Luận văn Văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lược ngoại giao văn hóa Việt Nam ở đầu thế kỉ XXI

Quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa là một việc làm cần thiết và có tính cấp bách. Đó không chỉ là sự tôn vinh một danh nhân của dân tộc. Đó không chỉ là sự bảo tồn các giá trị văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là phục vụ mục tiêu của ngoại giao văn hóa. Mà hơn tất thảy, đó là sự khẳng định bản sắc, nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa thông qua hình tƣợng ngƣời Việt Nam tiêu biểu nhất cho những giá trị dân tộc và thời đại: Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Những chƣơng trình ngoại giao văn hóa sẽ tăng cƣờng cơ hội hợp tác văn hóa toàn cầu và là nhịp cầu nối Việt Nam ra thế giới và ngƣợc lại. Công tác ngoại giao văn hóa, quảng bá hình ảnh Việt Nam chỉ có thể thành công khi huy động đƣợc sức mạnh tổng hợp của mọi lực lƣợng, mọi nguồn lực của đất nƣớc. Việc quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam cũng chính là góp phần vào mục tiêu ấy. Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu phát triển của đất nƣớc và với những cam kết quốc tế, cần hoàn thiện hệ thống chính sách ngoại giao văn hóa đồng bộ trong tổng thể nền ngoại giao toàn diện Việt Nam. Quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại giao trong thập kỷ tới để nâng tầm hiểu biết của cộng đồng quốc tế về Việt Nam và củng cố mối quan hệ với những quốc gia khác, qua đó góp phần xây dựng lòng tin chiến lƣợc giữa Việt Nam và quốc tế

pdf170 trang | Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1047 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lược ngoại giao văn hóa Việt Nam ở đầu thế kỉ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a ngoại giao văn hóa trong tổng thể nền ngoại giao toàn diện, hiện đại của Việt Nam; gắn kết ngoại giao văn hóa với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và công tác về ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài nhằm tạo sức mạnh ngoại giao tổng hợp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đây cũng chính là tiền đề để thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh đối với cộng đồng quốc tế. Để thực hiện thành công công tác quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong Chiến lƣợc NGVH, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu chiến lƣợc, dự báo những xu hƣớng phát triển của văn hóa và ngoại giao văn hóa trong khu vực và trên thế giới tác động đến Việt Nam thông qua các hội thảo, hội nghị, tọa đàm, trao đổi cấp quốc gia, khu vực và quốc tế. Từ đó, kiến nghị với Đảng và Nhà 136 nƣớc về chính sách liên quan đến ngoại giao văn hóa. Thông qua việc nghiên cứu chiến lƣợc, dự báo xu hƣớng phát triển của văn hóa và NGVH trong khu vực và trên thế giới, việc quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh mới có những hành động phù hợp và hiệu quả. Thậm chí, dựa trên việc nghiên cứu văn hóa Hồ Chí Minh, NGVH còn có thể đi trƣớc một bƣớc, mở đƣờng cho một xu thế mới. Tiếp đó, trong quá trình thực hiện việc phổ biến văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa cần phải tạo nhận thức chung và đồng thuận trong Lãnh đạo các cấp, các ngành, địa phƣơng về sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác kết hợp văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa; nhằm đƣa công tác này trở thành một nhiệm vụ thƣờng xuyên của mọi cơ quan từ trung ƣơng đến địa phƣơng và của toàn xã hội. Từ đó, việc tuyên truyền, phổ biến các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh mang tính nhất quán, xuyên suốt, tránh tình trạng nơi làm nơi bỏ, chỗ nông, chỗ sâu, không thống nhất, mỗi nơi làm một kiểu, dẫn tới tình trạng phân tán, thậm chí làm giảm hiệu quả của công tác này. 4.3.2. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nƣớc, sự phối hợp của các tổ chức chính trị- xã hội, các cơ quan, ban, ngành trong việc quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về ngoại giao văn hóa một cách toàn diện, đồng bộ trên cơ sở phù hợp với pháp luật của Nhà nƣớc và đƣờng lối đối ngoại của Đảng; điều chỉnh, bổ sung chính sách ngoại giao văn hóa cho phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nƣớc và với cam kết quốc tế. Gắn việc phổ biến các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của các cấp, các ngành và địa phƣơng; lồng ghép hoạt động ngoại giao văn hóa trong triển khai Chiến lƣợc phát triển văn hóa, Chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, nhằm tạo tính cộng hƣởng trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phƣơng. 137 Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phƣơng để triển khai hoạt động NGVH nhằm phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông và các Bộ, ngành địa phƣơng có liên quan khác trong việc chủ trì, phối hợp tổ chức các chƣơng trình, hoạt động văn hóa có yếu tố nƣớc ngoài ở trong và ngoài nƣớc, cụ thể: - Bộ Ngoại giao có nhiệm vụ tìm hiểu, nghiên cứu và kiến nghị tổ chức các hoạt động văn hóa của Việt Nam ra nƣớc ngoài một cách có hiệu quả và thiết thực, có trọng điểm và phù hợp với đối tƣợng trên địa bàn, tiếp thu tinh hoa của nƣớc sở tại vào Việt Nam. - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao thực hiện các hoạt động văn hóa có yếu tố nƣớc ngoài, các chƣơng trình đón các đoàn văn hóa, nghệ thuật của nƣớc ngoài vào Việt Nam và giới thiệu các di sản, danh lam thắng cảnh, truyền thống văn hóa, các anh hùng dân tộc, các nhà văn hóa lớn của Việt Nam với bạn bè quốc tế. - Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Ngoại giao xây dựng chủ trƣơng cung cấp thông tin cho báo chí nƣớc ngoài, cộng đồng ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài và cộng đồng quốc tế. - Các hội hữu nghị, tổ chức đoàn thể chính trị xã hội gắn các hoạt động ngoại giao văn hóa trong quá trình triển khai các hoạt động ngoại giao nhân dân. Sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành, địa phƣơng giúp cho việc thực hiện công tác NGVH không bị chồng chéo, trùng lắp, tăng cƣờng tính hiệu quả. Chính điều này có tác động rất lớn đến việc quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh : vừa mang nhiều màu sắc, vừa mang tầm vóc, quy mô. Đây cũng là cách mà Hồ Chí Minh luôn khuyến khích trong việc xây dựng nền văn hóa mới, vừa phát huy tính dân tộc, vừa phải mang tính khoa học và đại chúng. 