Quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao
văn hóa là một việc làm cần thiết và có tính cấp bách. Đó không chỉ là sự tôn
vinh một danh nhân của dân tộc. Đó không chỉ là sự bảo tồn các giá trị văn
hóa Việt Nam. Đó không chỉ là phục vụ mục tiêu của ngoại giao văn hóa. Mà
hơn tất thảy, đó là sự khẳng định bản sắc, nét độc đáo của văn hóa dân tộc
Việt Nam trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa thông qua hình tƣợng ngƣời
Việt Nam tiêu biểu nhất cho những giá trị dân tộc và thời đại: Anh hùng giải
phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh.
Những chƣơng trình ngoại giao văn hóa sẽ tăng cƣờng cơ hội hợp tác
văn hóa toàn cầu và là nhịp cầu nối Việt Nam ra thế giới và ngƣợc lại. Công
tác ngoại giao văn hóa, quảng bá hình ảnh Việt Nam chỉ có thể thành công khi
huy động đƣợc sức mạnh tổng hợp của mọi lực lƣợng, mọi nguồn lực của đất
nƣớc. Việc quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn
hóa Việt Nam cũng chính là góp phần vào mục tiêu ấy. Trên cơ sở mục tiêu,
yêu cầu phát triển của đất nƣớc và với những cam kết quốc tế, cần hoàn thiện
hệ thống chính sách ngoại giao văn hóa đồng bộ trong tổng thể nền ngoại giao
toàn diện Việt Nam. Quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại
giao văn hóa Việt Nam sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại giao trong
thập kỷ tới để nâng tầm hiểu biết của cộng đồng quốc tế về Việt Nam và củng
cố mối quan hệ với những quốc gia khác, qua đó góp phần xây dựng lòng tin
chiến lƣợc giữa Việt Nam và quốc tế
170 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lược ngoại giao văn hóa Việt Nam ở đầu thế kỉ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a ngoại giao văn hóa trong tổng thể nền
ngoại giao toàn diện, hiện đại của Việt Nam; gắn kết ngoại giao văn hóa với
ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và công tác về ngƣời Việt Nam ở nƣớc
ngoài nhằm tạo sức mạnh ngoại giao tổng hợp có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu. Đây cũng chính là tiền đề để thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến,
quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh đối với cộng đồng quốc tế.
Để thực hiện thành công công tác quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong
Chiến lƣợc NGVH, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu chiến lƣợc, dự báo
những xu hƣớng phát triển của văn hóa và ngoại giao văn hóa trong khu vực và
trên thế giới tác động đến Việt Nam thông qua các hội thảo, hội nghị, tọa đàm,
trao đổi cấp quốc gia, khu vực và quốc tế. Từ đó, kiến nghị với Đảng và Nhà
136
nƣớc về chính sách liên quan đến ngoại giao văn hóa. Thông qua việc nghiên
cứu chiến lƣợc, dự báo xu hƣớng phát triển của văn hóa và NGVH trong khu
vực và trên thế giới, việc quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh mới có những hành
động phù hợp và hiệu quả. Thậm chí, dựa trên việc nghiên cứu văn hóa Hồ Chí
Minh, NGVH còn có thể đi trƣớc một bƣớc, mở đƣờng cho một xu thế mới.
Tiếp đó, trong quá trình thực hiện việc phổ biến văn hóa Hồ Chí Minh
trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa cần phải tạo nhận thức chung và đồng
thuận trong Lãnh đạo các cấp, các ngành, địa phƣơng về sự cần thiết và tầm
quan trọng của công tác kết hợp văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại
giao văn hóa; nhằm đƣa công tác này trở thành một nhiệm vụ thƣờng xuyên
của mọi cơ quan từ trung ƣơng đến địa phƣơng và của toàn xã hội. Từ đó,
việc tuyên truyền, phổ biến các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh mang tính nhất
quán, xuyên suốt, tránh tình trạng nơi làm nơi bỏ, chỗ nông, chỗ sâu, không
thống nhất, mỗi nơi làm một kiểu, dẫn tới tình trạng phân tán, thậm chí làm
giảm hiệu quả của công tác này.
4.3.2. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nƣớc, sự
phối hợp của các tổ chức chính trị- xã hội, các cơ quan, ban, ngành trong
việc quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại
giao văn hóa Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về ngoại giao văn hóa một cách
toàn diện, đồng bộ trên cơ sở phù hợp với pháp luật của Nhà nƣớc và đƣờng
lối đối ngoại của Đảng; điều chỉnh, bổ sung chính sách ngoại giao văn hóa
cho phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nƣớc và với cam kết quốc tế.
Gắn việc phổ biến các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh với kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm của các cấp, các ngành và địa phƣơng; lồng ghép
hoạt động ngoại giao văn hóa trong triển khai Chiến lƣợc phát triển văn hóa,
Chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, nhằm tạo tính cộng
hƣởng trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phƣơng.
137
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phƣơng để triển
khai hoạt động NGVH nhằm phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của Bộ
Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông
và các Bộ, ngành địa phƣơng có liên quan khác trong việc chủ trì, phối hợp tổ
chức các chƣơng trình, hoạt động văn hóa có yếu tố nƣớc ngoài ở trong và
ngoài nƣớc, cụ thể:
- Bộ Ngoại giao có nhiệm vụ tìm hiểu, nghiên cứu và kiến nghị tổ chức
các hoạt động văn hóa của Việt Nam ra nƣớc ngoài một cách có hiệu quả và
thiết thực, có trọng điểm và phù hợp với đối tƣợng trên địa bàn, tiếp thu tinh
hoa của nƣớc sở tại vào Việt Nam.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao
thực hiện các hoạt động văn hóa có yếu tố nƣớc ngoài, các chƣơng trình đón
các đoàn văn hóa, nghệ thuật của nƣớc ngoài vào Việt Nam và giới thiệu các
di sản, danh lam thắng cảnh, truyền thống văn hóa, các anh hùng dân tộc, các
nhà văn hóa lớn của Việt Nam với bạn bè quốc tế.
- Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Ngoại giao xây dựng
chủ trƣơng cung cấp thông tin cho báo chí nƣớc ngoài, cộng đồng ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài và cộng đồng quốc tế.
- Các hội hữu nghị, tổ chức đoàn thể chính trị xã hội gắn các hoạt động
ngoại giao văn hóa trong quá trình triển khai các hoạt động ngoại giao nhân dân.
Sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành, địa phƣơng giúp cho việc thực hiện
công tác NGVH không bị chồng chéo, trùng lắp, tăng cƣờng tính hiệu quả.
Chính điều này có tác động rất lớn đến việc quảng bá các giá trị văn hóa Hồ
Chí Minh : vừa mang nhiều màu sắc, vừa mang tầm vóc, quy mô. Đây cũng là
cách mà Hồ Chí Minh luôn khuyến khích trong việc xây dựng nền văn hóa
mới, vừa phát huy tính dân tộc, vừa phải mang tính khoa học và đại chúng.
