Thông qua các số liệu, biểu bảng, luận văn đã đánh giá thực trạng huy động các
nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội thời gian qua. Đồng thời đánh
giá những kết quả đạt được cũng như nêu lên những vấn đề còn tồn tại trong quá trình huy
động vốn phát triển nông nghiệp, luận giải một số nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả
huy động các nguồn vốn vào phát triển lĩnh vực này.
108 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2459 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường. Vấn đề đặt ra là
định hướng phát triển nguồn tín dụng để làm sao cho nguồn vốn này trở thành kênh huy
động vốn chủ yếu cho nông nghiệp, nông thôn?
Trước hết, cần xây dựng chiến lược vốn trên cơ sở nhu cầu, khả năng của thị
trường, phù hợp với chiến lược phát triển của hệ thống ngân hàng và chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, của Thủ đô trong đó có ngành nông nghiệp ngoại thành.
Để thực hiện chiến lược huy động vốn, cần dựa vào các tổ chức tín dụng đóng trên
địa bàn Hà Nội. Các tổ chức này có nhiệm vụ thực thi chính sách tiền tệ của nhà nước
thông qua hoạt động "khơi trong, hút ngoài" của mình nhằm huy động mọi nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, trong các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư. Các tổ
chức tín dụng căn cứ vào tình hình thực tế của thị trường, điều kiện cụ thể của từng ngân
hàng (qui mô hoạt động, năng lực tài chính, năng lực quản lý...); căn cứ vào chiến lược
phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại cũng như chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội để xây dựng, điều chỉnh và hoàn thiện chiến lược huy động vốn cho phù hợp, đảm bảo
đúng đường lối của Đảng, Nhà nước đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người
gửi tiền.
Muốn thành công trong chiến lược huy động vốn, các tổ chức tín dụng phải:
+ Đổi mới cơ chế huy động tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, nhất là ở các ngân
hàng thương mại nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho
hộ nông dân, các đơn vị kinh tế vay vốn phát triển sản xuất. Đồng thời, mở rộng việc sử
dụng các tài khoản, không phân biệt đối xử mở tài khoản giữa các thành phần kinh tế, đơn
giản hóa thủ tục, mở rộng phương thức thanh toán...
Việc mở rộng huy động tiền gửi tại ngân hàng thương mại là nhằm thu hút mọi
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, một mặt, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng nguồn vốn tín
dụng đầu tư sinh lợi, mặt khác tạo điều kiện mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt,
giảm khối lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường, tiết kiệm chi phí trong quá trình huy
động và cho vay vốn. Hai mặt này tác động qua lại lẫn nhau làm tăng tính hiệu quả vận
động của vốn tiền tệ, góp phần làm giảm lạm phát [29, 119].
+ áp dụng chế độ thưởng, phạt đối với công tác thanh toán và sử dụng tiền mặt;
xây dựng chiến lược khách hàng, đặc biệt là đối với khách hàng có số dư tiền gửi lớn,
động viên khuyến khích bằng lợi ích vật chất kịp thời đối với những khách hàng thường
xuyên nộp tiền mặt vào ngân hàng với số lượng lớn, áp dụng lãi suất hợp lý trong huy
động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Đối với những người gửi dài hạn có thể tăng lãi
suất tiền gửi để khuyến khích họ.
Hai là, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và các dịch vụ của ngân hàng
thương mại.
+ Tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn bằng các hình thức tiết kiệm truyền thống loại
không kỳ hạn, có kỳ hạn 3, 6, 9, 12 tháng trong dân cư để đáp ứng cho nhu cầu vốn ngắn
hạn trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp của các hộ, các đơn vị cơ sở với lãi suất linh
hoạt, phù hợp với cơ chế thị trường.
Trong các nguồn vốn đa dạng của ngân hàng thì nguồn huy động từ dân cư qua
hình thức tiết kiệm bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao, ổn định và không ngừng tăng lên phù
hợp với thu nhập của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, cần có giải pháp về mặt kinh tế thích
hợp, uyển chuyển, kết hợp hài hòa giữa lợi ích của người đi vay và người cho vay. Các
ngân hàng thương mại, đặc biệt là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cần lập
ra bộ phận nghiên cứu thị trường để tiếp tục mở rộng mạng lưới ngân hàng cấp IV, ngân
hàng liên xã, ngân hàng lưu động... Đồng thời thành lập các quỹ tín dụng nhân dân, Ngân
hàng cổ phần, Hợp tác xã tín dụng đến tận cơ sở, nơi tập trung dân cư sản xuất hàng hóa,
nơi đầu mối giao thông quan trọng để huy động vốn từ nhiều nguồn, nhiều kỳ hạn khác
nhau; thu nhận các món nhỏ, lẻ hình thành nguồn vốn lớn để đầu tư cho nông nghiệp, nông
thôn.
+ Chủ động phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng với lãi suất và hình thức
thích hợp để huy động vốn đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ngoại thành.
Hoạt động của ngân hàng luôn gắn với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để phát
triển kinh tế địa phương. Do đó, các ngân hàng đặc biệt là Ngân hàng nông nghiệp, Ngân
hàng người nghèo trên địa bàn Thủ đô phải thường xuyên nắm chắc các chương trình, dự
án phát triển kinh tế trong từng thời kỳ để lên kế hoạch phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân
hàng nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn đúng hạn.
Hiện nay vốn tín dụng dài hạn đầu tư cho nông nghiệp ngoại thành phát triển chiều
sâu còn thiếu nghiêm trọng. Vì vậy ngân hàng cần đẩy mạnh phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu. Những kỳ phiếu, trái phiếu đó phải được đảm bảo bằng vàng hoặc ngoại tệ (USD),
trong thời gian xác định từ 2, 3, 5, 10 năm. Khi thanh toán gốc và lãi của kỳ phiếu, trái
phiếu nếu có sự rủi ro về tỷ giá (có sự chênh lệch về tỷ giá) phải có nguồn tài chính cấp bù
lỗ. Xây dựng mức lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ
hạn. Có như vậy mới huy động được vốn trung và dài hạn cho phát triển nông nghiệp
ngoại thành.
+ Tranh thủ thu hút lượng vốn khá lớn từ các nguồn thu của một số đơn vị trên địa
bàn thành phố, như: bưu điện, điện lực, cấp nước sạch thông qua hệ thống ngân hàng thành
phố. Bằng cách này sẽ tiết kiệm được chi phí (kiểm đếm, bảo quản, vận chuyển...), tạo nên
tính năng động, hiệu quả và thuận tiện trong khai thác vốn.
+ Tích cực mở rộng các hoạt động dịch vụ của ngân hàng thương mại, như: dịch
vụ ủy thác; dịch vụ tư vấn đầu tư cho các dự án phát triển nông nghiệp; dịch vụ bảo lãnh
cho khách hàng, dịch vụ bảo quản an toàn các vật có giá, dịch vụ môi giới... nhằm thu hút
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi vào ngân hàng.
+ Tích cực nghiên cứu xây dựng cơ chế huy động vốn thông qua các đại lý là hệ
thống quỹ tín dụng nhân dân; chủ động tham gia thị trường liên ngân hàng để huy động và
sử dụng vốn có hiệu quả.