138 4.3.3. Đa dạng các loại hình, biện pháp quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam Sang thế kỉ XXI, trƣớc đặc điểm tình hình trong nƣớc và quốc tế cho thấy hoạt động NGVH không bó hẹp trong phạm vi ngoại giao cấp Nhà nƣớc mà có sự mở rộng, tham gia rất tích cực của ngoại giao công chúng. Các hoạt động ngoại giao phi chính phủ đang ngày càng chứng minh về vai trò, về tính hiệu quả của mình. Một trong những đặc điểm quan trọng của văn hóa Hồ Chí Minh chính là tính đại chúng. Văn hóa Hồ Chí Minh không bó hẹp trong khuôn khổ một giai cấp, tầng lớp, một quan hệ xã hội nào mà luôn rộng mở với mọi đối tƣợng, mọi phạm vi và mọi mối quan hệ. Do đó, NGVH hiện nay cần phải quan tâm đúng mức đến việc phát huy vai trò của các hoạt động ngoại giao công chúng (phi chính phủ). Về nội dung và hình thức triển khai, cần phải có những hình thức và nội dung đa dạng. Phổ biến nhất là tiến hành các hoạt động kỷ niệm ngày sinh của Hồ Chí Minh dịp 19/5 hàng năm, đặc biệt là các năm chẵn, năm tròn với các hình thức tổ chức mít tinh, nói chuyện, tọa đàm, triển lãm, chiếu phim, giới thiệu sách, hội thảo, thi tìm hiểu với sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân, cả đồng bào trong nƣớc lẫn kiều bào ở nƣớc ngoài. Trong hình thức này cần lồng ghép các cuộc phỏng vấn, nói chuyện của các học giả, các cán bộ tuyên truyền, các lão thành cách mạng để tăng cƣờng thông tin và hiểu biết cho ngƣời dân. Ở hình thức này cần đảm bảo tính thực chất, phong phú, đa dạng, hấp dẫn, tránh hình thức, phô trƣơng, gây tốn kém, lãng phí mà hiệu quả không cao, thậm chí phản tác dụng. Các hoạt động phải hƣớng tới mục đích làm cho nhân dân thấy đƣợc tầm nhân cách, tầm văn hóa và đạo đức của Hồ Chí Minh ở cả hai góc độ “Anh hùng giải phóng dân tộc” và “Nhà văn hóa kiệt xuất”. Tiếp đó, tiến hành thƣờng xuyên việc “Học tập và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ở trong nƣớc và nƣớc ngoài. Thông qua 139 cuộc vận động, ngƣời dân sẽ hiểu về Hồ Chí Minh và có những hành động tự giác, thiết thực hơn. Việc xây dựng tƣợng đài Hồ Chí Minh, đặt tƣợng Ngƣời tại một số địa bàn cũng cần đƣợc chú ý. Thông qua Đề án : “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nƣớc ngoài” đã có một số nƣớc xây dựng hoặc đặt tƣợng Hồ Chí Minh, trong đó có một số thiết kế đƣợc các nhà điêu khắc sở tại sáng tác nhƣ ở Nga, Mexico. Một trong những bức tƣợng Hồ Chí Minh đầu tiên đƣợc dựng ở nƣớc ngoài là tại Ấn Độ năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngƣời. Trong 6 năm triển khai Đề án, đến ngày 12/10/2015, đã dựng thêm đƣợc 10 tƣợng hoặc tƣợng đài Hồ Chí Minh ở các nƣớc trên thế giới và tu bổ tƣợng, nâng cấp khu tƣợng đài, khánh thành công trình ở Madagascar, Mexico, Hungary. Hiện nay, hình thức này đã đƣợc thực hiện tại khoảng 20 nƣớc trên thế giới ở cả châu Á, châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. Tiếp đó là xây dựng các khu di tích tƣởng niệm, bảo tàng, công viên mang tên Hồ Chí Minh, đƣợc triển khai tại những địa bàn Ngƣời đã từng sống và hoạt động, chủ yếu ở Lào, Thái Lan, Trung Quốc và Pháp. Hình thức tiếp theo là đặt bia, gắn biển đồng. Một số thành phố trên thế giới đã áp dụng hình thức này nhằm ghi lại sự kiện Hồ Chí Minh đã từng đặt chân đến địa danh của thành phố nhƣ New Heaven (Anh), Vladivostok (Nga), Kolkata (Ấn Độ), Viện bảo tàng Văn minh châu Á (Singapore), Cảng Phòng Thành, Nam Ninh (Trung Quốc) vv Hình thức thứ sáu là đặt tên Hồ Chí Minh cho trƣờng, lớp, đƣờng phố hay quảng trƣờng. Tháng 11/2015, nhân chuyến thăm Palestine của Đoàn Ban Đối ngoại trung ƣơng, phía bạn bày tỏ mong muốn đƣợc đặt tên Hồ Chí Minh cho một con đƣờng tại Ramallah; Đại sứ quán ta tại Morocco cũng kiến nghị vận động chính quyền Burkina Faso khôi phục lại tên đƣờng Hồ Chí Minh cho đại lộ chạy qua dinh Tổng thống nƣớc này hoặc đặt tên Hồ Chí Minh cho 140 một con đƣờng khác phù hợp. Đây là một hình thức khá hiệu quả, có tác dụng lâu dài. Hình thức thứ bảy là tiếp tục xuất bản, phát hành các ấn phẩm, sách báo, phim về Hồ Chí Minh. Đây là một hình thức phổ biến có từ trƣớc hiệu quả cao, do đó, ta cần phát huy. Gần đây, ngày càng có nhiều công trình viết, nghiên cứu về Hồ Chí Minh do nƣớc ngoài tự làm. Việt Nam cũng nhận đƣợc đề nghị của một số nƣớc nhƣ Bangladesh và Kazakhstan muốn xuất bản sách về Hồ Chí Minh dựa trên nguồn tƣ liệu Việt Nam cung cấp. Hình thức thứ tám là tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm hoặc các chƣơng trình học tập chính khóa cũng nhƣ các lớp tập huấn về Hồ Chí Minh và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Có thể kể tới việc Ấn Độ tổ chức Hội thảo khoa học về “Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam qua cái nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (11-12/5/2015) tại Tirupati; Hàn Quốc tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hàn Quốc và Việt Nam” tại Đại học Choson, thành phố Gwangju vv... Hình thức thứ chín là các hoạt động mang tính nghệ thuật, sáng tạo cần đƣợc mở rộng và đa dạng hóa. Hình thức thứ mƣời là mở các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa Hồ Chí Minh, từ đó có thêm nhiều nội dung để quảng bá. Tất cả những hoạt động trên sẽ giúp cho không chỉ Chính phủ, mà cả ngƣời dân chủ động trong việc quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh. Thông qua các hoạt động đó, mỗi ngƣời sẽ thấy thêm tự hào, yêu mến về Hồ Chí Minh, từ đó, tích cực mở rộng các hoạt động có ý nghĩa. Để hoạt động quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh một cách hiệu quả, trong chiến lƣợc NGVH cần chú ý đến một số hoạt động sau: -Tổ chức sƣu tầm, nghiên cứu bổ sung để hoàn thiện các tài liệu về văn hóa Hồ Chí Minh, tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ và tham gia của các nƣớc. 141 Do Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa đi nhiều nơi trên thế giới, do đặc thù của hoạt động cách mạng mang tính bí mật và trong điều kiện Việt Nam chiến tranh liên miên vì vậy, cho đến hiện nay, chúng ta chƣa có điều kiện thu thập đƣợc hết tài liệu về Hồ Chí Minh và những sản phẩm thuộc về văn hóa Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc quảng bá, vận dụng văn hóa Hồ Chí Minh phải chú ý đến việc thu tập, sƣu tầm, hoàn thiện văn hóa Hồ Chí Minh. Và đây cũng là cơ hội để chúng ta có thể kêu gọi sự giúp đỡ của các nƣớc trong việc thông tin, cung cấp cho chúng ta những tƣ liệu quý báu về Hồ Chí Minh và văn hóa Hồ Chí Minh. -Xây dựng bộ tài liệu (viết, ảnh, phim DVD...) bằng tiếng địa phƣơng để giới thiệu về văn hóa Hồ Chí Minh: hình thức đa dạng, nội dung phong phú hấp dẫn, lồng ghép tình cảm của Hồ Chí Minh với nƣớc sở tại. Đây là công việc hết sức quan trọng. Văn hóa là những gì còn đọng lại khi tất cả đã mất. Do đó, để văn hóa Hồ Chí Minh có sức hấp dẫn, ấn tƣợng với thế giới thì nội dung và hình thức quảng bá phải mới lạ, hấp dẫn thì mới đi vào lòng ngƣời. Bản thân Hồ Chí Minh vừa là lãnh tụ chính trị, vừa là nhà văn hóa. Do vậy, khi chúng ta quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh với thế giới sẽ không tránh khỏi những định kiến, mặc cảm về tính chính trị, tính khoa trƣơng và tính áp đặt. Do đó, lựa chọn hình thức quảng bá nhƣ thế nào cũng là cách chúng ta cần quan tâm, nghiên cứu. Tôn vinh Hồ Chí Minh- nhà văn hóa kiệt xuất sẽ khắc phục những khác biệt về chính trị. -Biên tập và giới thiệu ấn phẩm về các công trình tƣởng niệm Hồ Chí Minh ở các nƣớc và các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí, tƣ liệu, hiện vật về Ngƣời ở ngoài nƣớc. -Tổ chức các hội nghị, hội thảo, triển lãm tranh, ảnh, các đợt giới thiệu cho chính quyền, nhân dân và báo chí tại các nƣớc về văn hóa Hồ Chí Minh 142 -Phát động cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí và sƣu tầm tƣ liệu, hiện vật về Hồ Chí Minh ở ngoài nƣớc. 4.3.4. Mỗi ngƣời dân là một địa chỉ, một thông điệp về văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đã sớm phát huy vai trò của ngoại giao công chúng để thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Một trong những biện pháp hiệu quả là phát huy vai trò, tính tích cực của nhân dân trong công tác ngoại giao đúng với tinh thần "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân" [81; tr.75], mỗi ngƣời dân là một thông điệp, là một minh chứng sinh động về văn hóa Việt Nam. Tiếp nối tinh thần đó, trong chính sách ngoại giao văn hóa Việt Nam hiện nay cần chú trọng xây dựng hình ảnh con ngƣời Việt Nam hiện đại - với tƣ cách là “sứ giả” của văn hóa - để họ biết nên có, cần có thái độ nhƣ thế nào khi tiếp xúc với du khách nƣớc ngoài (nụ cƣời thân thiện, lòng hiếu khách, sự giúp đỡ vô tƣ không vụ lợi, rồi ngôn ngữ, y phục, cách ứng xử, giao tiếp,phải tỏ ra là ngƣời dân của một nƣớc văn minh). Nói cách khác, muốn hấp dẫn đƣợc ngƣời ta, trƣớc tiên phải làm cho mình trở nên hấp dẫn đã, nghĩa là phải nhanh chóng khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm, khuyết tật tự thân về văn hóa, lối sống của mỗi ngƣời dân, bắt đầu từ trong gia đình, học đƣờng, ra đến ngoài xã hội. Để quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa, sự am hiểu về văn hóa Hồ Chí Minh của mỗi ngƣời dân có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là biện pháp thuyết phục nhất theo nguyên tắc "từ trái tim đến trái tim". Không gì hấp dẫn hơn khi văn hóa Hồ Chí Minh đƣợc thuyết minh với thế giới bằng chính nhân dân, chứ không chỉ nhà nƣớc với một tình cảm thân thƣơng, trân trọng. Đó không phải là sự sùng bái cá nhân mà là niềm tự hào đối với một nhà văn hóa kiệt xuất, một danh nhân của dân tộc. Với sự thông minh, sự hồn hậu, tình cảm chân thành, đây là một biện 143 pháp hiệu quả nhất đƣa văn hóa Hồ Chí Minh đến với nhân dân thế giới. Vốn dĩ nhân dân thế giới đã có thiện cảm với Hồ Chí Minh, thiện cảm với những con ngƣời bình dị, đậm chất dân tộc, mà cũng rất vĩ đại là nhân dân Việt Nam. Sự thuyết minh về văn hóa Hồ Chí Minh từ những ngƣời dân Việt Nam là sự thuyết minh thuyết phục nhất: không màu mè, không hình thức, giản dị, nhƣng đầy đủ, phong phú và đa dạng. Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà văn hóa lớn, mà còn là là một sứ giả văn hóa, mang thông điệp về một nền văn hóa giàu bản sắc, nhƣng rất cởi mở và hiện đại. Sinh thời, Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa đi nhiều nƣớc, biết nhiều thứ tiếng và nhiều nền văn hóa khác nhau. Ngƣời còn là cầu nối giữa các nền văn hóa. Danh vọng của Hồ Chí Minh có một sức hấp dẫn lớn trong thời hiện đại. Với bạn bè quốc tế hình ảnh Việt Nam gắn với hình ảnh Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, xây dựng con ngƣời Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh và quảng bá hình ảnh Hồ Chí Minh thông quan ngƣời dân trong thời đại ngày nay chính là sự kết hợp nhằm đƣa văn hóa Việt Nam đến gần với bạn bè thế giới. 4.3.5. Tích cực chuẩn bị các nguồn lực để thực hiện việc quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam 4.3.5.1. Nguồn lực con người Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong lĩnh vực ngoại giao văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Đẩy mạnh các hoạt động bồi dƣỡng kiến thức về văn hóa và ngoại giao văn hóa cho các cán bộ làm công tác đối ngoại, cán bộ công tác tại các cơ quan đại diện của Việt Nam, các Trung tâm văn hóa, các nhà văn hóa của Việt Nam ở nƣớc ngoài. Nâng cao kiến thức về ngoại giao văn hóa, về văn hóa Hồ Chí Minh cho các cán bộ làm công tác ngoại vụ và văn hóa thuộc các tỉnh, thành phố; tiếp tục mở các lớp bồi dƣỡng về kiến thức đối ngoại nói chung và văn hóa 144 Hồ Chí Minh nói riêng, kiến thức về tổ chức sự kiện văn hóa có yếu tố nƣớc ngoài tại các địa phƣơng. Đƣa nội dung ngoại giao văn hóa, văn hóa Hồ Chí Minh vào giảng dạy một cách phù hợp tại một số học viện, trƣờng Đại học chuyên ngành nhƣ: Học viện chính trị quốc gia, Học viện Ngoại giao, Đại học Văn hóa, Học viện Báo chí và tuyên truyền và các trƣờng có chuyên ngành liên quan nhằm nâng cao kiến thức của sinh viên, thanh niên đối với văn hóa Hồ Chí Minh và công tác ngoại giao văn hóa. Tăng cƣờng hoạt động giao lƣu văn hóa giữa học sinh, sinh viên, thanh niên Việt Nam với các nƣớc trong khu vực và quốc tế. Thông qua các hoạt động trên gắn với việc tuyên truyền, phổ biến văn hóa Hồ Chí Minh, để tạo nền tảng cho cán bộ ngoại giao có những phƣơng tiện cần thiết trong thực hiện công tác NGVH. Vai trò của ngoại giao văn hóa luôn đƣợc khẳng định trong thời đại ngày nay. Càng ngày vai trò của hoạt động ngoại giao phi chính phủ càng đƣợc khẳng định. Tuy nhiên trong việc kết hợp văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa không dễ dàng gì nếu