu nhà, yêu nước, yêu người, về niềm tin, lương
tâm, nghĩa vụ và thị hiếu” [46, tr.24].
Các cấp bộ đoàn cần xây dựng chương trình, kế hoạch liên tịch với các ban ngành
nhất là ngành văn hoá - thông tin để tranh thủ và tạo sức mạnh đồng bộ trong việc động
viên tuổi trẻ tham gia cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá. Tham gia giữ gìn và
phát triển bản sắc văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để làm giàu
thêm văn hoá Việt Nam.
Hội nông dân:
Hội nông dân của tỉnh là một trong những thành viên tích cực của cuộc vận động xây
dựng gia đình văn hoá ở các huyện. Hội chịu trách nhiệm nghiên cứu đề xuất nội dung tổ
chức vận động phù hợp với chức trách của mình.
Mục tiêu vận động của hội là: Xây dựng người nông dân Hà Tĩnh trong thời kỳ
đổi mới có nếp sống lành mạnh, có kiến thức, trách nhiệm với gia đình, quê hương, đất
nước. Cần cù, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất. Đẩy mạnh phát triển kinh tế
xã hội, xây dựng tổ chức hội ngày càng vững mạnh, xây dựng nông thôn mới đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Cuộc vận động của Hội còn tập trung vào công tác giúp nhau phát triển kinh tế gia
đình, thực hiện từng bước xoá đói giảm nghèo trong khu vực nông thôn, xoá bỏ những
tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan...
Liên đoàn lao động:
Liên đoàn lao động Hà Tĩnh đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng nội
dung và chỉ đạo, đôn đốc cuộc vận động trong khu vực nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, khu tập
thể, gia đình cán bộ công chức. Hướng hoạt động chủ yếu của liên đoàn lao động trong cuộc
vận động xây dựng gia đình văn hoá là tăng cường giáo dục ý thức kỷ luật lao động công
nghiệp, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho mọi cán
bộ, công chức, làm cơ sở vững chắc cho việc hình thành, phát triển tập thể văn hoá, gia đình
văn hoá.
Hội cựu chiến binh:
Hội cựu chiến binh tham gia cuộc vận động các đối tượng với tư cách là các Cựu
chiến binh tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và cuộc chiến tranh bảo vệ
biên giới của Tổ quốc. Hội động viên các hội viên phát huy vai trò, bản chất tốt đẹp của
anh bộ đội cụ Hồ, gương mẫu trong mọi công tác tại phường, xã và cơ quan. Tham gia
giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống cách mạng, về đạo đức, lối sống có văn hoá, tham gia
vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gia đình...
Như vậy, cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá và văn hoá gia đình là cuộc
vận động văn hoá lớn mang tính lâu dài và có ý nghĩa chính trị - xã hội vô cùng sâu sắc,
quan trọng. Tiếp tục một bước thực hiện đưa nghị quyết TW5 của Đảng vào cuộc sống
góp phần thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chung, là một mắt xích quan
trọng trong quá trình đổi mới, thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH quê hương Hà Tĩnh. Do
đó các cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể tổ chức xã hội đều có trách nhiệm triển
khai thực hiện phong trào đầy đủ và nghiêm túc.
3.2.2. Nhóm giải pháp về xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế liên quan
Xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách liên quan đến việc triển
khai, tổ chức hoạt động đối với phong trào xây dựng gia đình văn hoá. Nghiên cứu đối
tượng gia đình và xây dựng các tiêu chuẩn gia đình văn hoá tương ứng.
Gia đình là tế bào của xã hội, cấu thành cộng đồng xã hội, chi phối toàn bộ đời
sống con người, luôn biến đổi theo thời gian và phát triển cùng với nền kinh tế xã hội.
Nhưng do những điều kiện phát triển kinh tế, trình độ dân trí và lối sống, trình độ giáo
dục chính trị ở khu vực thành thị và nông thôn có khác nhau cho nên phải tìm ra những
cách xử lý khác nhau trong việc xây dựng gia đình văn hoá và nội dung tiêu chuẩn gia
đình văn hoá phù hợp. Đồng thời áp dụng những biện pháp vận động và tuyên truyền phù
hợp cho mỗi vùng, mỗi đối tượng. Trên cơ sở đó chúng ta sẽ có những biện pháp để xác
định những chỉ tiêu, kế hoạch phát triển các gia đình văn hoá cũng như có chiến lược lâu
dài trong việc nâng cao chất lượng các gia đình văn hoá.
Có thể phân chia khu vực dân cư của Hà Tĩnh thành hai loại chủ yếu là thành thị
và nông thôn. Các gia đình ở nông thôn chủ yếu làm nông nghiệp, trình độ dân trí thấp,
vẫn còn tồn tại nhiều tập tục lạc hậu như lệ làng, lệ xóm... Còn các gia đình ở Thành phố,
thị xã lại chủ yếu cán bộ công chức, công nhân, buôn bán... có trình độ dân trí cao, mức
sống cũng như chất lượng cuộc sống cao hơn. Ngoài ra còn phải căn cứ các loại hình gia
đình như gia đình hai thế hệ, mở rộng hay khuyết thiếu...