+ Tích cực thu hút nguồn vốn của các địa phương khác trong cả nước, tranh thủ
các nguồn vốn tài trợ ủy thác của các tổ chức kinh tế - xã hội ở nước ngoài đầu tư vào Hà
Nội; thu hút nguồn tiền của thân nhân nước ngoài hỗ trợ người thân trong nước, kết hợp
với việc tiếp nhận có kế hoạch nguồn hỗ trợ của ngân hàng nhà nước (đối với Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng người nghèo); vốn điều hòa trong và
ngoài kế hoạch của Ngân hàng thương mại Trung ương. Đồng thời ngân hàng tích cực đảm
nhận việc chi trả kiều hối cho nhân dân ngoại thành, các vùng lân cận, thu hút ngoại tệ
ngoài địa bàn tạo nguồn vốn ổn định, hấp dẫn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ. Trong
điều kiện ứng dụng, trình độ khoa học công nghệ vào ngân hàng, nắm bắt được thông tin
nhanh nhạy, ngân hàng có thể áp dụng hình thức gửi tiền ở một nơi nhưng rút được tiền ở
nhiều nơi trong cùng hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố, tạo điều kiện
thuận lợi để kích thích người gửi tiền, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế Thủ đô nói chung, nông nghiệp ngoại
thành nói riêng là rất lớn. Huy động tốt nguồn vốn tín dụng sẽ tạo ra kênh huy động vốn
chủ yếu để phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh
việc tổ chức huy động tối đa nguồn vốn tín dụng, Nhà nước, Thành ủy, ủy ban nhân dân
thành phố phải xây dựng hộ chính sách hướng tới huy động vốn đầu tư cho nông nghiệp
ngoại thành, mở rộng nguồn tín dụng đến tận hộ gia đình, cá nhân, hợp tác xã nông nghiệp;
mở rộng tín dụng cho nông dân vay khoản 10 triệu đồng trở xuống theo Quyết định 67
thông qua các tổ chức đoàn thể: Hội nông dân, Hội phụ nữ; kiên quyết đi theo con đường
mở rộng cho vay đến hộ gia đình thông qua tổ nhóm, giải quyết tình trạng thiếu vốn sản
xuất của hộ nông dân. Chỉ có như vậy nông dân mới dễ dàng tiếp cận với ngân hàng và
ngược lại, ngân hàng tiếp cận gần hơn với nông dân, nắm bắt được nhu cầu tín dụng của
họ để đầu tư vốn an toàn. Đây thực sự là cách làm tốt nhất để "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra".
- Nguồn vốn doanh nghiệp nhà nước: vốn của doanh nghiệp nhà nước bao gồm:
một phần vốn lưu động được cấp từ ngân sách, phần vốn vay qua hệ thống tín dụng ngân
hàng, phần vốn từ lợi nhuận và tái đầu tư, vốn vay thương mại trong nội bộ doanh nghiệp
hoặc trên thị trường... Tuy vậy, do yêu cầu tăng qui mô, mở rộng phát triển sản xuất không
ngừng, vốn của doanh nghiệp cần được tiếp tục huy động tổng hợp từ các nguồn vốn để
phát triển sản xuất. Đề nghị Nhà nước cho các doanh nghiệp đủ điều kiện kinh doanh có
hiệu quả trong cơ chế thị trường được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường
chứng khoán trong và ngoài nước để tạo vốn. Bên cạnh đó, cần có chính sách bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực nông nghiệp, khi xét thấy các
doanh nghiệp đó làm ăn có hiệu quả, có đóng góp nhiều cho ngân sách, có ý nghĩa quan
trọng trong việc dẫn dắt tăng trưởng và phát triển kinh tế ngoại thành. (Trên thực tế, số
doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp có hiệu quả chiếm tỷ trọng còn thấp). Đồng thời
hạn chế cấp tín dụng ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ nợ
khó đòi cao, làm ăn kém hiệu quả; khuyến khích doanh nghiệp tăng vốn kinh doanh thông
qua việc tự huy động vốn trên thị trường theo phương thức tự vay, tự trả, bằng uy tín và
khả năng hoạt động của mình để tạo lòng tin với người cho vay vốn, chinh phục thị trường.
Đây chính là lối thoát dài hạn, tiềm tàng nhưng có triển vọng, có hiệu quả nhất cho nền
kinh tế - xã hội, làm lành mạnh hóa hệ thống tài chính tiền tệ của cả nước nói chung, Hà
Nội nói riêng. Mặc dù vậy, Nhà nước không thả nổi trong việc kiến tạo vốn của doanh
nghiệp mà cần phải có sự kiểm tra, kiểm soát của chính quyền các cấp để tránh đổ vỡ, ảnh
hưởng xấu tới hiệu quả kinh tế - xã hội. Vì vậy cần đẩy mạnh hoạt động kiểm soát, phòng
ngừa rủi ro trong kinh doanh và tín dụng của thành phố, chuyển cơ chế huy động vốn
doanh nghiệp như hiện nay sang cơ chế pháp trị thông qua hợp đồng trách nhiệm giữa nhà
nước - doanh nghiệp, ghi rõ quyền lợi, trách nhiệm các bên để đảm bảo quyền lợi cho nhà
nước, doanh nghiệp và cá nhân người lao động.
- Nguồn vốn dân cư: cần đánh thức, huy động tối đa nguồn vốn này. Muốn vậy,
thành phố phải tạo mọi điều kiện và gỡ bỏ những trở ngại về luật pháp, về tâm lý cho nhân
dân, khuyến khích những người có vốn ở nông thôn có cơ hội tự tổ chức hoặc hợp tác với
nhau huy động vốn đầu tư thông qua việc hình thành doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh của
mình, trong đó, hình thức kinh tế trang trại là điển hình. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi
về cơ chế, chính sách cho kinh tế trang trại, kể cả cung ứng vốn ưu đãi cho kinh tế trang
trại ngoại thành phát triển.
Đối với nhóm dân cư không ở khu vực nông thôn, việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi
của họ để đầu tư vào nông nghiệp ngoại thành phụ thuộc vào nhiều nhân tố: môi trường
đầu tư, chính sách đầu tư, chính sách thuế... song nhân tố quyết định nhất là hiệu quả đầu
tư tại ngoại thành so với nội thành. Muốn vậy cần hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng ngoại
thành; bố trí các trung tâm thương mại dịch vụ rộng khắp, thuận tiện cho việc tiêu thụ
nông sản hàng hóa. Đồng thời có chính sách thỏa đáng về việc thuê địa điểm kinh doanh,
về lãi suất vay vốn, thuế quyền sử dụng đất... tạo điều kiện thu hút vốn của dân cư nội
thành vào phát triển nông nghiệp ngoại thành.
3.2.2.2. Đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính đẩy mạnh huy động vốn để
phát triển nông nghiệp ngoại thành
Chính sách tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong việc huy động các nguồn
vốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các công cụ tài chính cung cấp những
phương tiện huy động, phân phối và sử dụng các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế, thông
qua đó tác động đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Vì thế, chúng trở thành
những phương tiện để thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp với những mục
tiêu và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể.
