Trong hệ giá trị và văn hóa tinh thần của nhân loại, đứng trên quan điểm, lý luận và
phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu vấn đề con người cũng như vấn đề
nhân cách ta thấy con người được sinh ra nhưng nhân cách được xây dựng và phát triển
nhờ giáo dục. Đòi hỏi người quản lý và giảng dạy phải hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình xây dựng và phát triển nhân cách học sinh THPT. Nắm vững những đặc
điểm tâm, sinh lý các em. Làm sáng tỏ vị trí và vai trò của môn GDCD trong việc góp
phần thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ nói chung, học sinh THPT nói riêng thành
những người phát triển toàn diện, có đức, có tài trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới
XHCN.
Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh Nam Định qua giảng dạy
môn GDCD là một đề tài nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Trong công cuộc giáo
dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ cho đất nước, Hồ chí Minh luôn nhấn mạnh đến nguyên tắc giáo
dục toàn diện. Người chỉ rõ: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức
dục, trí dục và thể dục”. Một con người có trí tuệ và nhân cách phát triển lệch lạc không
thể là một người chủ xứng đáng của đất nước, của Tổ quốc.
88 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3144 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam Định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trị học…của học sinh.
Trong đội ngũ giáo viên GDCD cấp THPT hiện nay ở Nam Định vẫn còn tình trạng
không ít giáo viên mặc dù được đào tạo đúng chuyên ngành nhưng không thực sự thích
dạy môn học này. Do đó không tâm huyết trong soạn giảng, coi giờ lên lớp chỉ là giờ thời
sự mang tính chất tuyên truyền, thuyết minh đường lối của Đảng và Nhà nước mà không
chú ý tới tri thức khoa học của bộ môn.
Trong khi giảng dạy, một số giáo viên không chú ý tới việc gắn lý luận với thực
tiễn, thực tiễn với lý luận; không chú ý đến hình thành kỹ năng, kỹ xảo, hình thành thái độ,
niềm tin từ kiến thức bài học; xem nhẹ việc xây dựng tư tưởng, đạo đức, nhân cách cho
học sinh khi học môn GDCD.
Bên cạnh đó, một bộ phận giáo viên GDCD còn tâm lý thiếu tự tin, mặc cảm khi
dạy bộ môn này. Họ không cố gắng dùng chính chuyên môn và nghiệp vụ cao, không cố
gắng bằng niềm tin, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của bản thân để cảm hoá và
thuyết phục, để đấu tranh với những quan niệm sai trong đánh giá vị trí môn học.
Khi chấm bài cho điểm một cách đại khái, nâng điểm một cách tuỳ tiện. Đôi khi
miễn cưỡng vào chỉ tiêu thi đua cho điểm cao môn này để gỡ điểm cho các môn khác.
Nhiều giáo viên tự nhận xét kết quả đánh giá chỉ “mang ý nghĩa tương đối”, điều đó có
nghĩa là tính khách quan, chính xác chưa cao.
Như vậy, khi mà tự họ hạ thấp vai trò, địa vị xã hội và giá trị nghề nghiệp của mình
thì nhiệm vụ xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh không thể hoàn thành một
cách trọn vẹn được
Thứ ba, chất lượng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh qua môn
GDCD còn thấp
Qua khảo sát ở một số trường như: THPT Mỹ Tho, Đại An, Nghĩa Hưng C,
Nguyễn Bính, Tống Văn Trân, Nguyễn Du…cho thấy kết quả đánh giá của giáo viên về
học lực của học sinh thông qua điểm số không phản ánh đúng thực chất kết quả học tập .
Hình thức, phương thức kiểm tra, đánh giá tuy giáo viên đã có sử dụng nhiều loại nhưng
sự phối hợp giữa các hình thức, phương pháp trong một đề kiểm tra nhằm bộc lộ những
năng lực của học sinh còn hạn chế.
Phương thức kiểm tra, đánh giá còn đơn điệu, chủ yếu là kiểm tra, đánh giá trong
giờ học trên lớp chưa có kiểm tra, đánh giá ngoài giờ. Mặc dù nội dung môn GDCD gắn
bó chặt chẽ với thực tiễn cuốc sống thực tiễn của học sinh, gắn liền với sự kiện trong đời
sống đạo đức, pháp luật, kinh tế, chính trị xã hội của địa phương, đất nước. Do đó hầu như
kết quả kiểm tra, đánh giá chưa phản ánh được đầy đủ các mặt của học sinh về kiến thức,
kỹ năng, thái độ... Đặc biệt là chưa nâng cao ý thức công dân của học sinh bằng thực hành
trong thực tiễn.
Thứ tư, tài liệu tham khảo, trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy môn
GDCD còn nhiều thiếu thốn
Muốn phát huy hiệu quả vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh
THPT qua môn GDCD thì giáo viên và học sinh cần phải được đáp ứng những phương
tiện và thiết bị dạy học. Tuy nhiên, trong khi các bộ môn khác được chú trọng đầu tư mua
sắm, tư liệu tham khảo khá phong phú thì hầu hết các trường THPT ở Nam Định môn
GDCD chỉ có sách giáo khoa và sách giáo viên. Có thể thấy trong thư viện của các trường,
kể cả những trường đạt chuẩn quốc gia cũng chưa có trường nào đầu tư kinh phí mua sắm
tư liệu tham khảo và trang thiết bị cho môn GDCD. Nhìn chung, thư viện và trang thiết bị
phục vụ cho việc giảng dạy và học tập bộ môn còn nghèo nàn, lạc hậu, mới chỉ đáp ứng
được khoảng 30% nhu cầu.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN
CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNHNAM ĐỊNH QUA GIẢNG
DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
3.1. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH
3.2.1. Phải nâng cao nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò môn giáo dục công dân
trong xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam
Định
Trong nhà trường THPT tất cả các môn học nói chung là cung cấp kiến thức chuyên
ngành, cơ bản, hệ thống và phù hợp với khả năng hoạt động học tập để học sinh tự chiếm
lĩnh một khối lượng tri thức và kỹ năng nhất định. Môn GDCD nói riêng với nội dung tri
thức đặc thù có tác dụng tích cực và trực tiếp nhất trong đào tạo con người, góp phần xây
dựng và phát triển nhân cách toàn diện, đảm bảo sự cân bằng giữa trí tuệ và trái tim, giữa
vốn hiểu biết và tâm hồn cao đẹp cho học sinh.