Từ thực tế đó cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu phân loại để có cơ sở cho việc
vạch ra những biện pháp xây dựng tiêu chuẩn gia đình văn hoá cho từng loại gia đình,
từng khu vực. Đồng thời tìm ra những phương pháp, biện pháp tuyên truyền vận động
thực thi trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá các khu vực khác nhau nhằm hướng
tới mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Các chính sách về gia đình
+ Giáo dục thế hệ trẻ về gia đình:
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo ra cho con
người nhiều khả năng mới để lao động nhẹ nhàng hơn mà vẫn đạt hiệu quả cao, có thì giờ
nhàn rỗi nhiều hơn, có nhiều tiện nghi và được hưởng thụ nhiều hơn, do đó cũng góp
phần thay đổi nếp sống, nếp nghĩ của con người đặc biệt ảnh hưởng đến sự phát triển văn
hoá gia đình.
Tuy nhiên, sự “hiện đại hoá” đời sống kéo theo sự “hiện đại hoá” về tư tưởng
nghĩa là con người đã không có những cố gắng tương xứng để trau dồi mình cả về mặt
đạo đức và nhân cách. Rất tiếc là hiện nay tiếng nói của người già không được coi trọng
như trước, con cái không còn quan tâm đến cha mẹ đúng mực. Vấn đề tình yêu và hôn
nhân cũng vậy. Vấn đề chung thuỷ, trinh tiết, sống thử (đã bàn ở phần trên) đang diễn ra
theo chiều hướng tiêu cực.
Từ những vấn đề trình bày trên đây, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, xây dựng
được quan điểm lý luận mới có khả năng phân tích và lý giải đời sống thực tế, hướng cho
các gia đình xử lý đúng đắn vấn đề giáo dục xây dựng nhân cách cho thế hệ trẻ phục vụ
cho sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Chúng ta phải xây dựng một chính sách giáo dục trên nguyên tắc kế thừa những
giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống đồng thời kết hợp với phương pháp giáo dục hiện
đại nhằm phù hợp với sự thay đổi của xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng giáo dục gia đình còn thiếu sót có thể là do đời
sống kinh tế còn quá khó khăn, trình độ học vấn, kiến thức và năng lực ở một số gia đình
còn thấp, quỹ thời gian cho giáo dục gia đình còn ít, hiện tượng tiêu cực xã hội gia tăng
do lối sống, sinh hoạt, sự mất ổn định từ gia đình... và quan trọng hơn cả là thiếu chính
sách của nhà nước về phát triển gia đình, chăm lo cho thế hệ trẻ.
Những nguyên nhân trên đây cũng là tiền đề cho các điều kiện tăng cường giáo
dục gia đình có hiệu quả nếu được xem xét nó dưới một giải pháp chỉnh thể. Những điều
kiện khách quan chủ yếu để giáo dục gia đình có hiệu quả phải là sự hợp tác giữa gia
đình với nhà trường, các thiết chế xã hội khác mà sự hỗ trợ của nhà nước trong chức năng
xã hội hoá giáo dục con người và xã hội hoá gia đình, đảm bảo cho gia đình trở thành nền
tảng của xã hội, chăm lo giáo dục công dân mới cho sự phát triển đất nước.
+ Chính sách xoá đói giảm nghèo:
Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng, mục tiêu của cuộc sống kinh tế xã hội đều nhằm
phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hoà giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hoá - xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội,
giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở
và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội nhằm tạo động lực cho sự phát triển kinh tế.
Quán triệt phương châm đó, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tác động trực
tiếp đến gia đình với tư cách là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng như: cuộc sống ruộng
đất, chính sách tiền lương, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách bảo hiểm xã hội,
chính sách bảo hiểm y tế... Trong thời gian tới nhà nước cần có những cơ chế ưu đãi hợp
lý để thực hiện tốt những chính sách này.
Để xoá đói giảm nghèo đạt hiệu quả cao thì chính sách của các ngân hàng phải
thông thoáng, thuận tiện trong quá trình làm thủ tục vay vốn. Thời hạn cho vay phải phù
hợp với thời hạn đầu tư sản xuất của nông dân. Cái quan trọng nhất là cho vay với lãi suất
ưu đãi và tăng mức cho vay. Người sản xuất, các tổ chức kinh tế ở nông thôn được thế
chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay ngân hàng, được vay bằng tín chấp và vay theo
dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Xây dựng và duy trì các quỹ tín dụng nhân dân ở
các xã/ phường, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn.
Hiện tại, nhà nước dành nguồn vốn khá lớn cho việc kích cầu nền kinh tế trong
điều kiện suy thoái kinh tế toàn cầu. Đây là một chính sách đúng đắn và phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân. Vấn đề đặt ra là phải sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý và
có hiệu quả.
+ Chính sách về lao động và việc làm:
Nhà nước cần dành vốn ngân sách đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề đồng thời
có cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hoá phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng.
Có chính sách thu hút những người được đào tạo về việc làm ở nông thôn nhất là vùng
sâu vùng xa.
Thực hiện chính sách hỗ trợ và bảo hộ hợp lý một số ngành có triển vọng nhưng
còn nhiều khó khăn như chăn nuôi, rau quả... để nông dân phát triển sản xuất và hạn chế
được những rủi ro trong quá trình thực hiện các chương trình phát triển kinh tế.
Cung cấp các kiến thức sản xuất kinh doanh mới cho người lao động các hộ gia
đình. Đồng thời đưa kỹ thuật công nghệ mới đến tận các gia đình.
+ Chính sách đẩy nhanh CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của CNH và HĐH đất nước. Chủ trương này hướng về phục vụ đối tượng chính
sách là các gia đình nông dân.
