Bạo lực gia đình đã gây ra tác hại vô cùng to lớn ảnh hưởng đến tình
hình kinh tế xã hội của đất nước. Khi bạo lực gia đình xẩy ra hậu quả thường
thấy là những tổn hại về sức khỏe kéo theo tổn hại tất yếu về kinh tế và cả
những hệ lụy trong mối quan hệ gia đình như gây ra những sang chấn tinh
thần cho nạn nhân và những người trong gia đình, những sang chấn này
thường khó hồi phục hơn những tổn thương trên thân thể, nhất là để lại những
dấu ấn khó phai trong tâm trí trẻ thơ, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
của con trẻ. Ở nhiều gia đình thế hệ con cháu đã lặp lại hành vi bạo lực mà
khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Rõ ràng bạo lực gia đình đang làm
xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và trở thành nguy cơ làm tan vỡ sự
bền vững của gia đình Việt Nam.
Bạo lực gia đình không còn là chuyện riêng của mỗi nhà, mà là trách
nhiệm của toàn xã hội. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội còn rất
nhiều gia đình có tình trạng bạo lực gia đình. Với sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay, bạo lực gia đình đã được luật hoá, do đó, hành vi bạo
hành gia đình bị coi là hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình làm mất đi điều kiện
được cống hiến cho xã hội, được phát triển của mọi thành viên trong gia đình
đồng thời là lực cản đối với sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, hơn bao
giờ hết, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cần được hạn chế và
triệt tiêu trong xã hội.
Trên cơ sở phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thực
trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, luận văn bước đầu
đưa ra những giải pháp cụ thể góp phần vào việc phòng ngừa, hạn chế tiến tới
đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội. Điều
này có ý nghĩa rất lớn bởi vì Việt Nam hiện là thành viên của các Công ước
quốc tế và các Nghị định thư về quyền con người.
96 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 580 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đình trong đời sống xã hội.
Đồng bộ là phải bảo đảm việc ban hành các văn bản pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình tránh chồng chéo nhau; các văn bản của cấp dưới phải
phù hợp với các văn bản của cấp trên; văn bản dưới luật phải phù hợp với
Hiến pháp và Luật.
Kỹ thuật văn bản là một vấn đề rộng lớn phức tạp trong đó có ba điểm
quan trọng, cần thiết, chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình:
65
- Kỹ thuật pháp lý thể hiện những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp
dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình.
- Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu
của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
- Các biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý, phải đảm bảo tính cô đọng,
logic, chính xác và một nghĩa.
Trên thực tế, chúng ta đã có một hệ thống pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình mà đỉnh cao là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hệ thống
pháp luật này đã có những tác động tích cực trong nhận thức và thực tiễn hoạt
động phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta, từng bước đưa hoạt động
phòng, chống bạo lực gia đình đi vào nề nếp, ngăn chặn hành vi bạo lực gia
đình, hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị bạo lực. Lần đầu tiên chúng ta có một văn bản pháp lý
quy định trực tiếp về phòng, chống bạo lực gia đình và đã có ý nghĩa rất lớn
trên con đường hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình. Tuy nhiên, sau một thời gian có hiệu lực, Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Những hạn chế này đã được
luận văn phân tích tại chương 2.
Theo luận văn, để Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nói riêng cũng
như hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được thực thi trong
cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng áp dụng dễ
dàng và xử lý chính xác các vụ vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng,
chống bạo lực gia đình, cần có văn bản pháp luật cụ thể hoá các quy định
chung chung trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Đồng thời, trong các
văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cần
quy định rõ hành vi vi phạm nào, ở mức độ nào thì xử lý hành chính và xử lý
như thế nào, và ở từng hành vi bạo lực gia đình cụ thể thì hành vi nào, mức độ
nào cấu thành tội phạm. Hơn nữa, trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
cần hình sự hoá các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình,
66
quy định cụ thể về tội phạm trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Có
như vậy mới có tính răn đe đối với chủ thể vi phạm và với những người khác,
dễ dàng trong việc áp dụng, xử lý, tránh được tình trạng bỏ lọt tội phạm trong
lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Vì vậy, các cơ quan có trách nhiệm
cần sớm ban hành các văn bản pháp luật để cụ thể hoá, hướng dẫn thi hành
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị
định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình, Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, nhưng xét một cách
tổng quát thì Nghị định này chưa cụ thể và giải quyết được nhiều vấn đề
chung chung trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Ngày 12 tháng 11
năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Nghị định
Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực
gia đình. Nghị định hướng dẫn về xử phạt hành chính chi tiết, cụ thể vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Đây là điều kiện thuận lợi để các cơ
quan thực thi pháp luật áp dụng một cách chính xác, không xử lý oan đồng
thời không bỏ lọt hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, tạo cơ sở
pháp lý chặt chẽ, đầy đủ nhằm hạn chế và đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật
trong phòng, chống bạo lực gia đình, giúp công tác phòng, chống bạo lực gia
đình đạt được hiệu quả cao.
Với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nên quy định cụ thể những tội danh về bạo lực gia đình
(nếu Luật Phòng, chống bạo lực gia đình không quy định cụ thể về tội phạm
trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình) bởi vì cùng là các hành vi như
nhau nhưng trong gia đình và ngoài gia đình thì tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi, ý thức và thái độ phủ nhận yêu cầu của pháp luật của chủ
thể vi phạm là khác nhau. Quy định cụ thể như vậy sẽ có tác dụng răn đe đối
với các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có
67
hành vi bạo hành gia đình đồng thời đạt được hiệu quả trong công tác phòng
chống bạo lực gia đình.