Hệ thống tri thức GDCD là hệ thống tri thức lý luận được phổ thông hoá, được đời
sống – kinh nghiệm hoá, những khái niệm, phạm trù lý luận chính trị tuy trừu tượng hoá
nhưng lại gắn bó mật thiết với những ví dụ cụ thể, gắn chặt với thực tiễn đời sống mà học
sinh quan tâm tìm lời giải đáp.
Các cấp lãnh đạo và quản lý Sở GD&ĐT nói chung, Ban giám hiệu các trường THPT
trong tỉnh nói riêng cần có sự chỉ đạo kịp thời, quản lý chặt chẽ công tác dạy và học môn
GDCD.
Cần có biện pháp tuyên truyền sao cho tất cả mọi người từ giáo viên, phụ huynh đến
học sinh… có nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn vị trí, yêu cầu của các môn học, đặc biệt là
môn GDCD trong mục tiêu đào tạo toàn diện học sinh THPT. Bản thân học sinh phải xác
định được vị trí, tầm quan trọng, mục đích và động cơ học tập môn GDCD một cách đúng
đắn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: không có thầy tốt thì không có trò tốt. Do đó các
cấp lãnh đạo quản lý cần có những biện pháp đãi ngộ, động viên, khích lệ giáo viên môn
GDCD trong việc tiếp tục học sau đại học. Mặc dù môn này luôn được nhìn nhận từ mọi
phía là môn “phụ”, quan niệm “học cao học làm gì cho khổ”. Hiện nay toàn tỉnh mới có 2
giáo viên GDCD khắc phục khó khăn đi học cao học. Đây là con số quá ít ỏi và đáng buồn
so với các bộ môn khác trong nhà trường phổ thông hiện nay ở Nam Định.
Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong công tác giáo dục, trong xây dựng và
phát triển nhân cách cho các em giáo viên bộ môn phải luôn có ý thức tự học, tự rèn luyện
bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm …
3.1.2. Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông theo
tư tưởng Hồ Chí Minh và theo quan điểm của ĐCSVN
Theo quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin nhân cách là sự phát triển về mặt xã hội
của con người, nhân cách được hình thành qua quá trình hoạt động, giao tiếp, đặc biệt là
qua giáo dục và tự giáo dục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ vĩ đại, một nhân cách lớn lao
mà còn là một nhà giáo dục lỗi lạc của dân tộc Việt Nam s[1,5 ]. Trong cuộc đời hoạt động
của mình.Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Người nhắc nhở: “đoàn viên và thanh niên ta nói
chung là tốt…Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên””[t12,tr498].
Theo tư tưởng của Người công việc quyết định nhất của xã hội suy cho cùng chính là
giáo dục cho học sinh thành người, làm người và ở đời, làm cho mọi học sinh trở thành
nhân cách có văn hoá.
Giáo dục và tự giáo dục thành người, làm người trước hết là hình thành được ở mỗi
em tư cách, đạo đức, tính cách cùng năng lực và tài năng. Đó chính là nhân cách xuất phát,
đã được phản ánh, đúc kết trong các trước tác lẫn bản thân nhân cách Hồ Chí Minh. Người
luôn nhắc nhở: giáo dục nhân cách là cốt lõi của công việc giáo dục thế hệ trẻ cũng như
của toàn xã hội. Đó là cốt lõi của sự hình thành và phát triển con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng con người có cấu trúc nhân cách gồm hai thành tố
chủ yếu là “đức” và “tài’, trong đó “đức’’ được coi là nền tảng. Bao gồm: phẩm chất xã
hội (thế giới quan, niềm tin, thái độ chính trị – xã hội), phẩm chất cá nhân (đạo đức, tư
cách cá nhân), phẩm chất ý chí (tính kỷ luật, tính mục đích, tính quả quyết, tính kiên trì,
tính dũng cảm), cung cách ứng xử (tác phong, tính khí).
Bác nhấn mạnh: mục tiêu của nền giáo dục là phải tạo điều kiện cho mỗi em học
sinh được phát triển tối ưu nhân cách của mình.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, trong công cuộc đổi mới để xây dựng và phát triển
đất nước giai đoạn hiện nay Đảng ta rất coi trọng giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách thế
hệ trẻ. Đảng ta coi đây là vấn đề quan trong hàng đầu để xây dựng con người mới, xã hội
mới. Đó là nhiệm vụ phải làm ngay, thường xuyên và lâu dài.
Trong quá trình đổi mới, đất nước ta đang hình thành “hệ giá trị xã hội chuẩn mực
phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”. Những nét cơ bản về
phương hướng giáo dục đạo đức và nhân cách được Đại hội VIII của Đảng xác định là:
“Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hoá dân
tộc, ý chí muốn vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của dân tộc”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: “ Coi trọng bồi dưỡng cho
học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp
bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản
lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại”[tr206,207].
Một trong những nhiệm vụ mà văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung
ương khóa X đã nêu là: “ Tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn
hóa, ý thức công dân để hình thành thế hệ thanh niên có phẩm chất tốt đẹp, có khí phách
và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Với định hướng của Đảng ta về giáo dục, đào tạo toàn diện cho thanh niên học sinh
trong tình hình mới, coi đó là: “chìa khóa để mở cửa vào tương lai” như Văn kiện hội nghị
lần thứ IV Ban chấp hành trung ương khóa VII của Đảng chỉ ra. Quan điểm này đã cho
chúng ta nhận thấy việc giáo dục lẽ sống, lý tưởng sống cho thế hệ trẻ nói chung, cho học
sinh THPT nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược giáo dục. Môn GDCD
cần thiết phải góp phần nhất định vào việc xây dựng và phát triển nhân cách cho các em.
3.1.3. Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh qua môn giáo dục công
dân phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống
Đây là sự tuân thủ nguyên tắc thực tiễn trong giáo dục, là sự vận dụng quan điểm
thực tiễn của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển
nhân cách cho học sinh THPT. Nguyên tắc này là một quan điểm lớn, một nguyên lý cơ
bản của nền giáo dục XHCN. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Giáo dục thanh niên không thể tách
rời mà phải liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh xã hội”[152 - 153]. Bởi vậy, quá trình xây
dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT trong nhà trường phải gắn liền với cuộc
sống luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
Hiệu quả giáo dục không thể cao nếu như trong giảng dạy GDCD giáo viên quá phụ
thuộc vào sách giáo khoa, khiến cho các giờ học nội dung giáo dục quá hàn lâm, nặng về
học thuật, lý luận, thuyết giảng giáo điều, hình thức giáo dục xơ cứng, đơn điệu với lứa
tuổi thanh niên học sinh.