Trong quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn cần có sự kết hợp chặt chẽ
các vấn đề kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, ổn định xã
hội và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của các gia đình nông
thôn. Giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá và thuần phong mỹ tục để nông thôn xích
lại gần thành thị.
Mục tiêu của chính sách CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn là xây dựng một nền
nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả và bền vững xây dựng nông thôn ngày càng
giàu đẹp, dân chủ công bằng văn minh có cơ cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày
càng hiện đại. Cần đầu tư thoả đáng cho các vùng nghèo để đạt được mục tiêu công bằng
xã hội.
+ Chính sách nâng cao đời sống văn hoá xã hội và phát triển nguồn nhân lực:
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá, làng xã, khối phố văn
hoá. Phục hồi và phát triển nền văn hoá truyền thống. Phát huy tình làng nghĩa xóm, sự
giúp đỡ và hỗ trợ nhau phát triển trong cộng đồng dân cư.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả các thiết chế văn hoá; bảo vệ và tôn tạo các di
tích lịch sử, di sản văn hoá, danh lam thắng cảnh, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ và phát huy
tiềm năng sáng tạo của nhân dân.
Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục, y tế phục vụ sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nhà nước cần tăng
cường đầu tư vào việc nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt chú ý đến vấn đề nuôi dạy trẻ
em, tạo điều kiện cho con em học tập tốt hơn, hoàn thành việc phổ cập các bậc học. Có chính
sách tuyển chọn người tài để đào tạo cán bộ, công nhân phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
3.2.3. Nhóm giải pháp về tuyên truyền giáo dục, tổ chức thi đua tổng kết,
đánh giá, khen thưởng, nhân rộng điển hình
Công tác tuyên truyền vận động quần chúng
Mục tiêu của công tác tuyên truyền vận động quần chúng tham gia phong trào xây
dựng gia đình văn hoá là từng bước làm chuyển biến nhận thức trong xã hội về vai trò, vị
trí của văn hoá gia đình cũng như những sai lệch về giá trị văn hoá gia đình trong điều
kiện cơ chế thị trường.
Phải tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân những chuẩn mực văn hoá
gia đình. Nhận thức được sự cần thiết của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá trong
thời kỳ đổi mới. Bên cạnh đó, phải chú trọng giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng sống
cao đẹp... để văn hoá thực sự là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong công tác tuyên truyền cần phổ biến sâu rộng những gương điển hình của
những gia đình mẫu mực đồng thời kiên quyết đấu tranh, phê phán những biểu hiện tiêu
cực, lạc hậu.
Công tác tuyên truyền vận động thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú như
phát thanh, truyền hình, bài viết, xuất bản văn học nghệ thuật, thông tin cổ động, triển
lãm ... tăng cường các biện pháp, hình thức giáo dục truyền thống, ý thức trách nhiệm đến
mọi người.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên cần xây dựng mạng lưới và bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ tuyên truyền cơ sở, tuyên truyền phổ biến từng nội dung gia đình văn hoá đến với
mọi tầng lớp nhân dân Hà Tĩnh.
Việc tuyên truyền giáo dục xây dựng gia đình văn hoá là nhiệm vụ của tất cả các
ban ngành, đoàn thể của tỉnh, tuỳ thuộc vào chức năng và nhiệm vụ hoạt động của đơn vị
mình và xây dựng chương trình hành động riêng.
Ví như ngành văn hoá thông tin và du lịch tham mưu toàn diện cho Ban chỉ đạo
Tỉnh về nội dung, biện pháp tổ chức cuộc vận động, ra các văn bản triển khai thực hiện
tuyên truyền giáo dục, tổ chức hoạt động nghệ thuật, phát thanh, truyền hình... Còn Mặt
trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân... thì tuyên truyền giáo dục, đi
vào chiều sâu đến từng hội viên theo hệ thống hội của mình thông qua các hình thức hội
thảo, tập huấn, toạ đàm... Ngành giáo dục lại đi vào chiều sâu từng học sinh thông qua
giáo dục học đường, tuyên truyền chống suy dinh dưỡng cho trẻ em, thực hiện kế hoạch
hoá gia đình, giữ gìn vệ sinh môi trường... Ngành lao động thương binh xã hội tuyên
truyền giáo dục về các chính sách xã hội đối với gia đình, đền ơn đáp nghĩa, chống các tệ
nạn xã hội... Trong phương pháp tuyên truyền không nên sử dụng biện pháp chung chung
mà cần phải vạch ra những biện pháp tuyên truyền giáo dục phù hợp với chức năng và
đặc trưng riêng của ngành mình. Có như vậy, hiệu quả tuyên truyền giáo dục mới sâu sát
với mục tiêu đề ra.
Tất cả các hình thức tuyên truyền ấy sẽ đem lại tác dụng to lớn cho việc xây dựng
gia đình văn hoá.
Mục đích của công tác tuyên truyền giáo dục nhằm vận động quần chúng tham gia
phong trào xây dựng gia đình văn hoá. Cuộc vận động phải đi vào từng gia đình và từng
thành viên trong mỗi gia đình. Làm sao để cho gia đình hưởng ứng và tự nguyện đăng ký
xây dựng gia đình văn hoá, làm cho vợ chồng, con cái động viên nhau tham gia phong
trào và phấn đấu đạt danh hiệu gia đình văn hoá. Phương pháp vận động là hướng dẫn
cho các thành viên trong gia đình nắm chắc các tiêu chuẩn phù hợp với hoàn cảnh gia
đình mình để phấn đấu đạt danh hiệu đó.