Trong bối cảnh hiện nay, nước ta cần phải đổi mới và hoàn thiện đồng bộ hệ thống
tài chính từ tổ chức bộ máy đến các chính sách, công cụ tài chính nhằm biến chúng thành
bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng và là phương tiện sắc bén trong tổng thể chính sách
kinh tế của Nhà nước, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Nông nghiệp cả nước nói chung, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội nói riêng là khu
vực kinh tế có nhiều tiềm năng và triển vọng nhưng chưa khai thác được sức người, sức
của để biến tiềm năng thành những lực lượng vật chất hiện thực phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, đổi mới và hoàn thiện các chính
sách tài chính, điều tiết hợp lý tài chính khu vực nông nghiệp nhằm đẩy mạnh huy động
vốn để phát triển lĩnh vực này.
Trước hết, phải đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính trong lĩnh vực ngân
sách nhà nước. Chính sách ngân sách nhà nước bao gồm: chính sách thu ngân sách và
chính sách chi ngân sách. Chính sách ngân sách nhà nước đóng vai trò quyết định trong
việc huy động vốn để hình thành nên lượng vốn lớn, tập trung phục vụ cho nhu cầu chi,
nhất là chi cho đầu tư phát triển kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng.
Hiện nay chính sách thu - chi ngân sách nhà nước đang vấp phải một số mâu thuẫn
lớn cần giải quyết. Đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng chi với nguồn thu còn eo hẹp; mâu
thuẫn giữa nhu cầu vốn lớn để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn với
việc phân bổ và sử dụng vốn ngân sách nhà nước còn lãng phí, hiệu quả thấp... Để giải
quyết mâu thuẫn trên phải đổi mới chính sách thu - chi của ngân sách nhà nước. Cụ thể là:
- Đối với thu ngân sách nhà nước phải dựa vào kết quả sản xuất - kinh doanh trong
nội bộ nền kinh tế nói chung, nội bộ ngành nông nghiệp nói riêng thông qua các nguồn thu
(thuế, phí, lệ phí); đảm bảo thu đúng, thu đủ theo luật pháp qui định; quản lý chặt chẽ và
tập trung các nguồn thu của nhà nước từ tài sản, đất đai, nhà ở... Đặc biệt, đối với khu vực
nông thôn, thu ngân sách nhà nước cần quán triệt tốt quan điểm "khoan sức dân", nới lỏng
thuế, phí, lệ phí (đối với vùng đất xấu, mới khai hoang phục hóa; đối với những ngành đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp như chế biến nông sản, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp...) tạo
điều kiện cho nông dân có thu nhập bằng tiền, bằng sức mua và khả năng thanh toán, góp
phần "kích cầu" khu vực nông thôn.
- Đối với chi ngân sách nhà nước phải thực hiện thắt chặt trong chi tiêu dùng, cắt
giảm khoản chi không hợp lý, kém hiệu quả gắn liền với cải cách bộ máy hành chính nhà
nước; đổi mới nội dung chi tiêu thường xuyên để giảm bớt tỷ lệ chi tiêu thường xuyên mà
vẫn đảm bảo chi tiêu có hiệu quả; phân bổ hợp lý và hướng lựa chọn hướng ưu tiên đối với
các khoản chi cho đầu tư; đổi mới cơ chế cấp phát chi, cơ chế phân bổ vốn đầu tư và tăng
cường kiểm soát chi ngân sách nhà nước, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả.
Đối với chi ngân sách cho phát triển nông nghiệp cần tập trung cho những nhiệm
vụ thiết yếu. Trước mắt ưu tiên phát triển thủy lợi (kiên cố hóa kênh mương, duy tu bảo
dưỡng công trình thủy lợi, cầu cống, đê điều...) và hệ thống các ngành công nghiệp, dịch
vụ phục vụ phát triển nông nghiệp.
- Bảo đảm cân đối ngân sách theo hướng tích cực, hiện thực, vững chắc. Cân đối
vốn đầu tư để phát triển các dự án nông nghiệp theo nguyên tắc dứt điểm, lấy hiệu quả
kinh tế làm thước đo. Đặc biệt là phải đảm bảo mọi nguồn thu từ thuế sử dụng đất nông
nghiệp, phí và lệ phí khác phải được đầu tư trở lại nông nghiệp, nông thôn, tránh thất thoát
hoặc chi dùng vào các mục đích khác. Nâng tỷ trọng vốn trung hạn, dài hạn đầu tư vào
phát triển nông nghiệp ngoại thành. Nguồn vốn trung và dài hạn đó phải được huy động từ
nội lực trong nước, hạn chế tối đa vốn vay ngắn hạn của nước ngoài vào phát triển nông
nghiệp.
- Thực hiện quản lý ngân sách theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, dân chủ có
phân công, phân cấp quản lý rành mạch, rõ ràng; quản lý chặt chẽ nguồn vay nợ và trả nợ.
Thứ hai, phải đổi mới và hoàn thiện chính sách thuế:
- Xúc tiến chương trình cải cách thuế giai đoạn II theo hướng sắp xếp lại các sắc
thuế cho phù hợp với tính chất của từng sắc thuế, phù hợp với thông lệ quốc tế, mở rộng
diện thu; giảm bớt số lượng thuế suất, qui định thuế suất ở mức chấp nhận được của cơ chế
thị trường nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp và dân cư mở rộng đầu tư ứng dụng công nghệ
tiên tiến, thích hợp, trang bị kỹ thuật mới, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh
doanh.
- Chuẩn bị phương án cải cách thuế cho phù hợp với khu vực và thế giới, tạo điều
kiện thuận lợi để Việt Nam gia nhập AFTA, APEC và WTO.
- Chuyển mạnh sang cơ chế mới: đối tượng nộp thuế tự kê khai và trực tiếp nộp
vào kho bạc nhà nước; cơ quan thuế và cán bộ thuế chỉ tập trung đôn đốc và kiểm tra thuế
là chủ yếu. Thành lập cơ quan cưỡng chế thuế, phối hợp với tòa án để đảm bảo thi hành
nghiêm Luật thuế [12, 160]. Đặc biệt, đề nghị Nhà nước xem xét giảm thiểu, tiến tới miễn
thuế quyền sử dụng ruộng đất trong hạn điền cho nông dân. Trước mắt, miễn thuế quyền
sử dụng đất cho những hộ nông dân được xếp vào diện đói nghèo ở ngoại thành. Đồng thời
nghiên cứu bỏ thuế giá trị gia tăng đối với máy móc, vật tư nông nghiệp nhằm giảm chi phí
sản xuất của nông dân, tạo cơ hội cho nông dân yên tâm bỏ vốn đầu tư và kinh doanh có
lãi. Bên cạnh đó, Nhà nước tạm thời hoãn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đối
với các hộ gia đình và cá nhân sản xuất nông nghiệp (theo Thông tư 96/1996/TT-BTC) đến
một thời điểm thích hợp, ít nhất là tới năm 2005, tạo điều kiện cho dân cư yên tâm đầu tư
vào sản xuất, làm giàu cho mình, cho xã hội.
Thứ ba, đẩy mạnh thực hiện chính sách tiết kiệm.