Việc dạy học môn GDCD cần gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống của học sinh,
của lớp học, nhà trường, địa phương. Giáo viên cần hết sức linh hoạt, sáng tạo trong việc
lựa chọn, sử dụng các tình huống, các câu chuyện, thông tin, sự kiện, hiện tượng thực tế ở
địa phương và các vấn đề bức xúc của xã hội để đối chiếu, so sánh, phân tích, lý giải, minh
họa cho nội dung bài giảng.
Đồng thời cũng cần hướng dẫn, khuyến khích cho học sinh liên hệ, tự liên hệ, so
sánh, đối chiếu các hành vi, việc làm của bản thân và những người xung quanh với các giá
trị đã học; tổ chức cho học sinh điều tra tìm hiểu các vấn đề thực tiễn có liên quan đến nội
dung bài học; thực hiện các dự án nhằm xây dựng môi trường lớp học, nhà trường, cộng
đồng ngày một tốt đẹp hơn. Có như vậy bài học GDCD mới trở nên gần gũi, sống động,
thiết thực đối với học sinh và có sức lôi cuốn đối với các em.
Muốn vậy, cần tránh khuynh hướng tách rời giữa lý luận với thực tiễn và thực tiễn
với lý luận, những biểu hiện không đúng trong việc vận dụng những tri thức lý luận của
môn học vào cuộc sống. Không có tri thức của bộ môn nào lại gắn chặt với cuộc sống như
tri thức của môn GDCD. Dường như bất kỳ tri thức nào của nó cũng liên hệ với các hiện
tượng của cuộc sống thường ngày của con người.
Cần hết sức tránh việc chỉ truyền thụ tri thức lý luận làm cho học sinh không tiếp
thu nổi bài học do mức độ trừu tượng và khái quát cao của nó. Đồng thời tuyết đối không
được vận dụng một cách vụng về, hạ thấp giá trị của lý luận.
Tóm lại, trong dạy học môn GDCD giáo viên luôn luôn phải quán triệt sâu sắc
nguyên tắc “học đi đôi với hành”, “lí luận gắn liền với thực tiễn” và phải thấm nhuần quan
điểm mới, quan điểm phát triển. Thông qua việc đa dạng hoá các hoạt động dạy học, gắn
hoạt động dạy học với hoạt động xã hội, hoạt động lao động và hoạt động thực tiễn ở các
địa phương giúp các em xây dựng nhận thức đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan và
củng cố niềm tin, kĩ năng, năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của học sinh.
3.1.4. Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông qua
môn giáo dục công dân phải chuyển thành quá trình tự giáo dục
GDCD trong bản chất và trong mục đích của nó là một khoa học thực hành. Thông
qua môn GDCD giáo viên phải tác động một cách sáng tạo, thành thục để khơi dậy ở học
sinh nhu cầu ham hiểu biết(hiểu biết về xã hội và nhà nước, về luật pháp và chính sách, về
quyền và nghĩa vụ công dân, về đạo đức và trách nhiệm cuộc sống…), ý thức tự giáo dục,
tự điều chỉnh và hoàn thiện bản thân theo chuẩn mực, theo các giá trị được lựa chọn.
Một trong những định hướng cơ bản để có thể phát huy hiệu quả vấn đề xây dựng và
phát triển nhân cách cho học sinh THPT đó là phải nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng
dạy cũng như học tập môn GDCD theo phương châm: biến quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục, tích cực hoá việc học tập của học sinh, tăng cường tính chủ động sáng
tạo của người học, đồng thời tăng cường vai trò định hướng, chủ đạo, vai trò dẫn dắt, điều
chỉnh của giáo viên.
Quá trình giáo dục khi chuyển thành quá trình tự giáo dục, tự tu dưỡng sẽ tạo ra xúc
cảm tự nhiên giúp cho học sinh hình thành niềm tin, khát vọng sống tốt và đẹp, tạo động
lực thúc đẩy các em không chỉ trong nhận thức khoa học mà còn là đạo đức và thẩm mỹ.
Từ đó các em có nghị lực, say mê học tập, chủ động, tích cực đọc sách giáo khoa, tìm hiểu
kiến thức cơ bản; có kỹ năng ứng dụng vào trong tình huống cụ thể, biết lập kế hoạch, lựa
chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện kế hoạch do mình đề ra; có hiểu biết, liên
tưởng, tự liên hệ, tự đánh giá, tự điều chỉnh mình trong quá trình tu dưỡng theo chuẩn mực
và giá trị xã hội.
Nguyên Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Bình đã từng viết: “ Năng lực tự học, tự
đào tạo tiềm ẩn trong mỗi con người. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với
quyết tâm tự học, tự đào tạo thì đó là con đường ngắn nhất để tạo ra nội lực cần thiết cho
sự cần thiết của một con người và cho đất nước”[1]
3.1.4. Đưa môn Giáo dục công dân vào môn thi tốt nghiệp
Giáo viên GDCD cả nước nói chung, ở Nam Định nói riêng có lẽ là người nhận thấy
rõ nhất tri thức khoa học của môn GDCD bao giờ cũng là cơ sở cho việc rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo; là tiền đề xây dựng phương pháp tư duy khoa học, phát triển trí tuệ, phẩm
chất đạo đức, nhân cách, biết hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ.
Với cách nhìn lệch lạc, sự quan tâm chưa đúng mức hiện nay tới môn GDCD từ mọi
phía: từ cấp lãnh đạo quản lý, đến nhà trường, gia đình, xã hội khiến cho giáo viên môn
học này cảm thấy“ức chế”. Nhiều giáo viên đã chuyển từ sự nhiệt tình trăn trở sang dạy
cho xong, hết chương trình, nội dung giáo dục của bộ môn không thật sự phát huy hiệu
quả trong mục tiêu giáo dục toàn diện thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bên cạnh đó nhiều học sinh tỉnh Nam Định không chú trọng học môn GDCD vì đây
không phải là môn thi tốt nghiệp và thi đại học. Luật giáo dục 2005 luôn nhấn mạnh đến
mục tiêu giáo dục toàn diện, chú trọng vấn đề giáo dục nhân cách, phẩm chất và năng lực.
Nên chăng Bộ GD & ĐT nên đưa môn GDCD vào thành môn thi tốt nghiệp và môn thi đại
học khối chuyên ngành hành chính nhà nước. Bởi vì, việc quá tải đối với việc học tập của
học sinh là ở nội dung các môn học chứ không phải ở số lượng môn thi tốt nghiệp.