Để tạo những chuyển biến lớn hơn, nâng cao hiệu quả thiết thực của công tác vận
động, bên cạnh việc tìm cách khắc phục những khó khăn hạn chế cần bàn bạc, trao đổi
kinh nghiệm trong công tác vận động. Tìm kiếm thêm nhiều hình thức, phương pháp triển
khai, phương pháp tiến hành vận động có sức thuyết phục hơn nữa phù hợp cho mọi đối
tượng, mọi tầng lớp cán bộ nhân dân Hà Tĩnh.
Xây dựng và nhân rộng các điển hình tốt
Cần phải xây dựng các mô hình gia đình văn hoá tiêu biểu của Hà Tĩnh, trên cơ sở
tiếp thu có chọn lọc việc xây dựng cơ cấu mô hình truyền thống Việt Nam nói chung và
gia đình Hà Tĩnh nói riêng. Việc xây dựng các mô hình tốt để có những kinh nghiệm tốt,
cách làm hay, rút ngắn thời gian, tiết kiệm thời gian, kinh phí. Đồng thời phải chú ý tới
đặc điểm từng vùng miền (Thành phố, thị xã, nông thôn, đồng bằng, miền núi...). Trên cơ
sở những điển hình xuất sắc tiên tiến phải nhân ra diện rộng trên toàn tỉnh.
Việc xây dựng và nhân điển hình tiên tiến cần chú ý đến những điển hình xuất
phát từ thực tiễn, tránh cách làm hình thức kiểu đầu tư ồ ạt mọi mặt để có điển hình, sau
đó lại tuyên truyền nêu gương, học tập... và khi hết tập trung đầu tư thì không còn điển
hình nữa.
Do vậy, việc tìm điển hình và nhân rộng điển hình phải làm thận trọng từ khâu
đăng ký đến khâu bình xét dựa trên cơ sở các tiêu chuẩn của gia đình văn hoá. Các điển
hình tiên tiến, xuất sắc được tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân
bằng các hình thức báo cáo điển hình tại các hội nghị sơ kết, tổng kết, hội thảo, bằng hình
thức viết bài trên các đài phát thanh và truyền hình, trên báo chí hoặc bằng hình thức tờ
rơi.
Công tác kiểm tra, tổng kết
Trong quá trình triển khai thực hiện cuộc vận động, các gia đình đăng ký xây dựng
gia đình văn hoá, cần chú trọng việc thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát,
chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dưới và cơ sở. Kịp thời phát hiện phương pháp hay, bài
học tốt có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Mục đích của việc theo dõi, đôn đốc là nhằm thúc đẩy các gia đình phấn đấu đạt danh
hiệu gia đình văn hoá. Trên cơ sở đó, tổng kết, đúc rút những bài học kinh nghiệm quý, xây
dựng và thực hiện cơ sở lý luận công tác vận động và xây dựng phong trào. Vấn đề sơ kết,
tổng kết cần phải đánh giá đúng thực chất phong trào, tránh hình thức lãng phí. Đồng thời
gắn việc sơ kết, tổng kết với biểu dương, khen thưởng kịp thời những đơn vị, địa phương có
nhiều cố gắng, đạt thành tích, kết quả tốt, đồng thời nhắc nhở những đơn vị, địa phương chưa
tốt.
Việc bình xét các gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hoá nên tiến hành theo
phương thức dân chủ, nghĩa là để mỗi gia đình tự đánh giá lấy kết quả thực hiện của mình
không nên chỉ phụ thuộc vào một kênh là Ban chỉ đạo cuộc vận động hay từ các tổ chức
đoàn thể đánh giá quyết định là gia đình văn hóa. Các gia đình tự đối chiếu vào thang
điểm và cho điểm vào các tiêu chuẩn. Sau khi các gia đình tự chấm điểm, Ban chỉ đạo có
nhiệm vụ tập hợp, xem xét và tiến hành thẩm định lại để đi đến quyết định công nhận hay
không công nhận gia đình văn hoá.
Cần có chế độ khen thưởng đối với các gia đình được công nhận gia đình văn hoá
để kịp thời động viên, khích lệ.
Việc khen thưởng cũng có nhiều hình thức: bằng vật chất, cấp giấy chứng nhận gia
đình văn hoá hoặc thưởng bằng tiền. Ngoài ra gia đình văn hoá phải được xem như một
tiêu chuẩn để đánh giá bình xét khen thưởng các mặt công tác khác như đánh giá công
chức tại các cơ quan, đơn vị.
Để phong trào phát triển đúng hướng, được duy trì thường xuyên đảm bảo hiệu
quả thiết thực cần chú trọng lãnh đạo, sư quan tâm thường xuyên của cấp uỷ Đảng, chính
quyền, Mặt trận tổ quốc, và các đoàn thể quần chúng. Có như thế phong trào mới có cơ
sở cho sự phát triển lâu dài và sâu rộng.
3.2.4. Nhóm giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ
Vấn đề cơ bản tạo nên sự thành công của công cuộc xây dựng gia đình văn hoá
của địa phương chính là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao hay nói cách khác chính
là xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực, có đạo đức tư cách đảm nhiệm tốt vai
trò vị trí của mình trong hoạt động công tác.
Trong thời gian qua, Tỉnh Hà Tĩnh đã rất chú ý tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ
trên mặt trận văn hoá. Cho đến nay có đến 50% cán bộ có trình độ đạt chuẩn, thường
xuyên mở các lớp bồi dưỡng , tập huấn nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ này.
