Luận văn Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay

Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang trong sự nghiệp đổi mới phải là người có phẩm chất chính trị, có năng lực thực tiễn, có đạo đức lối sống trong sạch lành mạnh, biết tổ chức quần chúng nhân dân ở cấp cơ sở phát huy cao nhất năng lực sáng tạo và đấu tranh chống những tiêu cực xã hội. Họ là người có tinh thần tập thể, yêu nước, yêu CNXH, yêu lao động và lao động sáng tạo, có tinh thần nhân đạo cộng sản, luôn cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

pdf98 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2768 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệnh viện lớn ở tỉnh và trung tâm các huyện, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, phòng bệnh ở tuyến cơ sở. Mỗi xã có trạm y tế được xây dựng kiên cố và có trang thiết bị y tế vừa khám chữa bệnh vừa làm dịch vụ kế hoạch hoá gia đình. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, thực hiện tốt chương trình quốc gia về y tế, hạn chế đi đến thanh toán bệnh bướu cổ, bại liệt, bệnh uốn ván, bệnh sởi…, làm tốt công tác dự phòng, kịp thời ngăn chặn và dập tắt các dịch bệnh nguy hiểm, phòng chống có hiệu quả tình trạng lây nhiễm HIV, SATR, H5N1…Từng bước nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư. - Đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Chú trọng giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc trong tỉnh; thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với phong trào thi đua yêu nước. Thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tăng cường các hoạt động văn hoá, thông tin về cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa; phát động phong trào toàn dân xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh trên từng địa bàn dân cư và trong từng hộ gia đình. Thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Khuyến khích và tổ chức các cuộc vận động sáng tạo các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, chất lượng cao, phản ánh thực chất đời sống thường nhật của bà con, đồng bào các dân tộc trong toàn tỉnh. Không ngừng nâng cao chất lượng tin, bài của các loại báo, tăng thời lượng chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của nhân dân. - Thực hiện nhất quán chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; tôn trọng và đảm bảo các quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Tăng cường và vận động quần chúng vùng đồng bào dân tộc thiểu số hăng hái tham gia sản xuất, biết áp dụng các thành tựu khoa học mới vào sản xuất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí. Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, sống tốt đời đẹp đạo, biết phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hoá, đạo đức trong các giáo lý tôn giáo, ngăn ngừa việc lợi dụng tôn giáo làm tổn hại đến khối đoàn kết toàn dân, đi ngược lợi ích của dân tộc. - Tổ chức thực hiện tốt pháp lệnh về người có công với nước và chính sách xã hội. Bắc Giang là một trong những tỉnh có nhiều người có công và đối tượng chính sách trong cả nước. Do đó, cần phải đẩy mạnh phong trào "đền ơn đáp nghĩa", uống nước nhớ nguồn trong nhân dân, toàn dân chăm sóc phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công với nước, thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Quan tâm chăm sóc người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Xây dựng quỹ tình nghĩa để giúp đỡ đối tượng chính sách, trẻ em bị tàn tật, các nạn nhân chất độc màu da cam… Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau khi hoạn nạn. Thực chất việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo định hướng XHCN ở tỉnh Bắc Giang là cơ sở kinh tế - xã hội khách quan, là điều kiện thực tiễn cần thiết cho quá trình xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Trong qúa trình phát triển này cần lưu ý hai nội dung cơ bản sau: Một là, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với nền KTTT. Trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN, những yếu tố cơ bản, văn minh của nền KTTT còn sơ khai chưa đủ sức mạnh để điều chỉnh hành vi con người theo thang giá trị chân, thiện, mỹ thì việc nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành của bộ máy nhà nước nói chung, tăng cường vai trò quản lý nhà nước, kịp thời xoá bỏ những lệch lạc, chệch hướng trong lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng đời sống tinh thần đạo đức cách mạng trong đời sống xã hội ở cơ sở và ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Động cơ thúc đẩy các chủ thể kinh tế đi vào hoạt động kinh tế chính là lợi ích. Vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế là phải làm cho lợi ích với tính cách là động cơ của các chủ thể kinh tế trở thành động lực của sự phát triển xã hội và của nền KTTT. Thực chất vai trò của quản lý nhà nước đối với nền KTTT là sự kết hợp lợi ích của các chủ thể, các khuynh hướng của các nhóm người, tầng lớp và những lực luợng xã hội, là sự kết hợp các mặt đối lập và liên tục giải quyết mâu thuẫn không ngừng xuất hiện giữa kinh tế với chính trị, giữa lợi ích với đạo đức, giữa khuynh hướng tự phát và tự giác trong sự vận động của nền KTTT. Hai là, bên cạnh việc phát triển kinh tế, làm lành mạnh hoá nền KTTT thì phải gắn liền với việc thực hiện các chính sách xã hội và phát triển đời sống văn hoá, tinh thần xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ tiến trình cách mạng tư tưởng văn hoá, làm cho thế giới quan chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội Việt Nam công bằng, dân chủ và văn minh, giàu mạnh. Chống tư tuởng văn hoá phản tiến bộ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Do đó, từ yêu cầu của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang, chúng ta phải xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh ở cấp cơ sở, ra