Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo và được đề xuất là: “quốc sách hàng đầu”, đặc biệt là giáo dục, đào tạo ở
trình độ đại học. Các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành có liên quan đến nội
dung này được ban hành khá đầy đủ, chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi để các trường
đại học đẩy mạnh hoạt động đào tạo, trong đó có nâng cao chất lượng ĐNGV của nhà
trường.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là đơn vị được giao chức năng nhiệm vụ là cơ
sở giáo dục đại học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc Bộ Nội vụ,
có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học và sau
đại học trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác có liên quan, hợp tác
quốc tế, nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội trong nhiều năm qua đã không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng đào
tạo học viên đảm bảo chất lượng đầu ra đối với các sinh viên tốt nghiệp ra trường, có
thể vững vàng trong tự tìm kiếm việc làm ở thị trường lao động sôi động, khắc nghiệt.
Để làm được việc đó, ĐNGV của nhà trường phải không ngừng trau dồi kiến thức, kỹ
năng, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm để phục vụ công tác giảng dạy cho nhà trường.
Nhà trường đã có nhiều chính sách nhằm khuyến khích khả năng sáng tạo, tri
thức của ĐNGV nhà trường, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này bởi đây là nòng
cốt giúp cho nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo. Có được thế hệ giảng viên tâm85
huyết, nhiệt tình, có năng lực, trình độ sẽ tạo điều kiện để nhà trường đào tạo ra các
thế hệ sinh viên có tri thức, giúp ích cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
ngành nội vụ nói riêng.
96 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 657 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng đội ngũ giảng viên của trường Đại học Nội vụ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uồn kinh phí tự chủ ngoài ngân sách hàng năm mặc dù đã được
Nhà trường quan tâm dành một phần cho công tác phát triển ĐNGV nhưng so với
nhu cầu thực tế vẫn còn quá ít. Đây có thể coi là nguyên nhân cơ bản của những tồn
tại về cơ sở vật chất, bồi dưỡng phát triển ĐNGV, chính sách thu hút nhân tài.
Mặt khác, sự phát triển ĐNGV của nhà trường cần một đội ngũ làm công tác
nhân sự có kinh nghiệm, chuyên sâu và đặc biệt là cân nhắc, tham mưu cho lãnh
đạo nhà trường bố trí được đúng người đúng việc. Song trên thực tế, đội ngũ cán bộ
làm công tác Tổ chức nhân sự của Nhà trường chưa được đào tạo chuyên sâu về
quản trị nhân lực nên còn một số vị trí chưa hợp lý hoặc thiếu nhân lực. Vì vậy việc
tham mưu, tư vấn các chính sách về tổ chức nhân sự hay phát triển ĐNGV vẫn chưa
đạt được hiệu quả như mong muốn.
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
- Cơ chế chính sách thu hút, đãi ngộ giảng viên chưa hiệu quả. Trên thực
tế đã có chủ trương của lãnh đạo nhà trường về thu hút người có tài năng, các
nhà khoa học có kinh nghiệm, nhà giáo có uy tín, năng lực giảng dạy các chuyên
ngành phù hợp với yêu cầu của nhà trường. Tuy nhiên để thực hiện tốt được
nhiệm vụ này, phụ thuộc khá nhiều các văn bản hướng dẫn, quy định khác nhau
và còn có thể phụ thuộc lớn vào nguồn ngân sách, nguồn chi phí trực tiếp cho
các giảng viên, giáo viên có trình độ cao, có kinh nghiệm nghề nghiệp, uyên
thâm trong ngành.
Các quy định ”cứng” về giờ giảng cho giáo viên, mức chi trả thù lao, tiền
lương, tiền công, đãi ngộ.... vô hình chung đã bó buộc cơ sở đào tạo, khó có cơ chế
cuốn hút người có tài năng, giảng viên có kinh nghiệm nghiên cứu về làm việc tại
trường.
Trên thực tế, thu nhập của GV tại trường thấp hơn so với các trường đại học
khác. Nhà trường chỉ có chính sách hỗ trợ giảng viên học nâng cao trình độ ở cấp
63
Tiến sĩ là 10 triệu đồng/năm học nếu có cam kết ở lại trường giảng dạy. Còn đối với
GV học nâng cao ở trình độ Thạc sĩ thì nhà trường hoàn toàn không có hỗ trợ về
mặt kinh phí. Điều này giải thích vì sao số lượng giảng viên cơ hữu của Trường ở
trình độ đại học còn khá cao.
- Các văn bản quy phạm pháp luật về chế độ đãi ngộ cho giảng viên các
trường đại học hiện nay đã có và thực hiện được trên nhiều năm. Song văn bản chỉ
đạo điều hành, thực thi trên thực tế, chi tiết về vấn đề này còn có phần hạn chế, dẫn
đến nhà trường khó có thể vận dụng tối đa về các nguồn thu để chi trả đãi ngộ cho
các giảng viên, chuyên gia giảng dạy của nhà trường. Ngoài ra các điều kiện đảm
bảo về chất lượng, hiệu quả làm việc của ĐNGV (nhất là đối với các chức danh giáo
sư, phó giáo sư, chuyên gia, các giảng viên có học vị tiến sĩ) chưa thực sự xứng
tầm để phát huy tối đa năng lực, sở trường và tri thức của họ. Các vấn đề như chính
sách ưu đãi về nhà ở, thang lương, bảng lương, hỗ trợ các phương tiện đi lại, chế độ
bảo hiểm, chế độ khen thưởng kịp thời, tặng thưởng các danh hiệu vẫn chưa được
thực hiện tối đa. Vấn đề này nguyên nhân cũng xuất phát từ văn bản chỉ đạo điều
hành, chưa cụ thể, chưa chi tiết nên các chế độ đãi ngộ chưa được đảm bảo thực
hiện.
64
Tiểu kết Chƣơng 2
Trong Chương 2, Luận văn khái quát về công tác tuyển sinh và đào tạo của
Nhà trường qua từng năm, đồng thời tập trung đánh giá về thực trạng số lượng và
chất lượng ĐNGV của nhà trường. Về số lượng giảng viên của Nhà trường hiện
nay, thực tế là chưa đáp ứng đủ các yêu cầu và mong đợi của nhà trường trên các
tiêu chí được đề ra. Về chất lượng giảng viên của nhà trường được đào tạo cơ bản,
phần nào đáp ứng được tiêu chí của người giảng viên, đứng lớp, truyền đạt thông
tin, kiến thức cho sinh viên.
Chương 2 của luận văn cũng đưa ra các số liệu xác thực về trình độ đào tạo
của các giảng viên hiện nay trong nhà trường và số liệu về các giảng viên được đi
học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ nghiệp vụ ở trong nước, ngoài nước để có
cách nhìn nhận khách quan và đánh giá sát thực về thực trạng ĐNGV.
Từ đó, Luận văn tại Chương 2 đã đánh giá cụ thể các kết quả đạt được của
nhà trường trong việc nâng cao chất lượng ĐNGV; những nhược điểm, khiếm
khuyết cần khắc phục trong tương lai, nêu lên nguyên nhân của những hạn chế và là
cơ sở, tiền đề để có những đề xuất, kiến nghị sát thực, có thể áp dụng trong thực tiễn
tại Trường ĐHNVHN tại Chương 3 của Luận văn.
