1. Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về phép duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử và với việc sử dụng tổng hợp các biện pháp nghiên cứu
trên cơ sở các nguồn tài liệu đã thu thập được tác giả đã phân tích đánh giá làm rõ
những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ tiến tới làm cơ sở cho quá trình tiến hành xem xét, đánh giá trong hoạt
động thực tiễn xử phạt trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
2. Trên cơ sở những vấn đề lý luận đã được nghiên cứu luận văn đã tập trung
đi sâu khảo sát phân tích làm rõ thực trạng công tác xử phạt vi phạm hành chính107
trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Phú Yên giai đoạn từ năm
2012 đến tháng 2/2017. Với cách tiếp cận từ những vấn đề có liên quan tác động
ảnh hưỏng đến hoạt động xử phạt, luận văn tập trung đi sâu phân tích làm rõ thực
trạng tình hình vi phạm pháp luật giao thông. Làm rõ diễn biến tình hình vi phạm,
hành vi vi phạm, thời gian địa điểm vi phạm, đối tượng gây ra vi phạm Kết quả
nghiên cứu đã cho phép rút ra những nguyên nhân của tình hình vi phạm pháp luật
về TTATGT đường bộ và cần phải áp dụng các biện pháp xử phạt là những căn cứ
quan trọng về thực tiễn làm cơ sở đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
công tác xử phạt của Cảnh sát Giao thông và quan trọng hơn là phục vụ việc phòng
ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm trong những năm tới.
3. Từ thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về TTATGT đường
bộ trên địa bàn tỉnh Phú Yên, luận văn đã đi sâu nghiên cứu khảo sát, phân tích,
đánh giá làm rõ thực trạng việc tổ chức hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trên
địa bàn tỉnh từ năm 2012 đến tháng 2/2017. Đặc biệt luận văn đã chú trọng nghiên
cứu làm rõ những nội dung công việc mà đội ngũ cán bộ Phòng CSGT và Thanh tra
Giao thông tỉnh đã làm. Với kết quả nghiên cứu đó, trên thực tiễn tác giả đã chỉ rõ
những ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân của tồn tại này. Đây cũng là một trong những
cơ sở để đề ra các giải pháp sau này.
4. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh trong
những năm qua tác giả đã đưa ra một số dự báo khoa học về tình hình vi phạm pháp
luật giao thông đường bộ trong những năm tới cần phải áp dụng biện pháp xử phạt.
Bằng những cơ sở khoa học về lý luận và thực tiễn tác giả khẳng định trong những
năm tới tình hình vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
trên địa bàn tỉnh Phú Yên chưa thể giảm và chưa ổn định, công tác xử phạt còn gặp
nhiều khó khăn nhất định về nhiều mặt.
5. Cuối cùng, với những kết luận về nguyên nhân tồn tại, những dự báo tình
hình vi phạm hành chính về TTATGT trong những năm tới, luận văn đã đưa ra hệ
thống các giải pháp nhằm góp phần cùng cơ quan chức năng nâng cao từng bước108
chất lượng, hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính về TTATGT phục vụ
các hoạt động nghiệp vụ của ngành trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tác giả luôn hi vọng và mong muốn kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ có
những đóng góp tích cực về mặt lý luận và thực tiễn đối với lực lượng Cảnh sát giao
thông Phú Yên trong việc phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống vi phạm trong
thời gian tới. Trong quá trình nghiên cứu làm bài, tác giả đã cố gắng phân tích, đánh
giá, tổng hợp, rút ra những kết luận cho từng khâu để làm căn cứ cho việc đề xuất ý
kiến. Do những hạn chế về mặt chủ quan và khách quan chắc chắn vấn đề nghiên
cứu của Luận văn còn nhiều hạn chế. Kính mong nhận được sự góp ý để Luận văn
được hoàn thiện hơn.
125 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 883 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên
thứ ba;
- Vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khỏe của cộng đồng hoặc lợi ích công cộng.
Trong trường hợp từ chối ban hành quyết định hành chính, cơ quan ban hành
quyết định hành chính phải có văn bản thông báo cho người yêu cầu, trong đó nêu
rõ lý do từ chối ban hành quyết định hành chính.
Những hành vi bị nghiêm cấm đối với cơ quan ban hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính về giao thông đường bộ:
- Ban hành quyết định hành chính trái thẩm quyền.
- Giả mạo, làm sai lệch giấy tờ, tài liệu, thông tin trong hồ sơ ban hành quyết
định hành chính; làm giả quyết định hành chính.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, đòi, nhận tiền, tài sản của đối
tượng thi hành quyết định hành chính hoặc ban hành quyết định hành chính nhằm đem
lại lợi ích cho bản thân và cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con của mình.
- Can thiệp trái pháp luật vào việc ban hành quyết định hành chính.
- Chống đối, trốn tránh, cố tình trì hoãn việc ban hành, việc thi hành quyết
định hành chính.
- Sử dụng công văn, thông báo, kết luận để thay thế quyết định hành chính.
Như vậy, có thể thấy, bảo đảm trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
trong xử lý vi phạm hành chính về giao thông đường bộ, nội dung cốt lõi là kiểm
soát việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, để trả lời cho các câu
hỏi: ban hành quyết định xử phạt là cần thiết, quyết định được ban hành đảm bảo
đúngm đủ căn cứ pháp lý và thực tiễn, đúng quy trình, áp dụng đúng đối tượng,
đúng mức độ lỗi. Có như vậy mới đảm bảo được mục đích của xử phạt vi phạm
hành chính là răn đe, phòng ngừa, giáo dục ý thức pháp luật.
91
3.1.2. Minh bạch hóa xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ
Dưới góc độ lý luận, công khai, minh bạch là đòi hỏi, yêu cầu, điều kiện thiết
yếu đối với hoạt động của bộ máy hành chính công chuyên nghiệp, hiện đại. Ở Việt
Nam hiện nay việc công khai hoá, minh bạch hoá hoạt động của bộ máy nhà nước
nói chung, bộ máy hành chính nhà nước nói riêng là đòi hỏi quan trọng trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, xây dựng xã hội dân sự
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công khai, minh bạch là yêu cầu nội tại, xuất phát từ bản chất và là một
trong những chuẩn mực hoạt động của bộ máy nhà nước, có vai trò tích cực góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước; là biện pháp hữu hiệu
nhằm phòng ngừa các hành vi sai trái, tiêu cực, các biểu hiện làm sai lệch, suy
giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Công khai, minh bạch là công cụ
đặc biệt quan trọng; là giải pháp phòng chống tham nhũng mang tính chủ động,
tích cực; là đòi hỏi của xã hội gắn liền với công quyền được thông tri. Trong quản
lý hành chính công công khai, minh bạch đòi hỏi người dân phải thông tri đầy đủ,
kịp thời, chính xác về tất cả những gì pháp luật không cấm về quản lý hành chính
nhà nước. Luật Phòng, chống tham nhũng đã đưa vấn đề công khai, minh bạch trở
thành một nguyên tắc chung cho hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị và là
nguyên tắc cơ bản của quản lý ngân sách nhà nước. Nguyên tắc vừa nhằm ngăn
chặn tham nhũng, vừa bảo đảm nền hành chính nhà nước tuân thủ các giá trị dân
chủ, pháp quyền.