Như vậy, hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hiện tại còn
nhiều điểm hạn chế. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, việc khắc phục
những hạn chế đó là điều rất cần thiết để chúng ta hoàn thiện hệ thống pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình. Khi hệ thống pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình được hoàn thiện, thống nhất sẽ là cơ sở pháp lý cho việc áp dụng,
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, từ đó góp
phần hạn chế vi phạm pháp luật.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình đang hoành hành và lây lan nhanh chóng trong xã hội,
xâm nhập vào mỗi gia đình và ngày càng nhiều gia đình đang phải sống
chung với bạo lực gia đình nhưng giường như xã hội vẫn thờ ơ, dửng dưng
với vấn đề này. Mặc dù vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình đã được Luật
hoá, được đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật, bạo hành gia đình đã trở
thành vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình nhưng cộng đồng xã
hội vẫn khoanh tay đứng nhìn, vẫn coi đó là vấn đề riêng của mỗi gia đình, vì
thế mỗi gia đình tự đóng cửa bảo nhau. Như vậy, phải chăng, chính cộng
đồng xã hội đã tạo điều kiện để vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình phát triển. Vì vậy, đã đến lúc, cả xã hội phải chung tay, góp sức lại để
triệt tiêu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo hành gia đình. Sự
chung tay của cả xã hội sẽ tạo nên một sức mạnh tổng hợp có thể ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Chính vì
vậy, việc hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình là rất cần thiết và đặc biệt quan trọng.
Hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình tức là hoàn thiện cách thức tổ chức, hành
động của xã hội đối với vấn đề vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống
68
bạo lực gia đình. Điều đó có nghĩa là tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong xã hội cần có cách thức hành động cần thiết, tích cực trong sự phối kết
hợp chặt chẽ đối với hiện tượng xã hội là vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình. Nội dung của giải pháp này, trước hết, cần
nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của cá nhân, gia đình và
cộng đồng xã hội trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình. Tiếp đó, xã hội cần có những hành động cụ thể góp phần vào
việc ngăn chặn, đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, góp
phần xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, giữ vững trật tự và ổn định xã
hội.
a) Xây dựng mạng lưới phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình có sự thống nhất chỉ đạo hành động từ Trung
ương đến các cấp chính quyền địa phương
Để công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng,
chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả, theo luận văn, cần phải thành lập
ngay một mạng lưới chuyên trách ngăn chặn bạo lực từ Trung ương tới từng
địa phương. Ở cấp Trung ương cần có một Uỷ ban về phòng, chống bạo lực
gia đình, mỗi tỉnh, huyện, có Ban phòng, chống bạo lực; mỗi xã có đội phòng,
chống bạo lực gia đình; mỗi thôn, xóm có nhóm can thiệp phòng, chống bạo
lực gia đình.
Thành phần của Ban/đội phòng, chống bạo lực gia đình gồm:
- Trưởng ban/đội trưởng: đại diện của chính quyền (chủ tịch hoặc phó
chủ tịch tỉnh, huyện, xã) ;
- Các phó ban/ phó đội trưởng;
- Các uỷ viên: cán bộ chính quyền, công an, y tế, thành viên trong các tổ
chức chính trị - xã hội.
Các thành viên phải là người có uy tín, nghiêm túc, có kinh nghiệm,
gương mẫu trong cuộc sống, được người dân địa phương tín nhiệm, những
người đứng đầu trong các dòng tộc, các chức sắc tôn giáo, những người có
69
kiến thức và kỹ năng về pháp luật về bình đẳng giới, tư vấn, hoà giải, biết
cách tiếp cận đối tượng...
Ở cấp xã, phường, thị trấn, việc thành lập Đội phòng, chống bạo lực gia
đình là đặc biệt cần thiết bởi cấp xã là nơi trực tiếp xảy ra các vụ bạo lực gia
đình. Vì vậy, phòng, chống từ cơ sở sẽ có tác dụng rất lớn trong việc ngăn
chặn các vụ bạo lực gia đình bởi vì nếu không ngăn chặn kịp thời, nó sẽ kéo
theo các vụ vi phạm pháp luật phòng, chống vi phạm pháp luật liên quan cũng
như các vụ vi phạm khác. Các thành viên của đội phòng chống BLGĐ tư vấn
cho các nạn nhân cũng như những người gây ra bạo lực đồng thời các thành
viên làm luôn nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình, bình đẳng giới, quyền của phụ nữ, trách nhiệm của mỗi công dân
trước vấn đề bạo lực gia đình. Đội phòng, chống bạo lực gia đình có trụ sở
sinh hoạt tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn. Đội có mạng lưới các thành
viên và cộng tác viên ở khắp các xóm, thôn.
Ở cấp thôn, xóm, thành lập nhóm người tình nguyện tham gia phòng,
chống bạo lực gia đình. Họ sẽ là người phát hiện sớm nhất những trường hợp
bạo lực gia đình trong thôn, xóm để hoà giải hoặc báo cáo cho Đội phòng,
chống bạo lực gia đình ở cấp xã, huyện. Chức năng chính của nhóm phòng,
chống bạo lực gia đình: rà soát, lập danh sách theo dõi các gia đình hay có
hành vi bạo lực; lập kế hoạch và thực hiện tuyên truyền vận động; tập huấn
cho cán bộ cơ sở; thành lập, chỉ đạo hoạt động của các Câu lạc bộ; tham gia
tư vấn trực tiếp cho các gia đình; can thiệp xử lý các vụ bạo lực gia đình; tư
vấn hoà giải, giúp đỡ nạn nhân và gia đình nạn nhân bị bạo lực. Hoạt động
của nhóm phòng, chống bạo lực gia đình cần đảm bảo cho các vụ vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được:
- Trấn áp tức thời: Khi phát hiện một hành vi bạo lực gia đình, một hoặc
nhiều thành viên của nhóm can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình phải có
mặt kịp thời và phải phối hợp cùng nhau ngăn chặn ngay hành vi bạo lực đó,
trấn áp người gây ra bạo lực và bảo vệ, chăm sóc nạn nhân.