65
66
Chƣơng 3
ĐỊNH HƢỚNG, NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
3.1. Định hƣớng phát triển trƣờng và xây dựng đội ngũ giảng viên
Trƣờng Đại học Nội vụ Hà Nội đến năm 2020.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội được Bộ Nội vụ giao cho trọng trách là một
trường Đại học đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật,
nghiệp vụ, bám sát nhiệm vụ quản lý của Bộ, nhất là những lĩnh vực mà chưa có
một trường đại học nào đào tạo. Chính vì vậy, Nhà trường đã xác định những yêu
cầu đặt ra đối với định hướng phát triển của Nhà trường.
3.1.1. Định hướng phát triển Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Cũng như các trường đại học khác thuộc hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam, Trường ĐHNVHN nhất thiết phải thực hiện mục tiêu chung của giáo dục đại
học theo quy định pháp luật nói chung và đặc biệt là quy định của Luật Giáo dục đại
học được Quốc hội thông qua 18/6/2012 và đã có hiệu lực từ 01/3/2013. Trong đó
mục tiêu chung là:
Đến năm 2020 nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản, toàn diện theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế. Giáo dục
được nâng cao toàn diện với nhiệm vụ giáo dục đạo đức, lối sống, đào tạo thực
hành, năng lực sáng tạo, xây dựng nền kinh tế tri thức và đảm bảo giáo dục là quốc
sách hàng đầu và đảm bảo cơ hội học tập suốt đời cho người dân, từng bước hình
thành xã hội học tập (Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020).
Đối với giáo dục đại học cần điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo, trình độ
đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh
tế, xã hội; đến năm 2020 tỷ lệ sinh viên tất cả các hệ đào tạo trên một vạn dân vào
khoảng 350 – 400 (Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020). Một số mục tiêu cụ
thể:
67
- Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa
học, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế;
- Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng
thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và
công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và
trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ
nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu trên Luật đã quy định ở nước ta, các cơ sở giáo dục đại
học được phân thành 3 tầng sau đây (khoản 3, điều 9):
- Cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu;
- Cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng;
- Cơ sở giáo dục đại học định hướng thực hành.
Như vậy, một vấn đề đặt ra đối với trường ĐHNVHN hiện nay là một trong 3
định hướng đó, Nhà trường sẽ phát triển theo định hướng nào?
Theo chúng tôi, Nhà trường có thể và cần phát triển theo hướng Đại học ứng
dụng, tức là theo hướng thứ hai mà Luật Giáo dục Đại học đã quy định vì những lý
do sau:
1)Lựa chọn hướng phát triển này, Nhà trường sẽ phát huy được những lợi thế
vốn có của mình:
+ Theo Quyết định số 347/QĐ-BNV ngày 19 tháng 4 năm 2012 của Bộ trưởng
Bộ Nội vụ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội, Trường ĐHNVHN là cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc
hệ thống giáo dục quốc dân trực thuộc Bộ Nội vụ có chức năng: Tổ chức đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học và sau đại học trong lĩnh vực công tác
nội vụ và các ngành nghề khác có liên quan; hợp tác quốc tế; nghiên cứu khoa học
và triển khai áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là một lợi thế rất lớn so với các cơ sở đại học khác. Bởi lẽ, do trường là cơ sở
giáo dục đại học duy nhất trực thuộc Bộ Nội vụ, cho nên bên cạnh thực hiện những
68
nhiệm vụ chung của các cơ sở đại học khác thuộc hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam, Trường còn phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ quản lý nhà nước được
Bộ Nội vụ giao. Ở đây cần phải phân tích rõ thêm rằng, do là đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Bộ nên trường phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình xuất phát trước
hết từ nhu cầu quản lý Nhà nước của Bộ Nội vụ. Nhu cầu này yêu cầu công tác đào
tạo cũng như nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế của Trường phải phát triển
theo hướng Đại học ứng dụng mà không thể phát triển theo hướng Đại học nghiên
cứu nhằm đảm bảo tính kịp thời, thiết thực góp phần giải quyết các nhiệm vụ, các
tình huống xảy ra trong quá trình quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực thuộc thẩm
quyền của Bộ.
+ Trong quá trình 45 năm phát triển Nhà trường đã xây dựng được thương
hiệu cho mình là trường đào tạo chất lượng cao trong lĩnh vực văn thư – lưu trữ và
văn phòng. Với truyền thống hơn 40 năm phát triển của Nhà trường đã chỉ ra rằng,
hướng phát triển này là hướng đi đã được lựa chọn ngay từ những ngày Trường
được nâng cấp từ trường Trung học Văn thư Lưu trữ lên Cao đẳng Văn thư Lưu trữ
và đó cũng là hướng phát triển sau này.
2). Phát triển các ngành, chuyên ngành đào tạo phục vụ trực tiếp, kịp thời nhu
cầu quản lý Nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi của Bộ Nội vụ .
Như ở chương 2 đã nêu, ngành nội vụ trong những năm thực hiện công cuộc cải
cách nên hành chính nhà nước đang phát triển mạnh mẽ theo xu hướng mang tính
tổng hợp, đa ngành, đã lĩnh vực. Và Bộ Nội vụ là cơ quan quản lý đầu ngành nội vụ
cũng đang được tổ chức theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Điều này
được thể hiện trong Nghị định số 48/2008/NĐ-CP ngày 17 tháng 4 năm 2008 của
Chính phủ qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội
vụ. Theo Nghị định này, Bộ Nội vụ được Chính phủ bổ sung thêm không chỉ chức
năng quản lý Nhà nước đối với một số lĩnh vực mới mà còn cả những tổ chức mới.
Cụ thể là với Nghị định số 08/2007/NĐ-CP ngày 08/8/2007, Chính phủ dã giao Bộ
Nội vụ quản lý đối với Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương, Ban Tôn giáo
Chính phủ, Ban Cơ yếu Chính phủ và giao nhiệm vụ cho Bộ Nội vụ thực hiện chức
69
năng quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng. Theo Nghị định số 61/2012/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 10/8/2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Nội vụ.
3) Trong định hướng mở các ngành đào tạo, Nhà trường luôn chú trọng mở
các ngành phục vụ trực tiếp cho các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ Nội vụ như:
Lưu trữ học, Quản trị văn phòng, Quản trị nhân lực, Quản lý Nhà nước và trong kế
hoạch mở các ngành học mới, Trường tiếp tục trình cơ quan có thẩm quyền mở các
ngành học phục vụ cho việc quản lý nhà nước về lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý
của Bộ Nội vụ như: Tổ chức Nhà nước, Địa giới hành chính, Tôn giáo học, Công
tác thi đua khen thưởng, hệ thống thông tin quản lý..
Tóm lại, với những phương diện thể hiện lợi thế của Trường nêu trên, có thể
thấy phát triển theo hướng đại học ứng dụng chính là định hướng đúng của Nhà
trường để thực hiện hiệu quả vai trò và sứ mệnh của một trường đại học trực thuộc
Bộ Nội vụ
3.1.2. Định hướng xây dựng đội ngũ giảng viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội
Trường ĐHNVHN có định hướng phát triển nhà trường theo mục tiêu: “đến
2025 trở thành trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực có uy tín trong nước, khu vực
và quốc tế”, trong đó có nhiệm vụ về xây dựng ĐNGV vững vàng, cán bộ quản lý
giỏi vừa là nhà sư phạm, nhà khoa học và nhà hoạt động thực tiễn, phấn đấu trở
thành trường đại học trọng điểm của quốc gia bao gồm các định hướng:
- Phát triển ĐNGV đảm bảo quy mô hợp lý, cơ cầu đồng bộ về chuyên môn,
thâm niên công tác và giới tính, phù hợp với tính đặc thù của Nhà trường.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng nhằm nâng cao chất
lượng ĐNGV Nhà trường.