Ở nước ta, công khai, minh bạch trong thủ tục hành chính là một trong bốn
nội dung minh bạch trong quản trị nhà nước cần được đảm bảo [27]. Đây là một yêu
cầu căn bản của quản trị nhà nước nhằm góp phần khắc phục tệ tham nhũng, sách
nhiễu của cán bộ công chức. Đồng thời góp phần để nhân dân thực hiện quyền giám
sát trong các khâu của hoạt động quản lý.
Về mặt thực tiễn, thực hiện công khai, minh bạch trong xử lý vi phạm hành
chính về giao thông đường bộ ở nước ta thời gian qua là vấn đề bị nhân dân phê
92
phán nhiều, đó là tình trạng các cảnh sát giao thông nấp sau bụi tre bắt lỗi hay nấp
trong cabin xe để lập biên bản. Đây là biểu hiện của sự không minh bạch trong phát
hiện, trong lập biên bản, và tiếp đó là trong xử phạt. Điều này dẫn tới một kết quả
xử phạt mà “các bên” đều “mong muốn”, đó là dấm dúi chia đôi tiền phạt, đỡ phải
nộp vào ngân sách nhà nước. Thực tế này đã tồn tại nhiều năm nay, làm cho người
dân coi thường lực lượng chức năng, cũng như tình trạng tham nhũng vặt hoành
hành trên đường.
Đã đến lúc tất yếu cần phải thực hiện nghiêm túc việc minh bạch hóa thủ tục
xử phạt vi phạm hành chính về GTĐB, chứ không chỉ dừng ở khẩu hiệu. Phải minh
bạch quy trình kiểm tra xử lý vi phạm để người dân có thể giám sát còn người thực
thi công vụ phải chấp pháp nghiêm minh. Để khuyến khích người dân giám sát vi
phạm, cần thưởng và bảo mật thông tin người cấp tin. Lực lượng CSGT cũng cần
công bố công khai việc người dân được giám sát, ghi lại hành vi vi phạm khi thực
thi công vụ. Cụ thể như việc khi xử lý vi phạm, phải làm sao để không còn chuyện
nấp sau bụi tre bắt lỗi hay nấp trong cabin xe để lập biên bản. Điều quan trọng nhất
là lực lượng thực thi công vụ chấp pháp nghiêm minh. Khi họ đã làm nghiêm thì
không ai dám làm sai cả.
3.1.3. Bảo đảm sự kiểm soát đối với xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
Kiểm soát (theo nghĩa rộng) đối với xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ cần được thực hiện từ khâu kiểm soát, phát hiện vi
phạm, thủ tục lập biên bản, xác minh vi phạm, đến việc ban hành quyết định xử
phạt, thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Việc ban hành quyết định
hành chính xử phạt vi phạm hành chính phải được giám sát, kiểm tra; quyết định
hành chính trái pháp luật phải bị xử lý theo quy định của pháp luật về ban hành
quyết định hành chính.
Trong điều kiện mở rộng quyền dân chủ, tăng cường các biện pháp bảo đảm,
bảo vệ quyền công dân, siết chặt k cương hành chính như hiện nay, bên cạnh các
cơ chế kiểm soát truyền thống như: giám sát của Hội đồng nhân dân, kiểm tra,
thanh tra hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, xét xử của Tòa án, cần mở
93
rộng cơ chế để người dân, cơ quan báo chí tham gia giám sát thực hiện quy trình xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
3.2. Giải pháp bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đƣờng bộ từ thực tiễn tỉnh Phú Yên
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói chung,
trong lĩnh vực giao thông đường bộ nói riêng
Cần rà soát, bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Hiện nay, hệ thống pháp luật
về giao thông vận tải, đặc biệt là pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực này tương đối đầy đủ như: Luật giao thông đường bộ, Luật xử lý vi phạm hành
chính, các Nghị định, các Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành về xử
phạt vi phạm hành chính về TTATGT đường bộ...
Song, để tăng cường hiệu quả của xử phạt vi phạm hành chính góp phần đảm
bảoTTATGT nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế và tiến tới giảm tai nạn giao thông,
ùn tắc giao thông. Trong quá trình thực hiện cần điều chỉnh một số nội dung cho
phù hợp, cụ thể như:
- Cần tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong công tác xử phạt vi phạm
hành chính về TTATGT đường bộ của lực lượng CSGT. Đây cũng là nhiệm vụ
trọng tâm của Đảng, Nhà nước ta nhằm xây dựng nền hành chính đáp ứng được đòi
hỏi của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển bền vững với các mục tiêu“dân giàu, nước
mạnh, xã hội công b ng, dân chủ, văn minh”.
- Kiên quyết loại bỏ những thủ tục không cần thiết trong quy trình xử phạt vi
phạm hành chính đồng thời xây dựng và hoàn thiện quy trình xử phạt đơn giản, cụ thể,
rõ ràng, đáp ứng yêu cầu xử phạt, nâng cao ý thức tự giác của người vi phạm. Quy
trình xử phạt hiện nay chưa khoa học, nhiều thủ tục không cần thiết, chưa mang lại
hiệu quả cho công tác xử phạt. Do vậy, cần xây dựng quy trình phù hợp, khoa học,
đồng thời giúp người vi phạm nhận thức được hành vi vi phạm của mình, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật như rút gọn các thủ tục hành chính song vẫn đảm bảo hiệu
quả tạo điều kiện thuận lợi cho người vi phạm khi phải chấp hành các biện pháp cưỡng
chế. Thực hiện triệt để hình thức xử phạt tại chỗ để tiết kiệm thời gian, giảm bớt phiền
94
hà cho cá nhân, tổ chức vi phạm; tăng cường lắp đặt hệ thống camera giám sát giao
thông tại các tuyến đường trọng điểm để hỗ trợ xử lý các vi phạm TTATGT bằng hình
ảnh. Kiến nghị Sở Tài chính, Kho bạc Nhà nước, Chi Cục thuế các tỉnh, thành phố
thống nhất các mẫu biên lai thu tiền phạt với nhiều mệnh giá khác nhau để sử dụng
trong quá trình xử phạt nhanh chóng, thuận tiện hoặc có thể linh hoạt hơn (nhất là đối
với các cá nhân, tổ chức ở các tỉnh khác vi phạm).
- Đổi mới phong cách làm việc của cán bộ, chiến sĩ CSGT đồng thời ban
hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả chế độ công tác, tiếp xúc với nhân dân. Kiên
quyết đấu tranh, lên án và loại bỏ hành vi tiêu cực của cán bộ, chiến sĩ CSGT khi
làm công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGT đường bộ. Hiện nay tình trạng
làm việc chậm chạp, quan liêu còn biểu hiện ở một bộ phận cán bộ, chiến sỹ làm
công tác xử lý, gây chất lượng hiệu quả công việc kém, thậm chí không ít trường
hợp còn gây bức xúc trong nhân dân. Vì vậy, cần xây dựng rõ quy trình làm việc
thông báo công khai rộng rãi để nhân dân cùng biết, đồng thời tiến hành giám sát,
hoặc lập đường dây nóng để nhân dân phản ánh các tiêu cực trong công tác xử lý,
phát huy tính dân chủ. Xây dựng kỹ năng giao tiếp với nhân dân, thái độ giao tiếp
lịch sự, niềm nở, vì nhân dân phục vụ.