sức kiến tạo những điều kiện vật chất, tinh thần bao gồm các quan hệ xã hội, thiết chế xã hội, các giá trị vật chất và tinh thần tác động thúc đẩy sự phát triển đạo đức cách mạng, đồng thời ngăn ngừa các phản giá trị ảnh hưởng tới đạo đức, lối sống của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang hiện nay. Tăng cường giáo dục bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hoá, khoa học- kỹ thuật…Đây cũng là nội dung chủ đạo, định hướng cho toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Phải xây dựng tổ chức đảng và chính quyền nhà nuớc, đoàn thể quần chúng ở cơ sở đủ mạnh, đoàn kết, thống nhất, đồng thời còn là nơi bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống quý báu của nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang. Những giá trị đó phải thực sự trở thành nét đẹp trong các quan hệ xã hội, ăn sâu, bám rễ vào trong mỗi tâm hồn, nhân cách, tình cảm, ý chí mỗi con người thuộc miền quê thượng võ Bắc Giang. 2.2.2. Đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cách mạng đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Đạo đức cách mạng không thể hình thành một cách tự phát mà phải là kết quả của một quá trình giáo dục và tự giáo dục. Hiện nay, trong điều kiện KTTT, việc giáo dục đạo đức cách mạng là một nhiệm vụ cấp bách và khó khăn. Vì thế, "Để giáo dục có kết quả cần phải đổi mới cả nội dung lẫn hình thức và cần phải thường xuyên chủ động thực hiện khắc phục một số hạn chế trong việc giáo dục đạo đức hiện nay là: lơ là, coi nhẹ, buông lỏng việc giáo dục đạo đức có khuynh hướng tách rời khá xa đối với hiện thực, hình thức giáo dục đơn điệu" [69, tr.27-28]. Cũng như mọi hoạt động giáo dục khác, giáo dục đạo đức cách mạng là một hoạt động có tính định hướng, do đó để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang hiện nay cần chú ý những vấn đề cụ thể sau đây: Một là, xác định rõ mục tiêu cần đạt được Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang cần phải được giáo dục để nắm vững những nguyên tắc, những yêu cầu của đạo đức cách mạng đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Phải giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có được khả năng tự định hướng đúng đắn trong việc lựa chọn các giá trị đạo đức, biết tránh và phê phán các hiện tượng phi đạo đức trong xã hội. Phải làm nảy nở cảm xúc, tình cảm cách mạng từ trong trái tim mỗi người cán bộ, từ đó hình thành được niềm tin, lý tưởng cách mạng. Phải làm cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có được nhu cầu, khát vọng thực hiện niềm tin và lý tưởng đạo đức để họ ngày càng trở nên cao cả, hoàn thiện hơn về nhân cách người cán bộ cách mạng giữ cương vị chủ chốt ở cơ sở, giúp họ hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân ở cơ sở giao phó. Giáo dục đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn phải đạt được mục tiêu nữa là từ tri thức và tình cảm đạo đức đạt được, phải củng cố và xây dựng được bản lĩnh và ý chí đạo đức mạnh mẽ từ đó kiên định lập trường tư tưởng, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn và cạm bẫy từ mặt trái của nền KTTT, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội trên mỗi địa bàn cơ sở. Ngoài ra, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải được giáo dục đạo đức cách mạng để họ trở thành những tấm gương sáng về đạo đức ở cơ sở, trở thành người có đủ tư cách giáo dục đạo đức cho quần chúng nhân dân ở cơ sở trong điều kiện KTTT. Hai là, cần đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. - Về nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. + Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng hiện nay phải được đổi mới, kế thừa, phát triển theo hướng kéo đạo đức gần hơn với đời sống KTTT định hướng XHCN hiện nay, theo nguyên tắc thống nhất giữa đạo đức và kinh tế, giữa đạo đức và thực tiễn cuộc sống, giữa cái hiện tại và cái tương lai, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Trước hết cần tránh tình trạng xa rời giữa đạo đức với thực tiễn cuộc sống, kết hợp tập trung trọng tâm vào các giá trị đạo đức cách mạng như lòng trung thành với CNXH, tinh thần tập thể XHCN, tinh thần lao động tự giác, sáng tạo, lòng yêu nước XHCN, tinh thần nhân đạo cộng sản chủ nghĩa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam và con người Bắc Giang như: yêu nước, đoàn kết, cần cù chịu khó, can đảm, kiên quyết…, cần khẳng định và bổ sung kịp thời những giá trị đạo đức mới trong thời kỳ đổi mới xây dựng đất nước như: ý chí vượt khỏi đói nghèo, coi nghèo là hèn, đề cao tính tự chủ, năng động, học vấn, đề cao sự thành đạt trong công việc cũng như đời sống vật chất, có tinh thần thi đua cạnh tranh trong công việc, đề cao khả năng tổ chức, quản lý công việc, biết hạch toán hiệu quả kinh tế. Như vậy, cái thiện ngày nay phải gắn chặt hơn nữa với cái đúng, cái hợp lý, phù hợp với thời kỳ quá độ, KTTT và phải được thể hiện bằng cái đẹp sâu sắc và đa dạng hơn nữa. + Phải chăng, chúng ta nên coi công việc lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội ở cơ sở là một hoạt động chuyên nghiệp. Nếu vậy, cần phải xuất phát từ những nội dung, yêu cầu của đạo đức cách mạng, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, hình thành nên những chuẩn mực cụ thể, những yêu cầu thiết thực, vừa phải dễ nhớ, dễ thuộc, có điều kiện thực hiện ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở như là một đạo đức nghề nghiệp. - Về phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Đạo đức không giống với các khoa học khác ở chỗ, nó là những chuẩn mực giá trị, là cái được các chủ thể lựa chọn, đánh giá như là việc làm có ý nghĩa tích cực được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương. Đồng thời đối tượng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là một đối tượng đặc biệt, từ đó phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải được đổi mới phù hợp với nội dung, phù hợp với đối tượng và phù hợp với điều kiện KTTT ở các địa phương, cơ sở hiện nay, tránh tình trạng tuyên truyền một chiều theo kiểu lý luận suông, sáo rỗng, xa rời thực tế sinh động ở cơ sở. Muốn vậy, cần thực hiện nguyên tắc kết hợp trong giáo dục đạo đức cách mạng: Thứ nhất là, kết hợp giữa giáo dục đạo đức với hoạt động thực tiễn, gắn với thực tiễn công tác của đối tượng; qua chất lượng của công việc, của phong trào cách mạng quần chúng mà giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Thứ hai là, kết hợp giữa xây và chống, lên án và nêu gương, phê bình và tự phê bình trong giáo dục đạo đức cách mạng. Mặc dù hiện nay tình trạng suy thoái đạo đức là nghiêm trọng nhưng không phải vì thế mà trong giáo dục đạo đức cách mạng chỉ tập trung chống mà không xây, tập trung lên án mà không nêu gương, chỉ phê bình một chiều mà coi nhẹ tự phê bình. Vì giáo dục đạo đức cách mạng chỉ có tác dụng khi trong phương pháp giáo dục có sự kết hợp hài hoà giữa xây và chống, lên án và nêu gương, phê bình và tự phê bình, lấy cái này làm cơ sở và động lực để thực hiện cái kia. ở đây cần nhấn mạnh phương pháp nêu gương trong quá trình giáo dục đạo đức bởi nó có ý nghĩa đặc biệt to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là một nguyên tắc giáo dục đạo đức.Người thường khuyên cán bộ, đảng viên:"dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp - ở đâu cũng phải làm gương cho quần chúng"[50, tr.189]. Người nhấn mạnh: "Muốn lãnh đạo vững thì trước hết cán bộ và đảng viên phải có tư tưởng và lập trường vững chắc để lãnh đạo, để xung phong làm gương mẫu" [50, tr.465]. Nếu cán bộ, đảng viên kêu gọi nhân dân cần kiệm mà mình lười biếng, sống xa xỉ, lãng phí thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích, bởi một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Người đã nghiêm khắc phê bình một số cán bộ "chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực thì cũng không làm được" [49, tr.287]. Chưa bao giờ chúng ta đứng trước thách thức lớn về đạo làm gương trong đạo đức như hiện nay, tuy nhiên chúng ta cần phải tiếp tục xây dựng lựa chọn, nêu gương người tốt, việc tốt, trong đó người cán bộ, đảng viên, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần phải nêu gương trước về đạo đức cách mạng có như vậy quần chúng mới noi theo. Thứ ba là, cần phải tăng cường sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giáo dục đạo đức với giáo dục các hình thái ý thức xã hội khác, đặc biệt là giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật và ý thức thẩm mỹ. + Giáo dục đạo đức không thể tách rời với giáo dục các hình thái ý thức xã hội khác vì chúng có tác động biện chứng với nhau. Giáo dục đạo đức không thể tách rời với giáo dục chính trị, bởi người có tri thức lý luận chính trị là người sẽ có lập trường tư tưởng vững vàng đúng đắn, từ đó có nhận thức và hành vi đạo đức cách mạng, mặt khác khi đạo đức bị vẩn đục thì sớm muộn cũng dẫn đến sự lệch lạc về quan điểm chính trị. + Giáo dục pháp luật giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở thực hiện các hành vi đúng pháp luật, điều đó cũng có nghĩa là người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đã điều chỉnh hành vi của mình theo đúng yêu cầu đạo đức ở một mức độ nhất định vì pháp luật được coi là đạo đức tối thiểu. Vì vậy việc giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật để phát huy vai trò của chúng là hết sức cần thiết. + Giáo dục đạo đức còn phải được gắn chặt với giáo dục ý thức thẩm mỹ mà đỉnh cao của nó là nghệ thuật. Đạo đức và nghệ thuật có mối quan hệ đặc biệt. Cùng một quan hệ, hành vi nếu như đạo đức bình giá theo phương diện thiện - ác thì thẩm mỹ bình giá theo phương diện đẹp - xấu. Thực tế cho thấy, cái ác trong đạo đức cũng là cái xấu trong thẩm mỹ, cần phải được lên án, xoá bỏ. Cái thiện trong đạo đức cũng chính là cái đẹp trong thẩm mỹ cần được ủng hộ, bảo vệ, theo đuổi. Giáo dục đạo đức cách mạng bằng nghệ thuật và thông qua nghệ thuật phải chăng là con đường tốt nhất và chỉ có nghệ thuật, bằng những hình tượng đặc sắc, bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh gợi cảm của mình mới đi được sâu vào trái tim con người, gây ra được những rung động, cảm xúc tâm lý, cảm xúc thẩm mỹ của con người là cuội nguồn của tình cảm đạo đức cái mà nhờ đó toàn bộ thế giới đạo đức tồn tại. Ba là, cần tăng cường vai trò của các chủ thể cùng tham gia vào quá trình giáo dục đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là một quá trình tự giác, lâu dài bao gồm nhiều lực lượng tham gia. Trong các lực lượng là chủ thể tham gia giáo dục đạo đức, Đảng vừa là lực lượng trực tiếp, nòng cốt, vừa là người lãnh đạo toàn diện công tác giáo dục, rèn luyện tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Với tính cách là chủ thể chính, các tổ chức đảng ở cơ sở phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở về lối sống, đạo đức. Mỗi cấp uỷ ở cơ sở phải có nội dung, hình thức sinh hoạt tư tưởng, đạo đức thiết thực cụ thể gắn với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, phải uốn nắn, động viên, thậm chí kỷ luật nghiêm khắc đối với những cán bộ vi phạm phẩm chất đạo đức cách mạng, tăng cường đấu tranh phê và tự phê cho các cán bộ, đây là một trong những giải pháp tốt để người cán bộ tự soi mình và sửa chữa những nhược điểm của mình. Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, nhất là trong bối cảnh hiện nay với nền KTTT còn nhiều yếu tố tự phát làm cho toà án lương tâm, dư luận xã hội không còn uy thế lớn như trước đây. Nhà nước cần phải đổi mới, bổ sung những quy chế, pháp luật, chính sách giải quyết những vướng mắc mà cơ chế thị trường đã và đang đặt ra, khắc phục tình trạng không đồng bộ, thiếu hụt chính sách, thiếu chính xác trên cả phương diện pháp lý lẫn phương diện kinh tế, xã hội. Trên cơ sở đó nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm sát, xử lý đúng pháp luật, không oan sai và không để lọt tội phạm. Tập trung giải quyết nạn tham ô, tham nhũng hiện nay ở các cơ sở có ý nghĩa to lớn trong giáo dục đạo đức. Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở cơ sở tỉnh Bắc Giang góp phần to lớn vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Để làm được điều đó trước hết Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở cơ sở phải được đánh giá đúng vị trí, vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và giáo dục đạo đức cho người cán bộ ở cơ sở. Đối với Hội đồng nhân dân ở cơ sở phải làm đúng trách nhiệm và thẩm quyền của mình là: quyết định các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, bàn và phê chuẩn các chức danh hành chính theo luật định, giám sát chặt chẽ các hành động của cơ quan hành chính và những việc của cấp trên thực hiện trên địa bàn nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ tài sản chung, quỹ do nhân dân đóng góp, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Hội đồng nhân dân phải gắn bó mật thiết với dân, lắng nghe dư luận quần chúng, phối hợp cùng Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể xã hội, ban thanh tra nhân dân kịp thời phát hiện những dấu hiệu vi phạm, sớm có giải pháp phòng bệnh hơn chữa bệnh để bảo vệ cán bộ khỏi rơi vào vòng sa ngã. Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng nhân dân phải là chiếc cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nuớc về tâm tư nguyện vọng, những xây dựng góp ý vào chủ trương, chính sách, đường lối chưa sát thực tế, xa rời cuộc sống…Tạo bầu không khí đoàn kết thân ái ở cơ sở giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể xã hội và nhân dân. Tất cả việc làm ấy có ý nghĩa, tác dụng to lớn đến việc xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang hiện nay. Như vậy, để xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang hiện nay phải tác động một cách đồng bộ vai trò của các chủ thể, không thể tách rời lẻ tẻ, hay chỉ chú trọng đến một vài chủ thể nào đó mà tuỳ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử, tuỳ vào mỗi lĩnh vực, mỗi quan hệ mà các chủ thể có vai trò tác dụng khác nhau trong việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang trong nền KTTT hôm nay. 2.2.3. Đổi mới chính sách cán bộ miền núi, tăng cường khối đoàn kết các dân tộc trong tỉnh tạo môi trường thuận lợi cho việc xây dựng đạo đức cách mạng đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở * Đổi mới chính sách cán bộ miền núi. Chính sách cán bộ là sự cụ thể hoá đường lối tổ chức của Đảng trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Có chính sách cán bộ đúng và tổ chức thực hiện tốt sẽ là một động lực phát huy nỗ lực của cán bộ, đem tài năng cống hiến cho sự nghiệp chung. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua mặc dù Đảng và Nhà nước đã nhiều lần cải biến chế độ chính sách cho cán bộ nói chung và cán bộ cơ sở nói riêng, song là một tỉnh miền núi, đời sống của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, bất cập nhất là đối với các cán bộ cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Do đó, chưa tạo được động lực để tập hợp, thu hút nhân tài cũng như sự phấn đấu của đội ngũ cán bộ, không những thế nó còn là cơ sở làm nảy sinh những hiện tượng suy thoái đạo đức. Đổi mới chính sách cán bộ nói chung và cán bộ miền núi nói riêng cần phải quán triệt các quan điểm sau: + Chính sách đổi mới cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn phải phù hợp với vị trí vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ này. Họ phải chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân về những quyết định của mình đối với tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương trong khi mức phụ cấp chưa tương xứng nhất là những người cán bộ đang công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ít người, vùng đặc biệt khó khăn. Do đó, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện chính sách cán bộ phải được quan tâm hơn, nhất là đối với cán bộ là người dân tộc, cán bộ nữ, cán bộ công tác lâu năm ở miền núi và vùng cao. + Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ cơ sở phải quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII: "Tiền lương gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, góp phần quan trọng làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu suất công tác. Bảo đảm giá trị đích thực của tiền lương và từng bước cải thiện theo sự phát triển của kinh tế - xã hội" [18, tr.42-43]. + Chính sách cán bộ cơ sở phải gắn với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc. Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khoá IX đã khẳng định: "Trong những năm trước mắt cần tăng cường cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt để công tác vùng dân tộc, nhất là địa bàn xung yếu về chính trị, an ninh, quốc phòng, coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự là nguồn bổ sung cho cán bộ cơ sở, nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn tuyển dụng, bổ nhiệm vào các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác vùng dân tộc và miền núi, nhất là cán bộ công tác lâu năm ở miền núi và vùng cao" [21, tr.41]. + Chính sách cán bộ phải gắn với việc tinh giảm, sắp xếp bộ máy cán bộ cơ sở gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả và có một số chính sách cụ thể đối với cán bộ cơ sở ở các xã miền núi như chế độ sinh hoạt phí (lương) phải gắn với chức năng, nhiệm vụ theo vị trí, quy mô mỗi xã và có khoản phụ cấp đặc biệt cho cán bộ công tác ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, cán bộ là người dân tộc, gắn họ với công việc, hiệu quả công tác và trách nhiệm. Đồng thời phải có chính sách khuyến khích