138
4.3.3. Đa dạng các loại hình, biện pháp quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh
trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam
Sang thế kỉ XXI, trƣớc đặc điểm tình hình trong nƣớc và quốc tế cho thấy
hoạt động NGVH không bó hẹp trong phạm vi ngoại giao cấp Nhà nƣớc mà
có sự mở rộng, tham gia rất tích cực của ngoại giao công chúng. Các hoạt
động ngoại giao phi chính phủ đang ngày càng chứng minh về vai trò, về tính
hiệu quả của mình. Một trong những đặc điểm quan trọng của văn hóa Hồ Chí
Minh chính là tính đại chúng. Văn hóa Hồ Chí Minh không bó hẹp trong
khuôn khổ một giai cấp, tầng lớp, một quan hệ xã hội nào mà luôn rộng mở
với mọi đối tƣợng, mọi phạm vi và mọi mối quan hệ. Do đó, NGVH hiện nay
cần phải quan tâm đúng mức đến việc phát huy vai trò của các hoạt động
ngoại giao công chúng (phi chính phủ).
Về nội dung và hình thức triển khai, cần phải có những hình thức và
nội dung đa dạng. Phổ biến nhất là tiến hành các hoạt động kỷ niệm ngày sinh
của Hồ Chí Minh dịp 19/5 hàng năm, đặc biệt là các năm chẵn, năm tròn với
các hình thức tổ chức mít tinh, nói chuyện, tọa đàm, triển lãm, chiếu phim,
giới thiệu sách, hội thảo, thi tìm hiểu với sự tham gia của đông đảo các tầng
lớp nhân dân, cả đồng bào trong nƣớc lẫn kiều bào ở nƣớc ngoài. Trong hình
thức này cần lồng ghép các cuộc phỏng vấn, nói chuyện của các học giả, các
cán bộ tuyên truyền, các lão thành cách mạng để tăng cƣờng thông tin và hiểu
biết cho ngƣời dân. Ở hình thức này cần đảm bảo tính thực chất, phong phú,
đa dạng, hấp dẫn, tránh hình thức, phô trƣơng, gây tốn kém, lãng phí mà hiệu
quả không cao, thậm chí phản tác dụng. Các hoạt động phải hƣớng tới mục
đích làm cho nhân dân thấy đƣợc tầm nhân cách, tầm văn hóa và đạo đức của
Hồ Chí Minh ở cả hai góc độ “Anh hùng giải phóng dân tộc” và “Nhà văn hóa
kiệt xuất”.
Tiếp đó, tiến hành thƣờng xuyên việc “Học tập và làm theo tƣ tƣởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ở trong nƣớc và nƣớc ngoài. Thông qua
139
cuộc vận động, ngƣời dân sẽ hiểu về Hồ Chí Minh và có những hành động tự
giác, thiết thực hơn.
Việc xây dựng tƣợng đài Hồ Chí Minh, đặt tƣợng Ngƣời tại một số địa
bàn cũng cần đƣợc chú ý. Thông qua Đề án : “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nƣớc
ngoài” đã có một số nƣớc xây dựng hoặc đặt tƣợng Hồ Chí Minh, trong đó có
một số thiết kế đƣợc các nhà điêu khắc sở tại sáng tác nhƣ ở Nga, Mexico.
Một trong những bức tƣợng Hồ Chí Minh đầu tiên đƣợc dựng ở nƣớc ngoài là
tại Ấn Độ năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngƣời. Trong 6
năm triển khai Đề án, đến ngày 12/10/2015, đã dựng thêm đƣợc 10 tƣợng
hoặc tƣợng đài Hồ Chí Minh ở các nƣớc trên thế giới và tu bổ tƣợng, nâng
cấp khu tƣợng đài, khánh thành công trình ở Madagascar, Mexico, Hungary.
Hiện nay, hình thức này đã đƣợc thực hiện tại khoảng 20 nƣớc trên thế giới ở
cả châu Á, châu Âu, châu Mỹ và châu Phi.
Tiếp đó là xây dựng các khu di tích tƣởng niệm, bảo tàng, công viên
mang tên Hồ Chí Minh, đƣợc triển khai tại những địa bàn Ngƣời đã từng sống
và hoạt động, chủ yếu ở Lào, Thái Lan, Trung Quốc và Pháp.
Hình thức tiếp theo là đặt bia, gắn biển đồng. Một số thành phố trên thế
giới đã áp dụng hình thức này nhằm ghi lại sự kiện Hồ Chí Minh đã từng đặt
chân đến địa danh của thành phố nhƣ New Heaven (Anh), Vladivostok (Nga),
Kolkata (Ấn Độ), Viện bảo tàng Văn minh châu Á (Singapore), Cảng Phòng
Thành, Nam Ninh (Trung Quốc) vv
Hình thức thứ sáu là đặt tên Hồ Chí Minh cho trƣờng, lớp, đƣờng phố
hay quảng trƣờng. Tháng 11/2015, nhân chuyến thăm Palestine của Đoàn Ban
Đối ngoại trung ƣơng, phía bạn bày tỏ mong muốn đƣợc đặt tên Hồ Chí Minh
cho một con đƣờng tại Ramallah; Đại sứ quán ta tại Morocco cũng kiến nghị
vận động chính quyền Burkina Faso khôi phục lại tên đƣờng Hồ Chí Minh
cho đại lộ chạy qua dinh Tổng thống nƣớc này hoặc đặt tên Hồ Chí Minh cho
140
một con đƣờng khác phù hợp. Đây là một hình thức khá hiệu quả, có tác dụng
lâu dài.
Hình thức thứ bảy là tiếp tục xuất bản, phát hành các ấn phẩm, sách
báo, phim về Hồ Chí Minh. Đây là một hình thức phổ biến có từ trƣớc
hiệu quả cao, do đó, ta cần phát huy. Gần đây, ngày càng có nhiều công
trình viết, nghiên cứu về Hồ Chí Minh do nƣớc ngoài tự làm. Việt Nam
cũng nhận đƣợc đề nghị của một số nƣớc nhƣ Bangladesh và Kazakhstan
muốn xuất bản sách về Hồ Chí Minh dựa trên nguồn tƣ liệu Việt Nam
cung cấp.
Hình thức thứ tám là tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm hoặc
các chƣơng trình học tập chính khóa cũng nhƣ các lớp tập huấn về Hồ Chí
Minh và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Có thể kể tới việc Ấn Độ tổ chức Hội thảo
khoa học về “Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam qua cái nhìn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh” (11-12/5/2015) tại Tirupati; Hàn Quốc tổ chức Hội thảo khoa học quốc
tế “Nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hàn Quốc và Việt Nam” tại Đại
học Choson, thành phố Gwangju vv...
Hình thức thứ chín là các hoạt động mang tính nghệ thuật, sáng tạo cần
đƣợc mở rộng và đa dạng hóa.
Hình thức thứ mƣời là mở các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa Hồ Chí
Minh, từ đó có thêm nhiều nội dung để quảng bá.
Tất cả những hoạt động trên sẽ giúp cho không chỉ Chính phủ, mà cả
ngƣời dân chủ động trong việc quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh.
Thông qua các hoạt động đó, mỗi ngƣời sẽ thấy thêm tự hào, yêu mến về Hồ
Chí Minh, từ đó, tích cực mở rộng các hoạt động có ý nghĩa.