ở nước ta, tiết kiệm không chỉ là quốc sách để chi dùng có hiệu quả mà còn là giải
pháp để tạo vốn, huy động vốn có hiệu quả. Vì vậy, phải đẩy mạnh thực hiện chính sách
tiết kiệm (tiết kiệm của chính phủ, tiết kiệm của doanh nghiệp, tiết kiệm của dân cư) để
đầu tư vốn cho sản xuất, duy trì sự tăng trưởng và phát triển kinh tế lâu bền.
Trước mắt, Nhà nước phải có nỗ lực lớn để nâng tỷ lệ tiết kiệm trong ngân sách
nhà nước, hạn chế tới mức thấp nhất trong chi tiêu thường xuyên, dành vốn mở rộng đầu
tư cho các chương trình, dự án kinh tế trọng điểm; hạn chế thấp nhất việc mua sắm những
phương tiện, thiết bị tiêu dùng đắt tiền, không phù hợp với công việc, điều kiện kinh tế của
đất nước. Cách có hiệu quả để hạn chế tiêu dùng lãng phí là sử dụng công cụ thuế để điều
tiết việc nhập khẩu hàng xa xỉ; ban hành qui chế, giám sát việc trang bị nội thất trong các
cơ quan nhà nước. Song, thắt chặt chi tiêu ngân sách nhà nước không phải bằng mọi giá
mà phải cân nhắc, tính toán kỹ với khả năng của nguồn thu để xác định mối tương quan
thu - chi cho phù hợp. Bởi vì có những khoản chi tiêu dùng thường xuyên chưa thấy hiệu
quả trước mắt nhưng lại có tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu bền.
Đối với tiết kiệm trong dân: Để khuyến khích tiết kiệm trong dân, Nhà nước phải
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, động viên khuyến khích nhân dân bỏ vốn
vào đầu tư phát triển nông nghiệp, hạn chế tiêu dùng để đầu tư nhiều trong hiện tại, thu
nhập lớn trong tương lai. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền,
giáo dục, thuyết phục nhân dân nâng cao ý thức tiết kiệm.
Thứ tư, đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính về đất đai. Từng bước sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện chính sách thuế sử dụng đất cho phù hợp; đảm bảo chính sách thu
thuế sử dụng đất phù hợp với chính sách đền bù thiệt hại khi dành đất nông nghiệp ngoại
thành cho đô thị hóa. Đối với trường hợp chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục
đích xây dựng nhà ở hoặc sử dụng vào sản xuất kinh doanh không phục vụ phát triển nông
nghiệp nên có chế độ đánh thuế (thu) đặc biệt nhằm hạn chế sử dụng đất nông nghiệp vào
các mục đích tùy tiện, ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập của dân cư ven đô. Đồng thời
thúc đẩy việc giao đất, giao rừng cũng như cấp sổ đỏ quyền sử dụng đất cho nông dân sử
dụng lâu dài để nhân dân yên tâm bỏ vốn đầu tư công tác trên đất được giao. Mặt khác, tạo
thuận lợi cho nông dân vay vốn tại ngân hàng.
Thứ năm, đổi mới và hoàn thiện hệ thống tài chính:
- Cải cách bộ máy, cơ chế chính sách và công nghệ ngân hàng. Đặc biệt là cổ phần
hóa và sắp xếp lại một bộ phận ngân hàng quốc doanh để có khả năng tăng vốn, tăng sức
mạnh chủ đạo của ngân hàng quốc doanh và tăng độ an toàn cho hệ thống ngân hàng. Đối
với các ngân hàng cổ phần cần có giải pháp làm lớn vốn tự có thông qua nhiều biện pháp:
hoặc sát nhập, hoặc tăng cường huy động thêm cổ phần [9, 10]. Bên cạnh đó tổ chức lại hệ
thống Quỹ tín dụng nhân dân ở nông thôn; quản lý tốt hoạt động của các ngân hàng nước
ngoài; tiếp tục chuyển các ngân hàng thương mại sang cơ chế kinh doanh đầy đủ. Cùng với
việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn cần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đa năng,
gắn chặt khả năng cung ứng vốn và nhu cầu sử dụng vốn trên địa bàn với cơ sở lãi suất tín
dụng theo quan hệ cung cầu [17, 78]; tiếp tục hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để giảm
chi phí trong giao dịch, và nâng cao chất lượng tín dụng.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động bảo hiểm để hoạt động này mang tính cạnh tranh,
vừa thực hiện kinh doanh bảo hiểm vừa thực sự trở thành một tổ chức tài chính tham gia
vào quá trình huy động vốn. Đặc biệt nghiên cứu để hình thành Quỹ bảo hiểm tiền gửi và
tiền vay đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp; hình thành Quỹ bình ổn giá nhằm đối phó
với những biến động của thị trường, rủi ro trong thiên tai và dịch bệnh trong nông nghiệp.
- Phát triển thị trường vốn, đặc biệt thị trường vốn ở nông thôn để huy động trực
tiếp vốn trên thị trường này vào phát triển nông nghiệp. Đồng thời xây dựng và hoàn thiện
các thể chế cho hoạt động và quản lý thị trường chứng khoán bước đầu hình thành ở Việt
Nam (đã mở trụ sở giao dịch vào tháng 7/2000 tại thành phố Hồ Chí Minh).
- Đổi mới hệ thống thanh tra tài chính cho phù hợp với cơ chế thị trường. Đẩy
mạnh công tác kiểm toán đối với các hoạt động của nền kinh tế. Hoàn thiện hệ thống luật
pháp tài chính, tạo môi trường lành mạnh khuyến khích huy động và sử dụng vốn có hiệu
quả.
3.2.2.3. Đào tạo nghề cho lực lượng lao động ngoại thành nhằm nâng cao năng
lực huy động và sử dụng vốn, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn
Đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Thông qua công tác đào tạo nâng
cao trình độ ứng dụng khoa học - công nghệ, kiến thức kinh nghiệm sản xuất cho nông
dân.
Qua khảo sát điều tra năm 1996 tại 65 xã (chiếm 40%) ở ngoại thành Hà Nội, cho
thấy: Đa số nông dân ngoại thành chưa qua bất kỳ một trường, lớp đào tạo nghề nào mà
chỉ đào tạo thông qua phương pháp "cha truyền, con nối" từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Do đó, trình độ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là thâm canh trong nông nghiệp còn kém
hiệu quả; tỷ lệ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật nông nghiệp qua đào tạo ở nông thôn
còn thấp (xem phụ lục 6). Vấn đề đặt ra là phải đẩy mạnh công tác đào tạo nghề nâng cao
về số lượng và chất lượng cho lao động nông thôn. Trước hết, cần quán triệt một số điểm
sau:
- Các cấp các ngành phải coi đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp là nhiệm vụ
cấp bách, lâu dài và là một giải pháp quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ngoại thành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đào tạo nghề, phải theo sát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
của khu vực nông thôn cả nước, khu vực ngoại thành Hà Nội; cơ cấu đào tạo nghề phải
hợp lý cả về ngành nghề, cấp đào tạo cũng như nội dung đào tạo, chú ý kỹ năng thực hành
nghề ngay trên ruộng đồng.