cán bộ miền núi, cán bộ dân tộc, cán bộ vùng khác lên công tác ở miền núi và được đi học tập nâng cao trình độ về mọi mặt phục vụ công tác tại các xã miền núi. Từ đó, nâng cao trình độ, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho người cán bộ miền núi, tạo điều kiện để họ có điều kiện tiến kịp các huyện, các tỉnh miền xuôi. * Tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trong tỉnh Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân các dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước, là nền tảng quan trọng để xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang hiện nay. Mục tiêu của việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân các dân tộc trong tỉnh Bắc Giang là nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân các dân tộc ở tỉnh Bắc Giang hiện nay yêu cầu phải thực hiện nhiều quan điểm khoa học, đồng bộ, song có hai quan điểm được xem là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc trong tỉnh, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đó là: Thứ nhất: Phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Không ngừng hoàn thiện cơ chế dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Nhà nước phải có cơ chế phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đồng thời động viên nhân dân tham gia xây dựng, đóng góp ý kiến về các chủ trương, chính sách và tham gia giám sát các hoạt động của chính quyền địa phương và cả cán bộ, góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. Có như vậy, phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra mới trở thành hiện thực. Qua đó loại trừ lối dân chủ hình thức, hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích cá nhân. Thứ hai: Nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân xây dựng đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tập trung hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; vận động giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc đến từng cơ sở. Đi sâu, đi sát để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, đồng thời vừa làm tốt chức năng tuyên truyền giáo dục, quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Đó chính là điều kiện, tiền đề tốt, là môi trường thuận lợi để xây dựng và nâng cao đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang. Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền phong phú có chất lượng, mở rộng nâng cao chất luợng giáo dục truyền thống yêu nước, trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp trong đội ngũ cán bộ và nhân dân, giáo dục ý thức chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Thực hiện tốt các cuộc vận động về từng lĩnh vực cụ thể và lĩnh vực chung như thi đua làm kinh tế giỏi, xoá đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hoá mới, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội ở từng địa bàn cơ sở. 2.2.4. Nâng cao chất lượng công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát của các cấp, các ngành, các đoàn thể và nhân dân tạo môi trường thuận lợi cho việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở - Mục đích của công tác tổ chức cán bộ là chọn đúng người có năng lực lãnh đạo, tổ chức, quản lý và đặc biệt là có lập trường chính trị vững vàng, có đạo đức lối sống trong sáng vào các chức vụ phù hợp trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Vì vậy, các cấp uỷ và tổ chức đảng ở các đơn vị cơ sở tỉnh Bắc Giang cần phải nắm vững và thực hiện đúng những quan điểm và nguyên tắc cơ bản của Đảng về công tác tổ chức cán bộ để xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Phải chủ động làm tốt công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cần có quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ một cách công tâm, khách quan và khoa học. Khi đánh giá, lựa chọn, sử dụng cán bộ cần dựa vào tiêu chuẩn và sở trường, chú trọng cả phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực trí tuệ và hiệu quả hoạt động thực tiễn của người cán bộ. Khắc phục tình trạng thấp kém, cục bộ địa phương trong việc bố trí cán bộ. Công tác tổ chức cán bộ ở cơ sở, cho cơ sở không được chọn nhầm người để quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, vị thế người cán bộ không bị lợi dụng vì mục đích tư lợi dẫn tới suy thoái đạo đức, lối sống người cán bộ cách mạng. Chọn đúng cán bộ sẽ giúp người cán bộ phát huy được khả năng của mình trong công việc và qua đó giữ vững và hoàn thiện đạo đức, lối sống của người cán bộ cách mạng. - Xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không chỉ dừng lại ở việc nâng cao chất lượng công tác tổ chức cán bộ mà đi liền với nó đòi hỏi phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, của các đoàn thể quần chúng và nhân dân đối với cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Quản lý mà không kiểm tra thì là không quản lý. + Mục đích của công tác kiểm tra là để làm trong sạch tổ chức đảng, cũng như toàn bộ hệ thống chính trị ở cơ sở. Đồng thời công tác kiểm tra là để nâng cao chất lượng của cán bộ, đảng viên, cũng như các tổ chức đảng. Phương châm của công tác kiểm tra là mọi hoạt động của cán bộ đều phải được quản lý, kiểm tra và giám sát chặt chẽ. Cấp uỷ, người thủ trưởng và tổ chức đảng phải trực tiếp tiến hành công tác quản lý, kiểm tra cán bộ, kết hợp tăng cường việc kiểm tra và giám sát của các đoàn thể quần chúng và nhân dân đối với cán bộ. Kiểm tra phải có kết luận chính xác, rõ ràng, cụ thể và công khai. Từ đó, đòi hỏi công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng ở các cấp phải chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra hàng năm, kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với các cấp uỷ và các tổ chức đảng trong việc chấp hành cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng, chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, giữ gìn đạo đức, lối sống của đảng viên. Thông qua công tác kiểm tra để kịp thời phát hiện ưu điểm, phát hiện những nhân tố mới, những tấm gương sáng về đạo đức của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, và cũng qua đó khắc phục khuyết điểm, kiên quyết đưa ra khỏi đảng những người không đủ tư cách đảng viên, giải quyết tốt các đơn thư khiếu nại, tố cáo xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vi phạm điều lệ đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. + Để hoàn thành nhiệm vụ kiểm tra, phải củng cố và kiện toàn ủy ban kiểm tra các cấp, nâng cao hơn nữa vị thế của Uỷ ban kiểm tra. Uỷ ban kiểm tra các cấp phải thường xuyên chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có đủ bản lĩnh chính trị, đạo đức lối sống và có năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. - Quần chúng nhân dân và các tổ chức quần chúng giám sát cán bộ ở cơ sở bằng nhiều cách khác nhau, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Bất kỳ cán bộ nào cũng đều sinh sống trên địa bàn dân cư nhất định và gắn bó với địa bàn dân cư ấy. Mọi việc làm của cán bộ cơ sở đều được nhân dân giám sát, rất khó lọt qua tai mắt của quần chúng và các tổ chức xã hội, vấn đề là làm sao để nghe được ý kiến đóng góp của các tổ chức xã hội, của quần chúng nhân dân về mỗi người cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Vì vậy, phải có cơ chế giám sát rõ ràng cụ thể, bảo vệ người đóng góp ý kiến, người khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức của người cán bộ cấp cơ sở; không ngừng phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân trong xây dựng cuộc sống mới cũng như đấu tranh chống tiêu cực trong điều kiện KTTT hiện nay. 2.2.5. Nâng cao tính tự giác, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có được, nó không phải là "tính sẵn", mà nó do quá trình nhận thức, tiếp thu, kế thừa và sàng lọc từ cuộc sống, từ thực tiễn sống động của cách mạng, nó do "gian lan rèn luyện" mà có, do "giáo dục" mà nên. Khi nói về công tác tự rèn luyện đạo đức cách mạng cũng như vai trò của nó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Đạo đức cách mạng không từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [52, tr.293]. Để nâng cao tính tự giác, tự rèn luyện đạo đức cách mạng ở người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đặt ra một số yêu cầu sau: Thứ nhất, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải xác định được cơ sở của tính tự giác trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Cơ sở làm nảy sinh tính tự giác trong rèn luyện phẩm chất đạo đức đó là hệ thống các nhu cầu đa dạng, phong phú của con người cùng với nó là hệ thống lợi ích, trong đó lợi ích của chủ thể có ý nghĩa quyết định. Mặt khác xét ở khía cạnh tâm lý tính tự giác còn xuất hiện do những tác động của hoàn cảnh xã hội và ý thức của chủ thể đối với bản thân, đối với xã hội. Tính tích cực chủ động tự giác đối lập với tính tự phát. Thứ hai, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải ý thức được nội dung, yêu cầu của việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay, khi nền sản xuất nhỏ vẫn còn, trong môi trường KTTT và toàn cầu hoá, có hai vấn đề nổi lên trong lòng người cán bộ cơ sở đó là sự trỗi dậy của những tâm lý, tập quán phản đạo đức của xã hội cũ để lại như tâm lý thu vén, nhập nhằng công tư, ba phải, quan liêu, gia trưởng…và sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân. Để vượt lên những hạn chế ấy, hơn ai hết, người cán bộ phải ý thức được nội dung, yêu cầu của đạo đức cách mạng, thông qua việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, lãnh đạo, quản lý các hoạt động, các phong trào cách mạng ở cơ sở, trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng mà tự rèn luyện, tự thức tỉnh, tự phán xét làm cho lương tâm trong sạch. Thứ ba, bản thân mỗi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang phải thấy được việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ là một quá trình thống nhất hữu cơ giữa giáo dục và tự giáo dục, rèn luyện. Vì vậy, cùng với việc nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng phải đồng thời phát huy tính tự giác tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Họ phải phấn đấu vươn lên để không ngừng hoàn thiện phẩm chất đạo đức cách mạng của mình, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao mà thực tiễn ở cơ sở đặt ra. Phải luôn xác định học tập là công việc thường xuyên, liên tục, suốt đời, học ở sách vở, ở trường đời, không bao giờ được tự kiêu, tự mãn về trình độ của mình. Lười học, lười suy nghĩ cũng là biểu hiện của sự thoái hoá về phẩm chất đạo đức. Thứ tư, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có tinh thần cầu thị, luôn nghiêm khắc trong tự phê bình và phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Thật thà mà xét và xét đồng chí mình, ai có quyết điểm nào thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp đỡ lẫn nhau. Thang thuốc tốt nhất là thực hiện phê bình và tự phê bình" [49, tr.261]. Lắng nghe sự phản ánh của quần chúng, tôn trọng và hoạt động phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân. Biểu hiện cao nhất của tính tự giác rèn luyện đạo đức cách mạng của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là luôn tích cực, chủ động kiểm tra, tự nhận thức, tự đánh giá thái độ hành vi hàng ngày của mình, khắc phục những sai sót và phát huy những ưu điểm để không ngừng hoàn thiện bản thân mình. Thực tế cũng cho thấy, đã hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi sai lầm và khuyết điểm. Vì, một người dù tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng không thể xem xét và bao quát tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, việc học tập, tu dưỡng để hoàn thiện bản thân là việc làm thường xuyên, nó không phải là vấn đề một sớm