Để hoạt động quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh một cách hiệu quả,
trong chiến lƣợc NGVH cần chú ý đến một số hoạt động sau:
-Tổ chức sƣu tầm, nghiên cứu bổ sung để hoàn thiện các tài liệu về văn
hóa Hồ Chí Minh, tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ và tham gia của các nƣớc.
141
Do Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa đi nhiều nơi trên thế giới, do đặc
thù của hoạt động cách mạng mang tính bí mật và trong điều kiện Việt Nam
chiến tranh liên miên vì vậy, cho đến hiện nay, chúng ta chƣa có điều kiện thu
thập đƣợc hết tài liệu về Hồ Chí Minh và những sản phẩm thuộc về văn hóa
Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc quảng bá, vận dụng văn hóa Hồ Chí Minh
phải chú ý đến việc thu tập, sƣu tầm, hoàn thiện văn hóa Hồ Chí Minh. Và
đây cũng là cơ hội để chúng ta có thể kêu gọi sự giúp đỡ của các nƣớc trong
việc thông tin, cung cấp cho chúng ta những tƣ liệu quý báu về Hồ Chí Minh
và văn hóa Hồ Chí Minh.
-Xây dựng bộ tài liệu (viết, ảnh, phim DVD...) bằng tiếng địa phƣơng
để giới thiệu về văn hóa Hồ Chí Minh: hình thức đa dạng, nội dung phong
phú hấp dẫn, lồng ghép tình cảm của Hồ Chí Minh với nƣớc sở tại.
Đây là công việc hết sức quan trọng. Văn hóa là những gì còn đọng lại
khi tất cả đã mất. Do đó, để văn hóa Hồ Chí Minh có sức hấp dẫn, ấn tƣợng
với thế giới thì nội dung và hình thức quảng bá phải mới lạ, hấp dẫn thì mới
đi vào lòng ngƣời.
Bản thân Hồ Chí Minh vừa là lãnh tụ chính trị, vừa là nhà văn hóa. Do
vậy, khi chúng ta quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh với thế giới sẽ không tránh
khỏi những định kiến, mặc cảm về tính chính trị, tính khoa trƣơng và tính áp
đặt. Do đó, lựa chọn hình thức quảng bá nhƣ thế nào cũng là cách chúng ta
cần quan tâm, nghiên cứu. Tôn vinh Hồ Chí Minh- nhà văn hóa kiệt xuất sẽ
khắc phục những khác biệt về chính trị.
-Biên tập và giới thiệu ấn phẩm về các công trình tƣởng niệm Hồ Chí
Minh ở các nƣớc và các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí, tƣ liệu, hiện
vật về Ngƣời ở ngoài nƣớc.
-Tổ chức các hội nghị, hội thảo, triển lãm tranh, ảnh, các đợt giới thiệu
cho chính quyền, nhân dân và báo chí tại các nƣớc về văn hóa Hồ Chí Minh
142
-Phát động cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí
và sƣu tầm tƣ liệu, hiện vật về Hồ Chí Minh ở ngoài nƣớc.
4.3.4. Mỗi ngƣời dân là một địa chỉ, một thông điệp về văn hóa Hồ Chí
Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa
Ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đã sớm phát huy vai trò của ngoại giao
công chúng để thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Một
trong những biện pháp hiệu quả là phát huy vai trò, tính tích cực của nhân dân
trong công tác ngoại giao đúng với tinh thần "Phải đem hết sức dân, tài dân,
của dân làm cho dân" [81; tr.75], mỗi ngƣời dân là một thông điệp, là một
minh chứng sinh động về văn hóa Việt Nam.
Tiếp nối tinh thần đó, trong chính sách ngoại giao văn hóa Việt Nam
hiện nay cần chú trọng xây dựng hình ảnh con ngƣời Việt Nam hiện đại - với
tƣ cách là “sứ giả” của văn hóa - để họ biết nên có, cần có thái độ nhƣ thế nào
khi tiếp xúc với du khách nƣớc ngoài (nụ cƣời thân thiện, lòng hiếu khách, sự
giúp đỡ vô tƣ không vụ lợi, rồi ngôn ngữ, y phục, cách ứng xử, giao
tiếp,phải tỏ ra là ngƣời dân của một nƣớc văn minh). Nói cách khác, muốn
hấp dẫn đƣợc ngƣời ta, trƣớc tiên phải làm cho mình trở nên hấp dẫn đã,
nghĩa là phải nhanh chóng khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm, khuyết tật tự
thân về văn hóa, lối sống của mỗi ngƣời dân, bắt đầu từ trong gia đình, học
đƣờng, ra đến ngoài xã hội.
Để quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại
giao văn hóa, sự am hiểu về văn hóa Hồ Chí Minh của mỗi ngƣời dân có một
ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là biện pháp thuyết phục nhất theo nguyên
tắc "từ trái tim đến trái tim". Không gì hấp dẫn hơn khi văn hóa Hồ Chí Minh
đƣợc thuyết minh với thế giới bằng chính nhân dân, chứ không chỉ nhà nƣớc
với một tình cảm thân thƣơng, trân trọng. Đó không phải là sự sùng bái cá
nhân mà là niềm tự hào đối với một nhà văn hóa kiệt xuất, một danh nhân của
dân tộc. Với sự thông minh, sự hồn hậu, tình cảm chân thành, đây là một biện
143
pháp hiệu quả nhất đƣa văn hóa Hồ Chí Minh đến với nhân dân thế giới. Vốn
dĩ nhân dân thế giới đã có thiện cảm với Hồ Chí Minh, thiện cảm với những
con ngƣời bình dị, đậm chất dân tộc, mà cũng rất vĩ đại là nhân dân Việt
Nam. Sự thuyết minh về văn hóa Hồ Chí Minh từ những ngƣời dân Việt Nam
là sự thuyết minh thuyết phục nhất: không màu mè, không hình thức, giản dị,
nhƣng đầy đủ, phong phú và đa dạng.
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà văn hóa lớn, mà còn là là một sứ giả
văn hóa, mang thông điệp về một nền văn hóa giàu bản sắc, nhƣng rất cởi mở
và hiện đại. Sinh thời, Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa đi nhiều nƣớc, biết
nhiều thứ tiếng và nhiều nền văn hóa khác nhau. Ngƣời còn là cầu nối giữa
các nền văn hóa.
Danh vọng của Hồ Chí Minh có một sức hấp dẫn lớn trong thời hiện
đại. Với bạn bè quốc tế hình ảnh Việt Nam gắn với hình ảnh Hồ Chí Minh.
Chính vì vậy, xây dựng con ngƣời Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh và
quảng bá hình ảnh Hồ Chí Minh thông quan ngƣời dân trong thời đại ngày
nay chính là sự kết hợp nhằm đƣa văn hóa Việt Nam đến gần với bạn bè
thế giới.
4.3.5. Tích cực chuẩn bị các nguồn lực để thực hiện việc quảng bá văn
hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam
4.3.5.1. Nguồn lực con người
Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong lĩnh vực ngoại giao văn
hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Đẩy mạnh các hoạt động bồi
dƣỡng kiến thức về văn hóa và ngoại giao văn hóa cho các cán bộ làm công
tác đối ngoại, cán bộ công tác tại các cơ quan đại diện của Việt Nam, các
Trung tâm văn hóa, các nhà văn hóa của Việt Nam ở nƣớc ngoài.