3.2.2. Nâng cao năng lực thực thi công vụ của các cơ quan, cá nhân tham mưu
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
- Cần tăng cường quy chuẩn hóa đối với các chủ thể có chức năng xử phạt vi
phạm hành chính về TTATGT đường bộ.
Cùng với việc tổ chức, bố trí lại lực lượng CSGT đường bộ, vấn đề có ý
nghĩa quyết định để nâng cao hiệu quả công tác là phải xây dựng được tiêu chuẩn
người CSGT có phẩm chất đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ... Thực tiễn
cho thấy nếu cán bộ chiến sĩ CSGT có phẩm chất đạo đức tốt, có quan điểm giai cấp
đúng đắn, tận tụy với công việc, nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nghiệp vụ và quy định của Ngành thì dù có khó khăn, thiếu thốn
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng hoàn thành nhiệm vụ.
Hiện nay, một bộ phận trong lực lượng CSGT, trong đó có lực lượng làm
nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành chính về TTATGT đường bộ chưa được quy chuẩn
95
hoá (về đạo đức nghề nghiệp, về hình thể, về năng lực trình độ...); việc điều động
cán bộ có nơi, có lúc còn chưa thật sự hợp lý, làm ảnh hướng tới chất lượng, hiệu
quả công việc. Do đó, cần xây dựng tiêu chuẩn CSGT làm nhiệm vụ xử phạt vi
phạm hành chính về TTATGT đường bộ, tiêu chuẩn này có thể lồng ghép với tiêu
chuẩn của cán bộ chiến sĩ tuần tra kiểm soát để làm tiêu chí đánh giá, rà soát, sắp xếp
bổ sung cán bộ chiến sĩ.
Có quan điểm cho rằng không cần tăng nhiều biên chế cho lực
lượng CSGT đường bộ mà tăng cường sử dụng các phương tiện hiện đại để giám sát
người tham gia giao thông. Tuy nhiên, tác giả cho rằng trong bối cảnh hiện nay và
nhiều năm nữa nhận thức và ý thức của đa số người dân còn thấp, chưa thể thiếu
được lực lượng CSGT trong việc đảm bảo TTATGT.
Để tính toán đủ biên chế cần căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ và những quy
định về chế độ làm việc của Nhà nước và trong ngành Công an. Trên cơ sở rà soát,
tính toán lại số đầu mối đơn vị CSGT (phòng PC67 và các đội CSGT các quận,
huyện, thị xã) trên địa bàn và xác định cơ cấu biên chế, từ đó có thể tính ra toàn bộ
số biên chế lực lượng CSGT trực tiếp làm nhiệm vụ giữ gìn TTATGT.
- Tăng cường đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ đấu tranh
phòng chống tội phạm cho lực lượng Cảnh sát giao thông khi làm nhiệm vụ tuần tra
kiểm soát, xử phạt vi phạm hành chính về TTATGT đường bộ.
Lực lượng CSGT là một bộ phận của lực lượng Công an nhân dân, có chức
năng nghiên cứu, đề xuất và trực tiếp đảm bảo TTATGT, chủ động phòng ngừa đấu
tranh với các hành vi vi phạm luật giao thông, các hoạt động phạm tội và vi phạm
pháp luật trên các tuyến đường, địa bàn giao thông công cộng theo quy định của
pháp luật.
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình, trong các đợt tập huấn, bồi dưỡng nghiệp
vụ cho lực lượng CSGT cần phải được tăng cường bồi dưỡng, huấn luyện thêm về
nghiệp vụ đấu tranh chống tội phạm như lực lượng CSGT cần thường xuyên nắm
bắt được tình hình tội phạm, phương thức thủ đoạn của các loại tội phạm, đặc điểm
của các loại tội phạm, địa bàn hoạt động, quy luật hoạt động của các loại tội phạm,
96
nhất là tội phạm hoạt động trên các tuyến giao thông; tập huấn bồi dưỡng về chiến
thuật bắt giữ tội phạm, phương pháp thu thập tin tức, tài liệu, vật chứng của vụ án...
3.2.3. Hiện đại hóa phương tiện, trang thiết bị phục vụ phát hiện và ngăn chặn vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Đầu tư trang thiết bị kỹ thuật và triệt để khai thác các phương tiện kỹ thuật
phục vụ cho việc xử phạt vi phạm hành chính mang lại hiệu quả là cần thiết, vừa thể
hiện tính triệt để trong hoạt động xử phạt mọi hành vi vi phạm, mặt khác nó còn
giảm những khó khăn mang tính chủ quan của các chiến sỹ Cảnh sát giao thông khi
thi hành nhiệm vụ.
Việc đầu tư trang thiết bị, phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại vừa phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin
đang bùng nổ trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy, việc ứng dụng những thành tựu khoa
học công nghệ để làm giảm bớt đi sức lực của con người là hoàn toàn phù hợp với
xu thế thời đại và tiến trình phát triển của nhân loại, trong hoạt động giao thông vận
tải nói chung và đặc biệt trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Pháp luật quy định: Lực lượng cảnh sát, thanh tra giao thông được sử
dụng các phương tiện, kỹ thuật nghiệp vụ theo quy định của pháp luật trong hoạt
động tuần tra kiểm soát để phát hiện, chụp lại, ghi nhận, đánh dấu tại chỗ đối
tượng có hành vi vi phạm về trật tự giao thông và phương tiện, thiết bị sử dụng
để vi phạm; hình ảnh, bản ghi dấu vết ghi thu được bằng các phương tiện, thiết
bị kỹ thuật nghiệp vụ được coi là chứng cứ để lập biên bản vi phạm và xem xét
ra Quyết định xử phạt.
Thực tiễn trong những năm qua được sự quan tâm của Nhà nước và lãnh đạo
cấp trên, lực lượng Cảnh sát giao thông tỉnh Phú Yên đã mua sắm trang thiết bị khá
nhiều phương tiện, thiết bị khoa học hiện đại để phục vụ công tác quản lý trật tự an
toàn giao thông nói chung và trong công tác xử phạt vi phạm hành chính về trật tự
an toàn giao thông nói riêng. Tuy nhiên, việc mua sắm trang thiết bị đầu tư phương
tiện vẫn còn những hạn chế nhất định, cụ thể là:
97
+ Số lượng phương tiện chưa được đầu tư nhiều, mới chỉ tập trung tương đối
cho thành phố Buôn Mê Thuột, chưa dàn đều và đáp ứng đủ nhu cầu và ngang tầm
với thực tiễn đòi hỏi và mới chỉ quan tâm một vài phương tiện nhất định;
+ Về chất lượng phương tiện chưa đồng bộ và đa dạng về chủng loại;
+ Việc khai thác sử dụng còn nhiều hạn chế, chưa tận dụng hết khả năng và
điều kiện đã có của các phương tiện để phục vụ cho việc phòng ngừa và đấu tranh
đối với các hành vi vi phạm hành chính.
Để khắc phục tình trạng yếu kém trên thời gian sắp tới, ngành nên nghị Bộ
Công An rà soát, xem xét lại các trang thiết bị phương tiện kỹ thuật của các địa
phương, căn cứ tình hình trật tự an toàn giao thông ở mỗi địa phương và yêu cầu
đảm bảo TTATGT nhất là các địa bàn trọng điểm phức tạp xảy ra nhiều vi phạm
cần phải xử phạt để có kế hoạch mua sắm đầu tư trang thiết bị cần thiết để phục vụ
cho việc xử phạt trực tiếp hoặc phạt nguội.
