Luận văn Xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

Việc phân tích cấu trúc của nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên cho chúng ta hiểu rõ thêm vai trò của nhân cách đạo đức trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhân cách của người sinh viên, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam. Nhân cách đạo đức của sinh viên được hình thành và phát triển bị qui định bởi các yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần của xã hội và cũng bị qui định bởi chính những đặc điểm nội tại của bản thân mỗi sinh viên. Đó là, đặc điểm về tâm sinh lý lứa tuổi, đặc điểm của hệ thống nhu cầu, lợi ích của sinh viên trong hoạt động học tập, nghiên cứu và hoạt động xã hội.

pdf85 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6769 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đổi của nhân cách đạo đức sinh viên hiện nay Xác định xu hướng biến đổi của nhân cách đạo đức sinh viên là việc làm quan trọng và cần thiết tạo cơ sở cho việc đưa ra hệ các giải pháp nhằm xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên phù hợp với những yêu cầu chung của thời đại, tránh những hiện tượng biến đổi lệch lạc trong định hướng nhân cách đạo đức. Trong các xu hướng biến đổi theo chiều hướng phát triển, chúng tôi bước đầu có thể khẳng định nhân cách đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay đã xuất hiện các nhân tố mới, xuất hiện những xu hướng phát triển tích cực trên nhiều mặt của nhân cách đạo đức. Điều này được phản ánh rõ nét ở thế giới quan (lý tưởng, niềm tin, tri thức), ở tình cảm và văn hóa đạo đức cá nhân, ở tính tích cực chính trị xã hội, ở sự rèn luyện tu dưỡng trong bản thân mỗi sinh viên...được biểu hiện ở một số xu hướng cơ bản sau: Thứ nhất, đa số niềm tin của sinh viên tin vào thành công của sự nghiệp đổi mới ngày càng tăng. Nếu đầu những năm 90, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, tư tưởng tiêu cực trong sinh viên còn nhiều, niềm tin vào công cuộc đổi mới chỉ chiếm 7,7% số sinh viên được hỏi, có đến 13,4% thiếu tin tưởng và thậm chí 1,8% có tâm trạng buồn chán [56, tr. 2]. Nhưng chỉ sau 5 năm khi công cuộc đổi mới của đất nước đạt được những thành tựu vượt bậc, niềm tin của sinh viên với sự nghiệp đổi mới đã được khẳng định 86,2% số sinh viên được hỏi tin tưởng vào đường lối của Đảng, 87,6% trung thành với tổ quốc, 86,2% tôn trọng luật pháp và nền dân chủ xã hội, 87,9 % yêu quí và bảo vệ tổ quốc [20, tr. 161-162]. Đây là một xu hướng phát triển tốt của nhân cách đạo đức sinh viên. Thứ hai, trong kinh tế thị trường một số những giá trị đạo đức mới cho sinh viên đang được hình thành đáp ứng yêu cầu của thời đại. Xu hướng chấp nhận ganh đua, cạnh tranh, tinh thần vượt khó, vươn lên là xu hướng mới trong sự phát triển nhân cách đạo đức của sinh viên. Theo điều tra gần đây nhất (2.2000) với tất cả thanh niên sinh viên, trong đó họ thừa nhận sáu giá trị đặc trưng hợp thành hệ giá trị định hướng chung trong phát triển nhân cách, nhân cách đạo đức: 1- Phấn đấu nâng cao đời sống, nhất là mức tiêu dùng hàng ngày 84%; 2- Biết tính toán hiệu quả kinh tế 82%; 3- Chấp nhận ganh đua, cạnh tranh 61%; 4- Quan hệ kinh tế chi phối các quan hệ khác 60%; 5- Có tinh thần trách nhiệm xã hội 54%; 6- Đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau 54% [17, tr. 59]. Một điểm đáng ghi nhận qua con số điều tra này là họ đã chú ý thỏa đáng tới việc khẳng định vị thế cá nhân và hòa hợp với xu thế phát triển của xã hội, góp sức mình vào phát triển đất nước. Dù bị ảnh hưởng bởi yếu tố "trội" trong cơ chế thị trường là cạnh tranh, là lợi nhuận nhưng tận sâu trong nhận thức tư tưởng, tình cảm của họ tinh thần tập thể, tinh thần tương thân, tương ái vẫn được giữ gìn, bảo vệ và phát triển. Đây là một khuynh hướng phát triển tốt của nhân cách đạo đức. Trong khi mặt giác ngộ lý tưởng, nhận thức chính trị, tính tích cực xã hội của sinh viên biến đổi theo chiều hướng tích cực, thì còn một bộ phận sinh viên có nhân cách đạo đức suy thoái, thể hiện: - Một bộ phận sinh viên có xu hướng xa rời những giá trị đạo đức tốt đẹp trong truyền thống của dân tộc. Họ tiếp nhận ồ ạt, mù quáng những sản phẩm văn hóa không lành mạnh, du nhập lối sống Tây âu. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng họ sống thiếu mục đích lý tưởng, thiếu bản lĩnh, có phần thiếu nhân nghĩa. - Về nếp sống văn hóa, chấp hành qui chế học tập nhân cách đạo đức sinh viên có những biến động theo chiều hướng tiêu cực. Hiện tượng vi phạm qui chế thi trở lên phổ biến và biểu hiện mới của sự xuống cấp trong đạo đức học tập là hiện tượng thi hộ. - Số sinh viên quan tâm tìm hiểu các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn hạn chế. Họ chỉ quan tâm đến những quyền lợi thiết thân của họ như: chế độ học bổng, học phí... Từ việc chỉ quan tâm và tuyệt đối hóa sự quan tâm đến lợi ích bản thân đã làm nảy sinh những tiêu cực, lệch lạc trong định hướng giá trị của sinh viên. ở một bộ phận sinh viên những giá trị về lợi ích cá nhân được coi trọng hơn những giá trị về lợi ích của tập thể, lợi ích của cộng đồng; coi trọng kinh tế hơn đạo đức, tinh thần, coi trọng những giá trị hiện tại hơn những giá trị đạo đức truyền thống... - Tệ nạn xã hội trong sinh viên ngày một gia tăng. Thời gian gần đây, toàn xã hội bức xúc trước một hiện tượng đau lòng là số sinh viên phạm tội ngày càng tăng, ma túy trở thành tệ nạn học đường.Theo báo cáo của Bộ Giáo dục đào tạo ngày 7.4.1999 thì toàn quốc có 968 sinh viên nghiện hút. Tất nhiên đây là con số còn xa với sự thật, thậm chí sinh viên còn tham gia vào buôn bán "chất trắng" bị lĩnh án tử hình. Hiện tượng hiếp dâm tập thể, hiện tượng nam sinh viên đi mại dâm...là những biểu hiện xuống cấp rõ rệt trong nhân cách đạo đức sinh viên. Tóm lại, xu hướng biến đổi của nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay là rất phức tạp. Trên những mặt căn bản nhất có thể khẳng định rằng, những xu hướng biến đổi tích cực mang tính chủ đạo và chiếm ưu thế. Những nhân tố tiêu cực dù có, dù là những yếu tố "trội" nhưng chỉ có tác động hạn chế, làm chậm xu thế phát triển của xu hướng biến đổi tích cực. Việc đấu tranh chống tiêu cực, phát huy những nhân tố tích cực để xây dựng trong sinh viên một nhân cách đạo đức tốt đẹp là việc làm đầy khó khăn, phức tạp. Nó không chỉ cần sự nhận thức đúng đắn của mỗi sinh viên mà quan trọng hơn đó xây dựng một hệ thống đồng bộ các giải pháp. Các giải pháp đó được xây dựng trên cơ sở quán triệt sâu sắc về vấn đề phát triển con người toàn diện, về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện đúng mục tiêu xây dựng con người mới Việt Nam, mục tiêu đào tạo đại học mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 2.3. Những giải pháp cơ bản để xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam 2.3.1. Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh - cơ sở để xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên Việt Nam Theo quan điểm mác xít, xét trên ý nghĩa xã hội thì con người nói chung, giới sinh viên nói riêng trước sau vẫn là một sản phẩm của hoàn cảnh, cho dù về chủ quan, bản thân cá nhân có ý thức tự lập vươn lên khỏi những điều kiện, hoàn cảnh khách quan, thì vẫn không thể thoát ly hoàn toàn với điều kiện khách quan ấy. Nói cách khác, con người luôn là chủ thể tích cực cải tạo và thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đồng thời con người cũng là sản phẩm của chính sự vận động và phát triển xã hội. Khả năng cải tạo hoàn cảnh của con người thường được thông qua hoạt động thực tiễn của họ và nếu như con người do hoàn cảnh tạo lên thì phải tạo ra những hoàn cảnh hợp tính người. Xét một cách trực tiếp, hoàn cảnh xã hội là điều kiện chủ yếu để hình thành nhân cách, nhân cách đạo đức. Hoàn cảnh xã hội càng có "tính người" bao nhiêu thì nhân cách, nhân cách đạo đức càng được phát triển và hoàn thiện bấy nhiêu. Trái lại, cá nhân sẽ đánh mất mình, sẽ tự tha hóa mình, xa lạ với bản chất của mình trong một hoàn cảnh xã hội phi nhân tính. Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh làm cơ sở cho việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên đó chính là quá trình phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của môi trường xã hội đến sự hình thành và phát triển nhân cách đạo đức sinh viên. ở đây, cần tuân thủ một số yêu cầu cơ bản sau: - Thứ nhất, tạo lập môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh, làm cơ sở cho việc hình thành nhân cách đạo đức của sinh viên. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đạo đức, nhân cách đạo đức hình thành và phát triển trên một cơ sở kinh tế - xã hội nhất định. Chúng ta không thể tìm thấy nguồn gốc của đạo đức, nhân cách đạo đức trong tư tưởng, ý thức con người hay từ một lực lượng siêu nhiên nào đó, mà phải tìm trong chính hiện thực đời sống kinh tế - xã hội trong đó họ sống và hoạt động. Vai trò quyết định của kinh tế đối với việc hình thành nhân cách đạo đức đòi hỏi chúng ta phải tạo ra mảnh đất kinh tế - xã hội hiện thực trên đó nảy sinh những chồi non tốt đẹp của nhân cách đạo đức. Đối với chúng ta hiện nay, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu khách quan. Nó tạo ra động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, nâng cao sức sáng tạo, tính năng động, tự giác của con người. Đồng thời, những thành tựu đã đạt được từ khi đất nước ta tiến hành đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã củng cố thêm niềm tin, lý tưởng cho các tầng lớp nhân dân vào con đường đi của Đảng, kích thích họ trong quá trình rèn luyện, xây dựng những phẩm chất đạo đức cá nhân, trong đó có giới sinh viên Việt Nam. Thứ hai, tạo lập môi trường văn hóa tiến bộ, cơ sở để hình thành nhân cách đạo đức của sinh viên. Bên cạnh việc giữ vững ổn định chính trị, xây dựng một nền kinh tế vững chắc, sự lành mạnh của môi trường kinh tế - xã hội còn được thể hiện ở việc nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần xã hội theo những định hướng giá trị của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cần thiết cho sự hình thành và phát triển nhân cách đạo đức người sinh viên. Đúng vậy, nền văn hóa dân tộc như là tổng thể của mọi giá trị vật chất và tinh thần, đặc biệt là những giá trị tinh thần chân - thiện - mỹ, là cội nguồn, là nguyên liệu bên ngoài (xã hội và khách quan), là môi trường cho sự hình thành và phát triển nhân cách, nhân cách đạo đức. Và nhân cách của con người như thế nào, điều đó tùy thuộc vào khả năng và mức độ mà người đó tiếp nhận những tác động văn hóa của xã hội thông qua sự luyện tập văn hóa của cá nhân trong lao động, trong học tập, trong giao tiếp xã hội. Văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra, văn hóa đồng thời lại tác động trực tiếp tới sự phát triển và hoàn thiện con người, đưa con người lên vị trí cao nhất trong hệ giá trị xã hội: con người là giá trị của mọi giá trị. Môi trường văn hóa và con người văn hóa là hai nhân tố tác động biện chứng lẫn nhau. Xét đến cùng, môi trường văn hóa sáng tạo ra con người trong chừng mực mà con người sáng tạo ra môi trường văn hóa. Vì vậy, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp bách trong quá trình xây dựng xã hội và con người mới hiện nay. Đối với sinh viên cần phải có một chính sách, cơ chế, phải tạo điều kiện cho sinh viên thấm nhuần các giá trị văn hóa, thẩm thấu nền văn hóa dân tộc, làm cho văn hóa gắn kết với tất cả các hoạt động của sinh viên từ hoạt động học tập đến các hoạt động xã hội khác, để biến sinh viên thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên nếu không đi qua con đường văn hóa, hoặc môi trường sống thì sẽ tạo ra một lớp sinh viên thiếu chủ động, thiếu trung thực, thiếu trách nhiệm... Nhân cách đạo đức sinh viên trong bản chất đích thực của nó phải là văn hóa đạo đức, là trình độ nhận thức của bản thân cá nhân để thực hiện các chức năng xã hội mà bản thân cá nhân ấy đảm nhiệm và góp phần mình vào quá trình sáng tạo văn hóa. Thứ ba: Xây dựng môi trường đại học lành mạnh, tạo những điều kiện thuận lợi về vật chất, tinh thần có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên. ở đây, cần chú ý mấy vấn đề sau: - Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ, công nhân viên trong nhà trường. Giáo