một chiều mà làm được. Do đó, việc tu dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn bền bỉ, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, vì "Đá đi lâu cũng mòn. Sắt mài lâu cũng sắc. Ta cố gắng sửa chữa thì khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm. Đảng viên và cán bộ ngày càng trở nên người chân chính cách mạng. Đảng ngày càng phát triển" [49, tr.262]. Đúng như một nhà soạn kịch Xô Viết trước kia đã viết: "Không ai có thể giảm được uy tín của người cộng sản nếu như người cộng sản không tự làm giảm uy tín của mình" [63, tr.70]. Chính sự tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cùng với năng lực tổ chức của họ có ý nghĩa quyết định trực tiếp trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Bắc Giang hiện nay. Kết luận Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, là phương thức đặc biệt để nhận thức cuộc sống và điều chỉnh hành vi của con người. Đạo đức là sự phản ánh tồn tại xã hội do tồn tại xã hội quyết định. Đạo đức có tính độc lập tương đối, nó kế thừa và phát triển những tinh hoa đạo đức truyền thống, có sự tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác và sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Do hoàn cảnh đặc biệt, dân tộc Việt Nam đã thấu hiểu vai trò to lớn của đạo đức trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, việc xây dựng và phát huy phẩm chất đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang trong sự nghiệp đổi mới phải là người có phẩm chất chính trị, có năng lực thực tiễn, có đạo đức lối sống trong sạch lành mạnh, biết tổ chức quần chúng nhân dân ở cấp cơ sở phát huy cao nhất năng lực sáng tạo và đấu tranh chống những tiêu cực xã hội. Họ là người có tinh thần tập thể, yêu nước, yêu CNXH, yêu lao động và lao động sáng tạo, có tinh thần nhân đạo cộng sản, luôn cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Để làm được việc đó đòi hỏi chúng ta phải khảo sát thực trạng đạo đức người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang, tìm ra được nguyên nhân của thực trạng trên; đặc biệt là nguyên nhân của những hạn chế, nhược điểm do chủ quan, khách quan và xu thế thời đại. Từ đó, đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang trong điều kiện KTTT hiện nay, đó là: - Phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở cơ sở tạo môi trường thuận lợi cho việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. - Đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cách mạng đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. - Đổi mới chính sách cán bộ miền núi, tăng cường khối đoàn kết các dân tộc trong tỉnh tạo môi trường thuận lợi cho việc xây dựng đạo đức cách mạng đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. - Nâng cao chất lượng công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát của các cấp, các ngành, các đoàn thể và nhân dân tạo môi trường thuận lợi cho việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. - Nâng cao tính tự giác, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Thực hiện tốt và có hiệu quả các giải pháp chủ yếu trên đây sẽ góp phần hình thành được đạo đức cách mạng trong sáng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện KTTT ở tỉnh Bắc Giang hiện nay. Danh mục tài liệu tham khảo 1. G.Bandxelaze (1985), Đạo đức học, tập 1 + 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (1999), Bắc Giang những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2004), Báo cáo kết quả 3 năm (2001 - 2003) thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV gắn với Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về kinh tế - xã hội. 4. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2004), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Bộ Nội vụ (2004), Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải pháp đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Bun - Ma Kết - Kê - Sôn (2003), Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 7. Hà Nguyên Cát (2000), Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ hậu cần quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 8. Nguyễn Hữu Cát (2004),"Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Triết học, (9), trang 11 - 16. 9. Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (Đồng chủ biên)(2004), Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 10. Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng (1986), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 11. Lê Ngọc Danh (2002), Đạo đức người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bình Định trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay - Vấn đề và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 12. Thành Dung (2000),"Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng trong xây dựng chỉnh đốn Đảng", Tạp chí Cộng sản, (26), trang 13 - 18. 13. Vũ Trọng Dung (2004),"Tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí Triết học, (5), trang 5 - 10. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần hai), Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy, Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XV, Văn phòng Tỉnh uỷ. 24. Nguyễn Tĩnh Gia (1997),"Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo dức người cán bộ quản lý", Tạp chí Triết học, (2), trang 25 - 26. 25. Đặng Thanh Giang (2001), Vấn đề xây dựng đạo đức cho cán bộ cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (Qua thực tế tỉnh Thái Bình), Luận văn Thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 26. Giáo trình Đạo đức học (2000), Dùng cho hệ cử nhân chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 28. Nguyễn Ngọc Hà (2002),"Những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng suy thoái đạo đức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), trang 15 - 17. 