nhƣ bản thân mỗi ngƣời dân không có sự am hiểu về văn hóa Hồ Chí Minh, đặc biệt là với thế hệ trẻ. Do đó, cần phải có những biện pháp tích cực, phù hợp để tăng cƣờng sự hiểu biết về văn hóa Hồ Chí Minh, đặc biệt là đối với ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài. 4.3.5.2. Kinh phí và các nguồn lực khác Để thực hiện việc vận dụng và quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc NGVH Việt Nam cần phải có kinh phí. Do đó, bên cạnh nguồn kinh phí của Nhà nƣớc, cần huy động tất cả các nguồn lực khác. Trong việc phổ biến các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa cần phải chú ý đến việc phát huy các nguồn lực kinh tế . Sinh thời, Hồ Chí Minh quan niệm: "Về văn hóa, “có thực mới vực đƣợc 145 đạo”, kinh nghiệm các nƣớc bạn cho chúng ta thấy rằng: khi nông dân đã có ruộng cày, đã đủ cơm ăn, áo mặc thì văn hóa nhân dân phát triển rất nhanh" [84; tr.32]. Trong công tác ngoại giao hiện nay, ngoài vai trò đột phá, mở đƣờng, tham mƣu, kiểm tra, đôn đốc thực hiện, ngành ngoại giao còn chú trọng vai trò hỗ trợ, đồng hành, cầu nối không chỉ cho các doanh nghiệp trong nƣớc mà còn cả cộng đồng doanh nghiệp quốc tế (doanh nghiệp, doanh nhân là một bộ phận của công chúng và là đối tƣợng của ngoại giao công chúng). Chính phủ Việt Nam thƣờng xuyên tổ chức các cuộc đối thoại, hội thảo, diễn đàn với giới doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc để chuyển tải thông điệp chính sách, lắng nghe phản hồi, đóng góp ý kiến và cùng nhau tìm ra giải pháp, cách tháo gỡ. Chính phủ Việt Nam coi trọng công tác đối ngoại nhân dân và giao lƣu, tiếp xúc nhân dân nhƣ một kênh đối ngoại nhằm vận động viện trợ của các tổ chức quốc tế, vận động và tập hợp ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài, tăng cƣờng tình đoàn kết hữu nghị, truyền thống với nhân dân các nƣớc Tiếp đến là phát huy tiềm năng sáng tạo văn hóa trong nhân dân. Hồ Chí Minh từng nói : "Những khả năng tiềm tàng trong nhân dân là vô tận" [88; tr.501]. Ngƣời luôn đánh giá cao khả năng sáng tạo trong nhân dân trong mọi hoạt động. Đối với việc phát huy văn hóa Hồ Chí Minh trong chính sách ngoại giao văn hóa cần chú ý khơi gợi, phát triển sức sáng tạo trong nhân dân từ nội dung, hình thức, cách thức để thực sự hiệu quả và hấp dẫn. Bên cạnh đó, các hình thức văn hóa dân gian của nhân dân ta có một sức hấp dẫn rất lớn đối với các nhà nghiên cứu về văn hóa cũng nhƣ với bạn bè, nhân dân khắp nơi trên thế giới. Khả năng quảng bá (sức hấp dẫn của văn hóa dân gian) đã đƣợc khẳng định. Việc phổ biến, phát huy vai trò của văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa cần chú ý nội dung này. Những bài hò, vè, dân ca, ví dặm, kịchvề Hồ Chí Minh có khả năng lôi cuốn và đi vào lòng ngƣời một cách hiệu quả. Không chỉ là loại hình, mà hình thức truyền thông (bên cạnh việc truyền thông bằng các phƣơng tiện hiện đại) 146 truyền miệng vốn là đặc tính của văn hóa dân gian Việt Nam cũng chƣa bao giờ hết tính sức mạnh, tính hiệu quả của nó. Trong việc phát huy, phổ biến các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa cần chú ý đến sự kết hợp giữa các hình thức và phƣơng pháp ngoại giao khác nhau. Trong việc kết hợp đó, văn hóa Hồ Chí Minh phải luôn đƣợc phát huy hết tinh hoa và hồn cốt của dân tộc, nhân loại. Tiểu kết chƣơng 4 Quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong Chiến lƣợc NGVH Việt Nam là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng này, cần phải chú trọng, tăng cƣờng “khai thông” nhận thức, tƣ tƣởng cho toàn xã hội về sự cần thiết của hoạt động này trong thời đại toàn cầu hóa. Từ trƣớc đến nay, khi nói về văn hóa, trong đó có ngoại giao văn hóa, quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh không ít ngƣời vẫn có những định kiến rằng đây chỉ là hoạt động của các cơ quan tuyên truyền hay ngoại giao, thậm chí còn coi đây là những hoạt động vô bổ, chỉ mang tính hình thức, phong trào, có cũng đƣợc, không có cũng chẳng sao. Ngoại giao kinh tế vẫn đƣợc đánh giá cao và đƣợc quan tâm nhiều hơn, bởi ngƣời ta cho rằng đây mới là nguồn thu hút đầu tƣ lớn nhất để thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, phát triển đất nƣớc. Trƣớc thực tế đó, cần phải làm cho mọi ngƣời, mọi ngành, mọi cấp có nhận thức đúng là: Ngoại giao chính trị giữ vai trò định hƣớng, ngoại giao kinh tế là nền tảng vật chất và ngoại giao văn hóa chính là nền tảng tinh thần của hoạt động đối ngoại. Đây là “thế chân kiềng” mà thiếu một trong ba yếu tố đó sẽ trở thành lực cản cho công tác ngoại giao nói chung, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc nói riêng. Muốn vậy, các cấp lãnh đạo phải quán triệt quan điểm đẩy mạnh hoạt động quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong Chiến lƣợc ngoại giao văn hóa nhằm làm cho thế giới hiểu biết hơn về đất 147 nƣớc, con ngƣời và văn hóa Việt Nam, tăng cƣờng xây dựng lòng tin với các quốc gia trên thế giới, đƣa quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững, qua đó nâng cao vị thế đất nƣớc trên trƣờng quốc tế, tạo điều kiện hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội. Các hoạt động quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong Chiến lƣợc ngoại giao văn hóa góp phần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa truyền thống của đất nƣớc. Để duy trì và tăng cƣờng tính hấp dẫn của mình, ngoại giao văn hóa phải tìm ra đƣợc những nội dung và hình thức độc đáo, có sức thuyết phục để khẳng định đƣợc vị thế văn hóa của mình trên trƣờng quốc tế. Một trong những nét độc đáo của ngoại giao văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XXI là quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại và thời đại, là một phần quan trọng của văn hóa Việt Nam thời hiện đại. Nhƣng kết hợp văn hóa Hồ Chí Minh với chính sách ngoại giao văn hóa nhƣ thế nào để không khiên cƣỡng, mang tính "chính trị hóa" mà vẫn đảm bảo đƣợc cái hồn cốt của văn hóa Hồ Chí Minh, đó là vấn đề cũng cần đƣợc quan tâm nghiên cứu và thực hiện. Việc đề ra phƣơng hƣớng, nội dung, giải pháp cụ thể để vận dụng, quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam là cần thiết, góp phần vào việc nâng cao chất lƣợng của ngoại giao văn hóa Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI. 148 KẾT LUẬN Những năm đầu thế kỷ XXI, ngoại giao văn hóa đƣợc Liên Hiệp Quốc đặc