dục đại học không chỉ giáo dục sinh viên về mặt tri thức mà còn giáo dục cả đạo đức, lối sống cho sinh viên. Trong môi trường này, nhân cách đạo đức sinh viên phát triển và được định hình rõ rệt. Vì vậy, nhà trường cần phải giữ gìn kỷ cương và nề nếp học đường, các thầy, cô giáo trong ứng xử, trong hành vi đều định hướng cho sự phát triển nhân cách của sinh viên. Thầy cô giáo phải là "tấm gương sáng cho học sinh noi theo". Thầy, cô giáo không chỉ là người góp phần làm giàu vốn tri thức, hiểu biết cho các thế hệ sinh viên bằng hoạt động dạy học và nghiên cứu khoa học, mà điều quan trọng hơn là thông qua quá trình giáo dục làm hình thành ở sinh viên những hoài bão, ước mơ, lý tưởng, tình cảm đạo đức, hun đúc trong họ lòng tự hào dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt là những thầy cô giáo dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn như: Văn hóa, Đạo đức, Triết học... thì nhiệm vụ giáo dục để góp phần xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên càng có vị trí quan trọng hơn. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ giáo viên này vừa thiếu, lại vừa yếu không đủ sức truyền cảm, sức hút của những môn học này đến đa số sinh viên, nhất là sinh viên các trường kỹ thuật. Điều này dẫn đến tình trạng một bộ phận sinh viên coi nhẹ các môn học này, coi đó là môn phụ, học cho qua chuyện, học chống đối... Để góp phần khắc phục tình trạng này, Đảng và Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích đào tạo, nâng cao trình độ của giảng viên các môn lý luận Mác - Lênin, nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học này. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến môn Đạo đức học môn học góp phần tích cực vào việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên trong các trường đại học. Theo ý nghĩa ấy, các trường đại học cần hoàn thiện đội ngũ cán bộ giảng viên của mình, không ngừng nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức, đáp ứng những yêu cầu về đức, tài cụ thể mà Luật công chức nhà nước đã ban hành. - Xây dựng các tập thể trong sạch, vững mạnh, có nếp sống văn hóa đạo đức, tạo môi trường thuận lợi để cá nhân phát triển nhân cách đạo đức. Tập thể là sự thể hiện mối liên hệ giữa những người có tiếp xúc thường xuyên với nhau trong một tổ chức nhất định mà họ sinh hoạt. ở đây, họ cùng hoạt động, giúp đỡ, tương trợ nhau để đạt mục đích, nhiệm vụ chung. Nếu không có những đặc điểm trên thì sự liên kết ấy chỉ là những nhóm người, những đám đông chứ không được gọi là tập thể. Xây dựng một tập thể có nếp sống lành mạnh là môi trường xã hội trực tiếp, tốt nhất để trong đó mỗi sinh viên hình thành và phát triển nhân cách đạo đức của mình. Chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có những phương tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình, chỉ có trong cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân. Chính trong cộng đồng ấy, ý thức tập thể, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, tính trung thực...của người sinh viên được biểu hiện và phát triển, đó chính là những nền tảng để xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên. Xây dựng tập thể có nếp sống lành mạnh trong trường đại học được biểu hiện chủ yếu qua xây dựng nếp sống trong học tập, trong sinh hoạt tập thể và xã hội...trong đó, đặc biệt quan tâm xây dựng nếp sống mới trong học tập cho sinh viên. Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo trong suốt thời gian ở trường đại học để tiếp nhận tri thức, kỹ năng để phục vụ hoạt động thực tiễn của bản thân sau này. Xây dựng nếp sống trong học tập cần quán triệt những khía cạnh sau: + Xây dựng thói quen chấp hành kỷ luật trong học tập: Đi học đúng giờ, nghỉ học có lý do, nghỉ học không vượt quá thời gian qui định là 20% số tiết trên tổng số tiết của môn học. +Xây dựng tính tự giác, trung thực trong học tập, nghiêm túc trong thi và kiểm tra. + Giáo dục tinh thần tương trợ, giúp đỡ nhau trong học tập giữa những sinh viên trong cùng tập thể. Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên sẽ đạt hiệu quả cao khi quán triệt quan điểm đồng bộ trong quá trình tạo ra môi trường xã hội lành mạnh. Tạo ra một môi trường chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa - tinh thần, một tập thể lành mạnh sẽ có tác động tích cực đến xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên. Tuy nhiên, cần thấy rằng, cơ chế thị trường ở nước ta dù có sự quản lý của Nhà nước vẫn mang trong mình những khuyết tật của nó. Vì vậy, phấn đấu xây dựng một môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội lành mạnh là một vấn đề khó khăn, phức tạp và lâu dài. Muốn có một nhân cách đạo đức tốt đòi hỏi mỗi sinh viên phải cố gắng phấn đấu, rèn luyện đáp ứng được yêu cầu của nền giáo dục và đào tạo hiện nay. Vì "môi trường lành mạnh" chỉ mang ý nghĩa tương đối và chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ cho việc xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên. 2.3.2. Đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của nhân cách, nhân cách đạo đức như: giáo dục, giao tiếp, hoạt động tập thể, nhóm... thì giáo dục đạo đức luôn giữ vai trò chủ đạo. Trong quan hệ với nhân cách đạo đức, các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp lý, hay nói rộng ra là đời sống văn hóa đạo đức tinh thần của xã hội mới chỉ tồn tại như là môi trường, là điều kiện đối với sự phát triển của nhân cách đạo đức. Để tạo ra quá trình chuyển hóa những giá trị văn hóa đạo đức xã hội thành những giá trị văn hóa đạo đức cá nhân, qua đó để phát triển nhân cách đạo đức thì công tác giáo dục đạo đức có một vai trò đặc biệt quan trọng. Đây cũng là bản chất của quá trình giáo dục đạo đức, đó chính là quá trình chuyển những tri thức, những kinh nghiệm, những chuẩn mực và lý tưởng đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm phát triển ý thức đạo đức, năng lực đạo đức của mỗi cá nhân trong các quan hệ đạo đức xã hội. Cùng với việc thay thế cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bằng cơ chế thị trường ở nước ta, các quan hệ xã hội, đặc biệt là những nguyên tắc, những