Nâng cao kiến thức về ngoại giao văn hóa, về văn hóa Hồ Chí Minh
cho các cán bộ làm công tác ngoại vụ và văn hóa thuộc các tỉnh, thành phố;
tiếp tục mở các lớp bồi dƣỡng về kiến thức đối ngoại nói chung và văn hóa
144
Hồ Chí Minh nói riêng, kiến thức về tổ chức sự kiện văn hóa có yếu tố nƣớc
ngoài tại các địa phƣơng.
Đƣa nội dung ngoại giao văn hóa, văn hóa Hồ Chí Minh vào giảng dạy
một cách phù hợp tại một số học viện, trƣờng Đại học chuyên ngành nhƣ:
Học viện chính trị quốc gia, Học viện Ngoại giao, Đại học Văn hóa, Học viện
Báo chí và tuyên truyền và các trƣờng có chuyên ngành liên quan nhằm nâng
cao kiến thức của sinh viên, thanh niên đối với văn hóa Hồ Chí Minh và công
tác ngoại giao văn hóa.
Tăng cƣờng hoạt động giao lƣu văn hóa giữa học sinh, sinh viên, thanh
niên Việt Nam với các nƣớc trong khu vực và quốc tế.
Thông qua các hoạt động trên gắn với việc tuyên truyền, phổ biến văn
hóa Hồ Chí Minh, để tạo nền tảng cho cán bộ ngoại giao có những phƣơng
tiện cần thiết trong thực hiện công tác NGVH.
Vai trò của ngoại giao văn hóa luôn đƣợc khẳng định trong thời đại
ngày nay. Càng ngày vai trò của hoạt động ngoại giao phi chính phủ càng
đƣợc khẳng định. Tuy nhiên trong việc kết hợp văn hóa Hồ Chí Minh trong
chiến lƣợc ngoại giao văn hóa không dễ dàng gì nếu nhƣ bản thân mỗi
ngƣời dân không có sự am hiểu về văn hóa Hồ Chí Minh, đặc biệt là với
thế hệ trẻ. Do đó, cần phải có những biện pháp tích cực, phù hợp để tăng
cƣờng sự hiểu biết về văn hóa Hồ Chí Minh, đặc biệt là đối với ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài.
4.3.5.2. Kinh phí và các nguồn lực khác
Để thực hiện việc vận dụng và quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến
lƣợc NGVH Việt Nam cần phải có kinh phí. Do đó, bên cạnh nguồn kinh phí
của Nhà nƣớc, cần huy động tất cả các nguồn lực khác.
Trong việc phổ biến các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc
ngoại giao văn hóa cần phải chú ý đến việc phát huy các nguồn lực kinh tế .
Sinh thời, Hồ Chí Minh quan niệm: "Về văn hóa, “có thực mới vực đƣợc
145
đạo”, kinh nghiệm các nƣớc bạn cho chúng ta thấy rằng: khi nông dân đã có
ruộng cày, đã đủ cơm ăn, áo mặc thì văn hóa nhân dân phát triển rất nhanh"
[84; tr.32]. Trong công tác ngoại giao hiện nay, ngoài vai trò đột phá, mở
đƣờng, tham mƣu, kiểm tra, đôn đốc thực hiện, ngành ngoại giao còn chú
trọng vai trò hỗ trợ, đồng hành, cầu nối không chỉ cho các doanh nghiệp trong
nƣớc mà còn cả cộng đồng doanh nghiệp quốc tế (doanh nghiệp, doanh nhân
là một bộ phận của công chúng và là đối tƣợng của ngoại giao công chúng).
Chính phủ Việt Nam thƣờng xuyên tổ chức các cuộc đối thoại, hội thảo, diễn
đàn với giới doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc để chuyển tải thông điệp chính
sách, lắng nghe phản hồi, đóng góp ý kiến và cùng nhau tìm ra giải pháp, cách
tháo gỡ. Chính phủ Việt Nam coi trọng công tác đối ngoại nhân dân và giao
lƣu, tiếp xúc nhân dân nhƣ một kênh đối ngoại nhằm vận động viện trợ của
các tổ chức quốc tế, vận động và tập hợp ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài, tăng
cƣờng tình đoàn kết hữu nghị, truyền thống với nhân dân các nƣớc
Tiếp đến là phát huy tiềm năng sáng tạo văn hóa trong nhân dân. Hồ
Chí Minh từng nói : "Những khả năng tiềm tàng trong nhân dân là vô tận"
[88; tr.501]. Ngƣời luôn đánh giá cao khả năng sáng tạo trong nhân dân trong
mọi hoạt động. Đối với việc phát huy văn hóa Hồ Chí Minh trong chính sách
ngoại giao văn hóa cần chú ý khơi gợi, phát triển sức sáng tạo trong nhân dân
từ nội dung, hình thức, cách thức để thực sự hiệu quả và hấp dẫn.
Bên cạnh đó, các hình thức văn hóa dân gian của nhân dân ta có một
sức hấp dẫn rất lớn đối với các nhà nghiên cứu về văn hóa cũng nhƣ với bạn
bè, nhân dân khắp nơi trên thế giới. Khả năng quảng bá (sức hấp dẫn của văn
hóa dân gian) đã đƣợc khẳng định. Việc phổ biến, phát huy vai trò của văn
hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa cần chú ý nội dung
này. Những bài hò, vè, dân ca, ví dặm, kịchvề Hồ Chí Minh có khả năng lôi
cuốn và đi vào lòng ngƣời một cách hiệu quả. Không chỉ là loại hình, mà hình
thức truyền thông (bên cạnh việc truyền thông bằng các phƣơng tiện hiện đại)
146
truyền miệng vốn là đặc tính của văn hóa dân gian Việt Nam cũng chƣa bao
giờ hết tính sức mạnh, tính hiệu quả của nó.
Trong việc phát huy, phổ biến các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong
chiến lƣợc ngoại giao văn hóa cần chú ý đến sự kết hợp giữa các hình thức và
phƣơng pháp ngoại giao khác nhau. Trong việc kết hợp đó, văn hóa Hồ Chí
Minh phải luôn đƣợc phát huy hết tinh hoa và hồn cốt của dân tộc, nhân loại.
Tiểu kết chƣơng 4
Quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong Chiến lƣợc NGVH Việt Nam là sự
nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị. Muốn thực hiện
thành công nhiệm vụ quan trọng này, cần phải chú trọng, tăng cƣờng “khai
thông” nhận thức, tƣ tƣởng cho toàn xã hội về sự cần thiết của hoạt động này
trong thời đại toàn cầu hóa. Từ trƣớc đến nay, khi nói về văn hóa, trong đó có
ngoại giao văn hóa, quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh không ít ngƣời vẫn có
những định kiến rằng đây chỉ là hoạt động của các cơ quan tuyên truyền hay
ngoại giao, thậm chí còn coi đây là những hoạt động vô bổ, chỉ mang tính
hình thức, phong trào, có cũng đƣợc, không có cũng chẳng sao. Ngoại giao
kinh tế vẫn đƣợc đánh giá cao và đƣợc quan tâm nhiều hơn, bởi ngƣời ta cho
rằng đây mới là nguồn thu hút đầu tƣ lớn nhất để thúc đẩy tăng trƣởng kinh
tế, phát triển đất nƣớc.