Hội đồng nhân dân Tỉnh khoá XV, kỳ họp thứ XIV cũng đã thông qua nghị quyết về thu
hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao từ 2008 đến 2012 và đề án đào tạo lao động
kỹ thuật từ 2009 đến 2015 trong đó chú ý đến nguồn cán bộ trong lĩnh vực văn hoá.
Bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn không ít những tồn tại thiếu sót ở lĩnh vực
này. Đó là tình trạng một số cán bộ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức kém chủ yếu ở mạng
lưới văn hoá cơ sở, thiếu cán bộ phụ trách về chuyên môn, chế độ phụ cấp chưa tương xứng
với trách nhiệm công tác... những hạn chế đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động phong
trào văn hoá của địa phương.
Vì vậy, trong thời gian tới, Hà Tĩnh cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề xây dựng đội
ngũ cán bộ. Tỉnh cần có chủ trương, biện pháp và chính sách hợp lý để nâng cao trình độ
về mọi mặt cho đội ngũ làm công tác văn hoá đặc biệt chú ý mạng lưới cán bộ ở cơ sở vì
đây là đối tượng trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ trong công cuộc xây dựng gia đình văn
hoá.
Bên cạnh vấn đề đào tạo chuyên môn, Tỉnh cần có những chế độ, chính sách phù
hợp để động viên cán bộ yên tâm học tập công tác nâng cao trình độ. Thường xuyên mở
các lớp tập huấn về chuyên môn cũng như chính trị để người cán bộ hoạt động trong lĩnh
vực văn hoá thực sự là tấm gương để mọi người noi theo.
Để tạo được sự thành công trên lĩnh vực xây dựng gia đình văn hoá và phát huy
những nét đẹp trong văn hoá gia đình truyền thống, đòi hỏi các cấp, các ngành, cấp uỷ,
chính quyền cơ sở của Tỉnh phải quan tâm thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp,
đồng thời có những cơ chế chính sách phù hợp để phong trào đi vào chiều sâu.
3.3. Một số kiến nghị
Kiến nghị với Đảng và Nhà nước
- Đảng và nhà nước cần phải có chủ trương kịp thời và thiết thực xây dựng và
củng cố nền tảng gia đình, coi gia đình thực sự là tế bào của xã hội, ngăn chặn sự xuống
cấp, sự tha hoá cũng như xung đột, đổ vỡ của gia đình. Đồng thời xây dựng gia đình
thành một “pháo đài” đối phó với các cuộc tấn công của lối sống phi đạo đức, phi văn
hoá và thực dụng, bảo vệ gìn giữ và phát huy những giá trị tiến bộ của thời đại. Hướng
tới xây dựng và thực hiện gia đình ấm no, hoà thuận, tiến bộ và hạnh phúc. Nâng cao ý
thức về trách nhiệm và nhiệm vụ của gia đình đối với mỗi thành viên cũng như trong mối
quan hệ giữa gia đình và cộng đồng xã hội.
- Toàn Đảng, toàn dân tích cực tham gia chương trình xoá đói, giảm nghèo, từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho quần chúng nhân dân lao động. Bởi một
thực tế đã chứng minh là đói, nghèo luôn là vật cản sự tiến bộ của gia đình và toàn xã hội.
Xoá đói, giảm nghèo được giải quyết chính là tạo điều kiện xoá bỏ sự bất công bằng , bất
bình đẳng giữa con người với con người, giữa gia đình với gia đình. Xoá đói giảm nghèo
còn là biện pháp xoá bỏ sự mặc cảm, xây dựng lòng tự tin vào chính mình, vào đường lối
xây dựng đất nước của quần chúng nhân dân nghèo đối với Đảng và Nhà nước. Đó là vấn
đề không chỉ mang tính nhân văn mà suy cho cùng nó còn mang tính chiến lược về kinh
tế của một xã hội tiến bộ.
- Cần có những biện pháp để nâng cao nhận thức về vấn đề gia đình trong xã hội,
đặc biệt cần nâng cao dân trí. Chỉ khi trình độ học vấn của người dân được nâng cao thì
vấn đề xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ và hạnh phúc mới có thể trở thành
nếp sống của một xã hội văn minh.
- Đảng và nhà nước cần có chủ trương đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về gia đình,
phụ nữ và giới, từng bước xác định một hệ thống các giá trị đạo đức, tâm lý trong đời
sống gia đình phù hợp với các giá trị nhân văn, nhân bản của chủ nghĩa xã hội, lấy đó làm
nội dung giáo dục đạo đức gia đình trong chương trình đào tạo các cấp đặc biệt là cấp học
phổ thông.
Kiến nghị với lãnh đạo các cấp, các ngành của địa phương
- Gia đình là đơn vị kinh tế xã hội, có nghĩa vụ vừa chăm lo chất lượng cuộc sống
gia đình vừa tạo ra nền móng vững chắc cho sự giàu mạnh của quê hương. Vì vậy, vấn đề
việc làm thu nhập, đào tạo nghề... đặt ra vô cùng bức thiết. Do đó Tỉnh cần có chương
trình hành động thu hút việc làm cho các thành viên trong mỗi gia đình, đồng thời từng
bước xã hội hoá dịch vụ gia đình nhằm giảm nhẹ công việc nội trợ, tăng thời gian hoạt
động trí tuệ, tự nâng cao trình độ hiểu biết, đặc biệt là người phụ nữ. Tổ chức hướng
nghiệp và chuyển giao công nghệ phù hợp với kinh tế gia đình.