29. Lương Đình Hải (2004),"Mấy vấn đề về phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Triết học, (10), trang 5 - 12. 30. Phạm Văn Hùng (2000), Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 31. Đỗ Huy (1995),"Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị văn hoá trong nền kinh tế Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học (1), trang 20 - 23. 32. Đỗ Lan Hiền (2002),"Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học (4), trang 16 - 19. 33. Trần Hiệp (1983),"Mấy vấn đề thuộc quan điểm cần được quán triệt trong quá trình giáo dục đạo đức ở thời kỳ quá độ", Tạp chí Triết học, (4), trang 65 - 74. 34. Vũ Khiêu (Chủ biên)(1993), Tư tưởng đạo đức cách mạng - truyền thống, dân tộc, nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 35. Nguyễn Hữu Khiển (2003),"Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (10), trang 5 - 8. 36. Nguyễn Thế Kiệt (1996), "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Tạp chí Triết học, (6), trang 9-11. 37. Phạm Huy Kỳ (2001), Quan hệ cá nhân - xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ quản lý lãnh đạo hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 38. Tương Lai (1984),"Cách đặt vấn đề và cách giải quyết vấn đề về đạo đức mới, đạo đức của người lao động làm chủ tập thể XHCN", Tạp chí Triết học, (2). 39. Nguyễn Ngọc Long (1982), Sự hình thành đạo đức XHCN trong điều kiện quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, Luận án Tiến sĩ triết học. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 40. Dương Xuân Lộc (2001), Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ đảng viên cơ sở hiện nay, Luận văn Thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 41. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 4, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 42. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 37, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 43. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 44. C. Mác - Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 45. C. Mác - Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 46. C. Mác - Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 47. C. Mác - Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 48. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 49. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 50. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 51. Hồ Chí Minh (2000),Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 52. Hồ Chí Minh (2000),Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 53. Hồ Chí Minh (2000),Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 54. Hồ Chí Minh (1999), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 55. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 56. Lục Nam (1996),"Đạo đức người lãnh đạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Triết học, (6), trang 2 - 8. 57. Phạm Văn Nhuận (2005),"Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đạo đức và chính trị", Tạp chí Triết học, (5), trang 10- 13. 58. Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường (1996), Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 59. Thang Văn Phúc (Chủ biên)(1998), Đạo đức, phong cách và lề lối làm việc của công chức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 60. Nguyễn Văn Phúc (1996),"Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường", Tạp chí Triết học, (5), trang 15 - 17. 61. Nguyễn Văn Phúc (2001),"Vấn đề xây dựng đạo đức nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay", Tạp chí Triết học, (7), trang 8 - 11. 62. Trần Văn Phòng (2003),"Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, (5), trang 51 - 54 63. Nguyễn Tuyên Quang (2003), Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cơ sở ở tỉnh Đăc Lăk trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Luận văn Thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 64. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Vấn đề kết hợp quản lý xã hội bằng pháp luật với giáo dục và nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (12), trang 28 - 31. 65. Sở Nội vụ Tỉnh Bắc Giang (2002), Báo cáo khoa học về thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ cấp xã. 66. Phạm Quốc Thành (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cho cán bộ đảng viên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 67. Trương Niệm Thức (1949), Hồ Chí Minh Truyện, Bản dịch Trung văn, Bản nguyên Nxb Xã hội Thượng Hải. 68. Trung tâm khoa học - xã hội và nhân văn (1994), Tóm tắt công trình tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Chương trình khoa học và công nghệ cấp nhà nước Tư tưởng Hồ Chí Minh (KX. 02), Đề tài KX. 02. Hà Nội. 69. Hoàng Trung (1998),"Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học, (5), trang 27 - 29. 70. Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên)(2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 71. Tỉnh uỷ Bắc Giang, Báo cáo tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2001, 2002, 2003, 2004 và 6 tháng đầu năm 2005. 72. Đức Vượng (1995), Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng đạo đức cán bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 73. Lê Hữu Xanh (2005), ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 74. UBKT Tỉnh uỷ Bắc Giang, Báo cáo công tác kiểm tra năm 2001, 2002, 2003, 2004 và 6 tháng đầu năm 2005. 75. UBND Tỉnh Bắc Giang (2003), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) tỉnh Bắc Giang. 76. UBND Tỉnh Bắc Giang (2004), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội và sự chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh năm 2004; mục tiêu, nhiệm vụ và một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2005.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.pdf
Luận văn liên quan