Trƣớc thực tế đó, cần phải làm cho mọi ngƣời, mọi ngành, mọi cấp có
nhận thức đúng là: Ngoại giao chính trị giữ vai trò định hƣớng, ngoại giao
kinh tế là nền tảng vật chất và ngoại giao văn hóa chính là nền tảng tinh thần
của hoạt động đối ngoại. Đây là “thế chân kiềng” mà thiếu một trong ba yếu
tố đó sẽ trở thành lực cản cho công tác ngoại giao nói chung, hoạt động đối
ngoại của Đảng và Nhà nƣớc nói riêng. Muốn vậy, các cấp lãnh đạo phải quán
triệt quan điểm đẩy mạnh hoạt động quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong
Chiến lƣợc ngoại giao văn hóa nhằm làm cho thế giới hiểu biết hơn về đất
147
nƣớc, con ngƣời và văn hóa Việt Nam, tăng cƣờng xây dựng lòng tin với các
quốc gia trên thế giới, đƣa quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác đi vào chiều
sâu, ổn định và bền vững, qua đó nâng cao vị thế đất nƣớc trên trƣờng quốc
tế, tạo điều kiện hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội. Các hoạt động quảng bá văn
hóa Hồ Chí Minh trong Chiến lƣợc ngoại giao văn hóa góp phần tiếp thu tinh
hoa văn hóa của nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn
hóa truyền thống của đất nƣớc.
Để duy trì và tăng cƣờng tính hấp dẫn của mình, ngoại giao văn hóa
phải tìm ra đƣợc những nội dung và hình thức độc đáo, có sức thuyết phục để
khẳng định đƣợc vị thế văn hóa của mình trên trƣờng quốc tế. Một trong
những nét độc đáo của ngoại giao văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XXI là quảng
bá văn hóa Hồ Chí Minh. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh tinh hoa văn
hóa dân tộc, nhân loại và thời đại, là một phần quan trọng của văn hóa Việt
Nam thời hiện đại. Nhƣng kết hợp văn hóa Hồ Chí Minh với chính sách ngoại
giao văn hóa nhƣ thế nào để không khiên cƣỡng, mang tính "chính trị hóa" mà
vẫn đảm bảo đƣợc cái hồn cốt của văn hóa Hồ Chí Minh, đó là vấn đề cũng
cần đƣợc quan tâm nghiên cứu và thực hiện. Việc đề ra phƣơng hƣớng, nội
dung, giải pháp cụ thể để vận dụng, quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong
chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam là cần thiết, góp phần vào việc nâng
cao chất lƣợng của ngoại giao văn hóa Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI.
148
KẾT LUẬN
Những năm đầu thế kỷ XXI, ngoại giao văn hóa đƣợc Liên Hiệp Quốc
đặc biệt chú trọng vì khả năng giải quyết những thách thức lớn của thời đại
theo hƣớng bền vững, đó là những thách thức về sự bất bình đẳng, bất công
bằng, nghèo đói và xung đột, dựa trên sự tôn trọng con ngƣời, tôn trọng văn
hóa và lối sống của nhau. Do đó, các nguyên tắc của ngoại giao văn hóa bao
gồm: thừa nhận, thấu hiểu, đối thoại đƣợc phát huy vai trò tối đa.
Việt Nam sớm nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của ngoại giao văn
hóa và đã có nhiều hoạt động cụ thể để nâng cao hiệu quả hoạt động này.
Ngoại giao văn hóa của Việt Nam giữ vị trí là nền tảng tinh thần của hoạt
động đối ngoại, đƣợc thực hiện bằng việc áp dụng các nội dung, hình thức
văn hóa: nghệ thuật, lịch sử, tƣ tƣởng, truyền thống văn hóa, thông tin... nhằm
đạt đƣợc những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại quốc gia, tạo hình
ảnh tốt đẹp của đất nƣớc, quảng bá văn hóa và ngôn ngữ quốc gia để tạo ra uy
tín, vị thế và ảnh hƣởng của Việt Nam với thế giới trong thời đại toàn cầu
hóa. Việc triển khai chính sách ngoại giao văn hóa đang trở thành một trong
ba chính sách ngoại giao chủ yếu, cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao
kinh tế. Các hoạt động ngoại giao văn hóa chính là kênh tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa
truyền thống của đất nƣớc. Giao lƣu văn hóa sẽ tạo nên hình ảnh tốt hơn về
đất nƣớc, con ngƣời và nền văn hóa quốc gia. Nói cách khác là ngoại giao văn
hóa sẽ góp phần kiến tạo lòng tin để xây dựng quan hệ hữu nghị bền vững
giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
Nhà văn hóa Hồ Chí Minh là một biểu tƣợng kết tinh tinh hoa văn hóa
của dân tộc và khát vọng của thời đại đã đƣợc thừa nhận trên phạm vi thế
giới. Những đóng góp trong lĩnh vực văn hóa của Ngƣời đã trở thành những
giá trị văn hóa đặc trƣng, tiêu biểu cho những giá trị dân tộc và thời đại.
149
Những giá trị văn hóa ấy cũng chính là động lực, là phƣơng tiện kết nối các
thế hệ, các dân tộc, các nền văn hóa xích lại gần nhau vì những mục tiêu lớn
của thời đại: hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh là một thông
điệp văn hóa chân thành nhất, trung thực nhất, nhƣng lại đầy sức hấp dẫn
trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam ở đầu thế kỉ XXI.
Quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao
văn hóa là một việc làm cần thiết và có tính cấp bách. Đó không chỉ là sự tôn
vinh một danh nhân của dân tộc. Đó không chỉ là sự bảo tồn các giá trị văn
hóa Việt Nam. Đó không chỉ là phục vụ mục tiêu của ngoại giao văn hóa. Mà
hơn tất thảy, đó là sự khẳng định bản sắc, nét độc đáo của văn hóa dân tộc
Việt Nam trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa thông qua hình tƣợng ngƣời
Việt Nam tiêu biểu nhất cho những giá trị dân tộc và thời đại: Anh hùng giải
phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh.
Những chƣơng trình ngoại giao văn hóa sẽ tăng cƣờng cơ hội hợp tác
văn hóa toàn cầu và là nhịp cầu nối Việt Nam ra thế giới và ngƣợc lại. Công
tác ngoại giao văn hóa, quảng bá hình ảnh Việt Nam chỉ có thể thành công khi
huy động đƣợc sức mạnh tổng hợp của mọi lực lƣợng, mọi nguồn lực của đất
nƣớc. Việc quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn
hóa Việt Nam cũng chính là góp phần vào mục tiêu ấy. Trên cơ sở mục tiêu,
yêu cầu phát triển của đất nƣớc và với những cam kết quốc tế, cần hoàn thiện
hệ thống chính sách ngoại giao văn hóa đồng bộ trong tổng thể nền ngoại giao
toàn diện Việt Nam. Quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại
giao văn hóa Việt Nam sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại giao trong
thập kỷ tới để nâng tầm hiểu biết của cộng đồng quốc tế về Việt Nam và củng
cố mối quan hệ với những quốc gia khác, qua đó góp phần xây dựng lòng tin
chiến lƣợc giữa Việt Nam và quốc tế.