- Phát triển ĐNGV của nhà trường có trình độ chuyên môn cao, tạo điều kiện
cho GV tham gia đề xuất và chủ trì các dự án, đề tài nghiên cứu của Trường, của
Bộ.
3.2. Các nguyên tắc xây dựng đội ngũ giảng viên
70
Xây dựng ĐNGV Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian tới cần được
triển khai trên các quan điểm chỉ đạo sau để đạt được kết quả, hiệu quả mong
muốn:
3.2.1. Tính kế thừa
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các biện pháp đề xuất phải kế thừa được các
kinh nghiệm, những giá trị trong công tác quản lý phát triển ĐNGV của Nhà
trường. Việc kế thừa được những mặt mạnh trong công tác quản lý của nhà trường
sẽ giúp phát huy được những ưu thế vốn có, hạn chế được những cách làm không
phù hợp. Nhờ đó rút ngắn được thời gian thử nghiệm, nhanh chóng đạt được hiệu
quả sử dụng của biện pháp.
Trong một tổ chức nói chung sẽ trải qua ba giai đoạn phát triển: giai đoạn xây
dựng và củng cố, giai đoạn khẳng định thương hiệu, và giai đoạn phát triển bền
vững. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã trải qua gần 45 năm phát triển cũng đã có
rất nhiều thế hệ giảng viên công tác tại Trường. Trong giảng dạy, những giảng
viên có thâm niên, công tác lâu năm tại Trường được đào tạo theo hệ thống cũ,
khó có cơ hội tiếp cận với trình độ công nghệ thông tin. Ngược lại, ĐNGV trẻ
được đào tạo bài bản, năng động, sáng tạo có điều kiện tiếp cận với khoa học, kỹ
thuật, công nghệ mới nhưng chưa có kinh nghiệm giảng dạy nhiều.Thực tế cho
thấy, ĐNGV của Nhà trường còn thiếu về số lượng và trình độ GV còn hạn chế,
cần có biện pháp để phát triển, nâng cao trình độ đáp ứng nhu cầu đào tạo. Chính
vì vậy Nhà trường cần có những biện pháp cụ thể phát huy được tối đa những kinh
nghiệm và các thành tựu của những thế hệ đi trước kết hợp với khoa học công
nghệ hiện đại, tính sáng tạo, nhanh nhạy của ĐNGV trẻ để thực hiện tốt mục tiêu
phát triển Nhà trường.
3.2.2. Tính thực tiễn
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho các biện pháp được đề xuất luôn phù hợp
và thực tiễn công tác quản lý phát triển ĐNGV của Trường ĐHNVHN. Bởi nếu
không phù hợp với thực tiễn của Nhà trường thì biện pháp sẽ gặp khó khăn trong
công tác triển khai. Mặt khác nếu triển khai được thì hiệu quả không cao.
71
Các biện pháp thực hiện trong đề tài không được đi trái với chủ trương,
đường lối của Đảng, Nhà nước, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế, tính đặc
thù của Nhà trường. Các b iện pháp phải thống nhất nhau, phải là cơ sở, điều kiện
hỗ trợ để thực hiện có hiệu quả các biện pháp khác, Vì vậy, khi xây dựng các biện
pháp phải linh hoạt, mềm dẻo, khoa học và tạo thành một hệ thống.
3.2.3. Tính khả thi
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho các GV được đề xuất phát huy tối đa khả
năng vào gải quyết những vấn đề đang tồn tạitrong công tác quản lý phát triển
ĐNGV nhằm nâng cao chất lượng ĐNGV.
Để thực hiện được nguyên tắc này, các biện pháp được đề xuất phải phù hợp
với đặc điểm, tình hình và điều kiện cụ thể của Nhà trường. Đề xuất phải có khả
năng đáp ứng thực tiễn, áp dụng một cách thuận lợi và đem lại hiệu quả cao. Để
giúp GV nhận thức rõ được sự cần thiết phải nâng cao trình độ, năng lực thì Nhà
trường cần phải có mục tiêu phấn đấu cụ thể và hỗ trợ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng
để nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn.
3.2.4. Tính hiệu quả
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho các biện pháp được đề xuất đồng bộ với
công tác quản lý chung của Nhà trường nhằm phát huy thế mạnh trong công tác
quản lý của Nhà trường để nhanh chóng đạt được các mục tiêu nâng cao chất
lượng ĐNGV.
Các biện pháp phát triển ĐNGV của Nhà trường phải đúng với chức
năng,nhiệm vụ, quyền hạn của trường và tạo được hiệu quả rõ rệt. Các biện pháp
đó phải xác định rõ được mục tiêu bằng câu hỏi: Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
đào tạo ai? Cấp độ nào? Và cam kết chất lượng cho trình độ đó ra sao?Việc kiểm
tra đánh giá như thế nào? Hiệu quả công việc có nhằm thực hiện tốt chức năng
nhiệm vụ của Trường hay không?
3.3. Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trƣờng Đại học Nội vụ Hà
Nội, giai đoạn 2016-2020.
72
3.3.1. Đổi mới công tác quy hoạch, tuyển dụng, đào tạo đội ngũ giảng viên
- Quy hoạch cán bộ là một nội dung quan trọng của công tác cán bộ, đảm bảo
cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn để đáp ứng nhiệm vụ
trước mắt và lâu dài. Lập quy hoạch, tuyển dụng, đào tạo ĐNGV nhằm xác lập các
cơ sở vừa mang tính khoa học, vừa phù hợp với thực tiễn để làm chỗ dựa cho việc
xây dựng đội ngũ đủ về số lượng, hợp về cơ cấu, chuẩn về chất lượng đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ mới.
- Công tác quy hoạch có vai trò hết sức quan trọng đối với lĩnh vực tổ chức
cán bộ. Công tác này là cơ sở, định hướng các điều kiện phát triển một tổ chức ổn
định và vững chắc. Để đáp ứng yêu cầu này, Nhà trường cần tiếp tục xây dựng quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ ĐNGV đảm bảo
về số lượng, nâng cao chất lượng, cân đối về cơ cấu, đạt chuẩn đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ mới.
Nhà trường đang mở nhiều ngành đào tạo, mở rộng quy mô đào tạo để cung
cấp nguồn nhân lực cho ngành Nội vụ. Do đó cần tiếp tục ưu tiên tuyển dụng
giảng viên cơ hữu đúng chuyên môn để giảm dần ĐNGV thỉnh giảng. Song song
với việc đó cần tiếp tục quy hoạch, bồi dưỡng quản lý để ổn định lâu dài chính là
sự phát triển bền vững và giữ thương hiệu cho Nhà trường. Có kế hoạch dành ngân
sách cho việc thu hút nhân tài về làm việc tại Trường. Ví dụ: Tăng một bậc lương
khi chuyển về trường công tác với học vị TS.
Nhà trường đã quan tâm tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng và nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ tin học, và các kỹ năng mềm cho ĐNGV và
CBQL. Đồng thời có chính sách hỗ trợ học phí và khen thưởng cho người học
Nghiên cứu sinh.
3.3.2. Chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, tạo môi trường làm việc thuận lợi và
cơ hội thăng tiến cho đội ngũ giảng viên.