70
- Tư vấn, hoà giải: Mỗi xã, phường cần có một phòng tư vấn để tiến
hành công tác tư vấn nhằm giải quyết vấn đề bạo lực cho địa phương. Các
thành viên trong nhóm ngăn chặn bạo lực có trách nhiệm tìm cách tiếp cận
phù hợp để tư vấn, hoà giải và giải quyết mâu thuẫn. Bên cạnh đó cũng
khuyến khích sự can thiệp, hoà giải ở gia đình, dòng họ.
- Xử lý theo pháp luật: Chính quyền phải xử lý một cách nghiêm minh
những người có hành vi bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất và mức độ vi
phạm để không bỏ lọt, bao che, dung túng cho hành vi bạo lực từ đó dẫn đến
tình trạng có tâm lý coi thường pháp luật. Việc xử lý kịp thời, nghiêm khắc có
tác dụng giáo dục và răn đe đối với người vi phạm đồng thời với những người
khác trong cộng đồng.
- Theo dõi, giám sát để hành vi bạo lực gia đình không tái diễn: Đối với
các đối tượng đã từng có hành vi bạo lực gia đình thì mạng lưới ngăn chặn
bạo lực cần thực hiện những hoạt động có tính giáo dục trực tiếp để họ không
tái diễn.
b) Mở rộng và đẩy mạnh hoạt động của các cơ sở tư vấn, cơ sở hỗ trợ về
phòng, chống bạo lực gia đình
Bên cạnh việc xây dựng mạng lưới chuyên trách ngăn chặn bạo lực gia
đình, để hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình, cần mở rộng và đẩy mạnh hoạt động của
các cơ sở tư vấn và hỗ trợ về phòng, chống bạo lực gia đình đồng thời thực
hiện xã hội hoá trên các lĩnh vực: giáo dục, y tế, dạy nghề, văn hoá, văn nghệ,
thể thao. Số lượng và chất lượng hoạt động của các cơ sở tư vấn và hỗ trợ
phải được tăng cường. Các cơ sở tư vấn và hỗ trợ về phòng, chống bạo lực gia
đình được thành lập và giải thể theo sự hướng dẫn của Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch. Các cơ sở tư vấn, hỗ trợ sẽ giúp người bị bạo hành nâng cao nhận
thức của mình về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, thấy được mình là
đối tượng được pháp luật bảo vệ, biết cách bảo vệ mình trước bạo lực gia đình
đồng thời bảo vệ, hỗ trợ họ khi họ là nạn nhân của bạo lực gia đình. Các cơ sở
71
tư vấn và hỗ trợ về phòng, chống bạo lực gia đình còn có vai trò tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật, kiến thức về phòng, chống bạo lực gia đình.
c) Nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực hoạt động của cả xã hội
trong sự phối kết hợp chặt chẽ
Trong thực tế xã hội, ở nhiều địa phương, khi nạn nhân cần sự giúp đỡ
của chính quyền thì nhiều cơ quan chức năng vẫn chỉ muốn "bình thường
hoá" những xung đột trong gia đình, không quan tâm giải quyết đơn thư, lơ là
công tác giám sát, giải quyết các vụ bạo lực gia đình.
Đã đến lúc cần xã hội hoá vấn đề phòng, chống vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi cá nhân, mỗi cơ quan, tổ chức
trong xã hội, cần xác định được trách nhiệm của mình đối với vấn đề vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình không còn là vấn
đề riêng của mỗi gia đình để mỗi gia đình tự đóng cửa bảo nhau mà là vấn đề
chung của xã hội, cần sự chung tay của cả xã hội. Có như vậy, việc phòng,
chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình mới
đạt được hiệu quả thiết thực. Mỗi cá nhân trong xã hội sẽ là một mắt xích
quan trọng trong mạng lưới phòng, chống vi phạm pháp luật mà hổng mắt
xích nào trong mạng lưới đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của cuộc đấu tranh
chống lại vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Vì
thế phải nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực hoạt động của mỗi cá
nhân, mỗi gia đình, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi tổ chức xã hội trong công tác
phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi cá nhân phải thực hiện nghiêm chỉnh các
quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia
đình, bình đẳng giới, kịp thời ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo
cho cơ quan, tổ chức , người có thẩm quyền. Mỗi gia đình phải giáo dục, nhắc
nhở thành viên gia đình mình thực hiện quy định của pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới...; hoà giải mâu
thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, can ngăn người có hành
vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực, chăm sóc nạn nhân bạo lực gia
đình; phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng,
72
chống bạo lực gia đình. Các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo
lực gia đình: Chính phủ, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Bộ, cơ quan ngang
bộ; Uỷ ban nhân dân các cấp cần làm tốt chức năng và nhiệm vụ của mình
trong việc quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình để đạt được
hiệu lực và hiệu quả. Đặc biệt, các cơ quan bảo vệ pháp luật: cơ quan Công
an, Toà án, Viện kiểm sát cần phát huy vai trò tích cực, chủ động của mình
trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình để mỗi hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình được phát hiện sớm và bị xử lý theo quy định của pháp luật, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân bạo lực gia đình; không bao che,
dung túng, xử lý không nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình để tránh tình trạng coi thường pháp luật, tiếp diễn thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật. Cần nâng cao và phát huy vai trò của các tổ
chức chính trị-xã hội nhất là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống bạo lực gia đình.