Đẩy mạnh quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao
văn hóa là “thời cơ vàng” để Việt Nam học hỏi đƣợc nhiều điều hay, tiếp thu
150
đƣợc nhiều điều tốt, chọn lọc đƣợc những tinh hoa văn hóa của các quốc gia,
dân tộc trên thế giới để làm giàu và phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc,
thực hiện đúng phƣơng châm: Đƣa văn hóa Việt Nam ra thế giới và đƣa văn
hóa thế giới đến Việt Nam. Đây cũng là phƣơng châm hành động của nhà văn
hóa lớn Hồ Chí Minh trong quá trình tìm lại vị trí xứng đáng cho văn hóa Việt
Nam và khẳng định giá trị văn hóa Việt Nam trong quan hệ quốc tế . Đối với
nƣớc ta hiện nay, việc quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến
lƣợc ngoại giao văn hóa là một trong những việc làm thiết thực để góp phần
thực hiện thắng lợi “đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển; đa phƣơng hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nƣớc; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nƣớc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và là thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” [34; tr.83-84].
Điều này cũng trực tiếp tăng cƣờng chất lƣợng của ngoại giao văn hóa, tạo ra
chất xúc tác thúc đẩy ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế không ngừng
phát triển, xây dựng công cụ quảng bá mạnh mẽ nền văn hóa Việt Nam, nhất
là quảng bá các giá trị di sản văn hóa của dân tộc đến với bạn bè quốc tế.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2014), Cách sử dụng lập luận trong
văn chính luận Hồ Chí Minh- một thứ “lạt mềm buộc chặt”,
Tạp chí Lý luận giáo dục, (4), tr.109-112.
2. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2014), Văn hóa chính trị Hồ Chí
Minh và bài học về sử dụng quyền lực mềm trong phát triển
đất nƣớc, Tạp chí Nhịp cầu tri thức, (3), tr.8-10.
3. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2015), Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
triết lí sống hài hòa với thiên nhiên- cơ sở cho sự phát triển
bền vững, Tạp chí Mặt trận, (139), tr.33-37.
4. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2016), Phát huy quyền dân chủ của
nhân dân theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong cuộc vận động
bầu cử quốc hội, Tạp chí Mặt trận, (152), tr.8-12.
5. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2016), Giá trị văn hóa Hồ Chí Minh
trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam, Tạp chí Giáo
dục lý luận, (252), tr.13-15.
6. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2017), Tầm nhìn của nhà văn hóa
kiệt xuất Hồ Chí Minh với chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt
Nam, Tạp chí Giáo dục lý luận, (256), tr. 7-10 và 21.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Lê Hữu Ái (1998), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tính dân tộc
và tính nhân dân trong văn hóa, nghệ thuật”, Tạp chí Triết học, số 2, tr.31-34.
2. Lê Hữu Ái (1998), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn
hóa nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
3. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB t.p Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Hải Anh (2015), Ngoại giao văn hóa Việt Nam trong quan hệ quốc
tế đương đại, Luận án Tiến sĩ Quan hệ quốc tế, Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
5. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh văn hóa và phát
triển, NXB Chính trị- Hành chính, Hà Nội.
6. Archimedes L.A.Patti (2008),Why Vietnam (Tại sao Việt Nam?), NXB Đà Nẵng.
7. Ban Tƣ tƣởng văn hóa Trung ƣơng (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa, Hà Nội.
8. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2005), Kỉ yếu hội thảo khoa học: Bảo tàng và phát
huy giá trị di sản Hồ Chí Minh, NXB Thanh niên.
9. Hoàng Chí Bảo (2011), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, NXB Chính
trị- Hành chính.
10. Hoàng Chí Bảo (2013), Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, NXB Hà Nội.
11. Đỗ Thanh Bình, Văn Ngọc Thành (đồng chủ biên) (2012), Quan hệ quốc
tế thời hiện đại- những vấn đề mới đặt ra, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Lê Thanh Bình (2009), “Xu hƣớng văn hóa- truyền thông thế giới tác
động đến báo chí, ngoại giao văn hóa quốc tế đƣơng đại và khuyến nghị cho
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 2 (77), tr185-196.
13. Lê Thanh Bình (chủ biên) (2012), Giao thoa văn hóa và chính sách ngoại
giao văn hóa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153
14. Trần Văn Bính (2010), Di sản Hồ Chí Minh về đạo đức, văn hóa, NXB
Thông tin và truyền thông.
15. Bộ Ngoại giao, Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO (2007), Văn hóa đối
ngoại trong tình hình mới : Thách thức và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ, Hà Nội.
16. Bộ Ngoại giao, Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO (2008), "Ngoại giao
Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội
nhập và phát triển bền vững", NXB Thế giới, Hà Nội.
17. Bộ Ngoại giao (2009), Đề án : “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng
giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hoá kiệt xuất, ở nước ngoài”, Hà Nội.
18. Bộ Ngoại giao (2012), Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Bộ Ngoại giao, Ban chỉ đạo công tác ngoại giao văn hóa (2011, 2012,
2013, 2014, 2015), Báo cáo tổng kết công tác ngoại giao văn hóa năm 2011,
2012, 2013, 2014, 2015, Hà Nội.
20. Bộ Ngoại giao, Vụ UNESCO (2011), Ngoại giao văn hóa Việt Nam trong
hai thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
21. Bộ Ngoại giao, Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO (2012), Ngoại giao
văn hóa trong giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ, Hà Nội.
22. Phạm Sanh Châu, Thành tựu ngoại giao văn hóa từ năm 2011-2015, tại
trang chinhphu.vn, [truy cập ngày 15/1/2016].
23. C. Mác và Ănghen (1995), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Phạm Nhƣ Cƣơng (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh- nhà cải cách cách
mạng, nhà văn hóa lớn”, Tạp chí Triết học, (1), tr3-7.
25. Đỗ Quý Doãn (2009), “Thông tin truyền thông và việc đẩy mạnh ngoại
giao văn hóa”, Tạp chí Cộng sản, (797), tr.42-47.
154
26. Thành Duy (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà tư tưởng danh nhân văn
hóa thế giới, NXB Khoa học xã hội.
27. Thành Duy (2000), “Hồ Chí Minh với việc phát huy sức mạnh của văn
hóa trong sự nghiệp đấu tranh giữ nƣớc , giải phóng dân tộc”, Tạp chí Triết
học, (5), tr.31-34.
28. Thành Duy và cộng sự (2000), Danh nhân Hồ Chí Minh, NXB Lao động,
Hà Nội.
29. Dƣơng Tự Đam (2004), “Giáo dục thanh niên về tƣ tƣởng văn hóa Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, (3).
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban
chấp hành trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp
hành trung ương khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hà Đăng (2005), “Tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng
văn hóa trong Đảng hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (15).
38. Đặng Đỗ (2005), “Khoan dung- một giá trị đạo đức trong nhân cách Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (7).
155
39. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một
thời đại, một sự nghiệp, NXB Sự thật, Hà Nội.
40. Phạm Văn Đồng (2012), Hồ Chí Minh – tinh hoa và khí phách của dân
tộc, NXB Chính trị quốc gia.
41. Hà Minh Đức (2011), “Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn hóa văn nghệ”,
Tạp chí Văn học, (2) tr 3-12.