- Gia đình là một đơn vị tiêu dùng cơ bản. Tỉnh cần có điều kiện đảm bảo quyền
có nhà ở, đảm bảo diện tích tối thiểu cho mỗi gia đình, nơi cư trú cho mỗi gia đình đặc
biệt gia đình hạt nhân ở Thành phố. Chính môi trường chật chội của gia đình sẽ tác động
tiêu cực đến tâm hồn và tư duy của trẻ thơ, đến quan hệ các thành viên trong gia đình.
Mỗi gia đình cần phải được nâng cao chất lượng nhà ở không chỉ đủ mà phải đẹp và tiện
lợi. Đó là yếu tố quan trọng đảm bảo cho tình yêu và hạnh phúc của các gia đình.
- Tăng cường hiệu lực pháp chế, chống các tệ nạn xã hội, những vấn đề nóng bỏng
đang diễn ra trong xã hội như: ma tuý, mại dâm, buôn bán và ngược đãi đối với phụ nữ và trẻ
em, sinh đẻ có kế hoạch... Tổ chức trợ giúp có hiệu quả những người lầm lạc và các gia đình
đang bị tệ nạn xã hội uy hiếp. Giáo dục và tạo điều kiện để từng gia đình phòng chống tệ nạn
xã hội, bảo vệ gia đình mình.
- Xây dựng môi trường văn hoá xã hội lành mạnh để tạo ảnh hưởng tốt đến đời
sống của mỗi con người và hạnh phúc của gia đình. Ra sức đẩy mạnh phong trào quần
chúng xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá.
Tiểu kết chương 3
Phải khẳng định rằng, những yếu tố quê hương, dân tộc và thời đại đã có tác động
lớn tới vấn đề văn hoá gia đình cũng như gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh. Kết quả cho thấy,
gia đình Hà Tĩnh đã xuất hiện nhiều kiểu loại gia đình mới bên cạnh các loại gia đình
truyền thống. Xuất hiện nhiều kiểu loại văn hoá gia đình. Bên cạnh mặt tích cực vẫn có
không ít những tiêu cực. Vì vậy, trong thời gian tới cần tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Tỉnh nhà để tạo
điều kiện thuận lợi cho vấn đề xây dựng văn hoá gia đình và gia đình văn hoá, bên cạnh
đó cần có sự kế thừa và phát huy những giá trị của truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp thu
những giá trị văn hoá của gia đình hiện đại. Đồng thời, phải sử dụng một loạt những biện
pháp mang tính cấp thiết và lâu dài để thực hiện được mục đích xây dựng gia đình mới -
gia đình văn hoá.
kết luận
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề văn hoá gia đình và gia đình văn
hoá ở Hà Tĩnh, chúng ta có thể một lần nữa khẳng định rằng: gia đình có một vai trò, vị
trí quan trọng trong cuộc đời của mỗi con người cũng như trong tiến trình phát triển của
xã hội loài người. Với chức năng riêng mà không một thiết chế xã hội nào có được. Dù
cho các hình thức gia đình có thay đổi trong lịch sử theo hướng phát triển đi lên thì vị trí
và tầm quan trọng của gia đình đối với xã hội không thay đổi. Đúng như thông báo của Ban
bí thư Trung ương Đảng (khoá VII), số 178 - TB/TW ngày 29/3/1996 khẳng định: Gia đình
là yếu tố đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Một xã hội tốt đẹp là một xã hội có nhiều gia đình tốt, và ngược lại mỗi gia đình
có nếp sống đẹp, có niềm vui và hạnh phúc sẽ góp phần làm cho xã hội ngày càng tốt
hơn. Xây dựng văn hoá gia đình và gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh chính là nền tảng vững
chắc đảm bảo cho sự ổn định và phát triển.
Xây dựng văn hoá gia đình và gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh trong thời gian qua thực
sự đã đạt được nhiều thành tựu làm đẹp, làm phong phú hơn lên bản sắc riêng của một
vùng đất non sông tụ khí. Các giá trị văn hoá truyền thống gia đình tiếp tục được gìn giữ
và phát huy, ngày càng xuất hiện nhiều những gia đình văn hoá tiêu biểu. Kinh tế gia
đình ngày càng phát triển, công tác bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em ngày càng được
quan tâm hơn. Trẻ em được đến trường đầy đủ, được đảm bảo quyền lợi về chăm sóc sức
khoẻ, vui chơi giải trí. Tình trạng bạo lực gia đình có phần được hạn chế, tính dân chủ
trong mỗi gia đình càng được nâng cao. Việc chăm sóc, phụng dưỡng người già được các
gia đình quan tâm hơn. Tình yêu thương, trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình
được thắt chặt. Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, trên kính dưới nhường.
Những nét đẹp truyền thống ấy đã được kế thừa trong đời sống hiện tại từ phạm vi gia
đình đến cộng đồng xã hội. Mọi thành viên cùng nhau đồng tâm, gắng sức hướng tới xây
dựng một gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Thực hiện kế hoạch hoá gia đình, đoàn kết
xóm giềng, thực hiện tốt nghĩa vụ côngdân.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, gia đình chịu nhiều tác động, ảnh hưởng của
những yếu tố lịch sử, yếu tố thời đại và cả thực tiễn của nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà đang
chuyển đổi từ truyền thống sang hiện đại. Chịu sự tác động ấy, gia đình Hà Tĩnh cũng có
sự biến đổi theo chiều hướng tích cực đồng thời cũng có những hạn chế trong quá trình
biến đổi. Vì vậy, để phát huy hơn nữa vai trò của gia đình trong giai đoạn mới đòi hỏi sự
quan tâm, hỗ trợ, đầu tư hơn nữa của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và sự vào cuộc của
toàn xã hội.