Đối với Hội phụ nữ, cần đề cao vị trí, vai trò của các cấp Hội trong việc
tuyên truyền pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; tuyên truyền về tác
hại, ảnh hưởng của bạo lực gia đình cho cán bộ phụ nữ tại các cấp Hội, nhất là
chị em phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa... Hội phụ nữ phối hợp với cơ quan chức
năng tổ chức các khoá tập huấn nâng cao cho chị em phụ nữ các cấp về kỹ
năng tư vấn, hoà giải và kỹ năng tự bảo vệ mình và gia đình mình trong các
tình huống bạo lực gia đình đồng thời tổ chức các chương trình nhằm xoá đói
giảm nghèo, nâng cao đời sống cho các gia đình ở mỗi địa phương; xoá bỏ tệ
nạn xã hội trong cộng đồng dân cư.
Đối với Mặt trận Tổ quốc: tổ chức tuyên truyền sâu rộng chính sách,
pháp luật của đảng và nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân
và gia đình, về bình đẳng giới...; kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ
quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới; tham gia giám sát việ thực
hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
73
Đối với Đoàn thanh niên, cùng phối hợp với cơ quan quản lý, cơ quan
chức năng tổ chức tuyên truyền về chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình trong thế hệ trẻ về kỹ năng tư vấn, xử lý và phòng ngừa bạo lực
gia đình, tránh để xảy ra bạo lực gia đình nhất là bạo lực gia đình đối với phụ
nữ khi xây dựng gia đình.
d) Nhà nước cần quy định chế độ khen thưởng, khuyến khích người trực
tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình
Thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần kích thích tinh thần tích cực của
cộng đồng trong việc góp sức mình vào cuộc đấu tranh loại bỏ vi phạm pháp
luật đặc biệt là vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội.
Bên cạnh việc xử lý kiên quyết, nghiêm minh những hành vi vi phạm thì việc
khen thưởng kịp thời, đúng mức sẽ giấy lên một phong trào phòng, chống bạo
lực gia đình mạnh mẽ trong xã hội và điều này sẽ làm hoàn thiện hơn cơ chế
xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực
gia đình.
Như vậy, để hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả cao, ngày càng giảm về số
lượng, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật, cần có
sự góp sức, chung tay, đồng lòng của cả xã hội. Mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong xã hội cần nâng cao nhận thức và thấy được trách nhiệm của mình đối
với vấn đề phòng, chống vi phạm pháp luật nói chung và phòng, chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình nói riêng, từ đó
góp sức lực của mình vào cuộc đấu tranh chung đó. Cách thức hoạt động của
mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội phải có sự phối kết hợp chặt chẽ,
đặt trong một chỉnh thể thống nhất, một mục đích chung là tạo điều kiện để xã
hội phát triển. Xã hội cần có sự hoàn thiện cách thức tổ chức, hoạt động phù
hợp, kịp thời để làm đường hướng, làm cơ sở cho việc phòng, chống bạo lực
gia đình đạt được kết quả cao, thiết thực. Đó chính là nội dung của giải pháp
hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống bạo lực gia đình trong lĩnh vực phòng,
74
chống bạo lực gia đình. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giảm thiểu số
vụ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
3.2.3. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào
tạo, thông tin về bình đẳng giới, về bạo lực gia đình và nâng cao khả năng
tự bảo vệ mình trước bạo lực gia đình
Để pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đi vào thực tiễn đời sống,
được nhân dân chấp hành nghiêm minh là một công việc cực kỳ khó khăn bao
gồm nhiều hoạt động, nhiều giai đoạn và do nhiều chủ thể thực hiện. Đây là
những hoạt động mang tính khoa học, đòi hỏi có kinh nghiệm, năng lực và
nghệ thuật. Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình là rất quan trọng và không thể thiếu được nhưng cũng chỉ là bước
đầu. Khó khăn lớn nhất là việc tổ chức thực hiện, đưa pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình vào cuộc sống, biến pháp luật thành hoạt dộng thực tiễn của
nhân dân. Đây là hoạt động mang tính quyết định thành công của việc điều
chỉnh hành vi của con người bằng pháp luật, để pháp luật do Nhà nước ban
hành được chấp hành. Vì vậy, tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình sẽ là một trong những biện pháp phòng, chống vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình hiệu quả.
Để tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình thì một
trong những biện pháp có ý nghĩa quyết định là giáo dục và nâng cao ý thức
pháp luật, năng lực thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong
cộng đồng. Giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình sẽ giúp cho các
chủ thể trong xã hội có kiến thức về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình,
có lòng tin vào sự điều chỉnh của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, từ
đó hình thành thói quen xử sự theo pháp luật, có ý thức pháp luật cao từ đó
thực hiện những hành vi hợp pháp, phù hợp với những quy định mà pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình đặt ra. Thực tiễn cho thấy, ở Vĩnh Phúc hiện
nay, tình trạng vi phạm pháp luật trong đó có vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình còn sẩy ra ở một số cán bộ, công chức cũng như trong các
75
tầng lớp nhân dân. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do
sự thiếu hiểu biết pháp luật hoặc hiểu không sâu sắc, không thấu đáo về pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình. Có chủ thể hiểu biết pháp luật nhưng
thiếu tình cảm, lòng tin vào pháp luật, không tôn trọng pháp luật, thiếu trách
nhiệm đối với nhà nước và xã hội đồng thời các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật không nghiêm, dẫn đến tâm lý
coi thường và vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình. Vì vậy, việc
giáo dục pháp luật có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn việc
hình thành vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Để tổ chức thực
hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả thiết thực
cần:
- Xây dựng một chương trình giáo dục truyền thông mạnh mẽ, rộng khắp
thông qua nhiều phương thức khác nhau: xã hội, nhà trường, y tế, đoàn thể
quần chúng, các phương tiện thông tin đại chúng (vô tuyến, đài truyền thanh,
báo chí, các tài liệu truyền thông , các hình thức truyền thông khác như: tờ
rơi, áp phích, sách bỏ túi, tổ chức câu lạc bộ, văn nghệ quần chúng, hội thi...)
nhằm phổ biến kiến thức, nâng cao hiểu biết của cộng đồng về pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực gia đình, huy động sự tham gia của
cộng đồng trong việc ngăn chặn vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình. Khi có điều kiện, cần đưa các nội dung này vào chương trình giảng dạy,
học tập ở các cấp học, đồng thời cần nghiên cứu sớm để hình thành một số
chuyên đề về phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
để đưa vào giảng dạy cho các lớp bồi dưỡng, đào tạo tại các trường chính trị
tỉnh, thành phố và các lớp bồi dưỡng chính trị tổ chức tại huyện, thị xã để đội
ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở có kiến thức đầy đủ về pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình. Từ đó làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình trong việc phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình. Nội dung giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải
nhất quán, có hệ thống.
76
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân đặc biệt là thế hệ trẻ để họ có kiến thức
xây dựng một gia đình hạnh phúc không có bạo lực gia đình. Tại các địa
phương, cần đảm bảo thực hiện 100% các gia đình được học tập nội dung cơ
bản của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đặc biệt cần có sự tham gia của
nam giới.
- Tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ lãnh đạo các cấp, tập huấn nâng
cao năng lực quản lý cho cán bộ làm công tác gia đình từ tỉnh đến cơ sở; tập
huấn nâng cao kỹ năng tuyên truyền, vận động, kỹ năng tư vấn, kỹ năng
thương thuyết, hoà giải, kỹ năng công tác xã hội với gia đình cho Ban chỉ đạo
cấp xã, trưởng thôn, ấp, cán bộ tổ hoà giải cấp cơ sở, tổ trưởng, tổ phó Tổ
nhân dân tự quản, cán bộ tác nghiệp tại Trung tâm Dân số - KHHGĐ; tổ chức
các buổi sinh hoạt tập thể trong cộng đồng với nhiều hình thức khác nhau có
nội dung tuyên truyền về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đặc biệt có
sự tham gia của nam giới nhằm tạo ra một phong trào, một môi trường mới
làm thay đổi quan niệm của người dân địa phương về bạo lực gia đình.
- Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cần đảm bảo về số
lượng, chất lượng các chuyên mục được đăng tải để đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn hiện nay.
- Kiểm tra việc thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở các
cơ quan, đơn vị.
- Xây dựng các câu lạc bộ gia đình hạnh phúc không có bạo lực gia đình
ở các địa phương. Các Câu lạc bộ này sẽ tiến hành xây dựng quy chế hoạt
động, chương trình hoạt động, phân công trách nhiệm cho từng thành viên.
Câu lạc bộ được tập huấn, bồi dưỡng các chuyên đề về xây dựng gia đình bền
vững, phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Chính
quyền, các đoàn thể địa phương cần phối hợp với chương trình xây dựng gia
đình văn hoá mới và phòng chống tệ nạn xã hội ở địa phương để xây dựng các
77
câu lạc bộ gia đình hạnh phúc không có bạo lực gia đình với các biện pháp cụ
thể:
+ Đưa vấn đề bạo lực gia đình vào Hương ước và giám sát việc thực hiện
hương ước tại địa phương. Cần đưa những người vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình vào Hương ước để xử lý. Phát huy vai trò tích cực,
chủ động của gia đình, dòng họ trong việc giáo dục, ngăn chặn bạo lực gia
đình; đề nghị các thành viên gia đình cam kết, ký vào văn bản về lối sống văn
hoá, không để xảy ra bạo lực gia đình. Một thực tế xảy ra là những kẻ vũ phu
thường đánh vợ con khi còn nhỏ, khi con lớn thì họ ít đánh hoặc ngừng đánh.
Nguyên nhân một phần là do con cái ngăn cản, mặt khác họ không muốn biểu
lộ những hành vi tàn bạo trước mặt con cái. Do đó, trong chương trình giáo
dục những người này, có thể chúng ta nên sử dụng áp lực từ phía con cái.
+ Các Câu lạc bộ thường xuyên sinh hoạt với nội dung liên quan đến
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, tạo điều kiện cho nam giới tham gia.
Đây chính là một hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình tại địa phương đem lại hiệu quả cao.
Bên cạnh việc giáo dục kiến thức pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình, nâng cao ý thức pháp luật cho cộng đồng, việc tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông tin về bạo lực gia đình, bình đẳng giới,
về quyền con người, quyền của phụ nữ và trẻ em... là việc làm rất cần thiết.
Do vậy, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bạo lực gia đình,
bình đẳng giới và quyền của con người phải được tiến hành nhanh trong thời
gian tới và tiến hành một cách toàn diện.
3.2.4. Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình là chế độ thực hiện các quy định pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình một cách nghiêm minh, thống nhất, tự giác của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hôi, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ
trang, các cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân.