chuẩn mực đạo đức cũng có sự dịch chuyển giá trị của nó. Nhiều chuẩn mực đạo đức truyền thống vẫn giữ nguyên giá trị nhưng dễ bị hiểu nhầm, xuyên tạc. Nhiều phản giá trị đạo đức truyền thống mới được du nhập lại có thể được ngộ nhận coi đó là những chuẩn giá trị mới. Muốn khắc phục tình hình trên, nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục đạo đức là phải kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và những tinh hoa đạo đức nhân loại, coi đó làm cơ sở để xây dựng nhân cách đạo đức người sinh viên xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ nảy sinh trong sinh viên. Điều này không chỉ mang ý nghĩa ngăn cản sự suy thoái đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên mà quan trọng hơn là góp phần củng cố niềm tin của họ đối với Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay. Thực hiện được các nhiệm vụ trên, trước hết phải xuất phát từ những nguyên lý cơ bản của Đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, định hướng các giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên cho phù hợp với hiện thực cuộc sống hôm nay, làm cơ sở quan trọng trong quá trình xây dựng nhân cách đạo đức mới cho đội ngũ tri thức tương lai. Tuy nhiên, việc thực hiện các giải pháp giáo dục đạo đức là trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức xã hội và của toàn xã hội. Nó phản ánh quá trình tổ chức giáo dục xã hội và tự giáo dục rèn luyện, trong đó mỗi cá nhân vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình giáo dục đạo đức nói riêng và quá trình hoàn thiện nhân cách đạo đức nói chung. Không nên coi việc giáo dục đạo đức chỉ nằm trong khuôn khổ giáo dục của nhà trường, của các thầy, cô giáo. Song cần phải khẳng định rằng, giáo dục đạo đức trong nhà trường để xây dựng một nhân cách đạo đức tốt đẹp cho sinh viên chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng. Đáp ứng những yêu cầu về đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên theo chúng tôi cần giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất, Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng phải chú trọng cả đức và tài, phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức, kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Việc giáo dục đạo đức sau năm 2000 cần được tiến hành theo các phương hướng sau: + Thông qua con đường dạy môn Đạo đức học trong các trường đại học. + Xây dựng một chương trình "tổ chức giáo dục ngoài giờ lên lớp" với các yêu cầu và nội dung nhất định, nhằm củng cố nhận thức, hình thành niềm tin, rèn luyện hành vi, kỹ năng, thói quen ứng xử có văn hóa phù hợp với các chuẩn đạo đức xã hội. + Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên được coi là một biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và chất lượng giáo dục đạo đức trong trường học [20, tr. 172]. Nếu trước đây, chúng ta xây dựng một mẫu người lý tưởng tất cả vì tập thể, vì xã hội thì hiện nay, do đòi hỏi của kinh tế thị trường, cần giáo dục để hình thành và khẳng định nhân cách cá nhân trên cơ sở nhận thức đúng đắn và giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Giáo dục đạo đức không thể phiến diện, một chiều mà phải là quá trình giáo dục toàn diện cả những chuẩn mực chung của đạo đức xã hội và những phẩm chất đạo đức cá nhân, đạo đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp, lý tưởng đạo đức và lý tưởng chính trị... Những giá trị đạo đức truyền thống phải được đánh giá lại, đổi mới và bổ sung cho phù hợp với điều kiện hiện nay, như lòng yêu nước, tính trung thực, lòng vị tha,tinh thần kỷ luật...Đồng thời, khẳng định tính phổ biến của những chân giá trị mới, góp phần làm nên sự phát triển của dân tộc, thành công của công cuộc đổi mới đất nước hôm nay như: học vấn, sáng tạo, sức khỏe, tự lập, lòng tự trọng... Và sự chuyển đổi giá trị đạo đức phải xử lý làm sao để chủ thể giá trị phát huy được tính tích cực cao nhất, vừa làm cho sản xuất phát triển, kinh tế ngày càng tăng, vừa phải nâng cao trình độ tư tưởng, đạo đức, văn hóa cho con người, chống thái độ bảo thủ, đề cao quá mức truyền thống mà coi nhẹ, phủ nhận đổi mới. Mặt khác, phải chống thái độ "hư vô", đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị đạo đức truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng của người khác, dân tộc khác. - Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức với giáo dục luật pháp và thực hiện nghiêm minh luật pháp trong xã hội. ý thức đạo đức và ý thức pháp luật có mối liên hệ biện chứng và đều có chức năng chung là điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm bảo toàn và phát triển xã hội. Trong một xã hội cụ thể, đạo đức và pháp luật về cơ bản thống nhất ở mục đích, ở định hướng tinh thần nhưng lại có nhiều điểm khác nhau về hình thức biểu hiện [30, tr. 70-71]. Những chuẩn mực đạo đức và những chuẩn mực pháp lý là sự phản ánh lợi ích của xã hội bằng những yêu cầu, những mệnh lệnh ngăn cấm, bắt buộc hoặc khuyến khích. Chuẩn mực pháp lý tạo ra một hành lang tối thiểu để con người không được vượt ra ngoài hành lang đó, nhằm ổn định xã hội ở mức độ tối thiểu. Nó mang tính chất cưỡng bức. Vì vậy, những chuẩn mực pháp lý còn được coi là những chuẩn mực đạo đức tối thiểu. Vi phạm chuẩn mực pháp lý cũng đồng nghĩa với vi phạm đạo đức và thực hiện những chuẩn mực pháp lý một cách tự giác cũng chính là thực hiện những hành vi đạo đức. Giáo dục pháp luật có một vai trò quan trọng trong việc đổi mới công tác giáo dục đạo đức.Về bản chất, giáo dục pháp luật là một hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, nhằm tác động lên đối tượng giáo dục hình thành trong họ những tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Đồng thời, giáo dục pháp luật tạo ra những khả năng thiết lập những nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho mỗi người, cho mỗi sinh viên. Nó trang bị cho sinh viên nắm vững những chuẩn mực pháp lý. Đây không chỉ là cơ sở cho sinh viên thực hiện nghĩa vụ pháp lý mà còn là cơ sở để họ thực hiện những nghĩa vụ đạo đức tối thiểu của con người. Khi con người luôn có ý thức đầy đủ và do đó tự thực hiện những nghĩa