- Thực hiện xã hội hóa đào tạo nghề; đa dạng hóa loại hình, hình thức đào tạo nghề
phù hợp với đặc thù của lao động nông thôn, gắn đào tạo nghề với chuyển giao công nghệ,
phổ biến kiến thức về khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; thu hút mọi nguồn lực cho
công tác đào tạo nghề. Nhà nước và địa phương các cấp phải có chính sách hỗ trợ kinh phí
dạy nghề cho lao động nông thôn.
Xuất phát từ những quan điểm trên, trong những năm tới, công tác đào tạo nghề
cho lao động ngoại thành Hà Nội cần tập trung vào:
+ Đào tạo bồi dưỡng về quản lý và kỹ thuật sản xuất cho gần 20 vạn hộ nông dân.
+ Đào tạo cán bộ quản lý và nghiệp vụ quản lý cho gần 500 hợp tác xã chuyển đổi
theo Luật hợp tác xã mới, với gần 1.800 cán bộ chủ chốt các xã, bao gồm: 600 chủ nhiệm
hợp tác xã và trưởng ban kiểm soát; 900 phó chủ nhiệm hợp tác xã và ủy viên quản trị; 300
kế toán trưởng [46, 34].
+ Đào tạo công nhân, kỹ thuật viên cho các ngành trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản, bảo quản và chế biến nông sản.
+ Đào tạo công nhân, kỹ thuật viên cho các ngành cơ khí, động lực, điện lạnh, sinh
học phục vụ công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
Đào tạo nghề theo hướng trên phải bao gồm hai loại hình: đào tạo nghề ngắn hạn
và đào tạo nghề dài hạn. Cụ thể:
Đào tạo nghề ngắn hạn cho gần 20 vạn hộ nông dân nhằm mục đích nâng cao kiến
thức và kỹ năng về trồng từng loại cây, nuôi từng loại con; chế biến từng loại nông, lâm,
thủy sản... Những nghề này do cơ sở dạy nghề đào tạo, nòng cốt là các trung tâm dạy nghề
huyện, cơ sở dạy nghề của các tổ chức chính trị - xã hội (công đoàn, đoàn thanh niên, Hội
nông dân, Hội phụ nữ...), với sự phối hợp của các trường trung học Nông nghiệp Hà Nội,
các Trung tâm nghiên cứu khoa học- công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp đóng trên
địa bàn Hà Nội. Bằng hình thức đào tạo nghề ngắn hạn có thể phổ biến kiến thức cho mọi
lứa tuổi, kể cả những người không có điều kiện học tập trung và dài hạn.
Đào tạo nghề dài hạn nhằm mục đích thu hút số lao động trẻ có trình độ văn hóa
đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở hoặc phổ thông trung học, hình thành đội ngũ công nhân kỹ
thuật phục vụ phát triển nông nghiệp ngoại thành; chuẩn bị lực lượng lao động kỹ thuật
nòng cốt cho các xí nghiệp, nông trường và trang trại. Đào tạo nghề dài hạn được tập trung
ở các trường đại học; các trường đào tạo nghề dài hạn.
Cần thiết phải phân công, phân cấp trách nhiệm cụ thể giữa các đầu mối, cơ quan
có liên quan đến đào tạo nghề.
Đối với Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội, cần chỉ đạo tạo điều kiện để trường dạy
nghề phối hợp chặt chẽ với các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm thực nghiệm...
để xây dựng nội dung chương trình đào tạo, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ dạy học
(phòng thí nghiệm, xưởng trường, vườn và trại trường...); củng cố, nâng cao trình độ đội
ngũ giảng viên.
Đối với Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, cần thống nhất chương
trình, nội dung đào tạo, nắm chắc số lượng và phân loại cán bộ huyện, quận để xây dựng
kế hoạch đào tạo cán bộ hàng năm.
Đối với Sở Kế hoạch và Đầu tư, trên cơ sở hoạch định đầu tư của Sở, giao chỉ tiêu
kế hoạch và chỉ tiêu tài chính cho các trường dạy nghề.
Đối với huyện, quận, xã cần hoạch định chiến lược cán bộ để đưa đi đào tạo; phối
hợp với các trường nghề, cơ sở nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội đào tạo các lớp ngắn hạn
phổ biến rộng rãi kiến thức quản lý và kiến thức sản xuất cho nông dân.
Khi công tác đào tạo nghề thực hiện tốt, trình độ dân trí, tay nghề và kinh nghiệm
sản xuất của nông dân nâng lên, khả năng sử dụng vốn của họ có hiệu quả sẽ thúc đẩy việc
huy động các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư phát triển nông nghiệp,
nông thôn ngoại thành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2.2.4. Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế để đảm bảo huy động ngày càng có
hiệu quả các nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp ngoại thành
Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế đối với nông nghiệp bao gồm các nội dung:
đổi mới việc thực hiện các chức năng quản lý về kinh tế đối với nông nghiệp; đổi mới,
hoàn thiện các công cụ, quản lý kinh tế nông nghiệp và đổi mới tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước đối với nông nghiệp. Thông qua đó sẽ có tác động tích cực đến việc huy động
ngày càng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đảm bảo đầu tư được tập trung, có trọng tâm,
trọng điểm, thúc đẩy nông nghiệp ngoại thành Hà Nội phát triển.
Trước hết, cần phải đổi mới việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế đối với nông nghiệp. Về thực chất, quản lý nhà nước trong cơ chế thị trường đã có sự
thay đổi căn bản so với thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Song, đổi mới nói
chung, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp nói riêng là một quá trình lâu dài,
tuân thủ theo nấc thang của sự phát triển. Do đó cần tiếp tục nhận thức rõ vai trò, chức
năng của quản lý nhà nước trong cơ chế thị trường, phân định rõ chức năng quản lý của
nhà nước với quản lý sản xuất - kinh doanh. Quản lý nhà nước về kinh tế chỉ mang tính
chất định hướng, không can thiệp quá sâu vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đồng thời,
luôn quán triệt đặc điểm của sản xuất - kinh doanh trong nông nghiệp để tiếp tục đổi mới
quản lý nhà nước trong lĩnh vực này có hiệu quả. Đổi mới chức năng quản lý nhà nước đối
với ngoại thành cần quán triệt mục tiêu, định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn
ngoại thành; đặc điểm kinh tế - xã hội của từng vùng, quận, huyện để có bước đi thích hợp.
Trong thời gian tới, quản lý nhà nước về nông nghiệp ngoại thành cần hướng vào
các công trình trọng điểm, quản lý chương trình, dự án phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông nghiệp: giảm diện tích trồng trọt, đặc biệt là giảm diện tích trồng lúa, chuyển
sang trồng hoa cây cảnh, cây gia vị; tăng tỷ trọng chăn nuôi; hướng tới chương trình rau
sạch, thịt sạch; bảo đảm vệ sinh môi trường sinh thái trong lành cho Thủ đô. Bên cạnh đó cần
đổi mới chức năng điều tiết của nhà nước về giá cả, lãi suất; có sự trợ giá đối với nông sản
hàng hóa, sử dụng tổng hợp các công cụ và chính sách kinh tế - xã hội thúc đẩy việc huy
động vốn vào phát triển nông nghiệp; coi trọng kỷ cương, phép nước, kịp thời xử lý những
sai phạm và phòng ngừa hữu hiệu hiện tượng tham nhũng, chống thất thoát vốn và tài sản
trong các chương trình, dự án kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Chính quyền các cấp cần đặt
trọng tâm kiểm tra, kiểm soát một số lĩnh vực quan trọng, như: việc thực hiện Luật đất đai,
việc qui hoạch và xây dựng bảo vệ môi trường, kiểm soát công tác giết mổ gia súc...