Nhằm góp phần giáo dục nâng cao ý thức của người dân trong việc chấp
hành pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất những vụ vi phạm có thể xảy ra, chúng
ta cần phải áp dụng thật nghiêm các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính. Trước
mắt cần phải đầu tư mua sắm và triệt để khai thác các loại phương tiện sau đây:
+ Trang bị hệ thống ca-me-ra ở các nút giao thông trọng điểm, nơi thường
xuyên xảy ra hiện tượng ùn tắc giao thông do một số đối tượng bất chấp pháp luật
giao thông chen lấn làn đường ây ách tắc giao thông. Bổ sung thêm các máy ghi
hình tốc độ, máy ảnh kỹ thuật số đối với lực lượng làm công tác tuần tra kiểm sáot
hoặc các trạm chốt cố định hoặc các tổ làm nhiệm vụ tại các nút giao thông tập
trung đông mật độ người và phương tiện.
+ Đầu tư các thiết bị để tổ chức hợp lý các mạng giao thông đô thị, phân rõ
các nàn đường, giải phân cách, hệ thống báo hiệu đường bộ đảm bảo các điều kiện
khoa học, hợp lý chủ động ngăn chặn không để các hành vi vi phạm phải áp dụng
các biện pháp xử phạt xảy ra;
+ Thông qua hoạt động ghi hình nhằm xác định đối tượng, biển số phương
tiện vi phạm để tiến hành các thủ tục xử phạt tại chỗ hoặc tạo điều kiện hỗ trợ cho
hình thức thông báo về nơi cư trú để áp dụng xử phạt do chính quyền địa phương
98
thực hiện. Hình thức này cũng hoàn toàn phù hợp với Luật xử lý vi phạm hành
chính 2012.
Song cũng cần quan tâm là điều kiện cần và đủ để áp dụng biện pháp xử phạt
vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông đường bộ tại nơi cư trú thì các địa
phương cần xử phạt kiên quyết và sát sao đối với các phương tiện không sang tên
đổi chủ theo quy định của pháp luật.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả kiểm soát hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ và các trường hợp sai phạm khác của người thực
thi công vụ nhà nước
Trong xử phạt vi phạm hành chính về giao thông đường bộ, công tác kiểm tra
đóng vai trò cực kỳ quan trọng vì đó là cách thức để phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện
và xử phạt vi phạm pháp luật, phát hiện những yếu kém trong tổ chức và hoạt động xử
phạt vi phạm hành chính. Kiểm tra cũng là hoạt động không thể thiếu trong quá trình
quản lý cũng như trong việc thực hiện quyền hạn của các cơ quan quản lý có thẩm
quyền. Đây là nghiệp vụ cần tiến hành thường xuyên, với nhiều hình thức và biện pháp
đa dạng để tăng cường hiệu quả hoạt động này. Thông qua hoạt động kiểm tra, các chủ
thể quản lý vừa phát hiện được những điều tích cực, những điển hình tiên tiến, vừa phát
hiện những hiện tượng tiêu cực trong xử phạt vi phạm hành chính để từ đó tự mình
hoặc chủ động kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính, vừa cải tiến các phương pháp đấu tranh phòng chống vi phạm
hành chính. Kiểm tra, giám sát thường xuyên việc xử phạt vi phạm hành chính sẽ là
nhân tố quan trọng làm giảm thiểu tình trạng tùy tiện, quan liêu, bảo đảm cho hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính – một hoạt động thường xuyên tiếp xúc với nhân dân
có hiệu lực, hiệu quả thiết thực.
Trong hoạt động tuần tra, kiểm soát người và phương tiện tham gia giao
thông đường bộ, xử phạt những vi phạm về trật tự an toàn giao thông được Nhà
nước giao cho cảnh sát giao thông đường bộ được quy định tại Điều 72 của Luật
Giao thông đường bộ; ngoài lực lượng Cảnh sát giao thông là chủ yếu còn có lực
lượng Thanh tra giao thông và các cấp chính quyền. Để không chồng chéo hoặc bỏ
trống địa bàn không kiểm tra, kiểm soát, xử phạt trước hết cần quy định cụ thể hơn
99
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan một cách rõ ràng. Đối với lĩnh vực giao thông
đường bộ thì công tác tuần tra, kiểm soát giao thông là một trong những biện pháp
nhiệp vụ cơ bản để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát việc
chấp hành luật lệ giao thông, tham gia đấu tranh phòng ngừa các hành vi vi phạm và
các loại tội phạm hoạt động trên các tuyến giao thông, nhằm góp phần đảm bảo giao
thông luôn trật tự , an toàn và thông suốt, đồng thời phòng ngừa và hạn chế tai nạn
giao thông xảy ra.
Để nâng cao hiệu quả công tác tuần tra, kiểm soát, xử phạt vi phạm về trật tự
an toàn giao thông, chúng ta cần xây dựng lực lượng cảnh sát giao thông trong sạch,
vững mạnh, từng bước chính quy, hiện đại. Trước mắt, lãnh đạo đơn vị Công an
tỉnh Phú Yên (PC26) cần tiếp tục tập trung chỉ đạo, củng cố và tổ chức lại lực lượng
tuần tra, kiểm soát giao thông trên khắp địa bàn tỉnh Phú Yên với yêu cầu và nhiệm
vụ được quy định tại Quyết định số 1922/2006/QĐ-BCA ngày 05/12/2006 của Bộ
trưởng Bộ Công an quy định nhiệm vụ quyền hạn về hoạt động tuần tra, kiểm soát
của Cảnh sát giao thông đường bộ, Quyết định số 1404/2007/QĐ-BCA ngày
15/11/2007 của Bộ Công an ban hành “Quy trình tuần tra, kiểm soát và xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát nhân
dân”. Đảm bảo việc tuần tra, kiểm soát phải khép kín địa bàn và thời gian; áp dụng
các biện pháp nghiệp vụ như: tuần lưu kết hợp với kiểm soát liên tuyến, liên địa
bàn, xử phạt vi phạm, không để địa bàn không có lực lượng CSGT phụ trách, nhưng
cũng tránh sự chồng chéo. Không ngừng nâng cao trình độ của lực lượng làm nhiệm
vụ tuần tra kiểm soát, bao gồm cả trình độ nghề nghiệp và phẩm chất đạo đức người
thi hành công vụ. Đảm bảo phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ và xử phạt chính xác.
Mặt khác, với những cá nhân, tổ chức thay mặt Nhà nước làm nhiệm vụ quản
lý và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, nếu có hành động sai cả về
lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp (hiểu sai luật mà xử phạt sai người tham gia giao
thông. Thực tế tỉnh Phú Yên đã có trường hợp này. CSGT hiểu sai biển báo giao
thông nên đã đưa ra các quyết định xử phạt sai) hay có hành động sai về mặt đạo
đức thì sẽ bị cấp trên xử phạt nghiêm khắc. Điều này có tác dụng nâng cao lòng tin
100
của nhân dân với đội ngũ Công nhân nhân dân nói riêng và đối với sự quản lý của
Nhà nước nói chung.
Trong công tác kiểm tra, giám sát, cơ quan thanh tra giao thông có vai trò
nòng cốt và chủ đạo, có trách nhiệm kiểm ta thường xuyên việc xử phạt vi phạm
hành chính của các Đội trên địa bàn; giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo trong
xử phạt vi phạm hành chính thuộc phạm vi ngành mình phụ trách; xử phạt k luật
đối với những cá nhân có sai phạm trong khi xử phạt vi phạm hành chính thuộc
quyền mình quản lý; thực hiện chế độ báo cáo về tình hình vi phạm hành chính và
việc xử phạt vi phạm hành chính trong tháng, quý, năm cho cơ quan có thẩm quyền.
Tăng cường công tác kiểm tra trực tiếp việc thực hiện pháp luật tại các địa
phương, đi sâu kiểm tra công tác xử phạt vi phạm hành chính. Vì có kiểm tra mới
phát hiện được những ưu điểm, hạn chế để tìm cách phát huy hay khắc phục; kết
hợp chặt chẽ giữa kiểm tra và hướng dẫn thực hiện pháp luật. Đặc biệt, cần có sự
quan tâm tới các địa phương có sự phức tạp về vi phạm hành chính và xử phạt vi
phạm hành chính. Với những đơn vị cố tình chây ỳ, không chịu khắc phục sửa chữa
những thiếu sót, sai phạm đã được kiểm tra nhắc nhở, uốn nắn, phải có biện pháp
xử phạt nghiêm khắc, kịp thời.
Quá trình kiểm tra, giám sát việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ không chỉ được thực hiện trong nội bộ hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước – đó là cơ quan Thanh tra giao thông, mà cần được thực hiện sâu sát
hơn từ nhiều cơ chế khác như cơ chế giám sát của hội đồng nhân dân, sự khiếu nại,
tố cáo của người dân và sự xét xử của cơ quan tòa án.
Hội đồng nhân dân ở địa phương họp 2 lần/năm. Tại chương trình nghị sự
của kỳ họp, cần có giám sát chuyên đề về xử phạt vi phạm hành chính. Qua báo cáo
và chất vấn của hội nghị, công tác xử phạt vi phạm hành chính sẽ được bàn luận và
đăng tải công khai thông tin, tạo nên tính minh bạch của xã hội, góp phần hình
thành nên cơ chế đối trọng để kiểm soát đối với hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước.
Cơ chế giám sát của hội đồng nhân dân sẽ được phát huy hiệu quả cao hơn
nếu có sự phối hợp với việc nâng cao tính hiệu quả của công tác giải quyết khiếu
101
nại, tố cáo của người dân, tổ chức và hoạt động xét xử của tòa án. Hiện nay, Luật xử
phạt vi phạm hành chính mới được ban hành đã mở rộng quyền giám sát của công
dân bằng cách hủy bỏ thủ tục tiền tố tụng, không coi đó là điều kiện cần trước khi
khởi kiện vụ án hành chính ra tòa. Theo Luật, người dân có thể khởi kiện ngay về
vụ án hành chính nếu không đồng ý với quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã
được ban hành. Như vậy, việc tư pháp hóa các tranh chấp này sẽ tạo ra áp lực khiến
các cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm cẩn trọng hơn trong công việc
nếu không muốn bị kiện.
Trên đây là khuyến nghị của chúng tôi nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh Phú Yên. Các
khuyến nghị này không chỉ đối với các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính, mà còn hướng tới nhiều chủ thể, cơ quan nhà nước khác có mối quan hệ
về công việc. Điều này hướng tới việc dân chủ hóa, công khai hóa, minh bạch hóa
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính để đảm bảo tính răn đe và sự nghiêm minh
của pháp luật, góp phần ổn định đời sống xã hội.
3.2.5. Giải pháp khác cho tỉnh Phú Yên
Trong bối cảnh thực hiện Quyết định số 530/QĐ-UBATGTQG ngày
04/12/2015 của Chủ tịch Ủy ban ATGT Quốc gia về việc ban hành Kế hoạch tuyên
truyền, vận động và xử lý vi phạm quy định về nồng độ cồn đối với ngưòi điều
khiển phương tiện cơ giới đường bộ giai đoạn 2015 - 2020 trên phạm vi toàn quốc,
Quyết định 2145/QĐ-BTTTT năm 2016 về giao nhiệm vụ và phê duyệt kế hoạch
thực hiện chương trình tuyên truyền theo chủ đề “Xây dựng văn hóa giao thông gắn
với nâng cao trách nhiệm, siết chặt k cương của người thực thi công vụ” với mục
tiêu “Tính mạng con người là trên hết” do Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông
ban hành; Quyết định số 2180/QĐ-UBND năm về Đề án “Tăng cường công tác
đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh Phú Yên, giai đoạn 2015-2020”;
Nghị định số 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ và đường sắt; chuẩn bị thực hiện thông tư số 06/2017/TT-
BGTVT quy định quy trình sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ và sử
dụng kết quả thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ làm căn cứ để xác
102
định vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành, thiết nghĩ, những giải pháp
cần được thực hiện ở Phú Yên trong giai đoạn tới, nhằm đảm bảo xử phạt vi phạm
hành chính về giao thông đường bộ là:
3.2.5.1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, công tác quản lý, điều hành của
chính quyền các cấp trong công tác bảo đảm TTATGT
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp tại Chỉ
thị 18-CT/TW,ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; kế hoạch số 31-
KH/TU ngày 14/11/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về triển khai thực hiện Chỉ
thị 18-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm
TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao
thông”; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, trách nhiệm và sự phối hợp
giữa các ban, ngành, địa phương và các tổ chức chính trị xã hội trong công tác bảo
đảm TTATGT.
- Quy định rõ trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp ủy, chính quyền địa
phương, cơ quan, tổ chức, đoàn thể và người đứng đầu; trách nhiệm của mỗi cán bộ,
đảng viên trong công tác bảo đảm TTATGT là một trong những tiêu chí đề bình xét,
phân loại tổ chức cơ sở Đảng, phân loại đảng viên, đề bạt, bổ nhiệm, ứng cử, xét
danh hiệu “gia đình văn hóa”
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện Chỉ
thị 18-CT/TW,ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; kế hoạch số 31-
KH/TU ngày 14/11/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về triển khai thực hiện Chỉ thị
18-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm TTATGT
đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”.
3.2.5.2. Nâng cao hiệu quả công tác tuần tra kiểm soát xử lý vi phạm TTATGT
- Tổ chức khảo sát, nghiên cứu, bố trí sắp xếp lại lực lượng Cảnh sát giao
thông, nhất là lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát phù hợp với tình hình mới,
bảo đảm tập trung thống nhất, chuyên sâu và theo nguyên tắc bố trí theo tuyến kết
hợp với địa bàn; phân công, phân cấp công tác đảm bảo TTATGT giữa cảnh sát
giao thông Công an các cấp. Huy động lực lượng Cảnh sát khác phối hợp với Cảnh
103
sát giao thông tuần tra kiểm soát xử lý vi phạm trên các tuyến giao thông; nhất là,
tăng cường tối đa lực lượng Công an xã phối hợp tham gia công tác tuần tra kiểm
soát các tuyến đường giao thông nông thôn, phát hiện xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm là nguyên nhân gây TNGT.