biệt chú trọng vì khả năng giải quyết những thách thức lớn của thời đại theo hƣớng bền vững, đó là những thách thức về sự bất bình đẳng, bất công bằng, nghèo đói và xung đột, dựa trên sự tôn trọng con ngƣời, tôn trọng văn hóa và lối sống của nhau. Do đó, các nguyên tắc của ngoại giao văn hóa bao gồm: thừa nhận, thấu hiểu, đối thoại đƣợc phát huy vai trò tối đa. Việt Nam sớm nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của ngoại giao văn hóa và đã có nhiều hoạt động cụ thể để nâng cao hiệu quả hoạt động này. Ngoại giao văn hóa của Việt Nam giữ vị trí là nền tảng tinh thần của hoạt động đối ngoại, đƣợc thực hiện bằng việc áp dụng các nội dung, hình thức văn hóa: nghệ thuật, lịch sử, tƣ tƣởng, truyền thống văn hóa, thông tin... nhằm đạt đƣợc những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nƣớc, quảng bá văn hóa và ngôn ngữ quốc gia để tạo ra uy tín, vị thế và ảnh hƣởng của Việt Nam với thế giới trong thời đại toàn cầu hóa. Việc triển khai chính sách ngoại giao văn hóa đang trở thành một trong ba chính sách ngoại giao chủ yếu, cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế. Các hoạt động ngoại giao văn hóa chính là kênh tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa truyền thống của đất nƣớc. Giao lƣu văn hóa sẽ tạo nên hình ảnh tốt hơn về đất nƣớc, con ngƣời và nền văn hóa quốc gia. Nói cách khác là ngoại giao văn hóa sẽ góp phần kiến tạo lòng tin để xây dựng quan hệ hữu nghị bền vững giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Nhà văn hóa Hồ Chí Minh là một biểu tƣợng kết tinh tinh hoa văn hóa của dân tộc và khát vọng của thời đại đã đƣợc thừa nhận trên phạm vi thế giới. Những đóng góp trong lĩnh vực văn hóa của Ngƣời đã trở thành những giá trị văn hóa đặc trƣng, tiêu biểu cho những giá trị dân tộc và thời đại. 149 Những giá trị văn hóa ấy cũng chính là động lực, là phƣơng tiện kết nối các thế hệ, các dân tộc, các nền văn hóa xích lại gần nhau vì những mục tiêu lớn của thời đại: hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh là một thông điệp văn hóa chân thành nhất, trung thực nhất, nhƣng lại đầy sức hấp dẫn trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam ở đầu thế kỉ XXI. Quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa là một việc làm cần thiết và có tính cấp bách. Đó không chỉ là sự tôn vinh một danh nhân của dân tộc. Đó không chỉ là sự bảo tồn các giá trị văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là phục vụ mục tiêu của ngoại giao văn hóa. Mà hơn tất thảy, đó là sự khẳng định bản sắc, nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa thông qua hình tƣợng ngƣời Việt Nam tiêu biểu nhất cho những giá trị dân tộc và thời đại: Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Những chƣơng trình ngoại giao văn hóa sẽ tăng cƣờng cơ hội hợp tác văn hóa toàn cầu và là nhịp cầu nối Việt Nam ra thế giới và ngƣợc lại. Công tác ngoại giao văn hóa, quảng bá hình ảnh Việt Nam chỉ có thể thành công khi huy động đƣợc sức mạnh tổng hợp của mọi lực lƣợng, mọi nguồn lực của đất nƣớc. Việc quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam cũng chính là góp phần vào mục tiêu ấy. Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu phát triển của đất nƣớc và với những cam kết quốc tế, cần hoàn thiện hệ thống chính sách ngoại giao văn hóa đồng bộ trong tổng thể nền ngoại giao toàn diện Việt Nam. Quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại giao trong thập kỷ tới để nâng tầm hiểu biết của cộng đồng quốc tế về Việt Nam và củng cố mối quan hệ với những quốc gia khác, qua đó góp phần xây dựng lòng tin chiến lƣợc giữa Việt Nam và quốc tế. Đẩy mạnh quảng bá văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa là “thời cơ vàng” để Việt Nam học hỏi đƣợc nhiều điều hay, tiếp thu 150 đƣợc nhiều điều tốt, chọn lọc đƣợc những tinh hoa văn hóa của các quốc gia, dân tộc trên thế giới để làm giàu và phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện đúng phƣơng châm: Đƣa văn hóa Việt Nam ra thế giới và đƣa văn hóa thế giới đến Việt Nam. Đây cũng là phƣơng châm hành động của nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh trong quá trình tìm lại vị trí xứng đáng cho văn hóa Việt Nam và khẳng định giá trị văn hóa Việt Nam trong quan hệ quốc tế . Đối với nƣớc ta hiện nay, việc quảng bá các giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa là một trong những việc làm thiết thực để góp phần thực hiện thắng lợi “đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phƣơng hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nƣớc; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nƣớc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” [34; tr.83-84]. Điều này cũng trực tiếp tăng cƣờng chất lƣợng của ngoại giao văn hóa, tạo ra chất xúc tác thúc đẩy ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế không ngừng phát triển, xây dựng công cụ quảng bá mạnh mẽ nền văn hóa Việt Nam, nhất là quảng bá các giá trị di sản văn hóa của dân tộc đến với bạn bè quốc tế. 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2014), Cách sử dụng lập luận trong văn chính luận Hồ Chí Minh- một thứ “lạt mềm buộc chặt”, Tạp chí Lý luận giáo dục, (4), tr.109-112. 2. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2014), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh và bài học về sử dụng quyền lực mềm trong phát triển đất nƣớc, Tạp chí Nhịp cầu tri thức, (3), tr.8-10. 3. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2015), Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về triết lí sống hài hòa với thiên nhiên- cơ sở cho sự phát triển bền vững, Tạp chí Mặt trận, (139), tr.33-37. 4. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2016), Phát huy quyền dân chủ của nhân dân theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong cuộc vận động bầu cử quốc hội, Tạp chí Mặt trận, (152), tr.8-12. 5. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2016), Giá trị văn hóa Hồ Chí Minh trong chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam, Tạp chí Giáo dục lý luận, (252), tr.13-15. 6. Trịnh Thị Phƣơng Oanh (2017), Tầm nhìn của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với chiến lƣợc ngoại giao văn hóa Việt Nam, Tạp chí Giáo dục lý luận, (256), tr. 7-10 và 21. 