Môn GDCD nếu được “đối xử” bình đẳng, được đưa vào thi tốt nghiệp THPT như
các bộ môn khác chắc chắn sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy chất lượng dạy và học môn
này, qua đó sẽ nâng cao hiệu quả của môn học đối với việc xây dựng và phát triển nhân
cách học sinh THPT hiện nay.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH
3.1.1. Xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh
Cuộc sống đang vỗ nhịp không ngớt vào từng cuộc đời, có lúc nó lăn tăn âu yếm, có
lúc nó cuộn nguồn thác bể. Cuộc đời mà chúng ta đang tô lên nó màu xanh ước mơ và màu
đỏ khát vọng chính là lứa tuổi học sinh THPT. Nội dung môn GDCD trong nhà trường
THPT hướng học sinh vươn tới những giá trị cơ bản của người công dân Việt Nam trong
thời kỳ CNH, HĐH. đó là những giá trị tốt đẹp để xây dựng nhân cách con người toàn diện
như: có phẩm chất đạo đức tốt, có tri thức khoa học và năng lực nghề nghiệp chuyên môn
vững vàng.
Để thực hiện được mục tiêu đó thì việc hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học
sinh THPT trong học tập bộ môn GDCD là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Muốn
vậy giáo viên GDCD cần phải:
Giúp học sinh nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học. Chỉ ra
cho học sinh thấy bài học và môn học có ý nghĩa gì với cuộc sống, với bản thân các em.
Bởi vì chỉ khi nào học sinh nhận thấy kiến thức bộ môn thực sự thiết thực với bản thân, với
sự hình thành và phát triển nhân cách con người, tư duy khoa học…thì các em mới thấy
nhu cầu cấp thiết mình phải học và từ đó hình thành được động cơ học tập đúng đắn.
Bên cạnh đó giáo viên phải giúp các em xác định được mục tiêu từng bài học cụ thể,
xác định các nhiệm vụ học tập cần phải hoàn thành, hiểu được ý nghĩa của việc hoàn thành
các mục tiêu đó. Từ đó các em tự ý thức phải xây cho mình một kế hoạch học tập, nhiệm
vụ học tập của chính mình. Biết tự kiểm tra, tự đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu
học tập cũng như kỹ năng vận dụng kiến thức vào trong thực tiễn.
Làm được điều đó sẽ giúp các em nhận thức rõ về vai trò, trách nhiệm của mình trong
quá trình rèn luyện đạo đức, lối sống, hoàn thiện nhân cách, phấn đấu vươn lên trong học
tập. Đồng thời hình thành được thói quen chấp hành tự giác, tính tích cực chủ động trong
cuộc sống. Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nhân
cách học sinh để các em trở thành những công dân hữu ích, thành viên tốt trong gia đình,
góp phần xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
3.2.2. Bồi dưỡng, nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ giáo viên môn giáo dục
công dân trong tỉnh
Đứng trên quan điểm sản xuất, giáo dục là một ngành hoạt động sản xuất ra con
người – nhân cách, nó không được tạo ra những sản phẩm tồi, những sản phẩm hỏng,
những sản phẩm “giả khoa học, giả đạo đức”. Đây là đòi hỏi nghiêm túc đối với nhà
trường và nhà giáo nói chung, nhất là giáo viên GDCD phải luôn ý thức và tự ý thức sâu
sắc được điều đó.
Để xây dựng và phát triển nhân cách tốt đẹp cho học sinh người thầy cũng phải tự
giáo dục chính mình. C.Mác đã từng nhấn mạnh: Bản thân nhà giáo dục cũng phải được
giáo dục.
Nâng cao chất lượng giáo viên có vai trò vô cùng quan trọng. Giáo viên GDCD khác
với giáo viên các môn khoa học khác ở chỗ: dạy chữ để dạy người, để rèn luyện nhân cách
con người cho từng học sinh. Do đó đòi hỏi giáo viên bộ môn không chỉ truyền thụ tri thức
khoa học, giúp cho học sinh phát triển năng lực trí tuệ mà còn phải bồi dưỡng cho các em
tình cảm, tâm hồn, những chuẩn mực đạo đức cơ bản, lối sống cao đẹp và cách làm người
trong xã hội, gây dựng ý thức trách nhiệm với cuộc sống, bổn phận, nghĩa vụ với xã hội,
với công việc và con người.
Hồ Chí Minh đã từng nói: Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy là chăm
lo dạy dỗ con em mình thành những công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt,
người cán bộ tốt của nước nhà. Do vậy, giáo viên GDCD phải đóng vai trò là nhà hoạt
động xã hội, tổ chức thực hiện các nội dung thực hành chính trị - đạo đức, luật pháp trong
nhà trường, phải nỗ lực trong việc giáo dục con người.
Giáo viên không né tránh và lẩn tránh sự thật, kể cả những sự thật đáng buồn, những
mâu thuẫn và nghịch lý của sự phát triển hiện nay. Tuy nhiên mỗi bài giảng GDCD phải là
sự định hướng tích cực cho cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Khi phê phán cái sai, cái xấu, cái ác
phải nhằm khẳng định hệ giá trị chân – thiện – mỹ.
Đặc biệt chất lượng giáo viên GDCD còn thể hiện ở chỗ người thầy phải tự thuyết
phục được chính mình, phải có kiến thức, hiểu biết sâu, rộng về xã hội, nắm được những
chuẩn mực sống, phải đem hiểu biết để gây dựng niềm tin thì mới truyền được niềm tin
cho học sinh. Phải hiện diện trước học trò như một nhân cách, tận tụy, trung thực, khiêm
tốn, vị tha, nhân ái qua lao động – dạy học của mình, qua ứng xử, giao tiếp, đối thoại thì
mới đủ sức hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
Ngoài ra, giáo viên phải có sự linh hoạt trong giảng dạy, có nghệ thuật truyền thụ tri
thức, phải căn cứ vào nội dung tri thức môn học để lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp
với đối tượng; giáo viên phải có nghệ thuật thu hút, lôi kéo học sinh say mê học tập, phải
biết cách phát huy tính tự học, tự nghiên cứu bài giảng.
Như vậy, chất lượng của đội ngũ giáo viên thể hiện thông qua kiến thức chuyên
ngành, năng lực sư phạm, năng lực nắm bắt, xử lí thông tin.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác xây dựng và phát triển nhân cách cho học
sinh THPT ở Nam Định giai đoạn hiện nay và trong những năm tiếp theo, Sở GD&ĐT tỉnh
cần thiết phải:
Nắm bắt được số lượng giáo viên ở mỗi trường để và phân công công tác sao cho
đảm bảo được sự cân đối, hợp lý về nhu cầu giáo viên bộ môn giữa các trường THPT trong
toàn tỉnh.