- Thanh tra giao thông theo chức năng, nhiệm vụ tăng cường công tác thanh
tra, phát hiện ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ kết cấu hạ tầng
giao thông đường bộ, bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật công trình đường bộ; xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về hoạt động vận tải tại các điểm dừng xe,
đỗ xe trên đường bộ; phát hiện ngăn chặn và xử lý nghiêm những vi phạm trong
công tác đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe.
- Theo phân công, phân cấp lực lượng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự
phải xây dựng kế hoạch cụ thể, thường xuyên bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ
hỗ trợ tăng cường hơn nữa công tác tuần tra kiểm soát xử lý vi phạm TTATGT
24/24 giờ ở các tuyến, địa bàn trọng điểm, phức tạp, những nơi thường xảy ra
TNGT trên tuyến QL1A, QL1D, QL25, QL29, QL19C và các tuyến đường tỉnh,
đường nông thôn; nhất là mở nhiều đợt cao điểm tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm
vào các ngày lễ, tết, các sự kiện văn hóa, thể thao; tập trung kiểm tra xử lý chuyên
đề xe ô tô, mô tô, xe máy với những lỗi là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn giao
thông như: xe ô tô chở quá khổ, quá tải, quá số người quy định, chạy quá tốc độ cho
phép, thiết bị kỹ thuật không đảm bảo an toàn; xe mô tô, xe máy chạy quá tốc độ,
lạng lách, đánh võng trên đường giao thông, đi không đúng phần đường, chở quá số
người quy định, không có giấy phép lái xe, chưa đủ tuổi quy định, chở hàng hóa
cồng kềnh, không đội mũ bảo hiểm, đặc biệt là hành vi uống rượu, bia quá nồng độ
quy định Tập trung chỉ đạo kiểm tra xử lý nghiêm, kiên quyết xe mô tô, xe máy
vi phạm, lứa tuổi từ 18 đến 45 tuổi và thời gian từ 18 giờ đến 24 giờ hàng ngày, Vì
đây là nhóm phương tiện, lứa tuổi và thời gian thường xảy ra tai nạn giao thông
nhiều nhất trong năm.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm khắc đối với những
người thi hành công vụ có hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu trong công tác tuần tra
kiểm soát, xử lý vi phạm và điều tra, giải quyết TNGT.
104
3.2.5.3. Tăng cường năng lực thực thi pháp luật về nồng độ cồn
- Tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ kiểm tra, xử lý quy phạm quy định nồng độ
cồn đối với người điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ cho lực lượng cảnh sát
giao thông, Cảnh sát trật tự và Thanh tra giao thông vận tải ở tỉnh.
- Trang bị máy đo nồng độ còn trong khí thở và các trang thiết bị phụ trợ cho
lực lượng thực thi công vụ.
- Phổ biến quy định pháp luật và tập huấn kỹ năng tuyên truyền về chuyên đề
nồng độ cồn cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về ATGT, về vận tải, người điều
hành vận tải và người phụ trách công tác ATGT trong các đơn vị kinh doanh vận tải
đường bộ.
- Tập huấn cho cán bộ ngành Y tế và ngành Công an về thực hiện Thông tư
Liên tịch số 26/TTLT/BYT-BCA ngày 23/7/2014 của Bộ Y tế - Bộ Công an quy
định về xét nghiệm nồng độ còn trong máu của người điều khiển phương tiện cơ
giới đường bộ.
- Lồng ghép những nội dung kiến thức mới về phòng, chống lạm dụng đồ
ướng có cồn trong chương trình đào tạo và tổ chức tập huấn giáo viên các cấp phổ
thông, giảng viên các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề, đặc biệt
là các trung tâm đào tạo sát hạch cấp giấy phép lái xe.
- Xác định công tác tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm là một trong những giải
pháp cơ bản trong công tác bảo đảm trật tự ATGT, có tác dụng phòng ngừa, răn đe
trực tiếp người vi phạm. Cần chủ động kế hoạch chuyên đề, tăng cường kiểm tra, xử
lý kiên quyết đối với hành vi vi phạm quy định về nồng độ cồn.
- Tùy điều kiện thực tế có thể áp dụng mô hình Tổ tuần tra phối hợp giữa
Cảnh sát giao thông và Cảnh sát khác và kết hợp xử lý các hành vi vi phạm ATGT
khác cũng như chuyên đề đấu tranh phòng, chống tội phạm.
- Kết hợp chặt chẽ giữa tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm với tuyên truyền,
giáo dục và vận động thực hiện các quy định của pháp luật về nồng độ cồn, quy
định mức xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về nồng độ cồn.
105
3.2.5.4. Xây dựng lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông, Công an xã
trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu
công tác đảm bảo TTATGT.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống, ý
thức trách nhiệm cho lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông gắn với
việc nâng cao chất lượng công tác Đảng, công tác chính trị trong các đơn vị.
- Đầu tư các trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho các lực lượng thực hiện
nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát, đảm bảo TTATGT. Tăng cường biên chế cho lực
lượng Cảnh sát giao thông đủ về số lượng đảm bảo khép kín địa bàn. Tăng cường
kinh phí hỗ trợ cho lực lượng Công an xã tham gia cùng lực lượng Cảnh sát giao
thông thực hiện công tác tuần tra, kiểm soát đảm bảo TTATGT.
- Nâng cấp, hiện đại hóa hoạt động quản lý trật tự ATGT bằng hệ thống
Camera giám sát tại các tuyến đường trong khu vực thành phố Tuy Hòa.
106
KẾT LUẬN
Giao thông đường bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh
tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nhu cầu đi lại của nhân dân. Nhận thức
được vai trò to lớn của hoạt động giao thông đường bộ, Đảng bộ và lãnh đạo tỉnh
Phú Yên đã quan tâm sâu sắc đến việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng và nâng cao nhiều
hoạt động vì mục tiêu trật tự an toàn giao thông. Tuy nhiên, tình hình TTATGT
đường bộ trên địa bàn tỉnh Phú Yên hiện nay diễn biến khá phức tạp và các cơ quan
chức năng còn nhiều việc phải làm: Hệ thống đường bộ tuy được xây dựng nhiều
tuyến mới nhưng nhiều đoạn đã xuống cấp chưa được đầu tư sửa chữa. Phương tiện
giao thông cơ giới đường bộ nhất là ô tô và xe máy tăng nhanh dẫn đến mật độ giao
thông quá lớn trên đường nhất là nơi tập trung đông dân cư. Nhận thức của người
tham gia giao thông còn kém do vậy tình trạng vi phạm Luật Giao thông đường bộ
diễn ra mang tính phổ biến mọi lúc, mọi nơi.