152 TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Lê Hữu Ái (1998), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính nhân dân trong văn hóa, nghệ thuật”, Tạp chí Triết học, số 2, tr.31-34. 2. Lê Hữu Ái (1998), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn hóa nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 3. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB t.p Hồ Chí Minh. 4. Nguyễn Hải Anh (2015), Ngoại giao văn hóa Việt Nam trong quan hệ quốc tế đương đại, Luận án Tiến sĩ Quan hệ quốc tế, Học viện Ngoại giao, Hà Nội. 5. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh văn hóa và phát triển, NXB Chính trị- Hành chính, Hà Nội. 6. Archimedes L.A.Patti (2008),Why Vietnam (Tại sao Việt Nam?), NXB Đà Nẵng. 7. Ban Tƣ tƣởng văn hóa Trung ƣơng (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Hà Nội. 8. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2005), Kỉ yếu hội thảo khoa học: Bảo tàng và phát huy giá trị di sản Hồ Chí Minh, NXB Thanh niên. 9. Hoàng Chí Bảo (2011), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, NXB Chính trị- Hành chính. 10. Hoàng Chí Bảo (2013), Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, NXB Hà Nội. 11. Đỗ Thanh Bình, Văn Ngọc Thành (đồng chủ biên) (2012), Quan hệ quốc tế thời hiện đại- những vấn đề mới đặt ra, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Lê Thanh Bình (2009), “Xu hƣớng văn hóa- truyền thông thế giới tác động đến báo chí, ngoại giao văn hóa quốc tế đƣơng đại và khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 2 (77), tr185-196. 13. Lê Thanh Bình (chủ biên) (2012), Giao thoa văn hóa và chính sách ngoại giao văn hóa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 153 14. Trần Văn Bính (2010), Di sản Hồ Chí Minh về đạo đức, văn hóa, NXB Thông tin và truyền thông. 15. Bộ Ngoại giao, Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO (2007), Văn hóa đối ngoại trong tình hình mới : Thách thức và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 16. Bộ Ngoại giao, Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO (2008), "Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội nhập và phát triển bền vững", NXB Thế giới, Hà Nội. 17. Bộ Ngoại giao (2009), Đề án : “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hoá kiệt xuất, ở nước ngoài”, Hà Nội. 18. Bộ Ngoại giao (2012), Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Bộ Ngoại giao, Ban chỉ đạo công tác ngoại giao văn hóa (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo tổng kết công tác ngoại giao văn hóa năm 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, Hà Nội. 20. Bộ Ngoại giao, Vụ UNESCO (2011), Ngoại giao văn hóa Việt Nam trong hai thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 21. Bộ Ngoại giao, Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO (2012), Ngoại giao văn hóa trong giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 22. Phạm Sanh Châu, Thành tựu ngoại giao văn hóa từ năm 2011-2015, tại trang chinhphu.vn, [truy cập ngày 15/1/2016]. 23. C. Mác và Ănghen (1995), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Phạm Nhƣ Cƣơng (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh- nhà cải cách cách mạng, nhà văn hóa lớn”, Tạp chí Triết học, (1), tr3-7. 25. Đỗ Quý Doãn (2009), “Thông tin truyền thông và việc đẩy mạnh ngoại giao văn hóa”, Tạp chí Cộng sản, (797), tr.42-47. 154 26. Thành Duy (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà tư tưởng danh nhân văn hóa thế giới, NXB Khoa học xã hội. 27. Thành Duy (2000), “Hồ Chí Minh với việc phát huy sức mạnh của văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giữ nƣớc , giải phóng dân tộc”, Tạp chí Triết học, (5), tr.31-34. 28. Thành Duy và cộng sự (2000), Danh nhân Hồ Chí Minh, NXB Lao động, Hà Nội. 29. Dƣơng Tự Đam (2004), “Giáo dục thanh niên về tƣ tƣởng văn hóa Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, (3). 30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Hà Đăng (2005), “Tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (15). 38. Đặng Đỗ (2005), “Khoan dung- một giá trị đạo đức trong nhân cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (7). 155 39. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, NXB Sự thật, Hà Nội. 40. Phạm Văn Đồng (2012), Hồ Chí Minh – tinh hoa và khí phách của dân tộc, NXB Chính trị quốc gia. 41. Hà Minh Đức (2011), “Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn hóa văn nghệ”, Tạp chí Văn học, (2) tr 3-12. 42. Lê Quý Đức (1994), Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 43. Võ Nguyên Giáp ( chủ biên) (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Ninh Viết Giao (1990), “Thử giải thích ngọn nguồn văn hóa xứ Nghệ và bản sắc văn hóa Việt Nam trong con ngƣời Hồ Chủ tịch”, Tạp chí Văn học, (2), tr.14-18. 45. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 46. Thạch Hà (2009), “Ngoại giao văn hóa: Trung Quốc quảng bá quốc gia nhƣ thế nào”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 2 (77), tr.173-183. 47. Võ Văn Hải (2011), “Đẩy mạnh ngoại giao văn hóa trong hội nhập quốc tế”, Tạp chí Quân đội nhân dân, số ra 26/11/2011. 48. Nguyễn Tiến Hải, Lê Hải Triều (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về các giá trị cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin. 49. John Lê Văn Hóa (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, NXB Hà Nội. 50. Hồ Trọng Hoài (2005), “Khoan dung- một giá trị đạo đức trong nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (7). 51. Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia (2010),Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Kỉ niệm 120 năm 156 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890- 19/5/2010), NXB Chính trị- Hành chính. 52. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2003), Từ điển bách khoa Việt Nam 3, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội. 53. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2005), Từ điển bách khoa Việt Nam 4, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội. 54. Vũ Dƣơng Huân (chủ biên) (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại, vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002), Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội. 55. Vũ Dƣơng Huân (2007), “Vài suy nghĩ về ngoại giao văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, (76). 