Tóm lại, luận văn đã đề cập và giải quyết tương đối có hệ thống vấn đề văn hoá
gia đình và xây dựng gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở chỉ
ra thực trạng, luận văn đã mạnh dạn nêu lên những phương hướng cơ bản và đề xuất
những giải pháp chủ yếu trong việc xây dựng văn hoá gia đình cũng như gia đình văn hoá
trong thời gian tới. Tuy nhiên, để vấn đề này thực sự phát huy có hiệu quả thì các giải
pháp phải được thực thi một cách đồng bộ để vấn đề xây dựng văn hoá gia đình và gia
đình văn hoá góp phần quan trọng vào sự thay đổi diện mạo của quê hương Hà Tĩnh
trong sự phát triển kinh tế cũng như tiến bộ xã hội tạo đà cho sự hoà nhập với đất nước và
thế giới.
Có thể nói, đọng lại trong lòng mỗi người con Hà Tĩnh nỏi iêng và neo giữ lại
trong tâm hồn của mỗi du khách khi đã một lần qua Hà Tĩnh nói chung không phải là cái
gì khác mà chính là vẻ đẹp của văn hoá Hà Tĩnh trong đó có văn hoá gia đình. Ai đi mô
cũng nhớ về Hà Tĩnh câu hát ngọt ngào đầm ấm mà nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã dệt nên
chính là nỗi nhớ về một vùng quê thấm đẫm ân tình với từng tên đất, tên người được tạc
vào lịch sử.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Ph.Ăngghen (1984), Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
2. Thúy Ân (2003), "Người lớn cũng phải học làm cha mẹ", Báo Lao động, (123).
3. Đặng Duy Báu (2000), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đặng Duy Báu (2001), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Trần Văn Bính (1999), Toàn cầu và vấn đề gia đình, Tham luận tại hội thảo: "Tác động
của quá trình toàn cầu hóa tới cơ cấu gia đình", Hà Nội.
6. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu (2002), Gia đình Việt Nam và
người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
7. Bộ Văn hoá Thông tin - Cục Văn hoá Thông tin cơ sở (1988), Xây dựng gia đình
văn hoá trong sự nghiệp đổi mới.
8. Bùi Đình Châu (2002), Văn hóa gia đình, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
9. Hà Châu (2003), "Kinh tế có ảnh hưởng thế nào trong quan hệ vợ chồng", Báo Phụ
nữ Thủ đô, (7).
10. Chỉ thị của Ban Bí thư về xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá (2005), Tài liệu hội nghị chuyên đề xã hội liên quan đến phụ
nữ và trẻ em.
11. Thùy Dương (1995), Hạnh phúc gia đình, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
12. Dương Tự Đam (1999), Gia đình trẻ và sự hình thành nhân cách thanh niên, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
13. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVI,
Hà Tĩnh.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Thông báo số 178/TB/TW ngày 29/3 của Ban Bí
thư Trung ương về vấn đề xây dựng gia đình, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
20. Đồ Thái Đồng (1991), Gia đình truyền thống và những biến thái ở Nam Bộ Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Lê Quý Đức (2000), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Lê Quý Đức - Vũ Thị Huệ (2003), Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đô thị, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Phạm Minh Hạc (1996), "Định hướng giá trị xã hội tăng cường giáo dục tư tưởng",
Báo Nhân dân, ngày 20/6/1996.
24. Bùi Thu Hằng (2001), "Bạo lực trong gia đình", Khoa học về phụ nữ.
25. Lê Như Hoa (2000), Văn hóa gia đình với việc hình thành nhân cách trẻ em, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
26. Lê Như Hoa (2002), Lối sống trong xã hội hiện đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
27. Trịnh Trung Hòa (1996), Hạnh phúc và bất hạnh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
28. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (1997),
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh (1999), Văn Hà Tĩnh thế kỷ XX, Hà
Tĩnh.
30. Hội Liên hiệp Phụ nữ Hà Tĩnh (2007), Báo cáo điển hình “phụ nữ Hà Tĩnh với
phong trào xoá đói giảm nghèo - xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc”.
31. Vũ Thị Huệ (2008), "Danh hiệu “Gia đình văn hóa” – giá trị tích hợp của văn hóa
gia đình Việt Nam ngày nay", Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, (8),
tr.61.
32. Nguyễn Khánh (1995), Gia đình Việt Nam hiện nay, Trong sách: "Gia đình Việt
Nam, các trách nhiệm, các nguồn lực trong sự đổi mới đất nước", Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
33. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hóa gia đình Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
34. Nguyễn Linh Khiếu (2001), Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hoá xã hội nông
thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Thị Đoan (1997), Giáo dục giới tính, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
36. Luật hôn nhân và gia đình (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ trong giai
đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Lê Minh (1994), Văn hoá gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội, Nxb Lao
động, Hà Nội.
45. Nhiều tác giả (2002), Văn hoá gia đình và sự phát triển xã hội, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
46. Nguyễn Duy Quý (2002), "Văn hoá và sự phát triển con người", Tạp chí Nghiên
cứu con người, (1), Hà Nội.