Trong thời gian tới, với sự phát triển toàn diện về mọi mặt của tình hình kinh
tế - xã hội, sẽ không tránh khỏi hệ luỵ kéo theo sự nảy sinh nhiều hơn những vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Vì vậy, một thực tế khách
quan đang đòi hỏi phải không ngừng hoàn thiện về lý luận và thực tiễn về hoạt động
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh
Phú Yên. Từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn, đồng thời để tìm ra
những giải pháp có căn cứ tác giả đã tập trung nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề
chính sau đây:
1. Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về phép duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử và với việc sử dụng tổng hợp các biện pháp nghiên cứu
trên cơ sở các nguồn tài liệu đã thu thập được tác giả đã phân tích đánh giá làm rõ
những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ tiến tới làm cơ sở cho quá trình tiến hành xem xét, đánh giá trong hoạt
động thực tiễn xử phạt trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
2. Trên cơ sở những vấn đề lý luận đã được nghiên cứu luận văn đã tập trung
đi sâu khảo sát phân tích làm rõ thực trạng công tác xử phạt vi phạm hành chính
107
trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Phú Yên giai đoạn từ năm
2012 đến tháng 2/2017. Với cách tiếp cận từ những vấn đề có liên quan tác động
ảnh hưỏng đến hoạt động xử phạt, luận văn tập trung đi sâu phân tích làm rõ thực
trạng tình hình vi phạm pháp luật giao thông. Làm rõ diễn biến tình hình vi phạm,
hành vi vi phạm, thời gian địa điểm vi phạm, đối tượng gây ra vi phạm Kết quả
nghiên cứu đã cho phép rút ra những nguyên nhân của tình hình vi phạm pháp luật
về TTATGT đường bộ và cần phải áp dụng các biện pháp xử phạt là những căn cứ
quan trọng về thực tiễn làm cơ sở đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
công tác xử phạt của Cảnh sát Giao thông và quan trọng hơn là phục vụ việc phòng
ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm trong những năm tới.
3. Từ thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về TTATGT đường
bộ trên địa bàn tỉnh Phú Yên, luận văn đã đi sâu nghiên cứu khảo sát, phân tích,
đánh giá làm rõ thực trạng việc tổ chức hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trên
địa bàn tỉnh từ năm 2012 đến tháng 2/2017. Đặc biệt luận văn đã chú trọng nghiên
cứu làm rõ những nội dung công việc mà đội ngũ cán bộ Phòng CSGT và Thanh tra
Giao thông tỉnh đã làm. Với kết quả nghiên cứu đó, trên thực tiễn tác giả đã chỉ rõ
những ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân của tồn tại này. Đây cũng là một trong những
cơ sở để đề ra các giải pháp sau này.
4. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh trong
những năm qua tác giả đã đưa ra một số dự báo khoa học về tình hình vi phạm pháp
luật giao thông đường bộ trong những năm tới cần phải áp dụng biện pháp xử phạt.
Bằng những cơ sở khoa học về lý luận và thực tiễn tác giả khẳng định trong những
năm tới tình hình vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
trên địa bàn tỉnh Phú Yên chưa thể giảm và chưa ổn định, công tác xử phạt còn gặp
nhiều khó khăn nhất định về nhiều mặt.
5. Cuối cùng, với những kết luận về nguyên nhân tồn tại, những dự báo tình
hình vi phạm hành chính về TTATGT trong những năm tới, luận văn đã đưa ra hệ
thống các giải pháp nhằm góp phần cùng cơ quan chức năng nâng cao từng bước
108
chất lượng, hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính về TTATGT phục vụ
các hoạt động nghiệp vụ của ngành trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tác giả luôn hi vọng và mong muốn kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ có
những đóng góp tích cực về mặt lý luận và thực tiễn đối với lực lượng Cảnh sát giao
thông Phú Yên trong việc phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống vi phạm trong
thời gian tới. Trong quá trình nghiên cứu làm bài, tác giả đã cố gắng phân tích, đánh
giá, tổng hợp, rút ra những kết luận cho từng khâu để làm căn cứ cho việc đề xuất ý
kiến. Do những hạn chế về mặt chủ quan và khách quan chắc chắn vấn đề nghiên
cứu của Luận văn còn nhiều hạn chế. Kính mong nhận được sự góp ý để Luận văn
được hoàn thiện hơn.
109
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban Bí thư (2012), Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo
đảm TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc
giao thông”.
[2] Ban An toàn Giao thông tỉnh Phú Yên (2016), Kế hoạch Tuyên truyền, vận
động và xử lý vi phạm quy định về nồng độ cồn đối với người điều khiển
phương tiện cơ giới đường bộ giai đoạn 2016-2020.
[3] Bộ Công an (2010), Thông tư 38/2010/TT-BCA quy định việc thông báo người
có hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông.
[4] Bộ Công an (2011), Thông tư số 47/2011/TT-BCA, ngày 02/7/2011 của Bộ
Công an về quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số
27/2010/NĐ-CP ngày 24/3/2010 của Chính phủ.
[5] Bộ Công an (2014), Thông tư 45/2014/TT-BCA hướng dẫn Nghị định số
171/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ và đường sắt.
[6] Bộ Giao thông Vận tải (2017), Thông tư 06/2017/TT-BGTVT về sử dụng các
phương tiện nghiệp vụ như thiết bị cân kiểm tra trọng tải, máy camera ghi
hình để phạt nguội vi phạm giao thông đường bộ (có hiệu lực từ ngày
01/5/2017).
[7] Bộ Y tế - Bộ Công an (2014), Thông tư Liên tịch số 26/TTLT/BYT-BCA ngày
23/7/2014 của Bộ Y tế - Bộ Công an quy định về xét nghiệm nồng độ còn trong
máu của người điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ.
[8] Bộ Thông tin và Truyền thông (2016), Quyết định 2145/QĐ-BTTTT năm
2016 về giao nhiệm vụ và phê duyệt kế hoạch thực hiện chương trình tuyên
truyền theo chủ đề “Xây dựng văn hóa giao thông gắn với nâng cao trách
nhiệm, siết chặt k cương của người thực thi công vụ” với mục tiêu “Tính
mạng con người là trên hết”.
[9] Bộ Tài chính (2003), Thông tư 15/2003/TT-BTC hướng dẫn phí trông giữ xe
đạp, xe máy, ô tô bị tạm giữ do vi phạm trật tự ATGT.
110
[10] Bộ Tài chính (2013), Thông tư 153/2013/TT-BTC quy định thủ tục thu, nộp
tiền phạt, biên lai thu tiền phạt và kinh phí từ ngân sách nhà nước bảo đảm
hoạt động của lực lượng xử phạt vi phạm hành chính.
[11] Bộ Tài chính (2014), Thông tư 105/2014/TT-BTC sửa đổi Thông tư
153/2013/TT-BTC về thủ tục thu, nộp tiền phạt, biên lai thu tiền phạt và kinh
phí từ ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động của lực lượng xử phạt vi phạm
hành chính.
[12] Chính phủ (2010), Nghị định 27/2010/NĐ-CP, ngày 24/3/2010 của Chính phủ
quy định việc huy động các lực lượng Cảnh sát khác và Công an xã phối hợp
với Cảnh sát giao thông đường bộ tham gia tuần tra, kiểm soát TTATGT
đường bộ trong trường hợp cần thiết.
[13] Chính phủ (2010), Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
[14] Chính phủ (2011), Nghị định số 33/2011/NĐ-CP về sửa đổi một số nội dung
Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
[15] Chính phủ (2011), Nghị quyết 88/NQ-CP ngày 24/8/2011 của Chính phủ, về
tăng cường thực hiện các giải pháp trọng tâm bảo đảm TTATGT.
[16] Chính phủ (2012), Nghị định số 71/2012/NĐ-CP về sửa đổi một số nội dung
Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
[17] Chính phủ (2013), Nghị định 112/2013/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt
trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành
chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời
gian làm thủ tục trục xuất.