Khuyến khích giáo viên GDCD tích cực hơn trong quá trình phấn đấu không ngừng
nâng cao về tài năng sư phạm, trách nhiệm đạo đức và ý thức chính trị.
Có kế hoạch và giải pháp cụ thể trong sử dụng, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn cho giáo viên bộ môn.
3.2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn giáo dục công dân theo
hướng dạy học tích cực
Khi bàn về phương pháp giảng dạy cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nêu: Trong nhà
trường điều chủ yếu không phải là nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn loạn, tuy rằng
kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho các em phương pháp suy nghĩ, suy
luận, diễn tả, rồi đến phương pháp học tập, nghiên cứu, giải quyết vấn đề. Ở các trường,
điều chủ yếu không phải là rèn trí nhớ mà là rèn trí thông minh.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả nội dung tri thức khoa học của môn GDCD đang được
hoàn thiện trong nhà trường THPT thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn là hết
sức cần thiết và quan trọng.
Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp dạy học nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy
học tích cực là: dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh; dạy học chú trọng
rèn luyện phương pháp tự học; tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác; kết
hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD phải bám sát mục tiêu giáo dục phổ
thông, phù hợp với từng nội dung dạy học cụ thể, với đặc điểm lứa tuổi, tâm sinh lý học
sinh.
Đổi mới phương pháp giảng dạy GDCD còn phải phù hợp với cơ sở vật chất và các
điều kiện dạy học của nhà trường, phù hợp với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả dạy
- học và kết hợp tốt giữa việc tiếp thu, sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các phương pháp
dạy học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp
dạy học truyền thống; tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học hiện
đại…Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi
mới thực sự trong giáo dục phổ thông.
Đồng thời với việc đổi mới phương pháp dạy là đổi mới phương pháp học tập môn
GDCD cho học sinh. Học sinh phải rèn luyện cho mình thói quen tích cực, chủ động trong
học tập, lĩnh hội kiến thức. Tính chủ động của học sinh thể hiện thông qua việc học sinh
chuẩn bị bài, thu thập, tìm kiếm tài liệu có liên quan đến từng bài học, tiết học. Học sinh
hăng hái thảo luận, nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, trình bày quan điểm của cá nhân trước
tập thể và giáo viên, sẵn sàng đưa ra những ý kiến phản hồi…Có như thế giáo viên mới
phát hiện và xử lý, phân loại được từng đối tượng học sinh.
Không chỉ dừng lại ở nhận thức, học sinh phải biết liên hệ, vận dụng kiến thức đã học
vào trong hoạt động thực tiễn sao cho phù hợp và đạt hiệu quả giáo dục, hoàn thiện nhân
cách cho chính mình.
Mỗi học sinh phải tự xác định mình là thành viên tích cực, chủ động để không rơi vào
tình trạng tiếp thu một chiều, coi giáo viên là máy phát còn mình là máy thu. Tập trung
nghe giảng ở trên lớp để có những kiến thức cơ bản của bài học sau giờ giảng đó, tự tạo
cho mình niềm say mê và hứng thú trong học tập.
Chủ động tham gia các buổi thảo luận chuyên đề, các buổi xêmina và tiếp cận các
vấn đề liên quan. Điều đó giúp các em hình thành thói quen quan tâm đến môn học, suy
nghĩ về tầm quan trọng của môn học, tạo hứng thú học tập, mở mang kiến thức.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục công
dân
Để đáp ứng yêu cầu mới của mục tiêu GD&ĐT, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập môn GDCD phải chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát triển tính tích cực, trí thông
minh sáng tạo của học sinh. Khuyến khích các em vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ
năng đã học vào những tình huống thực tế, có thái độ tích cực, đánh giá đúng đắn trước
những vấn đề của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Trước hết giáo viên cần phải đảm bảo tính toàn diện và tính phân hoá trong kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh. Đó là các nội dung trong mục tiêu môn học phải
được kiểm tra đầy đủ và thích hợp. Trong mỗi nội dung kiểm tra phải phân loại được các
học sinh ở những yêu cầu về việc nắm kiến thức, mức độ thành thạo các kỹ năng cơ bản,
thái độ mà học sinh cần phải có khi tham gia quá trình học tập học...Nhằm nâng cao độ
chính xác, trung thực, khách quan, công bằng trong kiểm tra và đánh giá chất lượng học
tập thực sự của học sinh.
Giáo viên cần phối hợp các phương pháp trong việc kiểm tra thường xuyên và kiểm
tra định kỳ môn học như: vấn đáp, viết, trắc nghiệm khách quan, thực hành.... Nhằm tạo ra
sự hứng thú, kích thích tính tích cực trong học tập của học sinh và để điều chỉnh phương
pháp dạy - học. Muốn vậy giáo viên phải vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh
thần trách nhiệm cao với công việc, đầu tư thời gian và công sức trong tìm tòi, nghiên cứu
để có những sáng tạo trong việc kết hợp các phương pháp kiểm tra nhằm thực hiện có hiệu
quả cao các hình thức kiểm tra, đánh giá.
Tăng cường các phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh như:
trong giờ học, ngoài giờ học(hoạt động tập thể, hoạt động chính trị xã hội, tìm hiểu theo
chủ đề tìm hiểu thực tế, viết thu hoạch), nhằm tạo ra sự dân chủ trong học tập, phát huy
tính năng động sáng tạo của học sinh. Qua đó giáo dục ý thức công dân cho học sinh liên
hệ thực tiễn cuộc sống của mình.
Phát triển khả năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh để kết hợp sự đánh
giá của thầy và sự đánh giá của trò nhằm kích thích tính chủ động của học sinh trong học
tập và tăng cường tính khách quan của kiểm tra, đánh giá. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh
kịp thời là năng lực rất cần thiết cho sự thành đạt trong cuộc sống của các em, giúp các em
có sự hiểu biết sâu sắc hơn về quyền lợi, trách nhiệm và vai trò của mình
3.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, và thiết bị dạy học môn
Giáo dục công dân
Nâng cao chất lượng dạy học GDCD ở trường THPT cần đặc biệt chú ý tới yếu tố vật
chất hỗ trợ quá trình dạy học. Qua tìm hiểu thực tế trong quá trình dạy học môn GDCD ở
nhiều trường trong tỉnh cho thấy do thiếu yếu tố này nên nhiều giáo viên gặp khó khăn
trong việc đổi mới phương pháp truyền đạt kiến thức khoa học. Nếu dạy GDCD chỉ tiến
hành dạy chay, sử dụng phương pháp thuyết trình truyền thống theo kiểu thầy đọc trò chép
sẽ mất tính thuyết phục, không hấp dẫn, làm cho giờ học cứng nhắc và buồn tẻ.