47. Sở Văn hoá thông tin Hà Tĩnh (1995), Văn hoá làng và xây dựng làng văn hoá, Kỷ
yếu hội thảo khoa học.
48. Sở Văn hoá Thông tin Hà Tĩnh (2003), Một số văn bản về phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá.
49. Sở Văn hoá Thông tin và du lịch Hà Tĩnh (2008), Văn hoá Hà Tĩnh số 123.
50. Sở Văn hoá Thông tin và du lịch Hà Tĩnh (2008), Văn hoá Hà Tĩnh số 118.
51. Sở Văn hoá Thông tin và du lịch Hà Tĩnh (2008), Văn hoá Hà Tĩnh số 105.
52. Phan Văn Thắng - Thái Kim Đỉnh (2000), Du lịch Hà Tĩnh, Sở Thương mại - Du
lịch xuất bản.
53. Lê Thi (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt
Nam, Nxb phụ nữ, Hà Nội.
54. Lê Thi (2003), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
55. Lê Thi (2004), Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hoá và sự phát triển bền
vững, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Trần Hữu Tòng - Trương Thìn (1997), Xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp
đổi mới , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Trung tâm Nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ (1995), Gia đình Việt Nam
các trách nhiệm, nguồn lực trong sự đổi mới của đất nước, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
58. Trung tâm Nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ (1995), Gia đình và địa vị
người phụ nữ trong xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em Nghệ An, Sở Văn hoá Thông tin Nghệ An (2004),
Gia phong xứ nghệ trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Nghệ An
60. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh (2009), Báo cáo chính trị của Uỷ ban MTTQ
Tỉnh nhiệm kỳ 2004 - 2009, Hà Tĩnh.
61. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Tĩnh (1991), Hà Tĩnh thành sen 160 năm, Sở Văn
hóa Hà Tĩnh xuất bản, Hà Tĩnh.
62. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2005), Báo cáo tổng kết cuộc vận động xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa từ 2001 - 2005, Hà Tĩnh.
63. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2006), Báo cáo tổng kết cuộc vận động toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa năm 2006, Hà Tĩnh.
64. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2007), Báo cáo tổng kết cuộc vận động toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa năm 2007, Hà Tĩnh.
65. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2008), Kế hoạch triển khai cuộc vận động toàn dân xây
dựng đời sống văn hóa, Hà Tĩnh.
66. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Sở Văn hoá Thông tin và Du lịch(2008),Báo cáo công tác
văn hoá, thể thao, du lịch và gia đình năm 2008, Hà Tĩnh.
67. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh , Ban Chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá” (2007), Hội nghị tổng kết phong trào xây dựng gia đình văn
hoá giai đoạn 2001- 2006, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2007 -
2010.
68. Uỷ ban Quốc gia về thập kỷ thế giới phát triển văn hoá (1992), Nxb Văn hoá thông tin,
Hà Nội.
69. Lê Ngọc Văn (1998), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
70. Lê Ngọc Văn (2007), Nghiên cứu gia đình, lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Nguyễn Đình Xuân (1997), Giáo dục đời sống gia đình, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
Một số hình ảnh
về Hà Tĩnh!
Là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ
Đặc điểm tự nhiên
- Diện tích : 6018,97km2
- Dân số : 1.289,1 ng.người
- H/C : 2TX, 10 huyện
- Vị trí, giao thông thuận lợi: Dường 1A, sắt
Bắc Nam, Dường mòn HCM, Ven biển, Qlo
8, 12…, 137km biển, 20 sông, 4 cửa sông
lớn: Cửa Hội, Sót, Nhượng, Khẩu
- Tài nguyên phong phú: Rừng, Biển,
khoáng sản: Sắt Thạch Khê 544 Tr.t, Titan
(Ky Xuân-Kỳ Anh) 4,6Tr.t
Một buổi sinh hoạt Ca trù
Lăng mộ và Khu lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du
Làng nghề Mộc Thái yên - ĐT
Kho sỏch dũng họ Nguyễn
Huy - Trường lộc CL
Nhiều sắc phong đời Cảnh Hưng
được tỡm thấy ở Mỹ Lộc CL Văn bia có bút tích của Xuân
Quận Công Nguyễn Nghiễm
Chựa Chõn Tiờn HL -
Đền Củi NX
Cụm di tích lịch
sửgó ba Đồng Lộc
Đài tưởng niệm
Nhà lưu niệm
`Tháp chuông đang
xây dựng
Khai hội đền Lê Khôi TH Lễ khánh thành tu bổ đền Truông Bát
Khu
kinh tế
Vũng áng
Hà Tĩnh
Khu điều hành Cửa khẩu Cầu Treo - Hà Tĩnh
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Khái quát chung về vĂN HóA GIA ĐìNH và XÂY DựNG
GIA ĐìNH VĂN HóA 9
1.1. Quan niệm gia đình và văn hóa gia đình 9
1.2. Gia đình văn hóa và chủ trương xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta 21
Chương 2: Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa ở Hà Tĩnh trong
thời gian qua 29
2.1. Vài nét về văn hóa gia đình Hà Tĩnh 29
2.2. Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa Hà Tĩnh trong những năm qua 60
2.3. Đánh giá chung 73
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng
gia đình văn hóa ở Hà Tĩnh trong thời gian tới 80
3.1. Phương hướng xây dựng gia đình văn hoá 80
3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hoá 85
3.3. Một số kiến nghị 99
Kết luận 102
Danh mục tài liệu tham khảo 104
phụ lục ảnh 109
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Hà tĩnh hiện nay.pdf