78
Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển và công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá càng ngày càng thu được nhiều kết quả tốt đẹp thì
không thể không tiếp tục xây dựng nhà nước, hoàn chỉnh pháp luật, tăng
cường pháp chế để giúp đỡ và hướng dẫn kinh tế thị trường phát huy đầy đủ
tác dụng tích cực và hạn chế, ngăn ngừa được các mặt trái của nó. Trong nền
kinh tế thị trường, để phòng chống vi phạm pháp luật có hiệu quả thì việc tăng
cường pháp chế trong lĩnh vực này là một điều kiện quan trọng, không thể
thiếu nhằm hạn chế, đẩy lùi vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình là một trong những loại vi phạm pháp luật và ngày
càng gia tăng về số lượng, tính chất và mức độ nguy hiểm. Chính vì vậy, tăng
cường pháp chế càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết, đây chính là nhân tố quyết
định hiệu quả công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng,
chống bạo lực gia đình. Một hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
hoàn thiện, đầy đủ, là cơ sở pháp lý điều chỉnh hành vi của con người trong
lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình là rất cần thiết nhưng vẫn chưa đủ để
có thể hạn chế, ngăn chặn được tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình. Hệ thống pháp luật mới chỉ là điều kiện tạo ra khả năng, tiền
đề cần thiết tác động đến hành vi của con người. Hiệu lực của những văn bản
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình có được phát huy hay không còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, các cán
bộ, công chức nhà nước và mọi công dân tuân theo và chấp hành pháp luật là
yếu tố cơ bản, biến khả năng trở thành hiện thực. Điều đó quyết định ảnh
hưởng của pháp luật đối với xã hội. Vai trò đó thuộc về pháp chế. Vì thế
không thể không tăng cường pháp chế nếu như chúng ta muốn các quy định
pháp luật trong các văn bản pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được đi
vào thực tiễn đời sống, được chấp hành, tuân thủ nghiêm minh và công tác
phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu
quả. Tăng cường pháp chế trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình chính là việc làm cho mỗi công dân trong xã hội đều
79
tự giác chấp hành các quy định của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
với ý thức trách nhiệm của mình - người chủ đất nước - trong công cuộc xây
dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để tăng cường pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình,
tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, kịp thời đấu
tranh kiên quyết với những hành vi vi phạm phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống hệ thống pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên để pháp chế được đảm bảo, từ đó
hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Pháp chế chỉ có thể
được củng cố và tăng cường trên cơ sở của một hệ thống pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình ngày càng hoàn thiện và phát triển, kịp thời thể chế
hoá các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, phản ánh đúng những
đặc điểm của kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể. Để có được một hệ
thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đáp ứng các tiêu chuẩn như
vậy phải thực hiện nhiều biện pháp như: phải thường xuyên hệ thống hoá
pháp luật để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật trùng lặp, mâu
thuẫn, lạc hậu, bổ sung những thiếu sót trong hệ thống pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình; kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng
thành pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình; có kế hoạch
xây dựng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong mỗi giai đoạn cụ thể;
đẩy mạnh công tác nghiên cứu, kỹ thuật xây dựng pháp luật, để đảm bảo cho
hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được mang tính khoa học
và đạt trình độ kỹ thuật cao, mở rộng các hình thức nhân dân lao động tham
gia vào việc xây dựng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình . Mỗi văn bản
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải đảm bảo chất lượng thể hiện khi
nó được ban hành, mọi người hiểu đúng và chính xác những điều quy định
80
trong những văn bản đó. Nghĩa là pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình chỉ
có ý nghĩa thực sự khi nó không dừng lại ở những quy định chung chung, có
tính nguyên tắc mà phải quy định các mối quan hệ cụ thể giữa những chủ thể
trong một hoàn cảnh cụ thể. Do đó, các yêu cầu rõ ràng, cụ thể, chính xác,
một nghĩa luôn luôn là những thuộc tính không thể thiếu được của các quy
phạm pháp luật nói chung cũng như quy phạm pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình. Thiếu những thuộc tính này, pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình không thể đi vào cuộc sống. Nhấn mạnh vấn đề này, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương đảng khoá VIII viết: "các luật ban
hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm bớt tình trạng
phải chờ đợi quá nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được".
Xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật là rất quan trọng, nhưng cũng chỉ là
bước đầu, khó khăn lớn nhất là việc tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật
vào cuộc sống, biến pháp luật thành hoạt động thực tiễn của nhân dân. Vì vậy,
khi đã có hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hoàn thiện chưa
đủ để tăng cường pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình từ đó sẽ không hạn chế được vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình. Để củng cố, tăng cường pháp chế trong phòng,
chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, việc tổ chức thực
hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Pháp luật được chấp hành và thực hiện ở mức độ nào tuỳ thuộc vào
nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định về
mặt chủ quan, đó là ý thức pháp luật. Vì vậy, để tổ chức thực hiện tốt pháp
luật, biện pháp có ý nghĩa quyết định là giáo dục và nâng cao ý thức pháp
luật, năng lực thực hiện pháp luật cho cán bộ, công chức nhà nước, đồng thời
"tích cực tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật trong nhân dân".
Không có ý thức pháp luật thì không thể tự giác tuân theo và chấp hành
nghiêm chỉnh, cũng như không thể áp dụng đúng pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Để tổ chức thực hiện tốt
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cụ thể là giáo dục và nâng cao ý thức
81
pháp luật cho mọi người có hiệu quả cao, cần thực hiện đồng bộ các biện
pháp sau:
- Cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công
tác giải thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình làm cơ sở cho việc tuyên truyền và
giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình nhằm làm cho nhân dân hiểu biết pháp luật,
nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
- Đưa việc giảng dạy pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong các
trường phổ thông, đại học, trong các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cao,ngăn chặn và xử lý tốt các vụ bạo lực gia đình cũng như
các trường hợp vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
- Trong từng thời kỳ, cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời những
thiếu sót, những nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, từ đó đề ra những phương hướng và biện pháp
tăng cường hiệu lực công tác này.