Yếu tố vật chất trong giảng dạy GDCD bao gồm: phòng học tiêu chuẩn, máy tính,
máy chiếu, đài, phim ảnh, tài liệu tham khảo và các cơ sở vật chất khác cùng nguồn tài
chính hỗ trợ cho việc dạy học tìm hiểu tham quan thực tế. Yếu tố vật chất là phương tiện
quan trọng để gắn lý luận với thực tiễn, học với hành, làm cho bài giảng sinh động có tính
thuyết phục cao.
Yêu cầu về phòng phương pháp đạt chuẩn với các phương tiện dạy học hiện đại đang
đặt ra cấp bách với hệ thống các trường THPT trong tỉnh hiện nay.
Ngoài ra, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh nên tạo điều kiện cho giáo viên môn học này
có cơ hội được nghe những buổi nói chuyện, báo cáo chuyên đề mang tính thời sự trong
tỉnh, trong nước và quốc tế để giáo viên có thêm kiến thức thực tiễn ngoài kiến thức sách
vở, câu chữ nhằm tăng tính thuyết phục trong bài giảng.
Một thực tế hiện nay là ngoài sách giáo khoa GDCD hầu như không có trường nào
đầu tư kinh phí mua sắm tư liệu tham khảo cho bộ môn này. Do đó giáo viên nên chủ động
trang bị những tư liệu cần thiết cho mình. Bỏ quan điểm trông chờ thư viện nhà trường có
sách gì thì mượn, không có thì thôi. Bên cạnh đó các trường nên khuyến khích giáo viên
bộ môn tích cực trong vấn đề nghiên cứu khoa học, tích cực nêu sáng kiến kinh nghiệm, tự
làm đồ dùng dạy học.
Với tính chất đặc thù của bộ môn nói riêng, nghiên cứu về các quy luật vận động của
tự nhiên, xã hội và tư duy con người, tri thức khoa học bộ môn có liên quan chặt chẽ đến
đường lối lãnh đạo của ĐCSVN, đến định hướng chính trị, tư tưởng, lối sống, đạo đức, lý
tưởng, niềm tin của học sinh…rất cần có phương tiện hỗ trợ để chất lượng mỗi bài giảng
được nâng cao.
3.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, và thiết bị dạy học
môn Giáo dục công dân
Đây là giải pháp đồng thời cũng là kiến nghị chung của tất cả giáo viên giảng dạy
GDCD khối THPT tỉnh Nam Định. Trong ba lần tập huấn thay sách khối 10, khối 11 và
khối 12 mọi giáo viên đều bày tỏ mong muốn Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định quan
tâm hơn nữa đến việc xây dựng cán bộ chuyên môn cho riêng bộ môn này chứ không
muốn để chuyên viên bộ môn văn kiêm nhiệm như hiện nay. Việc để chuyên viên môn
khác sang kiêm nhiệm chuyên môn của môn này làm nhiều giáo viên thấy rằng bản thân
môn này đã không được coi trọng ngay từ cấp Sở.
Mỗi lần có những đợt thanh tra toàn diện các trường, thì bộ môn này phải lấy những
giáo viên đang giảng dạy một số trường đi làm công tác thanh tra, kiểm tra như giáo viên
trường THPT Lê Hồng Phong, trường Trần Hưng Đạo…Như vậy trong một năm có nhiều
đợt đi thanh tra, kiểm tra một số trường theo định kỳ như thế thì giáo viên phải đi làm công
tác bộ môn này đương nhiên không thể giảng dạy theo đúng tiến độ phân phối chương
trình được. Như thế có phải là đi kiểm tra người khác trong khi chính thanh tra không thực
hiện được nhiệm vụ chính là giảng dạy của mình. Sự bất cập này vô hình chung chính là
sự vi phạm quy chế chuyên môn của các thanh tra viên.
Để thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ phân phối chương trình có tính pháp lệnh do Bộ
Giáo dục quy định và đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD, qua đó phát
huy vai trò của bộ môn trong việc xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT,
nhất thiết phải có chuyên viên môn GDCD. Không những để đẩy mạnh công tác thanh tra
việc dạy và học môn này, mà còn để giáo viên bộ môn trong toàn tỉnh có nơi để trao đổi,
thắc mắc và kiến nghị những vấn đề hợp lí liên quan đến chuyên môn về cấp Sở.
Xây dựng chuyên viên môn GDCD, đẩy mạnh công tác thanh tra là một hoạt động
của quản lý giáo dục cần phải được coi trọng và quan tâm thích đáng. Công tác này nếu
không được tiến hành một cách nghiêm túc sẽ tạo ra lỗ hổng ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm
vụ nâng cao vai trò của bộ môn trong xây dựng và phát triển nhân cách cho các em tại tỉnh
Nam Định.
3.2.7. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giáo dục nhà
trường, gia đình và xã hội
Giảng dạy GDCD là giảng dạy đạo đức, lối sống, phẩm chất, truyền thống dân
tộc… cho mỗi cá nhân. Muốn nâng cao chất lượng giảng dạy môn học chúng ta nhất thiết
phải có sự liên hệ và kết hợp với các môi trường mà học sinh đang sống, hoạt động và giao
tiếp - Đó là sự phối kết hợp giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Từ đó mới phát
hiện ra những khuyết điểm, thiếu sót của học sinh để kịp thời giáo dục.
Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khóa X đã chỉ rõ: “Xây
dựng môi trường xã hội lành mạnh để thanh niên rèn luyện, phấn đấu và trưởng
thành”[…,tr44].
Giáo dục nhà trường là một trong những con đường và phương thức giáo dục chủ
đạo, quan trọng bậc nhất dù không phải là duy nhất quyết định. Giáo viên GDCD chủ động
tham mưu cho Ban Giám hiệu tổ chức lồng ghép một số nội dung tri thức bộ môn thông
qua các hoạt động tập thể, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động tìm hiểu thực tế nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục của bộ môn. Nhà trường cần thường xuyên phát huy vai trò
của Hội phụ huynh học sinh trong các hoạt động. Hội phụ huynh phải là cầu nối giữa nhà
trường với các gia đình nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện học sinh.