42. Lê Quý Đức (1994), Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
43. Võ Nguyên Giáp ( chủ biên) (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Ninh Viết Giao (1990), “Thử giải thích ngọn nguồn văn hóa xứ Nghệ và
bản sắc văn hóa Việt Nam trong con ngƣời Hồ Chủ tịch”, Tạp chí Văn học,
(2), tr.14-18.
45. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Thạch Hà (2009), “Ngoại giao văn hóa: Trung Quốc quảng bá quốc gia
nhƣ thế nào”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 2 (77), tr.173-183.
47. Võ Văn Hải (2011), “Đẩy mạnh ngoại giao văn hóa trong hội nhập quốc
tế”, Tạp chí Quân đội nhân dân, số ra 26/11/2011.
48. Nguyễn Tiến Hải, Lê Hải Triều (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về các giá
trị cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin.
49. John Lê Văn Hóa (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong tư
tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, NXB Hà Nội.
50. Hồ Trọng Hoài (2005), “Khoan dung- một giá trị đạo đức trong nhân
cách văn hóa Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (7).
51. Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia (2010),Di sản Hồ Chí Minh
trong thời đại ngày nay, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Kỉ niệm 120 năm
156
ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890- 19/5/2010), NXB Chính trị-
Hành chính.
52. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2003),
Từ điển bách khoa Việt Nam 3, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
53. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2005),
Từ điển bách khoa Việt Nam 4, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
54. Vũ Dƣơng Huân (chủ biên) (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại, vì sự
nghiệp đổi mới (1975-2002), Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
55. Vũ Dƣơng Huân (2007), “Vài suy nghĩ về ngoại giao văn hóa”, Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế, (76).
56. Hellmut Kapfenberger (2010), Hồ Chí Minh- một biên niên tiểu sử, NXB
Thế giới.
57. Hungtington Samuel (2003), Sự va chạm của các nền văn minh”, NXB
Lao Động, Hà Nội.
58. Đỗ Huy (1997), Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội .
59. Đỗ Huy (2006), “Tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh bƣớc phát triển mới về
đạo đức trong văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (5), tr.9-14.
60. Đỗ Huy, Lê Hữu Ái (1995), Tìm hiểu tư tưởng văn hóa nghệ thuật Hồ Chí
Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. Trần Đình Huỳnh- Trịnh Quang Cảnh (chủ biên) (2003): Từ Các Mác đến
Hồ Chí Minh một dòng chảy văn hóa, NXB Hà Nội, Hà Nội.
62. Đặng Thị Thu Hƣơng (2009), “Ngoại giao văn hóa và truyền thống văn
hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 1
(76), tr. 79-90.
63. Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990), Trích tham luận của
đại biểu quốc tế, NXB Khoa học xã hội Việt Nam.
157
64. Vũ Ngọc Khánh (1990), Hồ Chí Minh và tâm thức folklore Việt Nam,
NXB Thanh Hóa.
65. Vũ Khiêu (2012), Hồ Chí Minh ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
66. Vũ Khoan (chủ biên) (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại
giao, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
67. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
văn hóa và con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Đặng Xuân Kỳ (2010), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Thái Kim Lan (2009), “Đạo đức văn hóa- Khởi thủy của ngoại giao văn
hóa”, Tia sáng, (2), tr.18-21.
70. T. Lan (2008), Vừa đi đường vừa kể chuyện, NXB Trẻ, Hà Nội.
71. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (1998), Hồ Chí Minh văn hóa và đổi
mới, NXB Lao động.
72. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (2001), Về danh nhân văn hóa Hồ Chí
Minh, NXB Lao động.
73. Nguyễn Hữu Lập (2015), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh : giá trị lý luận
và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
74. Trƣờng Lƣu (chủ biên) (1990), Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam,
NXB Viện Văn hóa.
75. Hồ Chí Minh (1971), Về công tác văn hóa văn nghệ , NXB Sự thật.
76. Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, NXB Văn
học, Hà Nội
77. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 1.
78. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2.
79. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3.
158
80. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4.
81. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 5.
82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 6.
83. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 7.
84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 8.
85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 9.
86. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 10.
87. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 11.
88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 12.
89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 13.
90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 14.
91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 15.
92. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2011), Định hƣớng chính sách đối ngoại
Việt Nam đến năm 2020, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2012), Cục diện thế giới đến 2020, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Phạm Bình Minh (2015), Danh nhân văn hóa kiệt xuất và nhà ngoại giao
lỗi lạc Hồ Chí Minh, tại trang [truy cập
ngày 25/7/2016].
95. Phạm Xuân Nam (2008), Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền
văn hóa- một góc nhìn từ Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
96. Phạm Xuân Nam (2013), “Những nội dung cốt yếu trong tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về văn hóa- giá trị đối với sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta hiện nay”,
Khoa học xã hội Việt Nam, 4 (65), tr.82-91.
97. Trần Quang Nhiếp, Nguyễn Văn Sáu (2008), Giá trị cơ bản về tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, NXB Công an nhân dân.
98. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
159
99. Nguyễn Gia Nùng (2007), Đặc sắc văn hóa Hồ Chí Minh, NXB Công an
nhân dân.
100. Nhiều tác giả (1979), Hồ Chủ tịch trong lòng nhân dân thế giới, NXB
Sự thật, Hà Nội.
101. Nhiều tác giả (1997), Hồ Chí Minh- tác gia, tác phẩm, nghệ thuật ngôn
từ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
102. Nhiều tác giả (2009), Hồ Chí Minh nhà văn hóa của tương lai, NXB
Thanh niên.
103. Nhiều tác giả (2010), Giá trị thời đại của văn hóa Hồ Chí Minh, NXB
Văn hóa thông tin.
104. Nguyễn Khắc Nho (2008), Hồ Chí Minh- Đỉnh cao truyền thống nhân-
trí- dũng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Paul Mus (1971), Hồ Chí Minh, Việt Nam, Á Châu, NXB Du Seuil, Pari.
106. Đào Phan (1996), Đạo Khổng trong văn Bác Hồ, NXB Văn hóa thông
tin Hà Nội.
107. Đào Phan (1991), Hồ Chí Minh danh nhân văn hóa, NXB Văn hóa.
108. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học,
NXB Đà Nẵng- Trung tâm Từ điển học, Hà Nội- Đà Nẵng.
109. Bùi Đình Phong (2009), Trí tuệ và bản lĩnh văn hóa của Hồ Chí Minh,
NXB Công an nhân dân.
110. Bùi Đình Phong (2015), Hồ Chí Minh- sáng tạo, đổi mới, NXB Tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh.
111. Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông
(đồng chủ biên) (2016), Một số vấn đề lí luận, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, NXB
Chính trị quốc gia.
112. Hoằng Quang, Vĩnh Trị (biên soạn và trích dẫn)(2006), Hồ Chí Minh
anh hùng giải phóng dân tộc nhà văn hóa kiệt xuất, NXB Từ điển bách khoa.
160
113. Nguyễn Ngọc Quyến (2004), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vấn
đề bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp chí Triết học, (11), tr.32-36.
114. Phạm Quốc Sử (2013), “Tôn vinh bản sắc dân tộc trong ngoại giao văn
hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (344), tr.7-12.