Việc thực hiện đầy đủ và đồng bộ các biện pháp trên sẽ góp phần không
nhỏ và thiết thực vào việc tăng cường pháp chế trong phòng, chống vi phạm
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình từ đó góp phần hạn chế, ngăn
chặn và đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình; tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình để tăng cường pháp chế trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình thì việc đấu tranh kiên quyết, kịp thời với những hành
vi vi phạm pháp luật phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình là biện pháp không thể thiếu được. Để đấu tranh và phòng ngừa
những vi phạm pháp luật đặc biệt là tội phạm trong phòng, chống bạo lực gia
đình thì cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết kịp thời mọi vi phạm pháp
82
luật phòng, chống bạo lực gia đình từ những vụ việc nhỏ cho đến những vụ
việc lớn, gây nguy hiểm cho xã hội. Điều quan trọng là các cơ quan bảo vệ
pháp luật không được vì bất cứ lý do gì mà bỏ qua, không xử lý các vụ vi
phạm dù sự vi phạm đó là nặng hay nhẹ. Cần kiên quyết chống mọi biểu hiện
nương nhẹ, nể nang, bao che hành vi phạm pháp cũng như người vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình dưới bất kỳ hình thức
nào. Nếu không xử lý kịp thời hoặc xử lý nhưng không đúng mức sẽ tạo ra
tâm lý coi thường pháp luật và mất lòng tin trong nhân dân. Thực tế cho thấy,
trong những năm vừa qua, các cơ quan chức năng đã xử lý chưa kiên quyết,
nghiêm minh đối với các vụ bạo lực gia đình thậm chí còn coi đó là việc riêng
của mỗi gia đình, mỗi gia đình tự giải quyết. Đây chính là một trong những
nguyên nhân làm số vụ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình gia
tăng, tạo ra tâm lý coi thường pháp luật, người gây ra bạo lực gia đình cứ thế
mà vi phạm vì họ nghĩ rằng vi phạm cúng không bị xử lý hoặc có sử lý thì
cũng qua loa.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn cách
mạng hiện nay là một trong những quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc, chỉ
đạo trong việc tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
nhằm bảo đảm thắng lợi quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tăng cường
pháp chế trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực là
một phần trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm làm cho các
quy định của hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được chấp
hành một cách tự giác, nghiêm minh, từ đó hạn chế, ngăn chặn được các vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Để pháp chế được tăng cường
trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình, không chỉ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình, mà quan trọng hơn là tổ chức thực hiện pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình, bảo đảm cho pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được
chấp hành thường xuyên, nghiêm chỉnh đồng thời phải kiên quyết đấu tranh
83
với những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không được tuân theo và chấp hành
nghiêm chỉnh thì pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không có hiệu lực,
pháp chế không được củng cố và tăng cường từ đó dẫn đến tình trạng vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực này. Việc chấp hành thường xuyên, những đòi hỏi
của pháp chế, phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật tất yếu dẫn đến
thiết lập trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa bền vững.
84
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Ở Chương 3, luận văn đã tập trung phân tích, làm rõ yêu cầu khách
quan cũng như phương hướng và giải pháp cơ bản của việc phòng, chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Những giải pháp mà luận văn đưa ra được dựa
trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình; đặc điểm, nội dung vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình; thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đồng thời
tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm một số tỉnh trong việc phòng, chống bạo lực
gia đình với mong muốn Vĩnh Phúc sẽ có những hành động kịp thời, cụ thể,
tích cực, phù hợp để nhanh chóng đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống bạo
lực gia đình, đấu tranh vì sự phát triển của xã hội.
Các giải pháp trên được nghiên cứu trong một chỉnh thể thống nhất, có
quan hệ chặt chẽ với nhau nên cần được tiến hành đồng bộ, nhằm tạo ra một
sức mạnh tổng hợp để kiên quyết đấu tranh và đẩy lùi các hành vi vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, tạo các bảo đảm cần thiết cho sự
phát triển lành mạnh của con người, làm động lực cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh.
85
KẾT LUẬN
Bạo lực gia đình đã gây ra tác hại vô cùng to lớn ảnh hưởng đến tình
hình kinh tế xã hội của đất nước. Khi bạo lực gia đình xẩy ra hậu quả thường
thấy là những tổn hại về sức khỏe kéo theo tổn hại tất yếu về kinh tế và cả
những hệ lụy trong mối quan hệ gia đình như gây ra những sang chấn tinh
thần cho nạn nhân và những người trong gia đình, những sang chấn này
thường khó hồi phục hơn những tổn thương trên thân thể, nhất là để lại những
dấu ấn khó phai trong tâm trí trẻ thơ, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
của con trẻ. Ở nhiều gia đình thế hệ con cháu đã lặp lại hành vi bạo lực mà
khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Rõ ràng bạo lực gia đình đang làm
xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và trở thành nguy cơ làm tan vỡ sự
bền vững của gia đình Việt Nam.
Bạo lực gia đình không còn là chuyện riêng của mỗi nhà, mà là trách
nhiệm của toàn xã hội. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội còn rất
nhiều gia đình có tình trạng bạo lực gia đình. Với sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay, bạo lực gia đình đã được luật hoá, do đó, hành vi bạo
hành gia đình bị coi là hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình làm mất đi điều kiện
được cống hiến cho xã hội, được phát triển của mọi thành viên trong gia đình
đồng thời là lực cản đối với sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, hơn bao
giờ hết, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cần được hạn chế và
triệt tiêu trong xã hội.