Thứ hai, đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế. Cần sử dụng tổng
hợp các công cụ quản lý, trong đó chú trọng công tác kế hoạch hóa, thực hiện đồng bộ các
chính sách và coi pháp luật là một trong những công cụ đóng vai trò quyết định.
Thông qua việc đổi mới có hiệu quả công tác kế hoạch sẽ xây dựng và hình thành
các vùng kinh tế ngoại thành. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của
Thủ đô để xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp ngoại thành; xây dựng các chương
trình, dự án kinh tế nông nghiệp cụ thể, sát đúng với xu hướng phát triển của thị trường.
Trên cơ sở đó xây dựng chương trình, kế hoạch huy động tổng lực các nguồn vốn, bố trí,
phân bổ vốn huy động được một cách hợp lý để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động đầu
tư.
Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, các kế hoạch chỉ mang tính chất định hướng. Vấn
đề là ở chỗ phải định hướng đúng và sử dụng nhuần nhuyễn các công cụ để điều tiết kinh
tế nông nghiệp phát triển, đáp ứng yêu cầu thị trường, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, từ
đó tìm nguồn và huy động nguồn vốn để đầu tư phát triển.
Thứ ba, phải đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực nông
nghiệp. Trên cơ sở đổi mới chức năng quản lý; đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý
cần phải đổi mới bộ máy quản lý. Đổi mới bộ máy quản lý nông nghiệp phải xuất phát từ
yêu cầu, nhiệm vụ quản lý trong cơ chế mới. Đổi mới bộ máy quản lý nông nghiệp tốt sẽ
có tác động tích cực trở lại thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Trên cơ sở đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước từ Trung ương (ở lĩnh vực
nông nghiệp), cần tiếp tục đổi mới bộ máy quản lý nhà nước đối với nông nghiệp ngoại
thành từ cấp sở, phòng, cơ sở làm cho bộ máy quản lý nông nghiệp gọn, nhẹ, có hiệu quả,
mà việc đầu tiên là phải tuân thủ các nguyên tắc của công cuộc cải cách nền hành chính
quốc gia; trong đó, khâu then chốt, có tính đột phá là cải cách thủ tục hành chính. Sắp xếp
hợp lý cơ cấu bộ máy quản lý nông nghiệp trên cơ sở rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của
sở, phòng, ban và cơ sở. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các tổ chức trên.
Qui định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công rành mạch rõ ràng để phối hợp được chặt chẽ,
đồng bộ; đảm bảo sự điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt và kỷ luật cao. Xét đến
cùng, đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực nông nghiệp là nhằm huy
động mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực vốn vào phát triển nông nghiệp, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế nông nghiệp ngoại thành nói riêng, nền kinh tế Thủ đô nói chung.
Kết luận
Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã trình bày những luận
cứ khoa học, các giải pháp cơ bản huy động vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà
Nội. Cụ thể, luận văn đã:
- Hệ thống hóa lý luận cơ bản về vốn, về vai trò của nó đối với phát triển nông
nghiệp.
- Phân tích khái quát những kinh nghiệm huy động, đầu tư vốn để phát triển nông
nghiệp ở một số nước đang phát triển có những nét tương đồng với Việt Nam. Trên cơ sở
đó rút ra những bài học kinh nghiệm có thể ứng dụng để huy động vốn phát triển nông
nghiệp vùng ven đô.
- Thông qua các số liệu, biểu bảng, luận văn đã đánh giá thực trạng huy động các
nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội thời gian qua. Đồng thời đánh
giá những kết quả đạt được cũng như nêu lên những vấn đề còn tồn tại trong quá trình huy
động vốn phát triển nông nghiệp, luận giải một số nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả
huy động các nguồn vốn vào phát triển lĩnh vực này.
- Khẳng định những quan điểm về tạo lập nguồn vốn trong nước, trên cơ sở phân
tích, đánh giá phương thức huy động vốn trong nước để phát triển nông nghiệp nói chung,
nông nghiệp ngoại thành nói riêng. Đồng thời nêu lên sự cần thiết phải đổi mới, đa dạng
hóa các nguồn vốn và phương thức huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng
tăng để phát triển nông nghiệp nói chung, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội nói riêng trong
cả trước mắt và tương lai.
- Trên cơ sở phương hướng huy động vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành,
luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh huy động có hiệu quả các nguồn
vốn vào phát triển nông nghiệp, khai thác tối đa nguồn vốn địa phương, vùng lân cận cũng
như nguồn vốn tài trợ của nước ngoài để phát triển nông nghiệp ngoại thành.
Mặc dù luận văn đã cố gắng bám sát đối tượng cũng như phạm vi nghiên cứu,
song do năng lực của bản thân có hạn nên một số nội dung luận văn mới dừng lại ở mức
nêu lên tính lôgíc, tính hệ thống của vấn đề. Những đề xuất trong các giải pháp cũng chỉ là
bước đầu và dừng lại ở một địa phương cụ thể là ngoại thành Hà Nội. Những đề xuất trên
cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và cụ thể hóa một cách đồng bộ nhằm nâng cao
hơn nữa tính khả thi của chúng. Vì vậy, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót và hạn chế. Tác giả xin chân thành cảm ơn và trân trọng sự chỉ dẫn của các nhà khoa
học, các chuyên gia kinh tế nhằm nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức của bản thân về
lĩnh vực huy động vốn để phát triển kinh tế nói chung, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội
nói riêng.
Danh mục tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Tuấn Anh, Chiến lược huy động và sử dụng vốn, tập 1 - Những giải pháp
huy động vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, Hà Nội, 1991.
[2]. Ban Công nghiệp, thương mại - dịch vụ, Viện nghiên cứu chiến lược, Bộ kế hoạch
và đầu tư, Hà Nội, 1998
[3]. Báo cáo quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2010 của thành phố Hà Nội,
12/1994.
[4]. Báo cáo thống kê chi nhánh ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội từ năm 1991 -
1994.
[5]. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1998 của Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam, tháng 3/1999.
[6]. Báo cáo kinh tế của Ngân hàng thế giới: Việt Nam chuẩn bị cất cánh? Làm thế nào
Việt Nam có thể tham gia toàn diện vào quá trình phục hồi của Đông á - Hà Nội,
tháng 12/1999.
[7]. Phạm Đăng Binh và Nguyễn Văn Lập (dịch), Dictionary of Economic Penguin. Từ
điển kinh tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
[8]. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Chương trình phân tích và lựa chọn chiến
lược công nghiệp hóa, Hà Nội, 1994.