vụ pháp lý thì tới một thời điểm nhất định, một giới hạn nhất định, sự tự giác đó sẽ chuyển thành tự nguyện. Khi đó con người có nhu cầu ham muốn thực hiện nghĩa vụ pháp lý và chính tại thời điểm này, việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý đã chuyển thành việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Sự chuyển hóa này khẳng định vai trò của việc kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách đạo đức sinh viên. 2.2.3. Nâng cao vai trò của các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên trong việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên hiện nay Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với tư cách là tổ chức chính trị xã hội, tổ chức cộng sản, là đại biểu cho lợi ích của sinh viên. Đoàn không những có nhiệm vụ giúp Đảng tổ chức, chăm lo và giáo dục thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng theo mục tiêu đào tạo con người mới của Đảng và Nhà nước. Đoàn và Hội sinh viên Việt Nam còn có nhiệm vụ chủ yếu là tham gia vào việc giáo dục lý tưởng, niềm tin cách mạng, tuyên truyền tư tưởng chính trị, định hướng và uốn nắn họ thực hiện lối sống lành mạnh, văn minh, có ý thức đạo đức trong sáng... tức là góp phần tạo lên một thế hệ sinh viên có đủ đức, đủ tài. Đoàn chính là nơi sinh viên có thể bộc lộ những quan điểm, ước mơ, bầy tỏ tình cảm cũng như những hiểu biết của mình về các vấn đề khác nhau trong xã hội. Thông qua các hình thức sinh hoạt Đoàn chúng ta có thể nắm bắt chính xác tình trạng, xu hướng tâm lý, trình độ nhận thức các vấn đề chính trị - xã hội, tâm tư, nguyện vọng của họ.Thông qua những hình thức sinh hoạt đó, người làm công tác Đoàn, công tác giáo dục sinh viên có thể tìm ra những biện pháp, nội dung thích hợp để tác động đến quá trình hình thành nhân cách, nhân cách đạo đức của sinh viên theo hướng tích cực. Có thể nói, Đoàn là trường học giáo dục nhân cách, nhân cách đạo đức có hiệu quả nhất đối với sinh viên trong các trường đại học. Vì vậy, nâng cao vai trò của Đoàn thanh niên có một ý nghĩa quan trọng và bức thiết trong việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, ngay từ khi ra đời đã lấy lý tưởng phấn đấu hết mình vì độc lập tự do của dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội làm tôn chỉ, mục đích hoạt động của Đoàn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại Đoàn đã trưởng thành về mọi mặt. Đoàn là nơi tổ chức, tập hợp, lôi kéo đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia đi đầu trong các phong trào, các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc và trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay. Đã có biết bao đoàn viên ngã xuống và các thế hệ sau lại tiếp bước thế hệ trước viết lên những trang sử vẻ vang của Đoàn. Tổ chức Đoàn tạo ra một môi trường phấn đấu, rèn luyện lý tưởng nhất cho phong trào thanh niên, sinh viên vươn lên lập nghiệp, làm giàu cho bản thân, làm giàu cho tổ quốc. Lúc sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm và đòi hỏi Đoàn phải làm tròn nhiệm vụ là nơi đoàn kết, tập hợp thanh niên, sinh viên để giúp Đảng giáo dục họ thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Bác khẳng định muốn củng cố và phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên, phải biết tổ chức các phong trào thi đua, tạo môi trường tốt nhất cho thanh niên, sinh viên cống hiến và hưởng thụ. Bác đòi hỏi Đoàn khi đề xuất một phong trào thi đua phải có định hướng đúng, có kế hoạch thực hiện cụ thể, có nội dung thi đua thiết thực, rõ ràng, có sự lãnh đạo, chỉ đạo theo dõi thường xuyên. Có làm như vậy phong trào Đoàn mới thực sự phát triển, thực sự là cánh tay phải, đội hậu bị tin cậy của Đảng trong giáo dục và rèn luyện để hình thành nhân cách, nhân cách đạo đức trong sáng cho thanh niên, sinh viên. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều hoạt động sáng tạo thúc đẩy các phong trào "Thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước" và đặc biệt từ năm 2000, năm thanh niên Việt Nam phong trào "Thanh niên tình nguyện" đã thu hút đông đảo sự tham gia của sinh viên các trường trong cả nước. Nhìn chung, tất cả các đoàn viên, sinh viên đều có ý thức chính trị đúng đắn, gương mẫu và cố gắng trong học tập, rèn luyện, luôn có ý thức phấn đấu trở thành đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Những thành tựu đã đạt được, trước hết là kết quả của đường lối lãnh đạo và chính sách đúng đắn của Đảng, sự quản lý của Nhà nước (thông qua Bộ giáo dục và đào tạo, sự kết hợp liên ngành). Đồng thời đó chính là kết quả của những phương thức hoạt động phong phú, đa dạng, có hiệu quả từ Trung ương Đoàn, Hội sinh viên Việt Nam và các Đoàn trường đại học, đoàn cơ sở. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác chỉ đạo Đoàn thanh niên và Hội sinh viên các cấp nhìn chung còn có nhiều bất cập, như: thiếu cụ thể hóa các chương trình, kế hoạch nhằm đáp ứng những vấn đề bức xúc trong sinh viên; chưa thực sự đi sâu đi sát sinh viên; việc kiểm tra, đôn đốc và tổng kết các mô hình hoạt động chưa kịp thời. Một số cán bộ Đoàn, Hội viên nòng cốt còn ỷ lại, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên nên thiếu sự năng động, sáng tạo. Hoạt động của Đoàn, Hội phần lớn mới chỉ thiên về bề nổi mà thiếu đi chiều sâu, chỉ thu hút được một bộ phận sinh viên tích cực hoạt động (xem bảng phần thực trạng). Để phát huy hơn nữa vai trò của Đoàn, Hội sinh viên trong việc xây dựng nhân cách, nhân cách đạo đức cho sinh viên, Đại hội đại biểu Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VI đã đề ra những mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ cơ bản của công tác Hội và phong trào sinh viên Việt Nam nhiệm kỳ 1998 - 2003: là tổ chức rộng rãi, đa dạng các hoạt động hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho sinh viên học tập, nghiên cứu khoa học...quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của sinh viên, nhất là những bạn sinh viên gặp khó khăn...Hướng dẫn tổ chức và cổ vũ cho sinh viên tích cực tham gia các hoạt động xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh trong nhà trường. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đã đề ra cần chú ý thực hiện những vấn đề sau: - Trước hết, người cán bộ Đoàn, Hội cần nâng cao phẩm chất, năng lực hoạt động của mình. Họ cần có những phẩm chất, năng lực nhất định, có thể nắm bắt thực chất, diễn biến tư tưởng, tình cảm của đoàn viên của mình một cách chính xác. Đồng thời, họ phải có khả năng tìm ra những giải pháp khả thi để giáo dục, rèn luyện, định hướng sự phát triển nhân cách sinh viên theo những xu hướng tích cực trong sự tác động hai mặt của nền kinh tế thị trường hiện nay. Thứ hai, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên cần có nội dung và hình thức giáo dục sinh động, phong phú. Cụ thể là: + Giáo dục cho sinh viên có động cơ học tập đúng đắn, tạo tính trung thực, tự giác, sáng tạo trong học tập thông qua các phong trào: "Học vì ngày mai lập nghiệp", "Tuần khoa học", " Triển lãm sáng tạo"...Tổ chức các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng Quỹ tài năng cho sinh viên thúc đẩy động cơ học tập, tạo bầu không khí thi đua học tập, nghiên cứu khoa học trong sinh viên. Đồng thời tăng cường hơn nữa hoạt động tình nguyện trong sinh viên, thành lập các đội công tác có tính tổng hợp. Trong một đội có nhiều thành viên ở các trường hợp lại cùng giải quyết các vấn đề khó khăn tại cơ sở đến làm tình nguyện. Như vậy, tăng cường sự giao lưu giữa các trường và đạt hiệu quả cao trong công tác này. + Mặt khác, cần đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao như diễn đàn, giao lưu văn hóa văn nghệ, thể thao, thi tìm hiểu những vấn đề chính trị, văn hóa... đáp ứng các nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao trong sinh viên khi ngành giáo dục đa số áp dụng chế độ làm việc 40 giờ/ một tuần. - Thứ ba, khắc phục khó khăn cho sinh viên khi ra trường kiếm việc làm, Đoàn, Hội nên tổ chức những buổi nói chuyện, những trung tâm tư vấn, giới thiệu việc làm cho sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên có thông tin nghề nghiệp, việc làm và chọn nơi dự tuyển. Việc thực hiện cầu nối giữa đào tạo và sử dụng mà ở một số Đoàn trường đã làm được sự ủng hộ của đông đảo sinh viên và xã hội. Nó đã góp phần giúp sinh viên hoàn thiện những yếu tố đòi hỏi của thị trường sức lao động và giúp học có việc làm, tránh bị xô đẩy, bị ảnh hưởng bởi tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. - Thứ tư, trong quá trình triển khai các hoạt động, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy cùng cấp, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cần có sự kết hợp đồng bộ liên hệ chặt chẽ với Ban giám hiệu nhà trường và với Công đoàn phòng Công tác chính trị ...để có những hoạt động phối hợp trong toàn trường, tăng hiệu quả công tác vận động, giáo dục cho sinh viên. Đoàn thanh niên, Hội sinh viên góp phần quan trọng trong việc xây dựng môi trường đại học trong sạch, kiểu mẫu của những người thanh niên có học vấn cao. ở đấy, mọi người sống văn minh, lịch sự, giúp nhau định hướng cuộc sống, say mê lý tưởng, hoài bão, vượt qua mọi khó khăn trong học tập, thiếu thốn trong cuộc sống. Đây chính là nơi đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, những biểu hiện thiếu văn minh. 2.2.4. Phát huy tính tích cực xã hội của sinh viên, góp phần xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 1992, trang 964 viết: "Tích cực là sự tỏ ra chủ động, có những hoạt động nhằm tạo những biến đổi, thay đổi; Hoặc: hăng hái, tỏ ra nhiệt tình đối với nhiệm vụ, với công việc". Ví dụ: tính tích cực học tập, tính tích cực hoạt động thể thao... ẩn sâu trong tính tích cực hoạt động là động cơ hoạt động. Động cơ hoạt động trong xã hội chính là những nhu cầu được nhận thức, được trở thành ý thức của con người. Xem xét dưới góc độ là một hiện tượng xã hội, tính tích cực xã hội (tính tích cực xã hội) của sinh viên bao gồm hai mặt thống nhất biện chứng với nhau: Tính tích cực xã hội hoạt động tinh thần và tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn. Trong đó, tính tích cực xã hội hoạt động tinh thần có nguồn gốc từ Tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn, định hướng cho tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn và đồng thời lại được thể hiện qua tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn. Nó bao gồm toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tri thức của sinh viên về xã hội và con người, thể hiện thái độ tích cực của chủ thể sinh viên trong quan hệ đối với xã hội. Nếu tính tích cực xã hội hoạt động tinh thần của sinh viên là sự phản ánh tồn tại xã hội, điều kiện xã hội mà sinh viên sống và học tập, thì tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn của sinh viên là toàn bộ những biểu hiện cụ thể của hoạt động thực tiễn của sinh viên tác động vào điều kiện, hoàn cảnh xã hội. Những hoạt động này cải tạo điều kiện, hoàn cảnh xã hội hiện thực nhằm thực hiện lợi ích, thỏa mãn nhu cầu của chủ thể hoạt động [58, tr. 29]. Khi bàn đến việc phát huy tính tích cực xã hội của sinh viên phải tính đến việc giáo dục nhu cầu, giáo dục mục đích, động cơ học tập. Sinh viên muốn có một nhân cách đạo đức trong sáng, trước hết mọi động cơ học tập và rèn luyện của họ phải được xác định đúng đắn. Khi công tác giáo dục, giáo dục đạo đức không đạt đến giới hạn ấy thì tính tích cực xã hội của họ sẽ không đáp ứng được những gì mà chúng ta mong muốn. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục cho thanh niên, C. Mác đã khẳng định tương lai của cả loài người phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ thanh niên đang lớn lên và nhiệm vụ chủ yếu của họ là nhiệm vụ học tập. Lê nin còn chỉ rõ: "chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa cộng sản từ tổng số những kiến thức, các tổ chức và thiết chế bằng các số dự trữ nhân lực và vật lực mà xã hội cũ để lại cho chúng ta thì chúng ta mới có thể bằng những cố gắng của thế hệ trẻ đạt được kết quả là xây dựng lên... Chúng ta phải dạy dỗ những gì và thanh niên phải học như thế nào. Chúng ta phải chuẩn bị cho thanh niên như thế nào để cho họ biết xây dựng đến cũng và hoàn thành triệt để cái sự nghiệp mà chúng ta bắt đầu" [32, tr. 230]. Trong hệ thống các biện pháp tác động vào tính tích cực xã hội của con người nói chung, sinh viên nói riêng, Hồ Chí Minh chú trọng đầu tiên đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng chủ nghĩa xã hội và đạo đức cách mạng. Người nói: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân; Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ; Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội" [13, tr. 22], nên việc giáo dục thanh niên, sinh viên trước hết là phải sống có lý tưởng, có ý chí quyết tâm cao, kiên trì, khổ luyện, vượt qua mọi khó khăn gian khổ để đạt được mục tiêu lý tưởng là một việc làm có ý nghĩa quan trọng. Người căn dặn thanh niên, sinh viên: "Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên" [42, tr. 95] và điều gì phải thì cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái thì hết sức tránh dù là điều trái nhỏ. Nhiệm vụ của người thanh niên trí thức là học, học để phụng sự Tổ quốc, học để phục sự nhân dân, làm ho dân giàu, nước mạnh. Đối với thanh niên trí thức cần phải đặt câu hỏi: học để làm gì ? học để phụng sự ai ? Học phải đi đôi với hành, chỉ biết lao động trí óc mà không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không biết thực hành thì trí thức ấy mới chỉ đạt được một nửa.Người nhấn mạnh phải giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên để họ vừa "hồng", vừa "chuyên" vừa có đức, vừa có tài, đức là gốc cách mạng. Khi đã xác định được động cơ, mục tiêu lý tưởng đúng đắn là yếu tố dẫn đến tích tích cực xã hội của chủ thể hoạt động. Như chúng ta đã biết nhân cách, nhân cách đạo đức chỉ được hình thành và phát triển thông qua hoạt động của con người. Bởi bản chất con người, trong tính hiện thực của nó là tổng hòa của các quan hệ xã hội, mà những quan hệ xã hội lại chỉ có thể được bộc lộ thông qua hoạt động của con người. Vì vậy, giáo dục để phát huy tính tích cực xã hội của con người nói chung, sinh viên nói riêng góp phần quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách đạo đức. Tuy nhiên, TTCXH chỉ có vai trò thúc đẩy sự phát triển nhân cách đạo đức khi hoạt động của nó có giá trị đối với con người, không những ở kết quả mà còn ở nội dung và ý nghĩa xã hội của nó. TTCXH với nghĩa là năng động, chủ động, hành động. Vì vậy, trong thực tế có TTCXH tiến bộ thúc đẩy sự phát triển của xã hội, của nhân cách và ngược lại cũng có cái chủ động, hoạt động lạc hậu, phản động, kìm hãm sự phát triển xã hội. Nói tới TTCXH sinh viên, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến tính chủ động, năng động, hành động tiến bộ trong sinh viên. Theo nghĩa này, thì không phải mọi hoạt động mà xuất phát từ nhu cầu của sinh viên đều là cơ sở của TTCXH của họ. Chỉ có những hoạt động xuất phát từ những nhu cầu hợp lý, tức là những nhu cầu vừa hợp với những trạng thái hiện có của nền kinh tế - xã hội, vừa hướng tới nền văn minh nhân loại, mới là cơ sở của TTCXH của sinh viên. Trong thực tế có một bộ phận sinh viên có nhu cầu mặc đẹp, ăn ngon nhưng không lao động, thích cuộc sống tự do, buông thả, coi thường những qui định chung của xã hội...Để đạt được những ham thích này, họ chủ động, năng động, thậm chí làm bằng mọi cách thỏa mãn nhu cầu của mình. Đây không thể là cơ sở nảy sinh TTCXH và càng không thể là tác nhân xây dựng nhân cách đạo đức trong sáng cho mỗi sinh viên. kết luận Nhân cách đạo đức là phẩm chất tiêu biểu nhất, là "cái gốc" làm nên nhân cách con người. Vì vậy, việc xây dựng con người mới nói chung và xây dựng các thế hệ sinh viên mới nói riêng đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc xây dựng đất nước hiện nay gắn liền với việc xây dựng nhân cách đạo đức của họ. Việc phân tích cấu trúc của nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên cho chúng ta hiểu rõ thêm vai trò của nhân cách đạo đức trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhân cách của người sinh viên, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam. Nhân cách đạo đức của sinh viên được hình thành và phát triển bị qui định bởi các yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần của xã hội và cũng bị qui định bởi chính những đặc điểm nội tại của bản thân mỗi sinh viên. Đó là, đặc điểm về tâm sinh lý lứa tuổi, đặc điểm của hệ thống nhu cầu, lợi ích của sinh viên trong hoạt động học tập, nghiên cứu và hoạt động xã hội. Nhân cách đạo đức chỉ được hoàn thiện và phát triển khi giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Sự qui định lẫn nhau và tác động lẫn nhau của lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân cách đạo đức. Đồng thời sự phát triển của nhân cách đạo đức còn chịu sự tác động mạnh mẽ của truyền thống đạo đức, chịu sự qui định của nhân tố văn hoá tinh thần xã hội. Nhìn chung, thực trạng sinh viên hiện nay đang biến đổi theo xu hướng tích cực trên nhiều mặt của nhân cách đạo đức. Tuy nhiên, còn một bộ phận sinh viên có nhân cách đạo đức suy thoái biểu hiện ở sự xa rời những giá trị đạo đức tốt đẹp trong truyền thống của dân tộc thiếu quan tâm tìm hiểu đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tiếp nhận ồ ạt những sản phẩm văn hóa không lành mạnh, du nhập lối sống thực dụng của Tâu Âu... Vì vậy, để xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên hiện nay cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh là giải pháp đầu tiên tạo cơ sở cho quá trình xây dựng nhân cách đạo đức của sinh viên. Đó chính là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập môi trường văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và trực tiếp hơn là xây dựng môi trường đại học lành mạnh. Đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới nội dung, hình thức giáo dục, phải chú trọng cả đức và tài. Nâng cao vai trò của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam trong việc phát huy tính tích cực xã hội của sinh viên để góp phần xây dựng nhân cách đạo đức cho họ. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Ban Tư tưởng - Văn hóa trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Hoàng Chí Bảo (2001), "Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách", Triết học, (1), tr. 29. 