[18] Chính phủ (2013), Nghị định 115/2013/NĐ-CP quy định về quản lý, bảo quản
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục
hành chính;
111
[19] Chính phủ (2013), Nghị định 165/2013/NĐ-CP quy định việc quản lý, sử dụng
và danh mục phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng để phát
hiện vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông và bảo vệ môi trường.
[20] Chính phủ (2013), Nghị định 166/2013/NĐ-CP quy định về cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
[21] Chính phủ (2013), Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
[22] Chính phủ (2014), Nghị định 107/2014/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
171/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ và đường sắt.
[23] Chính phủ (2016), Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2916 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (có
hiệu lực từ ngày 01/8/2016).
[24] Nguyễn Văn Đô (2007), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, an
toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.
[25] Bùi Xuân Đức (2006), Về vi phạm hành chính và hình thức xử phạt vi phạm
hành chính: Những hạn chế và giải pháp đổi mới, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật.
[26] Trần Sơn Hà (2011), cải cách thủ tục hành chính trong xử phạt vi phạm hành
chính về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam đến năm 2020, Luận
văn thạc sỹ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.
[27] Nguyễn Thu Hà (2014), “Minh bạch trong quản trị nhà nước, yêu cầu tất yếu
của xu thế hội nhập và phát triển” số chuyên đề “Hội nghị Tổ chức Hành
chính miền Đông Thế giới (EROPA) 2014, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 226
(11/2014), tr.23-28.
[28] Bùi Thị Hải (2017), “Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 17/2/2017.
112
[29] Phạm Trung Hòa (2008), xử phạt vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao
thông đường bộ của cảnh sát giao thông ở Việt Nam, Luận văn Hành chính công,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
[30] Học viện Cảnh sát nhân dân: “Tình hình trật tự, an toàn giao thông năm 2016
trên phạm vi toàn quốc” đăng trên website:
tu-an-toan-giao-thong-nam-2016-tren-pham-vi-toan-quoc.aspx, ngày 06/01/2017
[31] Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên (2016), Nghị quyết số 79/NQ-HĐND ngày
16 tháng 12 năm 2016 về Ban hành Kế hoạch tổ chức các kỳ họp năm 2017
của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên khóa VII, nhiệm kỳ 2016-2021.
[32] Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên (2016), Nghị quyết số 80/NQ-HĐND ngày
16 tháng 12 năm 2016 về Ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân
dân tỉnh Phú Yên khóa VII, nhiệm kỳ 2016-2021.
[33] Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên (2017), Nghị quyết số 83/NQ-HĐND ngày
22 tháng 02 năm 2017 về Ban hành Quy chế Tiếp công dân của Thường trực
HĐND và đại biểu HĐND tỉnh Phú Yên khóa VII, nhiệm kỳ 2016-2021.
[34] Nguyễn Mạnh Hùng (2006), Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính về giao thông đường bộ cần được áp dụng như thế nào, Tạp chí Luật
học.
[35] Trần Minh Hương (2006), Biện pháp xử phạt hành chính khác, Tạp chí Quản
lý Nhà nước.
[36] Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hành chính
Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia.
[37] Phú Yên: tai nạn giao thông tăng đột biến”, đăng trên website:
https://tintucphuyen.net/Tin-tuc-phu-yen/phu-yen-tai-nan-giao-thong-tang-
dot-bien-100.html ngày 05/9/2016.
[38] Phòng Cảnh sát Giao thông - Công an tỉnh Phú Yên (2012), Báo cáo hoạt
động năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2013.
[39] Phòng Cảnh sát Giao thông - Công an tỉnh Phú Yên (2013), Báo cáo hoạt
động năm 2013 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2014.
113
[40] Phòng Cảnh sát Giao thông - Công an tỉnh Phú Yên (2014), Báo cáo hoạt
động năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2015.
[41] Phòng Cảnh sát Giao thông đường bộ - đường sắt - Công an tỉnh Phú Yên
(2015), Báo cáo hoạt động năm 2015 và phương hướng, nhiệm vụ công tác
năm 2016.
[42] Phòng Cảnh sát Giao thông đường bộ - đường sắt - Công an tỉnh Phú Yên
(2016), Báo cáo hoạt động năm 2016và phương hướng, nhiệm vụ công tác
năm 2017.
[43] Nguyễn Thị Phượng (chủ biên), Vấn đề minh bạch hóa hoạt động quản lý
hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2016.
[44] Quốc hội (1992, 2001), Hiến pháp.
[45] Quốc hội (2008), Luật Giao thông đường bộ.
[46] Quốc hội (1999, 2009), Bộ luật Hình sự.
[47] Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại.
[48] Quốc hội (2011), Luật Tố cáo.
[49] Quốc hội (2012), Luật Xử phạt vi phạm hành chính.
[50] Quốc hội (2013), Hiến pháp.
[51] Quốc hội (2015), Tổ chức chính quyền địa phương.
[52] Quốc hội (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân.
[53] Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
[54] Quốc hội (2010), Luật Tố tụng hành chính.
[55] Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính.
[56] Quốc hội (2015), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
[57] Sở Giao thông Vận tải Phú Yên, “Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết công
tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông quý I/2017” đăng trên Website:
kien/hoi_nghi_atgt_qi_2017, ngày 17/3/2017
[58] Nguyễn Văn Thạch (1997), Trách nhiệm hành chính – Lý luận và thực tiễn,
Chuyên đề Hội thảo về giao thông, Hà Nội.
114
[59] Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị 1405/CT-TTg, ngày 30/9/2008 của
Chính phủ về tiếp tục thực hiện quản lý xe công nông, xe cơ giới ba bánh, xe
thô sơ ba, bốn bánh theo quy định tại Nghị định số 32/2007/NQ-CP ngày
29/6/2007 và Nghị quyết số 05/2008/NQ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ.
[60] Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010 của
Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.
[61] Tỉnh ủy Phú Yên (2012), Kế hoạch số 31-KH/TU ngày 14/11/2012 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, về triển khai thực hiện Chỉ thị 18-CT/TW về “Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường
sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”; tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp ủy đảng, trách nhiệm và sự phối hợp giữa các ban, ngành,
địa phương và các tổ chức chính trị xã hội trong công tác bảo đảm TTATGT.
[62] Vũ Thư (1996), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn, Chuyên đề hội thảo
khoa học về giao thông, Hà Nội.
[63] Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân.
[64] Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2015), Quyết định số 2180/QĐ-UBND ngày
03 tháng 11 năm 2015 Ban hành Đề án “Tăng cường công tác đảm bảo trật
tự, an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh Phú Yên, giai đoạn 2015-2020”.
[65] Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia (2015), Quyết định số 530/QĐ-
UBATGTQG ngày 04/12/2015 của Chủ tịch Ủy ban ATGT Quốc gia về việc
ban hành Kế hoạch tuyên truyền, vận động và xử lý vi phạm quy định về nồng
độ cồn đối với ngưòi điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ giai đoạn 2015
- 2020 trên phạm vi toàn quốc.
[66] Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1980), Xử phạt vi phạm hành chính, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ (mã số 85 98 008), Hà Nội.
115
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_xu_phat_vi_pham_hanh_chinh_trong_linh_vuc_giao_thon.pdf