Trên cơ sở phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thực
trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, luận văn bước đầu
đưa ra những giải pháp cụ thể góp phần vào việc phòng ngừa, hạn chế tiến tới
đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội. Điều
này có ý nghĩa rất lớn bởi vì Việt Nam hiện là thành viên của các Công ước
quốc tế và các Nghị định thư về quyền con người.
86
Trong bối cảnh hiện nay, khi bạo lực gia đình đang ồ ạt tấn công vào
từng vùng miền và đang len lỏi vào mỗi gia đình thì giường như mỗi cá nhân,
cả cộng đồng vẫn thờ ơ, bàng quan và khoanh tay đứng nhìn nó phát triển,
kéo theo các hành vi vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực phòng, chống bạo
lực gia đình. Đã đến lúc, cả xã hội phải góp sức, chung tay, đồng lòng triệt
tiêu hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình để đảm bảo
quyền con người, quyền công dân, đem lại hạnh phúc cho con người, đồng
thời cũng là loại bỏ yếu tố là lực cản trên con đường công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Bên cạnh sự quan tâm, góp sức, chung tay, đồng lòng của cả
xã hội, Việt Nam cần có một hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình hoàn thiện, là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ con người, đem
lại trật tự và ổn định xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay" có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn vô cùng quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi Việt
Nam đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện nền kinh tế thị
trường, thực hiện dân chủ hoá xã hội và hội nhập mọi mặt trong khu vực và
toàn cầu, xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại, đem lại cuộc sống hạnh
phúc cho nhân dân. Luận văn đã phân tích, làm rõ những vấn đề cơ bản về lý
luận và thực tiễn về bạo lực gia đình, pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình để từ đó đưa ra những
giải pháp nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình đạt được hiệu quả cao hơn nữa; mong muốn đóng góp một chút hiểu biết
của mình vào công cuộc xây dựng đất nước, đem lại trật tự, ổn định xã hội.
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2005), Chỉ thị số 49/CT-TW ngày
21/12/2005 "vế xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá".
2. Báo điện tử Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII.
3. Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn
Ngọc Điện;
4. Bộ chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020.
5. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 07/2011/TT-BTP hướng dẫn bảo đảm
bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý
6. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2008), Kế hoạch hành động phòng,
chống bạo lực gia đình.
7. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2008), Quyết định 2879/QĐ-
BVHTTDL về việc triển khai mô hình can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình
trên toàn quốc.
8. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2010), Thông tư 02/2010/TT-
BVHTTDL Quy định chi tiết về thủ tục đăng ký hoạt động, giải thể cơ sở hỗ
trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia
đình; tiêu chuẩn của nhân viên tư vấn; cấp thẻ nhân viên tư vấn, chứng nhận
nghiệp vụ chăm sóc, tư vấn và tập huấn phòng, chống bạo lực gia đình
9. Bộ Y tế (2009), Thông tư số 16/2009/TT-BYT hướng dẫn việc tiếp
nhận, chăm sóc y tế và thống kê, báo cáo đối với người bệnh là nạn nhân bạo
lực gia đình tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
10. Chính phủ (2008), Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg về hướng dẫn thi hành
Luật phòng, chống bạo lực gia đình.
88
11. Chính phủ (2008), Nghị định số 70/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều Luật bình đẳng giới.
12. Chính phủ, Nghị định 08/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia đình.
13. Chính phủ (2009), Nghị định số 55/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính về bình đẳng giới.
14. Chính phủ (2013), Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Nghị định Quy
định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng
chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực gia
đình.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Lê Lan Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật, Bàn về ranh giới giữa xử lý hình
sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay.
19. Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội, Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ
em, thực trạng và nguyên nhân.
20. Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội, Trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình.
21. Nguyễn Thế Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số- Gia đình- Trẻ em
Hà Nội và PGS.TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện Trưởng Viện Xã hội học và
Tâm lý lãnh đạo, quản lý Học viện Chính trị Quốc gia HCM, Nhận thức và
thái độ của cộng đồng đối với BLGĐ, đề xuất giải pháp.
22. Nguyễn Thị Kim Phụng, Tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng,
chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em.
23. Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ, Tìm hiểu và thực hiện Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình.
89
24. Phan Thị Lan Hương, Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình.
25. Quốc hội nước CHXHCHVN (2005), Bộ luật dân sự 2005, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội nước CHXHCHVN (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt nam sửa đổi, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
27. Quốc hội nước CHXHCHVN (1999), Luật hình sự 1999, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
28. Quốc hội nước CHXHCHVN (2007), Luật bình đẳng giới 2007,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước CHXHCHVN (2007), Luật phòng, chống bạo lực gia
đình 2007, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội nước CHXHCHVN (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội nước CHXHCHVN (2015), Luật tổ chức Chính phủ, Cổng
thông tin điện tử Bộ tư Pháp.
32. Quỹ Dân số LHQ, Báo cáo về bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam.
33. Sở Văn hóa thể thao và du lịch Vĩnh Phúc, Báo cáo tổng kết tình
hình triển khai kế hoạch thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình giai
đoạn 2008-2015.
34. Tài liệu thảo luận của Ngân hàng thế giới, Bạo lực đối với phụ nữ,
gánh nặng sức khoẻ tiềm ẩn.
35. Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2015), Báo cáo về tình hình xét xử
năm 2015.
36. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2351/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020.
37. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1241/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015;
38. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 629/QĐ-TTg về phê
duyệt chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
90
91
92
93
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_vi_pham_phap_luat_ve_phong_chong_bao_luc_gia_dinh_o.pdf