[9]. Cao Cự Bội, Cải cách triệt để Ngân hàng - Tài chính. Thời báo Kinh tế Việt Nam,
số 100, thứ tư 16/12/1999.
[10]. Chu Văn Cấp, Khuyến khích đầu tư trong nước. Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số
1/1994.
[11]. Trần Mai Chi, Công nghiệp hóa dựa trên cơ sở hy sinh nông nghiệp - Những bài
học kinh nghiệm rút ra từ Đài Loan và Hàn Quốc. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số
6/1998.
[12]. Trần Văn Chử (chủ biên), Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999.
[13]. Nguyễn Sinh Cúc và TS Nguyễn Văn Tiêm, Đầu tư trong nông nghiệp - Thực trạng
và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.
[14]. ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành TW, khóa VI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội ,1995
[15]. ĐCSVN: Dự thảo văn kiện Hội nghị TW 7, khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996.
[16]. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996.
[17]. ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW khóa VIII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998.
[18]. ĐCSVN: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp,
nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
[19]. Dự án điều tra và kiến nghị các chính sách huy động các nguồn lực cho phát triển
kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội: chuyên đề đề xuất các cơ chế, chính sách
nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách và có nguồn gốc từ
ngân sách phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, Hà Nội, 2/1999.
[20]. Trần Thọ Đạt, Trần Đình Toàn, Tín dụng ở các nước đang phát triển và những bài
học cho nước ta, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 250, tháng 3/1999.
[21]. Nguyễn Điền, (chủ biên), Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước châu
á và Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
[22]. Malcolm Gillis (và các tác giả), Kinh tế học của sự phát triển, tập 1, Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội, 1990.
[23]. Malcolm Gillis (và các tác giả), Kinh tế học của sự phát triển, tập 2, Viện nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội, 1990.
[24]. Hội nông dân thành phố Hà Nội, Ban chấp hành Hội nông dân huyện Từ Liêm, Báo
cáo tổng kết công tác Hội nông dân năm 1996 và phương hướng, nhiệm vụ của Hội
nông dân, tháng 12/1996.
[25]. Lê Mạnh Hùng (chủ biên), Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.
[26]. Lê Mạnh Hùng (chủ biên), Kinh tế - xã hội Việt Nam 3 năm (1996 - 1998) và dự
báo năm 2000, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999.
[27]. Lâm Quang Huyên, Cần tiếp tục quán triệt quan điểm "Khoan sức dân". Báo Đầu
tư, số ra ngày thứ năm, 4/11/1999.
[28]. Kinh tế Việt Nam 1998 - 1999: Việt Nam và thế giới. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số
chuyên đề tháng 1/2000.
[29]. Nguyễn Văn Lai, Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ
phát triển kinh tế Việt Nam (luận án TS kinh tế), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 1996.
[30]. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
[31]. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
[32]. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
[33]. Nghị định số 72/CP ngày 26/7/1994 của Chính phủ ban hành qui chế phát hành trái
phiếu của Chính phủ.
[34]. Nghị định số 120/CP ngày 17/9/1994 của Chính phủ ban hành tạm thời về việc phát
hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước.
[35]. Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1995 của Chính phủ về việc chuyển một số doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
[36]. Niên giám thống kê 1999. Cục Thống kê Hà Nội, Hà Nội 2000.
[37]. Nguyễn Minh Phong và Nguyễn Duy Phong, Định hướng chính sách tài chính Thủ
đô, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 237, tháng 4/1998.
[38]. Nguyễn Minh Phong, Cần làm gì để cải thiện các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh
tế ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 4/1999.
[39]. Vũ Văn Phúc, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của thành phố Hà Nội: Thành
tựu - vấn đề nảy sinh và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 5/1999.
[40]. Đinh Văn Phượng, Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền núi
phía Bắc nước ta (Luận án tiến sĩ kinh tế), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 1996.
[41]. Mạnh Quân, Sâu mọt từ cấp phường, xã? Báo Đầu tư, ra ngày 4/3/1999.
[42]. Quyết định 211/QĐ/NH1 và Quyết định 212/QĐ/NH1, ngày 22/9/1994 của Thống đốc
Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
[43]. Đ.I.Rôdenbe, Giới thiệu quyển III bộ "Tư bản" của C.Mác, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1973.
[44]. Số liệu thống kê của khối kinh tế - kế hoạch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam, Hà Nội, tháng 6/2000.
[45]. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, Báo cáo tóm tắt điều tra khảo sát
kinh tế trang trại ngoại thành Hà Nội, tháng 11/1999.
[46]. Phạm Văn Sơn và Đoàn Xuân Tiến, Nhu cầu đào tạo nhân lực cho nông nghiệp,
nông thôn ngoại thành Hà Nội, Tạp chí Giáo dục đại học và chuyên nghiệp, số
8/1999.
[47]. Đặng Văn Thanh, Các giải pháp tài chính khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Tạp
chí Tài chính số 9/1999.
[48]. Phạm Đức Thành, Một số vấn đề về nguồn nhân lực Thủ đô, Tạp chí Kinh tế và
phát triển, số 34, Tháng 1 +2/2000.
[49]. Lê Đình Thắng (chủ biên), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1998.
[50]. Thông tư 91/TS/KBNN ngày 5/11/1994 của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết phát
hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước.
[51]. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 62, ngày 19/11/1999.
[52]. Hoàng Việt Trung, Tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên địa bàn Hà Nội (Luận án TS kinh tế), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 1996.
[53]. Trường Đại học kinh tế quốc dân, Bộ môn kinh tế nông nghiệp, Kinh tế nông
nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996.
[54]. Đỗ Thế Tùng, Tín dụng cho người nghèo ở nông thôn, Tạp chí Ngân hàng, số
6/1991.
[55]. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà
Nội. Đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố Hà Nội, Hà Nội,
1995.
[56]. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố
Hà Nội lần thứ XII, Nxb Hà Nội, 1996.
[57]. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, Định
hướng phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn Hà Nội đến năm 2010, Hà
Nội, 1997.
[58]. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo
cáo tham luận đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội, Hà
Nội, tháng 12/1998.
[59]. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Phát triển kinh tế ngoại thành Thủ đô theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2000 - 2005, Hà Nội, tháng 4/2000.
[60]. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Hội Nông dân thành phố Hà Nội, Báo cáo khoa
học đề tài "Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đầu tư, quản lý, sử dụng vốn
vay cho sản xuất của Nhà nước đối với hộ nông dân ở Hà Nội", Hà Nội, 2000.
[61]. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Phương hướng và giải
pháp đầu tư xây dựng hạ tầng phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành Hà
Nội, tháng 4/2000.
[62]. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng; Hà Nội - Đà Nẵng, năm
2000.
[63]. Bùi Thị Xô, Định hướng phát triển cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn Hà Nội. Thông tin nông nghiệp Thủ đô, số 1/2000.
[64]. I.Đ.Uđanxốp và F.I.Pôlilanxki, Lịch sử tư tưởng kinh tế, phần thứ nhất, tập II, Nxb
Khoa học - xã hội, Hà Nội 1994.
[65]. I.Đ.Uđanxốp và F.I.Pôlilanxki, Lịch sử tư tưởng kinh tế, phần thứ nhất, tập III, Nxb
Khoa học - xã hội, Hà Nội 1994.