- Mục tiêu nhằm tạo ra một ĐNGV đạt chuẩn có thể đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn. Đồng thời tạo được tâm lý ổn định cho GV tin tưởng vào Nhà trường để
73
họ yên tâm công tác và phát huy được thế mạnh ở mỗi cá nhân GV, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo.
- Để nâng cao trình độ cho ĐNGV, Nhà trường đã có nhiều biện pháp và tập
trung nguồn lực bằng cách đầu tư thời gian và kinh phí cho giảng viên học tập và
nâng cao trình độ. Mặt khác song song với tiếp nhận giảng viên từ sinh viên giỏi
của các trường đại học, học viên mới ra trường để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ kế
cận. Bên cạnh đó phải có chính sách thu hút các giảng viên có thâm niên giảng
dạy, có học vị cao. Có kinh nghiệm nghiên cứu và hướng dẫn nghiên cứu khoa học
của các cơ quan khác làm giảng viên thỉnh giảng.
Vấn đề chuẩn hóa cán bộ cần nâng cao chất lượng toàn diện của đội ngũ GV
không chỉ ở trình độ mà còn ở đạo đức nghề nghiệp. Cần nghiêm túc thẳng thắn
chấn chỉnh những cá nhân yếu kém về phẩm chất đạo đức và chuyên môn nghiệp
vụ để giáo dục phát triển. Để làm được điều này đòi hỏi công tác kiểm định và
đánh giá chất lượng phải công bằng, khách quan và khoa học.
Tạo môi trường thuận lợi cho ĐNGV làm việc sáng tạo, thân thiện. Tạo cơ hội
cho ĐNGV thăng tiến.
3.3.3. Bố trí và sử dụng giảng viên phải đúng chuyên môn, năng lực, đúng
sở trường và có hiệu quả.
Vấn đề bố trí công việc và sử dụng con người theo năng lực, sở trường có vai
trò rất quan trọng. Đối với đội ngũ CBQL theo những tiêu chuẩn “cứng” về trình độ
đã được quy định. Riêng những vị trí trưởng bộ môn, trưởng khoa cần có bố trí
người đúng chuyên môn. Bởi vì việc quản lý các tổ, khoa mang tính chất chuyên
môn. Đồng thời, đội ngũ quản lý tổ, khoa cũng là lực lượng tham gia giảng dạy,
nghiên cứu khoa học.
Đối với ĐNGV cần phải bố trí giảng dạy đúng chuyên môn và phù hợp với
năng lực sở trường. Đội ngũ này đóng vai trò trự tiếp truyền thụ kiến thức, định
hướng nghiên cứu, giáo dục chính trị, tư trưởng cho người học. Vì vậy, cần phải
được sử dụng hợp lý, khoa học để tránh tình trạng biến giảng viên trở thành những
“thợ dạy” hoặc “ trái tay”
74
Để khắc phục tìnhtrạng thiếu giảng viên, Nhà trường đã và đang ưu tiên tuyển
dụng ĐNGV hơn đội ngũ làm công tác hành chính. Vì nếu thiếu giảng viên sẽ dẫn
đến tình trạng một người dạy quá nhiều học phần, nhiều giờ mặc dù đã có quy
định chuẩn về số giờ định mức (280 giờ/ năm). Giảng viên dạy nhiều môn sẽ
không sâu, dạy nhiều giờ giảng sẽ không có thời gian để nghiên cứu khoa học, học
tập nâng cao trình độ. Thời gian qua, Nhà trường đã bố trí giảng viên giảng dạy
đúng chuyên ngành, tránh được tình trạng giảng viên dạy “trái tay”
Một vấn đến nữa trong việc tuyển dụng và sử dụng giảng viên hiện nay đang
chú trọng đến học vị (thạc sĩ, tiến sĩ) chuyên ngành, chuyên môn họ “được đào
tạo” và “được sử dụng” ở vị trí việc làm. Quan điểm cá nhân tác giả, đối với giảng
viên giảng dạy đại học khi tuyển dụng cần đưa ra điều kiện bắt buộc là đúng với
chuyên ngành được đào tạo ở bậc đại học. Đây chính là nền móng vững chắc để
giảng viên hiểu dược toàn diện những kiến thức cơ sở ngành, chuyên ngành.
3.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng, khuyến khích đội ngũ giảng viên tự bồi dưỡng và
xây dựng đội ngũ giảng viên đứng đầu
Việc đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, khuyến khích tự bồi dưỡng
và xây dựng ĐNGV đứng đầu là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết đối với
trường Đại học Nội vụ Hà Nội nhằm khắc phục tốt nhất và hiệu quả nhất những
bất cập hiện nay của ĐNGV đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn, năng kỹ
sư phạm, năng lực NCKH và các hoạt động khác đáp ứng tiêu chuẩn chức danh
của GV được quy định.
- Nhà trường cần có các phương pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng
GV theo hướng: đúng đối tượng, nhanh, bền vững, hiệu quả.
- Hàng năm, cần triển khai khảo sát, đánh giá thực trạng ĐNGV để xây dựng
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV, đặc biệt là GV trẻ.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải toàn diện, đạt chuẩn, vừa đáp ứng yêu
cầu hoạt động nghề nghiệp, vừa là nhân tố góp phần tạo tiềm năng cho GV có thể
tiếp tục phát triển. Mỗi GV phải xem công tác đào tạo, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng
nâng cao trình độ vừa là nhiệm vụ vừa là quyền lợi của chính mình, tích cực hưởng
75
ứng và cùng có trách nhiệm thực hiện tốt những yêu cầu. Nội dung đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, kỹ năng sư phạm, tin
học, ngoại ngữ và kinh nghiệm thực tiễn sáng tác.
a. Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giảng viên:
Hai đối tượng cần được ưu tiên đào tạo nâng cao tiềm lực đó là giảng viên trẻ
chưa qua đào tạo cao học và các lãnh đạo khoa, tổ bộ môn chưa có bằng Tiến sĩ. Để
có ĐNGV đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, thì Nhà trường cần phải đưa ra quy
định rõ ràng.
- Đối với CBQL các khoa và tổ bộ môn: Nhà trường cần quan tâm và ưu tiên
đặc biệt cho số CBQL này được đi đào tạo để có đủ năng lực lãnh đạo chuyên môn
và tạo nguồn cho cấp trưởng, phó khoa, các trưởng bộ môn có bằng tiến sĩ, kể cả
đương chức và người kế cận để đáp ứng chuẩn quy định tiêu chuẩn của người lãnh
đạo chuyên môn. Hình thức đào tạo có thể trong nước hoặc ở nước ngoài.
b. Bồi dưỡng thường xuyên về trình độ chuyên môn cho đội ngũ giảng viên
+ Bồi dưỡng cập nhật tri thức mới, công nghệ mới.
Để ĐNGV được bồi dưỡng cập nhật tri thức mới một cách thường xuyên và
kịp thời thì một mặt nhà trường phải tạo điều kiện cho GV được tham gia các hội
thảo, tọa đàm gắn với chuyên mônở trong và ngoài nước. Đồng thời định kỳ tổ chức
các hội thảo khoa học theo chuyên môn, mời các chuyên gia gia giỏi, có uy tín trong
nước và quốc tế đến giảng dạy, giao lưu, trao đổi kinh nghề nghiệp, phương pháp,
nội dung, chương trình đào tạo. Mặt khác GV phải tích cực tự nghiên cứu, tự cập
nhật kiến thức mới, công nghệ mới thuộc lĩnh vực giảng dạy. Tuy nhiên nhà trường
cũng cần bổ sung tài liệu cần thiết để GV có thể tham khảo, nghiên cứu, cập nhật
những thông tin mới, tri thức mới thuộc lĩnh vực giảng dạy của mình một cách
thuận lợi và dễ dàng nhất.