3. Báo Nhân Dân, ngày 6.3.1997. 4. Nguyễn Ngọc Bích (1995), Hồ Chí Minh những vấn đề về tâm lý học, Viện Tâm lý học, Hà Nội. 5. Phạm Xuân Cảnh (1996), Tìm hiểu lối sống của sinh viên Hà nội trong thời kỳ đổi mới, Luận văn tốt nghiệp đại học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 6. A. G. Côvaliôp (1971), Tâm lý học cá nhân, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 7. Chủ nghĩa xã hội và nhân cách (1993), Nxb Giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội. 8. Thành Duy (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành trung ương khóa VII. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (1999), Tổng quan tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong trào thiếu nhi, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 16. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Số liệu thống kê sinh viên kết nạp Đảng năm 2000. 17. Trần Minh Đoàn (2001), Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 18. Nguyễn Tĩnh Gia (1997), "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Nghiên cứu lý luận, (2). 19. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Nguyễn Khắc Hùng, Phạm Hồng Quang (2001), "Thực trạng lối sống sinh viên đại học Thái Nguyên", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. 22. Hoàng Ngọc Hiếu (1976), Luận cương đạo đức học, Trường Lý luận nghiệp vụ, Bộ Văn hóa, Hà Nội. 23. Phan Văn Khải (17.10.2001), "Tạo bước phát triển rõ rệt giáo dục đại học những năm đầu thế kỷ XXI", Báo Giáo dục thời đại. 24. Lương Quỳnh Khuê (1995), Văn hóa thẩm mỹ và nhân cách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Nguyễn Thế Kiệt (1996), "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Triết học, (6). 26. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 27. Vũ Khiêu (chủ biên) (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. 28. Trần Hậu Khiêm, Bùi Công Trang (1997), Đạo đức học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 29. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy", Nghiên cứu lý luận, tháng 1-2. 30. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2000), Đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. A.N. Lêônchiép (1989), Hoạt động - ý thức - nhân cách, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 32. V.I. Lênin (1970), Bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 33. Trường Lưu (chủ biên) (1998), Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội, Nxb Thông tin. 34. C. Mác - Ph. Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 35. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội. 42. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Hồ Chí Minh (1987), Những sự kiện, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 45. Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Nhân cách sinh viên (1981), Tủ sách Trường Đại học Kinh tế kế hoạch. 47. Trọng Nghĩa (5.7.1993), "Thiên tài hay bệnh hoạn", Báo Giáo dục thời đại, (27). 48. Hà Văn Phan (2000), Tìm hiểu thực trạng, phương hướng và những giải pháp giáo dục nhân cách sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng trong điều kiện hiện nay, Đề tài cấp bộ, Trường Đại học Mỏ - Địa chất. 49. Phân viện thành phố Hồ Chí Minh (1996), Đề cương bài giảng Tâm lý học lãnh đạo. 50. Nguyễn Văn Phúc (1999), "Về một số giải pháp xây dựng nhân cách đạo đức hiện nay", Triết học, (4), tr. 5. 51. Nguyễn Văn Phúc (1996), "Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường", Triết học, (5), tr. 15 52. Nguyễn Thị Sáu (1996), Vai trò của đạo đức Mác - Lênin trong giáo dục đạo đức, Luận văn thạc sĩ Triết học, Viện Triết học. 53. Sổ tay Tâm lý học (1990), Nxb Khoa học xã hội. 54. Tạ Ngọc Tấn (1998), Tác động của báo chí đối với việc xây dựng lối sống tích cực của thanh niên, sinh viên hiện nay, Đề tài cấp bộ, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. 55. Đỗ Công Tuấn (1997), Nhu cầu tiêu dùng ấn phẩm văn hóa của thanh niên ngoại thành trong điều kiện kinh tế thị trường, thực trạng và giải pháp tác động, Đề tài cấp bộ, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. 56. Lưu Thu Thủy (12.2000), "Thực trạng tư tưởng - chính trị, đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên qua kết quả khảo cứu tư liệu", Kỷ yếu hội thảo quốc gia "thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng tưởng chính trị, lối sống cho học sinh, sinh viên Việt Nam". 57. Thực trạng tư tưởng và một số dự báo bước đầu về diễn biến tư tưởng của thanh niên sinh viên Hà Nội (1990), Viện NCPT Giáo dục,. 58. Trịnh Trí Thức, Một số nhân tố khách quan tác động đến tính tích cực xã hội của sinh viên Việt Nam trong thời kỳ mới. 59. Lê Thi (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 60. V.I. Va nốp và B.lixin (1985), Đào tạo và giáo dục cán bộ Đoàn, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 61. Văn hóa vì con người (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62. Nguyễn Khắc Vinh (1999), "Xây dựng đạo đức lối sống và chuẩn giá trị xã hội để phát triển toàn diện con người", Thông tin lý luận, (3). 63. Lê Xuân Vũ (1994), "Mấy ý kiến về giáo dục, rèn luyện đạo đức Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, (4). Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: Nhân cách đạo đức, tầm quan trọng của việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên hiện nay 6 1.1. Nhân cách đạo đức và những nhân tố cơ bản qui định sự phát triển của nhân cách đạo đức của sinh viên 6 1.2. Tầm quan trọng và yêu cầu của việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay 33 Chương 2: Nhân cách đạo đức của sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp 44 2.1. Thực trạng và những xu hướng biến đổi nhân cách đạo đức của sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay (qua thực tế các trường đại học khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt Nam) 44 2.2 Những giải pháp cơ bản để xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam 66 Kết luận 83 danh mục tài liệu tham khảo 85

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.pdf
Luận văn liên quan