115. Văn Tạo (2002), “Khoa học ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (1), tr.1-8.
116. Hà Văn Tăng (2007), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (2), tr.12-16.
117. Tạ Ngọc Tấn (2010), “Vấn đề văn hóa trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
phát triển đất nƣớc”,tại trang Tạp chí Cộng sản điện tử, [truy cập ngày
18/5/2010].
118. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh- nhà tư tưởng lỗi lạc, NXB Lý luận
chính trị.
119. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất, NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội.
120. Song Thành (2014), ““Ngoại giao văn hóa” và gia tăng “sức mạnh mềm”
của Việt Nam trong hội nhập và phát triển”, Tạp chí Văn hóa Nghệ An,
(264,265).
121. Hoàng Vĩnh Thành (2009), Ngoại giao văn hóa: Bắt đầu từ khái niệm,
Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 1 (76), tr. 17-32.
122. Nguyễn Thế Thắng (2014), "Văn hóa Hồ Chí Minh- văn hóa đạo đức, văn
hóa chính trị, văn hóa ứng xử", Tài liệu học tập dành cho lớp bồi dưỡng dự
nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Lào Cai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
123. Mạch Quang Thắng (2014), Hồ Chí Minh- con người của sự sống, NXB
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
124. Mạch Quang Thắng, Bùi Đình Phong, Chu Đức Tính (đồng chủ biên)
(2013), UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh- Anh hùng giải
phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, NXB Chính trị quốc gia.
161
125. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh.
126. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện
đại và con đường tới tương lai, NXB Văn hóa- Văn nghệ.
127. Hữu Thọ (2009), “Mấy cảm nhận về “văn hóa Hồ Chí Minh””, Tạp chí
Tuyên giáo, (5).
128. Thủ tƣớng Chính phủ (2011), Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm
2020, Ban hành theo quyết định số 208/QĐ- Ttg ngày 14/02/2011 của Thủ
tƣớng Chính phủ, Hà Nội.
129. Thủ tƣớng Chính phủ (2015), Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Hà Nội.
130. Lƣu Thu Thủy (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục hành
vi văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (3), tr.24-26.
131. Đỗ Lai Thúy (1998), “Hồ Chí Minh- ngƣời mang nền văn hóa tƣơng
lai”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
132. Trần Dân Tiên (2001), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch, NXB Văn học, Hà Nội.
133. Phạm Thủy Tiên (2016), Ngoại giao văn hóa, tại trang
diplomacy/, [truy cập ngày 27/9/2016].
134. Phạm Bá Toàn (2012), Giá trị văn hóa Bộ đội cụ Hồ: Qua hồi kí, nhật kí
chiến tranh, NXB Quân đội nhân dân.
135. Nguyễn Đài Trang (2010), Hồ Chí Minh tâm và tài của một nhà yêu
nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
136. Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), “Những giá trị sinh thái nhân văn Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Triết học, (11), tr.32-36.
137. Hà Xuân Trƣờng (2000), “Hồ Chí Minh- cái nhìn văn hóa xuyên thế kỉ”,
Tạp chí Cộng sản, (10).
162
138. Trần Minh Trƣởng (2000), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh giai đoạn 1954-1969, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
139. UNESCO (1988), Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Tạp chí Thông tin
UNESCO, tr.5.
140. UNESCO (2001), Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa, UNESCO,
2/11/2001.
141. Phạm Thái Việt, Lý Hải Yến (2012), Ngoại giao văn hóa- cơ sở lí luận,
kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng, NXB Chính trị- Hành chính.
142. Phạm Thái Việt (2009), “Quan hệ công chúng và ngoại giao văn hóa”,
Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 3 (78).
143. Lê Xuân Vũ (2004), Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hóa Việt Nam,
NXB Văn học.
144. Lê Xuân Vũ (2003), Trong ánh sáng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh,
NXB Văn học.
145. Vũ Thị Kim Xuyến (2006), “Các giá trị văn hóa truyền thống với vấn đề
giao lƣu hội nhập", Tạp chí Giáo dục lí luận, (10).
TIẾNG ANH
146. Alan Bullock, R. B. Woodings (Editor) (1983), Twentieth Century
Culture: A Biographical CompanionPaperback, Harper and Row.
147. Barghoorn, F.C. (1976), The Soviet Cultural Diplomacy: The Role of
Cultural Diplomacy in Soviet Foreign Policy, Westoort, CT: Greenood Press,
pp.10-11.
148. Bound, Kirsten, Rachel Briggs, John and Holden and Samuel Jones
(2007), Culture is a Central Component of International Relations. It’s Time
to Unlock Its Full Potential London: Demos. Retrieved from:
163
149. Pierre Brocheux (2007). Ho Chi Minh: A Biography. Cambridge
University Press.
150. Ada Bozemann (1994), Politics and Culture in International History:
From the Ancient Near East to the Opening of the Modern Age, Princeton
University Press, Princeton.
151. William J. Duiker (2001). Ho Chi Minh: A life. Hyperion, New York.
152. Gienow-Hecht, J. (2010), What are We Searching for? Culture,
Diplomacy, Agents, and the State, in Searching for a Cultural Diplomacy,
edited by Gienow-Hecht, J & Donfried, M. (2010) Berghahn Books, pp.21-
22.
153. Hect, C.E. and Donfried, M.C. (2010), “The model of cultural
diplomacy: power distance and the promise of civil society,” Searching for a
Cultural Diplomacy, New York: Berghann Books, p. 21.
154. Institute for Cultural Diplomacy (2013), Cultural Diplomacy
Dictionary, Germany.
155. Jacquin-Berdal, D.; Oros, A; Verweij, M. (1998), Culture in World
Politics, St. Martin’s Press, Inc, New York, USA.
156. J. Lacouture (1967), Ho Chi Minh, Ed. Seuil, Pari.
157. McDonald, John W. (September 2003), "Multi-Track Diplomacy", The
Beyond Intractability Project, Eds. Guy Burgess and Heidi Burgess, Conflict
Information Consortium, University of Colorado, Boulder. Retrieved on
26/8/2016 from:
diplomacy.
158. Cummings Milton (2003), Cultural Diplomacy and the United States
Government: a Survey, Center for Arts and Culture, USA.
159. David Reynolds (2006), “International History: the Cultural Turn and
the Diplomatic Twitch”, Cultural and Social History, 1(3), tr.91-95.
164
160. Satow E (1957), A Guide to Diplomatic Practice, 4th Edition, Longmans
Green, London.
161. Schneider,C.P. (2006) “Cultural diplomacy: hard to define, but you’d
know it if you saw it,” The Brown Journal of World Affairs, Fall/Winter,
XIII, (I), p. 196.
162. Schneider, C. P. (2009) The Unrealized Potential of Cultural
Diplomacy: “Best Practices” and What Could Be, If Only, Heldref
Publications. p.276.
163. See Ma, R. (2014) Cultural Diplomacy in ASEAN: Collaborative Efforts.
International Journal of Social Science and Humanity, (4), p. 394-397.
164. Thayer, R (1959) Cultural Diplomacy: Seeing is Believing. Speech
delivered at the University of Maine.
165. Joseph Nye (2011), The Future of Power, PublicAffairs.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vh_ho_chi_minh_5424_2065766.pdf