Phụ lục 1
Bình quân đất nông nghiệp/ nhân khẩu nông nghiệp một số nước ASEAN, đồng bằng
sông Hồng và Hà Nội
TT Nước, vùng
Bình quân đất
nông
nghiệp/nhân
khẩu (ha)
Năm
tính toán
Hà Nội so với
các nước
và các vùng
(%)
1
2
3
4
5
6
7
Indônêxia
Malaixia
Philippin
Thái Lan
Việt Nam
Đồng bằng sông
Hồng
Hà Nội
0,27
2,9
0,27
0,69
0,103
0,056
0,048
1991
1991
1991
1991
1994
1994
1994
17,8
1,65
17,8
6,96
46,4
86,3
Nguồn: Tư liệu kinh tế 7 nước ASEAN, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996; một số tư liệu
của cuộc tổng điều tra nông nghiệp và nông thôn 1994, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996 [2].
Phụ lục 2
Cơ cấu kinh tế của thành phố Hà Nội (theo giá thực tế)
Chỉ tiêu 1990 1995 1996 1997 1998
Tổng GDP (%)
Trong đó:
- Nông, lâm nghiệp
- Công nghiệp, xây
dựng
100
9,0
29,5
61,5
100
5,4
33,0
61,6
100
5,1
34,9
60,0
100
4,7
35,3
60,0
100
3,9
36,5
59,6
- Thương mại, dịch vụ
Tổng GDP (triệu
đồng)
Trong đó:
- Nông, lâm nghiệp
- Công nghiệp, xây
dựng
- Thương mại, dịch vụ
2.285.151
205.664
670.120
1.405.367
14.499.42
5
782.969
4.784.820
8.931.646
17.292.27
1
881.906
6.035.003
10.375.36
2
20.070.83
8
943.329
7.085.009
12.042.50
0
22.948.87
2
986.802
8.307.492
13.654.57
8
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 1999, Cục Thống kê Hà Nội [36].
Phụ lục 3
Nông nghiệp Hà Nội so với cả nước năm 1997
TT Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Cả nước
(1)
Hà Nội
(2)
So sánh
(2/1)
1
2
3
4
5
6
7
8
Giá trị sản xuất nông nghiệp
GDP nông nghiệp
Diện tích đất nông nghiệp
Giá trị sản xuất nông
nghiệp/ha
Giá trị sản xuất nông
nghiệp/ha
GDP nông nghiệp/ha
GDP nông nghiệp/ha
Cơ cấu nông nghiệp (%)
Trong đó: - Trồng trọt
- Chăn nuôi
109 đồng
109 đồng
103 ha
103 đồng
USD
103 đồng
USD
%
%
97.812
77.520
7.367,2
13,3
1.209
10,5
955
77,6
19,7
1.459,6
912,7
43,76
33,3
3.027
20,8
1.891
61,3
38,7
1,49
1,18
0,59
250,4
198,0
79,0
196,6
Nguồn: Theo tính toán Ban Công nghiệp - Thương mại, dịch vụ, Viện Nghiên cứu
chiến lược, Bộ kế hoạch và đầu tư [2].
Phụ lục 4
Tình hình sản xuất lương thực đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của nông nghiệp ngoại thành
Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998
- Bình quân lương thực kg/người
- Bình quân lương thực/nhân khẩu nông
nghiệp
+ Tự túc nhu cầu (%)
+ Thời hạn tự túc (tháng)
104,5
324,8
48,3
5
97,6
310,6
45,1
5
93,9
289,6
43,4
5
95,0
295,7
440,0
5
Nguồn: [55].
Phụ lục 6
Tình hình đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật ngoại thành
Trình độ đào tạo
Đơn
vị
tính
Các huyện
Gia
Lâm
Đông
Anh
Than
h Trì
Từ
Liêm
Sóc
Sơn
- Cán bộ có trình độ đại học
- Cán bộ trung học nông
nghiệp
- Công nhân
- Bình quân cán bộ / xã
người
người
người
%
11
188
16
15,6
19
251
32
25,1
-
120
-
12
-
256
8
17
16
96
-
8,5
Nguồn: [46]
Phụ lục 7
Tổng hợp tình hình huy động vốn của Hà Nội
Đơn vị: Tỷ đồng
1996 1997 1998 1999 DK200
0
Tổng số
I/ Vốn trong nước
1. Vốn đầu tư của Nhà nước
- Vốn ngân sách
- Vốn tín dụng đầu tư của NN
2. Vốn tín dụng của hệ thống
ngân hàng huy động trực
tiếp
3. Vốn các DNNN tự huy động
4. Vốn huy động của các thành
phần kinh tế ngoài Nhà nước
5. Vốn dân đóng góp xây dựng
đường làng ngõ xóm
6. Vốn dân tự xây dựng nhà ở
II/ Vốn nước ngoài
1. Vốn FDI
2. Vốn ODA
3. Vốn NGO
17334,
3
10357,
3
1907,3
1498,2
409,1
4623
1612
1900
150
165
6977
6655
302
20
20744,
2
11920,
2
2321,2
1736
585,2
5348
1791
2088
200
172
8824
8544
240
40
21481
14250
2255
1574
681
8297
1438
1860
150
250
7231
6786
445
-
22873
17152
2500
1700
800
9984
1500
2668
200
300
5721
4550
1171
-
27100
21800
2850
1850
1000
13200
1800
3200
350
400
5300
4550
750
-
Nguồn: [19]
Phụ lục 8
Nguồn vốn của trang trại ngoại thành Hà Nội
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu Tổng
Sóc
Sơn
Đông
Anh
Từ
Liêm
Gia
Lâm
Thanh
Trì
I. Thời điểm bắt đầu
Trong đó:
1. Vốn tự có
2. Vốn vay
+ Vay trực tiếp từ ngân
hàng
+ Vay đầu tư ứng trước
+ Vay dự án
+ Vay khác
3. Vốn khác
20511,3
4
12275,1
3
5945
2374,9
372,5
134,9
3062,7
1977,4
2066,65
1520,05
415,6
192,9
1,5
21,5
199,7
118
4929,04
3980,14
928,9
376
0
13,4
539,5
0
3111,1
1818,60
1214
336,5
10
3
864,5
91,5
2495,81
7
1827,31
570,5
231,5
71
10
258
154,2
7905,73
3129,03
2816
1238
290
87
1201
1613,7
II. Đến 30-4-1999 40110,3
4
6468,09 7244,83 6667,48 5693,45 14036,4
9
Trong đó:
1. Vốn tự có
2. Vốn vay
+ Vay trực tiếp từ ngân
hàng
+ Vay đầu tư ứng trước
+ Vay dự án
+ Vay khác
3. Vốn khác
29921,8
9
6019,6
2,166
489
258
3,106
3342,49
5600,57
812
347
0
151
313,5
49,82
6318,13
761
154
0
10
597
45
4630,02
1,534
409,7
101
2
1021,57
501,2
4911,68
302
63
28
0
211
362,07
8461,49
2610,6
1192,5
360
95
963,1
2384,4
Nguồn: [45]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay (2).pdf