56. Hellmut Kapfenberger (2010), Hồ Chí Minh- một biên niên tiểu sử, NXB Thế giới. 57. Hungtington Samuel (2003), Sự va chạm của các nền văn minh”, NXB Lao Động, Hà Nội. 58. Đỗ Huy (1997), Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội . 59. Đỗ Huy (2006), “Tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh bƣớc phát triển mới về đạo đức trong văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (5), tr.9-14. 60. Đỗ Huy, Lê Hữu Ái (1995), Tìm hiểu tư tưởng văn hóa nghệ thuật Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 61. Trần Đình Huỳnh- Trịnh Quang Cảnh (chủ biên) (2003): Từ Các Mác đến Hồ Chí Minh một dòng chảy văn hóa, NXB Hà Nội, Hà Nội. 62. Đặng Thị Thu Hƣơng (2009), “Ngoại giao văn hóa và truyền thống văn hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 1 (76), tr. 79-90. 63. Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990), Trích tham luận của đại biểu quốc tế, NXB Khoa học xã hội Việt Nam. 157 64. Vũ Ngọc Khánh (1990), Hồ Chí Minh và tâm thức folklore Việt Nam, NXB Thanh Hóa. 65. Vũ Khiêu (2012), Hồ Chí Minh ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội. 66. Vũ Khoan (chủ biên) (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 67. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. Đặng Xuân Kỳ (2010), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 69. Thái Kim Lan (2009), “Đạo đức văn hóa- Khởi thủy của ngoại giao văn hóa”, Tia sáng, (2), tr.18-21. 70. T. Lan (2008), Vừa đi đường vừa kể chuyện, NXB Trẻ, Hà Nội. 71. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (1998), Hồ Chí Minh văn hóa và đổi mới, NXB Lao động. 72. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (2001), Về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh, NXB Lao động. 73. Nguyễn Hữu Lập (2015), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh : giá trị lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 74. Trƣờng Lƣu (chủ biên) (1990), Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam, NXB Viện Văn hóa. 75. Hồ Chí Minh (1971), Về công tác văn hóa văn nghệ , NXB Sự thật. 76. Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, NXB Văn học, Hà Nội 77. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 1. 78. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2. 79. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3. 158 80. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4. 81. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 5. 82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 6. 83. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 7. 84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 8. 85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 9. 86. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 10. 87. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 11. 88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 12. 89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 13. 90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 14. 91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 15. 92. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2011), Định hƣớng chính sách đối ngoại Việt Nam đến năm 2020, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 93. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2012), Cục diện thế giới đến 2020, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 94. Phạm Bình Minh (2015), Danh nhân văn hóa kiệt xuất và nhà ngoại giao lỗi lạc Hồ Chí Minh, tại trang [truy cập ngày 25/7/2016]. 95. Phạm Xuân Nam (2008), Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa- một góc nhìn từ Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 96. Phạm Xuân Nam (2013), “Những nội dung cốt yếu trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa- giá trị đối với sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta hiện nay”, Khoa học xã hội Việt Nam, 4 (65), tr.82-91. 97. Trần Quang Nhiếp, Nguyễn Văn Sáu (2008), Giá trị cơ bản về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, NXB Công an nhân dân. 98. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 159 99. Nguyễn Gia Nùng (2007), Đặc sắc văn hóa Hồ Chí Minh, NXB Công an nhân dân. 100. Nhiều tác giả (1979), Hồ Chủ tịch trong lòng nhân dân thế giới, NXB Sự thật, Hà Nội. 101. Nhiều tác giả (1997), Hồ Chí Minh- tác gia, tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ, NXB Giáo dục, Hà Nội. 102. Nhiều tác giả (2009), Hồ Chí Minh nhà văn hóa của tương lai, NXB Thanh niên. 103. Nhiều tác giả (2010), Giá trị thời đại của văn hóa Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa thông tin. 104. Nguyễn Khắc Nho (2008), Hồ Chí Minh- Đỉnh cao truyền thống nhân- trí- dũng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 105. Paul Mus (1971), Hồ Chí Minh, Việt Nam, Á Châu, NXB Du Seuil, Pari. 106. Đào Phan (1996), Đạo Khổng trong văn Bác Hồ, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội. 107. Đào Phan (1991), Hồ Chí Minh danh nhân văn hóa, NXB Văn hóa. 108. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng- Trung tâm Từ điển học, Hà Nội- Đà Nẵng. 109. Bùi Đình Phong (2009), Trí tuệ và bản lĩnh văn hóa của Hồ Chí Minh, NXB Công an nhân dân. 110. Bùi Đình Phong (2015), Hồ Chí Minh- sáng tạo, đổi mới, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 111. Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên) (2016), Một số vấn đề lí luận, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, NXB Chính trị quốc gia. 112. Hoằng Quang, Vĩnh Trị (biên soạn và trích dẫn)(2006), Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc nhà văn hóa kiệt xuất, NXB Từ điển bách khoa. 160 113. Nguyễn Ngọc Quyến (2004), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp chí Triết học, (11), tr.32-36. 114. Phạm Quốc Sử (2013), “Tôn vinh bản sắc dân tộc trong ngoại giao văn hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (344), tr.7-12. 115. Văn Tạo (2002), “Khoa học ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (1), tr.1-8. 116. Hà Văn Tăng (2007), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (2), tr.12-16. 117. Tạ Ngọc Tấn (2010), “Vấn đề văn hóa trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát triển đất nƣớc”,tại trang Tạp chí Cộng sản điện tử, [truy cập ngày 18/5/2010]. 118. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh- nhà tư tưởng lỗi lạc, NXB Lý luận chính trị. 119. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 120. Song Thành (2014), ““Ngoại giao văn hóa” và gia tăng “sức mạnh mềm” của Việt Nam trong hội nhập và phát triển”, Tạp chí Văn hóa Nghệ An, (264,265). 121. Hoàng Vĩnh Thành (2009), Ngoại giao văn hóa: Bắt đầu từ khái niệm, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 1 (76), tr. 17-32. 122. Nguyễn Thế Thắng (2014), "Văn hóa Hồ Chí Minh- văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử", Tài liệu học tập dành cho lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Lào Cai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 123. Mạch Quang Thắng (2014), Hồ Chí Minh- con người của sự sống, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 124. Mạch Quang Thắng, Bùi Đình Phong, Chu Đức Tính (đồng chủ biên) (2013), UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh- Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, NXB Chính trị quốc gia. 161 125. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 126. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, NXB Văn hóa- Văn nghệ. 127. Hữu Thọ (2009), “Mấy cảm nhận về “văn hóa Hồ Chí Minh””, Tạp chí Tuyên giáo, (5). 128. Thủ tƣớng Chính phủ (2011), Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020, Ban hành theo quyết định số 208/QĐ- Ttg ngày 14/02/2011 của Thủ tƣớng Chính phủ, Hà Nội. 129. Thủ tƣớng Chính phủ (2015), Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Hà Nội. 130. Lƣu Thu Thủy (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục hành vi văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (3), tr.24-26. 131. Đỗ Lai Thúy (1998), “Hồ Chí Minh- ngƣời mang nền văn hóa tƣơng lai”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật. 132. Trần Dân Tiên (2001), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB Văn học, Hà Nội. 133. Phạm Thủy Tiên (2016), Ngoại giao văn hóa, tại trang diplomacy/, [truy cập ngày 27/9/2016]. 134. Phạm Bá Toàn (2012), Giá trị văn hóa Bộ đội cụ Hồ: Qua hồi kí, nhật kí chiến tranh, NXB Quân đội nhân dân. 135. Nguyễn Đài Trang (2010), Hồ Chí Minh tâm và tài của một nhà yêu nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 136. Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), “Những giá trị sinh thái nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học, (11), tr.32-36. 137. Hà Xuân Trƣờng (2000), “Hồ Chí Minh- cái nhìn văn hóa xuyên thế kỉ”, Tạp chí Cộng sản, (10). 162 138. Trần Minh Trƣởng (2000), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1954-1969, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 139. UNESCO (1988), Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Tạp chí Thông tin UNESCO, tr.5. 140. UNESCO (2001), Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa, UNESCO, 2/11/2001. 141. Phạm Thái Việt, Lý Hải Yến (2012), Ngoại giao văn hóa- cơ sở lí luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng, NXB Chính trị- Hành chính. 142. Phạm Thái Việt (2009), “Quan hệ công chúng và ngoại giao văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 3 (78). 143. Lê Xuân Vũ (2004), Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hóa Việt Nam, NXB Văn học. 144. Lê Xuân Vũ (2003), Trong ánh sáng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, NXB Văn học. 145. Vũ Thị Kim Xuyến (2006), “Các giá trị văn hóa truyền thống với vấn đề giao lƣu hội nhập", Tạp chí Giáo dục lí luận, (10). TIẾNG ANH 146. Alan Bullock, R. B. Woodings (Editor) (1983), Twentieth Century Culture: A Biographical CompanionPaperback, Harper and Row. 147. Barghoorn, F.C. (1976), The Soviet Cultural Diplomacy: The Role of Cultural Diplomacy in Soviet Foreign Policy, Westoort, CT: Greenood Press, pp.10-11. 148. Bound, Kirsten, Rachel Briggs, John and Holden and Samuel Jones (2007), Culture is a Central Component of International Relations. It’s Time to Unlock Its Full Potential London: Demos. Retrieved from: 163 149. Pierre Brocheux (2007). Ho Chi Minh: A Biography. Cambridge University Press. 150. Ada Bozemann (1994), Politics and Culture in International History: From the Ancient Near East to the Opening of the Modern Age, Princeton University Press, Princeton. 151. William J. Duiker (2001). Ho Chi Minh: A life. Hyperion, New York. 152. Gienow-Hecht, J. (2010), What are We Searching for? Culture, Diplomacy, Agents, and the State, in Searching for a Cultural Diplomacy, edited by Gienow-Hecht, J & Donfried, M. (2010) Berghahn Books, pp.21- 22. 153. Hect, C.E. and Donfried, M.C. (2010), “The model of cultural diplomacy: power distance and the promise of civil society,” Searching for a Cultural Diplomacy, New York: Berghann Books, p. 21. 154. Institute for Cultural Diplomacy (2013), Cultural Diplomacy Dictionary, Germany. 155. Jacquin-Berdal, D.; Oros, A; Verweij, M. (1998), Culture in World Politics, St. Martin’s Press, Inc, New York, USA. 156. J. Lacouture (1967), Ho Chi Minh, Ed. Seuil, Pari. 157. McDonald, John W. (September 2003), "Multi-Track Diplomacy", The Beyond Intractability Project, Eds. Guy Burgess and Heidi Burgess, Conflict Information Consortium, University of Colorado, Boulder. Retrieved on 26/8/2016 from: diplomacy. 158. Cummings Milton (2003), Cultural Diplomacy and the United States Government: a Survey, Center for Arts and Culture, USA. 159. David Reynolds (2006), “International History: the Cultural Turn and the Diplomatic Twitch”, Cultural and Social History, 1(3), tr.91-95. 164 160. Satow E (1957), A Guide to Diplomatic Practice, 4th Edition, Longmans Green, London. 161. Schneider,C.P. (2006) “Cultural diplomacy: hard to define, but you’d know it if you saw it,” The Brown Journal of World Affairs, Fall/Winter, XIII, (I), p. 196. 162. Schneider, C. P. (2009) The Unrealized Potential of Cultural Diplomacy: “Best Practices” and What Could Be, If Only, Heldref Publications. p.276. 163. See Ma, R. (2014) Cultural Diplomacy in ASEAN: Collaborative Efforts. International Journal of Social Science and Humanity, (4), p. 394-397. 164. Thayer, R (1959) Cultural Diplomacy: Seeing is Believing. Speech delivered at the University of Maine. 165. Joseph Nye (2011), The Future of Power, PublicAffairs.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvh_ho_chi_minh_5424_2065766.pdf