+ Bồi dưỡng kiến thức thực tế.
76
Yêu cầu đối với ĐNGV của trường ĐHNVHN không những chỉ là người có
trình độ chuyên môn, lý luận, có kỹ năng sư phạm mà phải có hiểu biết sâu sắc về
lĩnh vực nội vụ, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn. Chính vì vậy, để nâng cao
chất lượng đào tạo, hàng năm nhà trường và các khoa phải có kế hoạch, tạo điều
kiện về thời gian và có chính sách cụ thể khuyến khích GV và cũng là yêu cầu bắt
buộc đối với GV, đặc biệt là GV trẻ phải tích cực tham gia nghiên cứu các công
trình khoa học, tham dự hội thảo, tọa đàm liên quan đến chuyên môn Khi kết
thúc mỗi đợt bồi dưỡng, tham gia các hội thảo, hội nghị trong và ngoài nước, GV
phải có bản báo cáo cụ thể về công việc đã thực hiện và kết quả của quá trình tham
gia. Từ đó Nhà trường mới có đánh giá chính xác về công tác bồi dưỡng kiến thức
thực tế của đội ngũ GV có hiệu quả hay không.
c. Bồi dưỡng thường xuyên về kỹ năng, năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng
viên
GV cần có kiến thức, năng lực nghiên cứu và kỹ năng sư phạm tốt, để họ vừa
giảng dạy trên cương vị của mình, vừa có thể biết mình phải làm gì để nâng cao
chất lượng dạy học. Đây là việc cần được trường làm thường xuyên, nhiều đợt,
nhiều cấp độ, nhiều hình thức với những nội dung cụ thể, phù hợp với từng loại GV,
với GV trẻ mới vào nghề khác với GV đã có thâm niên giảng dạy lâu năm. Đặc biệt
GV trẻ cần được trang bị các kiến thức kỹ năng sư phạm và một số kỹ năng mềm
khác để có thể bù đắp những kiến thức thiếu hụt về chuyên môn cũng như nghiên
cứu khoa học của mình. Nhà trường cần bố trí kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm cho các GV trẻ ngay từ ngày đầu một cách có bài bản để họ không bị ảnh
hưởng bởi những cách làm tùy tiện, ngẫu hứng trên lớp, họ cần được bồi dưỡng
kiến thức về lý luận giáo dục, phương pháp dạy học đại học hiện đại, các kiến thức
về: phương pháp đào tạo mới, các quan điểm tiếp cận mới...để họ có thể tiếp cận,
vận dụng tốt nhất những kiến thức hiện đại về nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng nhu cầu xã hội.
Việc bồi dưỡng GV về nghiệp vụ sư phạm không chỉ nhằm nâng cao nhận
thức mà còn nhằm phát triển các kỹ năng của người GV, sao cho khi được bồi
77
dưỡng nghiệp vụ sư phạm thì người GV sẽ thực hiện nhiệm vụ tốt hơn và hiệu quả
hơn và đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp đào tạo của Nhà trường.
d. Bồi dưỡng kiến thức về nghiên cứu khoa học
Giảng dạy, NCKH là hai nhiệm vụ chính của GV hai nhiệm vụ này có mối
quan hệ tương hỗ với nhau. Một người GV nếu chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng
dạy thì chưa đủ, mà người GV kể cả GV có học hàm, học vị cao chỉ hoàn thành đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ của mình khi tích cực tham gia thực tiễn NCKH và ứng
dụng các NCKH vào giảng dạy.. Với nhiều lý do đó, nhiều năm nay, trường
ĐHNVHN luôn coi trọng vấn đề NCKH của GV, nhưng trên thực tế số GV tham
gia NCKH rất hạn chế, đặc biệt đối với GV trẻ thì việc NCKH gần như là không có.
Trên cơ sở Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 28/11/2008 ban hành
quy định chế độ làm việc đối với GV, Nhà trường cần xây dựng quy chế riêng, phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn và trình độ, khả năng của ĐNGV và chú ý
ghi nhận công sức đóng góp của GV làm NCKH (qui đổi thành giờ chuẩn) và kinh
phí NCKH cần tăng cao hơn. Hàng năm Hội đồng khoa học khoa phối hợp với Viện
Nghiên cứu và Phát triển đưa ra hướng nghiên cứu, nhưng cần theo hướng khuyến
khích GV nghiên cứu tìm hướng giải quyết các vấn đề phục vụ công tác đào tạo với
đề tài cấp cơ sở, cấp bộ.
Viện Nghiên cứu và Phát triển cần xây dựng và phổ biến những quy định cụ
thể về tiêu chuẩn, tiêu chí, chẳng hạn như: một công trình NCKH cấp cơ sở có thể
là một bài viết cho hội thảo khoa học của trường, một sáng kiến cải tiến được hội
đồng khoa học trường công nhận, bài viết trên tạp chí chuyên ngành hoặc của
trường,...và thành tích NCKH của mỗi GV phải là một trong những tiêu chuẩn quan
trọng để đánh giá cán bộ. Lấy NCKH là một trong những tiêu chí để xét thi đua
khen thưởng và xem xét bổ nhiệm cán bộ. Ngược lại cũng cần phải có những chế tài
rõ ràng đối với những GV cả năm không tham gia NCKH, nhất là đối với GV có
thâm niên công tác hoặc có trình độ cao.
e. Bồi dưỡng kiến thức về công nghệ thông tin và ngoại ngữ
- Về công nghệ thông tin
78
Trong giáo dục đào tạo, công nghệ thông tin có ý nghĩa và vô cùng quan
trọng, là công cụ thuận tiện và đầy hiệu quả trong dạy học hiện đại. Vì vậy người
GV đại học phải có kiến thức và trình độ chuẩn nhất định về tin học: biết sử dụng
các phần mềm dạy học bằng Power point, khai thác, sử dụng mạng Internet để cập
nhật thông tin, kiến thức mới, nội dung dạy học, trao đổi thông tin giữa các đồng
nghiệp trong và ngoài nước.
Do đó để tất cả GV nhanh chóng sử dụng CNTT vào công tác giảng dạy và
NCKH đạt hiệu quả tốt, nhà trường cần yêu cầu cũng như khuyến khích, tạo điều
kiện thuận lợi về thời gian và kinh phí cho GV tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ, kỹ năng sử dụng và ứng dụng tin học vào hoạt động giảng dạy,
NCKH, đồng thời yêu cầu GV phải khai thác tốt hệ thống phòng máy hiện có, tiếp
tục đầu tư cơ sở hạ tầng, trang bị hệ thống máy tính, các phương tiện kỹ thuật dạy
học hiện đại (phòng học đa năng, phòng học chuyên dụng) cho các khoa, bộ môn.
- Về ngoại ngữ
Cùng với kiến thức về tin học, ngoại ngữ cũng trở thành một điều kiện bắt
buộc trong tiêu chuẩn của người GV và vô cùng quan trọng đối với GV nghệ thuật.