Khác với giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình gắn liền và theo suốt cuộc đời con
người nên cha mẹ là người hiểu con mình hơn ai hết. Chính vì vậy giáo viên GDCD phải
thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh để nắm bắt cá tính, nhược điểm của mỗi học
sinh, để cùng với các bậc phụ huynh thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng phẩm
chất, nhân cách cho học sinh - thế hệ tương lai của đất nước.
Đồng thời còn phải phát huy vai trò tác động cùng giáo dục của các phương tiện
thông tin đại chúng, của cộng đồng làng, xã và các tổ chức chính quyền địa phương nơi
học sinh sống, học tập…
Đào tạo lớp người mới, thế hệ cách mạng cho đời sau vừa “hồng” vừa “chuyên”
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là công việc và trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và
xã hội. Đây là ba lực lượng giáo dục to lớn, nếu được phối hợp chặt chẽ, cùng thống nhất
một mục đích, một yêu cầu và cùng một phương thức giáo dục sẽ đem lại kết quả giáo dục
tốt đẹp. Không chỉ giúp các em phát triển trí tuệ, năng lực học tập mà còn giúp các em có
môi trường lành mạnh để tu dưỡng rèn luyện về đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống…
KẾT LUẬN
Trong hệ giá trị và văn hóa tinh thần của nhân loại, đứng trên quan điểm, lý luận và
phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu vấn đề con người cũng như vấn đề
nhân cách ta thấy con người được sinh ra nhưng nhân cách được xây dựng và phát triển
nhờ giáo dục. Đòi hỏi người quản lý và giảng dạy phải hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình xây dựng và phát triển nhân cách học sinh THPT. Nắm vững những đặc
điểm tâm, sinh lý các em. Làm sáng tỏ vị trí và vai trò của môn GDCD trong việc góp
phần thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ nói chung, học sinh THPT nói riêng thành
những người phát triển toàn diện, có đức, có tài trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới
XHCN.
Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh Nam Định qua giảng dạy
môn GDCD là một đề tài nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Trong công cuộc giáo
dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ cho đất nước, Hồ chí Minh luôn nhấn mạnh đến nguyên tắc giáo
dục toàn diện. Người chỉ rõ: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức
dục, trí dục và thể dục”. Một con người có trí tuệ và nhân cách phát triển lệch lạc không
thể là một người chủ xứng đáng của đất nước, của Tổ quốc.
Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, Đảng ta xác định: xây dựng con người Việt
Nam hiện nay là xây dựng nhân cách của con người với một nội dung toàn diện: từ bồi
dưỡng thể lực, năng lực trí tuệ, không ngừng nâng cao học vấn và văn hoá, đến trình độ tư
tưởng, thế giới quan và đạo đức cách mạng; từ đạo đức và lối sống, đến kế thừa và phát
huy được những tinh hoa của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con
người mới XHCN.
Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với sự biến đổi nhanh chóng
về mọi mặt của đời sống xã hội, một bộ phận học sinh THPT cả nước nói chung, ở tỉnh
Nam Định nói riêng đã nhận thức đúng đắn giá trị của việc hoàn thiện nhân cách, phát huy
truyền thống hiếu học của quê hương, không ngừng nỗ lực vươn lên, đạt được nhiều thành
tích cao trong quá trình học tập, thể hiện qua chất lượng xếp loại học lực, hạnh kiểm, kết
quả thi tốt nghiệp và thi học sinh giỏi.
Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận học sinh sống thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức. Biểu hiện lối sống ích kỷ không có tinh thần đoàn kết tập thể; thực dụng, suy
thoái đạo đức, xa dời truyền thống văn hóa dân tộc, dễ tiếp nhận những luồng văn hóa
ngoại lai có ảnh hưởng tiêu cực; xa rời lý tưởng và hoài bão cao đẹp, giảm sút ý chí và
niềm tin; ít quan tâm đến tình hình kinh tế - chính trị của đất nước, ý thức tố chức kỷ luật
cũng như chấp hành pháp luật còn yếu kém; một số em còn ham chơi, thích đua đòi với
bạn bè, dễ bị bạn bè rủ rê, lôi kéo tham gia vào những việc làm tiêu cực, tình trạng vi phạm
pháp luật và sa ngã vào các tệ nạn xã hội đang có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.
Tồn tại những vấn đề trên một phần là do công tác giảng dạy môn GĐCD trong các
nhà trường THPT chưa được chú ý đúng mức, còn đang bị buông lỏng, thiếu sự quan tâm
và nhận thức đúng đắn từ mọi phía. Một số trường còn công khai quan điểm: môn học này
giáo viên nào cũng có thể dạy được, cái gì có trong sách giáo khoa thì giới thiệu theo kiểu
đọc chép, chỉ cần trong giờ các em ngoan là có thể cho điểm cao được rồi. Việc truyền tải
các kiến thức của một số giáo viên chính bộ môn chưa thật sâu sắc, nghiêm túc, và còn
kém thuyết phục. Phương tiện, trang thiết bị môn học chưa được đầu tư thỏa đáng. Học
sinh còn học trong tâm thế qua loa đại khái, không có động cơ, mục đích đúng đắn.
Tất cả những chủ quan, xem nhẹ tri thức bộ môn GDCD trong xây dựng và phát
triển nhân cách cho các em đã làm gia tăng sự nhận thức và tư duy thiếu khoa học về
những tri thức thiết thực nhất để: “làm người”.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT
tỉnh Nam Định qua giảng dạy môn GDCD cần phải nắm vững những định hướng đó là:
Nâng cao nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của môn GDCD. Giáo dục nhân cách các
em theo tư tưởng Hồ Chí Minh và theo quan điểm của ĐCSVN. Nội dung, chương trình
giảng dạy phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt, nâng cao chất lượng giảng dạy
và học tập bộ môn. Làm sao để quá trình giáo dục phải chuyển thành quá trình tự giáo dục.
Bộ GD&ĐT nên xem xét, đánh giá một cách toàn diện và công bằng đưa môn môn này
vào khung những môn thi tốt nghiệp.
Bên cạnh đó cần hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học sinh. Nâng cao hơn
nữa chất lượng đội ngũ giáo viên. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập bộ môn.