Có ngoại ngữ GV có thể khai thác mạng Internet, nghiên cứu, đọc tài liệu và cập
nhật kiến thức mới, công nghệ mới... làm phong phú bài giảng, nâng cao chất lượng
đào tạo. Để phấn đấu đến năm 2020, 100% GV có khả năng giao tiếp tốt bằng tiếng
Anh, có khả năng nghiên cứu, đọc tài liệu và cập nhật kiến thức mới bằng ngoại
ngữ, và 5% GV phấn đấu giảng dạy bằng tiếng Anh nhà trường cần phải đưa ra quy
định cụ thể như:
- Tạo điều kiện thời gian, có chính sách hỗ trợ 100% kinh phí, xây dựng kế
hoạch đào tạo ngoại ngữ và yêu cầu bắt buộc GV tham gia.
f. Xây dựng đội ngũ giảng viên đứng đầu
Giảng viên đứng đầu là kết quả của sự bồi dưỡng của bản thân và sựhỗ trợ
của đồng nghiệp trong từng khoa và bộ môn. Thực tế cho thấy, GV đứng đầu có
trình độ chuyên môn cao và chức danh cao đều ở cương vị lãnh đạo của Nhà trường
cũng như của khoa. Tuy nhiên, phần do họ quá bận với công tác quản lý nên họ
79
không còn nhiều thời gian và chưa phát huy vai trò người GV đầu ngành. Để xây
dựng, duy trì ĐNGV đứng đầu, Nhà trường cần phải:
- Phát hiện kịp thời và chính xác các GV giỏi về chuyên môn, có năng lực,
có đủ phẩm chất đạo đức, có trình độ ngoại ngữ, để đào tạo, bồi dưỡng thành GV
đứng đầu. Số GV này có thể là GV có thâm niên giảng dạy lâu năm, có nhiều kinh
nghiệm giảng dạy, có uy tín, có năng lực nghiên cứu khoa học....,hoặc có thể là các
GV trẻ kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, nhưng sớm bộ lộ khả năng, có năng lực,
luôn tìm tòi, sáng tạo, độc đáo, thuyết phục và có phương pháp giảng dạy sáng tạo.
- Cần có kế hoạch, lộ trình, đào tạo nhất định với nội dung phù hợp và cần
thiết hoặc bồi dưỡng thêm để đủ điều kiện về ngoại ngữ để cử đi đào tạo trình độ tiến
sĩ, thạc sĩ ở nước ngoài.
- Nhà trường thường xuyên tạo điều kiện để các GV, đặc biệt là GV có trình
độ chuyên môn cao được đi tham dự hội thảo, tọa đàm. để giao lưu, trao đổi, học
hỏi kinh nghiệm đào tạo, phương pháp giảng dạy, NCKH với các trường đại học
tiên tiến ở nước ngoài.
- Cần có chế độ chính sách ưu đãi, đề bạt, bổ nhiệm, giao nhiệm vụ tương
xứng với tầm, uy tín, ảnh hưởng của ĐNGV đứng đầu.
- Giao trách nhiệm chủ trì tổ chức các hoạt động chuyên môn và tổ chức các
hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy.
- Chủ trì các đề tài NCKH cấp trường, Bộ.
- Giúp đỡ, kèm cặp GV mới, GV yếu về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và
thiếu kinh nghiệm thực tiễn.
Trên thực tế có thể linh hoạt tùy theo tình huống và thời điểm mà có thể thực
hiện các nội dung trên để việc xây dựng ĐNGV kế cận có ý nghĩa thiết thực và
mang lại hiệu quả nhất.
3.3.5. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá năng lực và kiểm định chất lượng
đội ngũ giảng viên.
Chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
của Nhà trường và chất lượng đào tạo cần phải có sự đánh giá và kiểm định chất
80
lượng: “Phiếu đánh giá giảng viên”,“Phiếu đánh giá của người sử dụng lao động
đối với chương trình đào tạo”, “Phiếu đánh giá cơ sở đào tạo”
Để đánh giá giảng viên Nhà trường cần thực hiện thường xuyên, nghiêm túc
bằng cách cho sinh viên đánh giá giảng viên thông qua Phiếu đánh giá giảng viên
sau khi giảng dạy hoàn tất học phần. Từ kết quả của việc đánh giá, bản thân người
giảng viên sẽ biết các điểm mạnh, yếu trong chuyên môn, phương pháp sư phạm
để tự hoàn thiện. Qua đánh giá của người học đối với giảng viên, các nhà quản lý
cũng đánh giá được chất lượng của giảng viên để có những biện pháp điều chỉnh
kịp thời như: nhắc nhở GV, tổ chức, bồi dưỡng kỹ năng GV, cân đối và bố trí nhân
sự phù hợp, có chế độ đãi ngộ phù hợp với GV có uy tín, có nhiều SV đăng ký học
để khuyến khích, động viên người dạy hăng say nghiên cứu, học tập thêm để nâng
cao trình độ, giảng dạy ngày càng tốt hơn.
Bên cạnh việc đánh giá GV, cần tạo cơ chế để cán bộ, GV Nhà trường tham
gia chấm điểm, đánh giá công tác chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Nhà trường và
các CBQL thông qua lấy phiếu tín nhiệm hàng năm.
3.3.6. Nâng cao trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, phát huy vai trò người
giảng viên đầu ngành.
+ Lãnh đạo nhà trường phải nâng cao trách nhiệm trong việc phát triển đội ngũ
giáo viên, đặc biệt là giảng viên giỏi và giảng viên đầu ngành.
+ Lãnh đạo nhà trường cần tạo điều kiện cho các GV đứng đầu được nâng
cao trình độ chuyên môn cao được đi tham dự hội thảo, hội nghị. để giao lưu,
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm đào tạo, phương pháp giảng dạy, NCKH với các
trường đại học tiên tiến ở nước ngoài.
+ Giao trách nhiệm chủ trì tổ chức các hoạt động chuyên môn và tổ chức các
hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy.
+ Giúp đỡ, kèm cặp GV mới, GV yếu về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và
thiếu kinh nghiệm thực tiễn.
3.3.7. Có chính sách thu hút, hỗ trợ giảng viên trong nhà trường
81
Nhu cầu thu hút giảng viên, chuyên gia nước ngoài, trong nước tham gia
giảng dạy tại nhà trường là nhu cầu lớn, cần thực hiện ngay để mục tiêu đào tạo của
nhà trường đạt kết quả tốt. Tuy nhiên hiên nay còn vướng mắc, khó khăn về cơ chế
thu hút, chế độ đãi ngộ cụ thể nên chính sách này chưa được thực hiện triệt để và có
hiệu quả. Nhiều nhân tài học xong có mong muốn trở về cống hiến cho đất nước,
cho các trường đại học lớn có uy tín và đưa kiến thức được học áp dụng vào giảng
dạy, truyền đạt nhằm nâng cao chất lượng học viên, song còn nhiều điều lo lắng về
môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ, thang lương, bảng lương còn bất cập, bế tắc.
Đối với Đại học Nội vụ Hà Nội là nôi đào tạo nhân lực cho ngành Nội vụ và là nơi
cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, cần có chế độ đãi ngộ, thu
hút nguồn giáo viên, giảng viên là các chuyên gia kinh nghiệm, có kiến thức, có uy
tín để tham gia giảng dạy, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho thế hệ học viên
của nhà trường. Đồng thời với chính sách thu hút, nhà trường cần xây dựng quy chế
đãi ngộ riêng của nhà trường với nguồn kinh phí tự chủ, trả công, lương tương xứng
với trí tuệ và sức lao động đặc biệt của giảng viên.
3.3.8. Mở rộng hợp tác quốc tế để đào tạo, bồi dưỡng giảng viên giỏi, học
tập kinh nghiệm nước ngoài
Xu thế phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế trong đó có yêu cầu về đổi mới
giáo dục, đổi mới, nâng cao chất lượng ĐNGV đang là xu thế tất yếu. Đại học Nội
vụ trong thời gian qua đã tích cực tăng cường giao lưu, mở rộng hợp tác quốc tế
trên nhiều lĩnh vực để tăng cương giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, đồng thời tạo điều
kiện tối đa để các giảng viên của nhà trường có cơ hội được tiếp xúc với nền giáo
dục tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Trong tương lai, vấn đề liên kết đào tạo, tăng
cường hợp tác giữa nhà trường với nhiều cơ sở giáo dục đại học trên thế giới càng
cần được tăng cường hơn nữa. Trường cần cử các giáo viên sang các nước bạn để
học tập, bồi dưỡng ngắn hạn, dài hạn để nâng cao kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ,
lĩnh hội các phương pháp giảng dạy mới để có thể chọn lọc áp dụng tại Việt Nam,
đặc biệt là áp dụng vào công tác giảng dạy tại trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
82
Đối với các quốc gia lớn trên thế giới có nền giáo dục hiện đại, cách tiếp cận
giáo dục đại học và phương pháp giảng dạy có phần khác so với Việt Nam. Thông
thường họ tiếp cận phương pháp đề cao, coi trọng học viên, lấy học viên làm trung
tâm để truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm. Phương pháp thực hành, rèn luyện kỹ
năng nghề nghiệp và phản ứng với các tình huống trên thực tế là ưu tiên hàng đầu
trong giảng dạy, đào tạo. Để học hỏi được các nội dung này, thời gian tới Đại học
Nội vụ Hà Nội cần tổ chức các đoàn ra, hoặc đón các đoàn vào để tăng cường tích
lũy kinh nghiệm, tiến tới áp dụng các phương pháp giảng dạy mới, tạo hứng khởi,
hăng say học tập cho sinh viên đồng thời tạo cho sinh viên kỹ năng sống, nghiên
cứu và tác nghiệp độc lập khi ra trường hòa nhập với thị trường lao động hiện nay.
3.4. Một số khuyến nghị cụ thể
3.4.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Chỉ đạo, xây dựng và sửa đổi các văn bản hướng dẫn thực hiện các chế độ
chính sách đãi ngộ đối với giảng viên phù hợp với tình hình mới.
- Có chính sách khuyến khích trong đào tạo, bồi dưỡng nhằm gắn trách
nhiệm của ĐNGV với sự nghiệp phát triển giáo dục đại học.
3.4.2. Đối với Bộ Nội vụ
- Các định hướng xây dựng, phát triển nhà trường cần phải xây dựng thành
dự án nghiên cứu, nêu rõ sự cần thiết, mục tiêu cần đạt được, định hướng tương lai,
nguồn kinh phí cụ thể.
- Ngân sách hàng năm dành cho việc nâng cao chất lượng ĐNGV nhà trường
cần có đầu tư xứng đáng.
- Có kế hoạch hành động cụ thể, phân chỉ tiêu rõ ràng cho Nhà trường để
thực hiện tốt đề án cử GV, sinh viên giỏi đi học ở nước ngoài, tạo nguồn nhân lực
cho Nhà trường.
-Tạo điều kiện về kinh phí và thời gian cho GV được đi học tập, bồi dưỡng
trình độ chuyên môn (ngắn hạn hoặc dài hạn), tham gia nghiên cứu khoa học, hội
nghị, hội thảo....
3.4.3. Đối với Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
83
Đối với lãnh đạo Nhà trường:
- Hoàn thiện việc sửa đổi, ban hành và triển khai thực hiện các quy chế, quy định
như: quy định về chế độ làm việc, quy chế đào tạo, quản lý SV, qui định về NCKH.
Thực hiện tốt quy chế chi tiêu nội bộ, tăng kinh phí hỗ trợ cho GV đi học tập nâng cao
trình độ, có chế độ chính sách đãi ngộ đối với GV, thu hút nhân tài.
- Có chính sách hỗ trợ thỏa đáng cho các GV đạt thành tích tốt trong giảng dạy và
có chế độ đãi ngộ thu hút người có trình độ cao về trường giảng dạy.
- Tăng cường CSVC trang thiết bị phục vụ đào tạo và giảng dạy.
- Mở rộng hợp tác quốc tế với các trường. Đồng thời tích cực tìm kiếm nguồn tài
trợ, xây dựng các dự án hợp tác quốc tế về hỗ trợ công tác đào tạo và tăng cường cơ sở
vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo.
Đối với các khoa, đơn vị của Trường Đại học Nội vụ
-Tạo điều kiện cho GV được đi học tập, bồi dưỡng trình độ chuyên môn (ngắn
hạn hoặc dài hạn), tham gia NCKH, hội nghị, hội thảo.
- Bố trí GV đúng vị trí công việc, tăng cường hỗ trợ cho những giáo viên trẻ.
- Xây dựng môi trường sư phạm dân chủ, thân thiện và sáng tạo cho ĐGGV
làm việc và cống hiến.
Tiểu kết Chƣơng 3
Trong Chương 3 của luận án đã đề cập đến định hướng, mục tiêu phát triển
ĐNGV của nhà trường. Luận văn cũng đề xuất 8 giải pháp trong công tác xây dựng
ĐNGV của nhà trường. Các giải pháp được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ
bản trong công tác quản lý như đảm bảo tính kế thừa, tính đồng bộ, tính khả thi và
tính hiệu quả .
Để nâng cao chất lượng đào tạo phải có chiến lược lâu dài để phát triển
ĐNGV, đồng thời phải có bước đi phù hợp với điều kiện thực tế của từng khoa,
phòng của Nhà trường. Các giải pháp đề xuất đều có quan hệ mật thiết với nhau, nếu
thực hiện đồng bộ các giải pháp trên thì ĐNGV Trường Đại học Nội vụ Hà Nội sẽ
phát triển đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu và sẽ đáp ứng được
84
yêu cầu phát triển của Nhà trường đến năm 2020 cũng như trong giai đoạn sau này.
Chương 3 cũng nêu lên một số kiến nghị cụ thể đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, đối
với Bộ Nội vụ và đối với Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, hướng tới thực hiện có hiệu
quả các giải pháp đã đề xuất nhằm phát triển ĐNGV nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục và phát triển hiện nay.
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo và được đề xuất là: “quốc sách hàng đầu”, đặc biệt là giáo dục, đào tạo ở
trình độ đại học. Các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành có liên quan đến nội
dung này được ban hành khá đầy đủ, chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi để các trường
đại học đẩy mạnh hoạt động đào tạo, trong đó có nâng cao chất lượng ĐNGV của nhà
trường.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là đơn vị được giao chức năng nhiệm vụ là cơ
sở giáo dục đại học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc Bộ Nội vụ,
có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học và sau
đại học trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác có liên quan, hợp tác
quốc tế, nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội trong nhiều năm qua đã không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng đào
tạo học viên đảm bảo chất lượng đầu ra đối với các sinh viên tốt nghiệp ra trường, có
thể vững vàng trong tự tìm kiếm việc làm ở thị trường lao động sôi động, khắc nghiệt.
Để làm được việc đó, ĐNGV của nhà trường phải không ngừng trau dồi kiến thức, kỹ
năng, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm để phục vụ công tác giảng dạy cho nhà trường.