Nâng cao hiệu quả kiểm tra đánh giá môn GDCD. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất ,
phương tiện và thiết bị dạy học bộ môn. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh
Các giải pháp trên đây không có tính tuyệt đối, lại càng không có tính đơn lẻ. Nó
chỉ phát huy tác dụng trong hệ thống các giải pháp, cần được tổ chức thực hiện một cách
đồng bộ, nghiêm túc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lương Gia Ban (2002), Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội
dung chương trình của các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Đức Bách (200), “Giáo dục không phải là hàng hóa”, Thông tin Chủ nghĩa
xã hội – lý luận và thực tiễn.
3. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hoá và con người Việt Nam trong tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Duy Bắc (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn học
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Bình (1998), “Bài phát biểu tại Hội thảo nghiên cứu phát triển tự học - tự
đào tạo”, Nghiên cứu giáo dục, (2), tr.1.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông cấp trung học phổ
thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo dục công dân 10, sách giáo viên, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình,
sách giáo khoa lớp 11 môn Giáo dục công dân, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phú (2003), Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), “Hội nhập quốc tế: cơ hội và thách thức đối với các giá
trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8).
12. Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu (1979), Về đường lối giáo dục xã
hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Phạm Khắc Chương (2003), Rèn đạo đức và ý thức công dân, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Cư - Nguyễn Duy Nhiên (2008), Dạy và học môn giáo dục công dân ở
Trường THPT - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học sư phạm, Hà
Nội.
15. Diane Tillman (2008), Những giá trị sống cho tuổi trẻ, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh.
16. Nguyễn Việt Dũng, Vũ Hồng Tiến, Nguyễn Văn Phú c(1999), Phương pháp giảng
dạy kinh tế chính trị ở các trường đại học và cao đẳng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đoàn Nam Đàn (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
23. Vương Tất Đạt (1994), Phương pháp giảng dạy giáo dục công dân (dùng cho
PTTH), Trường Đại học sư phạm, Hà Nội I.
24. Phạm Đình Đạt (2009), “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - những vấn đề đặt ra”,
Tạp chí Khoa học chính trị, (3).
25. Hoàng Minh Đô (2006), “Quản lý nhà nước về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới”, Tạp
chí Lịch sử Đảng, (8).
26. Hoàng Minh Đô (2007), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giáo dục nhân cách người
chiến sỹ cách mạng”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục trật tự xã hội, (6).
27. Vũ Văn Gầu - TS. Nguyễn Anh Quốc (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp
phát triển giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Phạm Minh Hạc (2008), Tâm lý học nghiên cứu con người trong thời đổi mới, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
31. Lương Khắc Hiếu (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng, Tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
32. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện CNXHKH (2005), Đề tài đổi mới
phương pháp giảng dạy (Hướng dẫn tự nghiên cứu môn CNXHKH).
33. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Triết học Mác – Lênin,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2007), Tâm lí học lứa tuổi và tâm
lí học sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. Phạm Văn Hùng (1998), Hướng dẫn ôn tập triết học Mác – Lênin, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
37. Trần Hậu Kiêm (1997), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Bùi Thị Ngọc Lan (2006), “Điểm mới về phát triển nguồn nhân lực trong văn kiện
Đại hội đại biểu lần thứ X”, Tạp chí Thông tin Chủ nghĩa xã hội – lý luận và
thực tiễn, (12).
39. Phan Thị Lạc, Nguyễn Thanh Mai, Trần Thị Nhung, Trần Văn Thắng (2008), Giáo
dục bảo vệ môi trường trong môn Giáo dục công dân trung học phổ thông, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
40. Nguyễn Gia Linh (2007), 11 lời khuyên dành cho thế hệ trẻ của BILL GATES, Nxb
Từ điển bách khoa, Hà Nội.
41. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, I.V.Xtalin (1978), Về thanh niên, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
42. C.Mác, Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1990), Vấn đề giáo dục con người mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (1995), Về xây dựng con người mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (1999), Về đạo đức, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay,
(sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Thị Ngân (2003), Xây dựng ý thức tình cảm dân tộc chân chính cho con người Việt
Nam trước thách thức mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
54. Nguyễn Thị Ngân (2005), “Học tập kinh nghiệm của các quốc gia để đổi mới nền
giáo dục – đào tạo Việt Nam”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội – lý luận và thực
tiễn.
55. Nhiều tác giả (2007), Những vấn đề giáo dục hiện nay, Quan điểm và giải pháp, Nxb
Tri thức, Hà Nội.
56. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân cách tâm lí học ngày nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Bùi Đình Phong (2009), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và văn hóa”, Tạp chí
Lý luận chính trị, (1).
58. Trần Thị Mai Phương (2007), Dạy học kinh tế chính trị theo phương pháp tích cực,
Tập bài giảng.
59. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục , Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2008), Quá trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị Quốc gia Hà
Nội.
61. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định (2004), Giáo dục – Đào tạo Nam Định thành
tựu và đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội.
62. Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VIII về giáo
dục đào tạo tỉnh Nam Định.
63. Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2009), Báo cáo tổng kết năm học 2007 – 2008
phương hướng nhiệm vụ năm học 2008 – 2009.
64. Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2009), Báo cáo tổng kết năm học 2008 – 2009,
phương hướng nhiệm vụ năm học 2009 - 2010.
65. Văn Tạo (1997), Sử học và hiện thực, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Nguyễn Đức Tiến (2004), Phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
67. Hoàng Đình Tỉnh (2009), “Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay theo di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7).
68. Nguyễn Văn Trung (1996), Chính sách đối với thanh niên, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
69. Trần Đình Tuấn (2006), “Tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên”, Tạp
chí Tâm lý học, (12).
70. Nguyễn Mạnh Tường (1994), Lý luận giáo dục châu Âu, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
71. Ulrich Lipp – Paul Schiueter ( ), Đổi mới phương pháp giảng dạy, một đóng góp của
Inwent vào quá trình cải cách hành chính tại Việt Nam.
72. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2008), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã
hội năm 2008. Phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu và những giải pháp chủ yếu phát
triển kinh tế - xã hội năm 2009.
73. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Vụ Công tác lập pháp (2005), Những nội dung mới của luật giáo dục năm 2005, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
75. Phạm Viết Vượng (2007), Giáo dục học, Nxb Đại hhọc Quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Danh sách giáo viên GDCD tỉnh Nam Định năm học 2008 – 2009
Thống kê giáo viên môn GDCD cấp THPT tỉnh Nam Định năm học 2008 – 2009
Báo cáo tổng kết năm học 2008 – 2009
Tổng hợp số liệu học sinh giảm, bỏ học năm học 2008 – 2009
Kết quả xếp loại hạnh kiểm học lực học sinh THPT năm học 2008 - 2009
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 70_2725.pdf