Nhà trường đã có nhiều chính sách nhằm khuyến khích khả năng sáng tạo, tri
thức của ĐNGV nhà trường, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này bởi đây là nòng
cốt giúp cho nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo. Có được thế hệ giảng viên tâm
85
huyết, nhiệt tình, có năng lực, trình độsẽ tạo điều kiện để nhà trường đào tạo ra các
thế hệ sinh viên có tri thức, giúp ích cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
ngành nội vụ nói riêng.
ĐNGV của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội so với ĐNGV của các trường Đại
học khác có bề dày lịch sử, kinh nghiệm, thành tíchcần rèn luyện, trau đồi và phát
triển hơn nữa mới đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc
nâng cao chất lượng giảng dạy tại các trường đại học trong nước. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, với sự nỗ lực của Ban giám hiệu nhà trường, sự cố gắng của ĐNGV, đã
có nhiều thành tích đáng khích lệ. ĐNGV được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường
được tạo điều kiện tối đa về thời gian tham gia các khóa học, đào tạo nâng cao trình
độ; tham gia các cuộc hội thảo, tọa đàm trong và ngoài nước; tham gia các đoàn khảo
sát, dự ánđể tích lũy kinh nghiệm. Đặc biệt là trong thời gian tới, khi được cơ quan
có thẩm quyền cho phép nhà trường mở rộng thêm các chuyên ngành đào tạo khác,
ĐNGV của nhà trường càng có vai trò quan trọng và to lớn góp phần làm nên thành
công trong việc đào tạo thế hệ sinh viên tương lai có ích cho xã hội, xây dựng, phát
triển kinh tế của đất nước trong xu thế hội nhập kinh tế, quốc tế sâu rộng và cải cách
hành chính mạnh mẽ của quốc gia.
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2004),Chỉ thị số 40/2004/CT-TW ngày 15/6/2004
về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục.
2. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (1995), Quyết định số 538/TCCP-TC ngày
19/12/1995 về việc thay đổi tên gọi các ngạch công chức giảng dạy và tiêu
chuẩn nghiệp vụ các ngạch trong trường đại học, cao đẳng.
3. Bộ Chính trị (2009),Thông báo kết luận của Bộ Chính trị số 242/TB-TW ngày
15/4/2009 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW2, khóa VIII, phương hướng phát
triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Thông tư số 44/2011/TT-BGDĐT ngày
10/10/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về quy định về chế độ làm việc đối với
GV thỉnh giảng trong các cơ sở giáo dục.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Quyết định số 1666/QĐ-BGDĐT ngày 04/5/
2012 về việc ban hành Chương trình hành động của Bộ Giáo dục – Đào tạo giai
đoạn 2011-2016 thực hiện Nghị quyết số 06/NQ-CP và chiến lược phát triển
giáo dục 2011-2020.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông tư số 20/2013/TT/BGDĐT ngày
06/6/2013 ban hành quy định bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên
các cơ sở giáo dục đại học.
7. Bộ Nội Vụ(2012), Thông tư số 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012 quy định về
tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào tạo đối với viên
chức.
8. Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 05/2012/TT- BNV ngảy 24/10/ 2012 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư số 13/2010/TT-BNV ngày 30 tháng 12 năm
2010 của Bộ Nội vụ quy định chi tiết một số điều về tuyển dụng và nâng ngạch
công chức củaNghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy
định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.
87
9. Bộ Nội vụ (2012), Quyết định số 347/QĐ-BNV ngày 19/ 4/2012 về việc quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội.
10. Chính phủ (2005), Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 về đổi mới
cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
11. Chính phủ (2012), Nghị định 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 quy định về tuyển
dụng đối với viên chức.
12. Chính phủ (2008), Nghị định số 48/2008/NĐ-CP ngày 17/4/2008 về quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ.
13. Chính phủ (2012), Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10/ 8/2012 về quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ.
14. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực con người ở Việt
Nam”, NXB Lao động – Xã hội.
15. Nguyễn Minh Đạo (1997), Cơ sở của khoa học quản lí, Nxb Chính trị quốc gia
Hà Nội.
16. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong
điều kiện mới, Chương trình đề tài Khoa học cấp nhà nước, đề tài KX -07-14,
Hà Nội.
17. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (2003),Về phát triển văn hóa và xây dựng
con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
18. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Phạm Minh Hạc (2011), Một số vấn đề về giáo dục và khoa học giáo dục, Nxb
Giáo dục Hà Nội.
20. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ (1987), Giáo dục học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
21. Bùi Minh Hiền (Chủ biên), Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo (2006), Quản lí giáo
dục, Nxb Giáo dục trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.
88
22. Lê Thanh Huyền (2012), Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực
ngành Nội vụ trong phạm vi chức năng đào tạo của Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội”.
23. Trần Kiểm (2006), Khoa học quản lý giáo dục , Nxb Giáo dục.
24. Trần Kiểm (2008), Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lí giáo dục, Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội.
25. Koontz H. (1992), Những vấn đề cốt yếu của quản lý, Nxb KHKT, Hà Nội.
26. Lê Thị Ái Lâm (2002), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước, Nxb Giáo dục Hà Nội.
27. Nguyễn Lộc, Mạc Văn Trang,Nguyễn Công Giáp (2009), Cơ sở lí luận quản lí
trong tổ chức giáo dục.
28. Phạm Thành Nghị (2004),Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực
giáo dục đào tạo”, Tạp chí giáo dục số 11 năm 2004.
29. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục,
trường CBQLGDTW1, Hà Nội.
30. Bùi Văn Quân (2006), Chính sách, khoa học chiến lược giáo dục, tập bài giảng
cho học viên cao học chuyên ngành quản lý giáo dục, ĐHSP Hà Nội.
31. Quốc hội (2005), Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14/6/2005.
32. Quốc hội (2012), Luật Giáo dục Đại học số 08/2012/QH13 ngày 18/6/2012.
33. Phạm Văn Sơn (2014), Đổi mới quản lý đào tạo từ tiếp cận nội dung sang tiếp
cận năng lực thực hiện. Kỷ yếu hội thảo khoa học do Học viện Quản lý giáo dục
tổ chức tại Hà Nội tháng 12/2014.
34. Tài liệu Hội thảo “Định hướng phát triển Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, 2013.
35. Tài liệu Hội thảo Khoa học Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển ngành Nội vụ của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, ngày
22/7/2014.
89
36. Tài liệu Hội thảo Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu
vực công ở Việt Nam hiện nay của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, tháng
12/2014.
37. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 58/2010/QĐ-BGDĐT ngày
22/9/2010 về việc ban hành điều lệ các trường đại học.
38. Thủ tướng Chính phủ (2011),Quyết định số 2016/QĐ-TTg ngày 14/ 11/ 2011 về
việc thành lập Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
39. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 phê
duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020.
40. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 về
việc phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn
2016 – 2025.
41. Mạc Văn Trang (2004), “Quản lý nguồn nhân lực trong giáo dục đào tạo những
vấn đề cần nghiên cứu trong quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn”, Nxb Khoa học giáo dục Hà Nội.
42. Từ điển Tiếng Việt(1997), Nxb Đà Nẵng.
43. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI (2011), Nxb Chính trị Quốc
gia.
44. Nguyễn Như Ý (1999), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_xay_dung_doi_ngu_giang_vien_cua_truong_dai_hoc_noi.pdf