Luận văn Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại quốc tế

Đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nước ta, để chuyển sang phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm thì việc nghiên cứu mẫu mốt là một yêu cầu không thể thiếu được. Nó giúp cho các doanh nghiệp của ta phát triển theo hướng tự chủ, không phụ thuộc vào khách đặt hàng nước ngoài, nhờ đó nâng cao khả năng sản xuất kinh doanh, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá phương thức kinh doanh, thị trư ờng kinh doanh.

pdf50 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2378 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Năm 1997, Việt Nam đã trở thành một trong 7 nước xuất khẩu quần áo lớn nhất vào Nhật Bản, tuy nhiên cũng như ở các thị trường khác, hàng may Việt Nam cũng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé trong tổng nhập khẩu của thị trường này, còn thua kém xa so với thị phần của Trung Quốc. Trong năm 1998, xuất khẩu của ngành tới thị trường Nhật Bản là 321 triệu USD, tuy có giảm so với năm 1997 song vẫn đạt 15,67% tổng kim ngạch của ngành dệt may. Qua đây ta thấy, cần nhìn nhận lại thị trường này, đặc biệt là về mẫu mã sản phẩm, chất lượng sản phẩm và các phương pháp tiến hành kinh doanh với Nhật Bản để cải thiện tình hình sa sút ở thị trường này. 1.3. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 1.3.1. Những kết quả đạt được Có thể nói những năm qua là những năm thành công với những nỗ lực và cố gắng rất lớn của ngành dệt may, đặc biệt là xuất khẩu. Xuất khẩu hàng dệt may năm 2004 ước đạt 4,319 tỷ USD, với mức tăng trưởng cao trên 30%, đóng góp lớn vào nền kinh tế của đất nước. Cùng với những nỗ lực của các doanh nghiệp dệt may, ngành dệt may nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng đã đạt được những tiến bộ vượt bậc. Đến nay, ngành dệt may Việt Nam đã trở thành ngành công nghiệp tương đối mạnh, đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân: có kim ngạch xuất khẩu cao, chiếm 16,33% tỷ trọng trong tổng số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, chỉ đứng sau dầu thô về kim ngạch xuất khẩu. Với bước tiến như vậy, có cơ sở tin vào một tương lai tươi sáng cho ngành dệt may xuất khẩu của ta nhất là khi Việt Nam đàm phán thành công gia nhập WTO vào cuối năm nay. Hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam bước đầu đã tạo được uy tín trên thị trường nhập khẩu lớn trên thế giới như : Mỹ, EU, Nhật Bản, SNG và Đông Âu,….Đặc biệt, hàng dệt may Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của thị trường lớn khó tính như Nhật Bản. Những thị phần hàng dệt may của ta hiện có ở các nước là cơ sở để ngành dệt may Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ. 1.3.2. Những hạn chế cơ bản: Bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khích lệ đó, ngành dệt may nước ta còn bộc lộ nhiều yếu kém. - Về quy mô sản xuất: cả nước có khoảng hơn 200 doanh nghiệp dệt với năng lực sản xuất 500 triệu mét vải/năm, trong đó chỉ có 30% là đủ tiêu chuẩn cho ngành may xuất khẩu (tương đương 700 triệu mét). So với các nước khác trong khu vực năng suất lao động của ngành dệt nước ta chỉ bằng 30 - 50% do còn yếu kém về thiết bị, công nghệ. - Về giá thành: giá thành hàng dệt may Việt Nam cao hơn từ 30 - 40% so với mặt hàng này của Trung Quốc, Pakistan, ấn Độ, Inđônêsia,…. - Về chất lượng: chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây tuy đã có rất nhiều cải tiến song chưa phải đã hoàn toàn đạt yêu cầu, đặc biệt là đối với ngành dệt. Quy chế kiểm tra chất lượng còn chưa chặt chẽ, tình trạng hàng xuất kém chất lượng gây mất uy tín vẫn còn tồn tại. Tính đến cuối năm 1999, toàn ngành mới có 8 doanh nghiệp đăng kí áp dụng hệ thống ISO 9002 trong quản lí chất lượng, và mới có 4 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ.( Công ty liên doanh sản xuất chỉ Phong Phú, Công ty may 10, may Thăng Long và Dệt may Hà Nội ). - Về mẫu mã, kiểu dáng: Đây là yếu tố ngày càng trở nên có ý nghĩa trong việc duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu. Các khâu thiết kế mẫu mã, kiểu dáng,….còn chưa được chú trọng đúng mức, còn hết sức hạn chế, kém sáng tạo, chưa theo kịp đòi hỏi của khách hàng. Đó là do công nghiệp dệt may của Việt Nam lâu nay chủ yếu thực hiện theo phương thức gia công, kiểu cách, mẫu mã do phía nước ngoài đặt. Đồng thời do sáng tạo mẫu mốt của ta vẫn là một công việc mới mẻ nên chưa phát triển về lý thuyết và thực tế. - Về lao động: lực lượng lao động của Việt Nam rất đông đảo. Tuy nhiên số đông lao động không có tay nghề. Lao động có kỹ năng đang bị thiếu. Dù đào tạo cho ngành dệt may không đòi hỏi chi phí quá cao song để có được một đội ngũ thợ lành nghề cũng cần rất nhiều thời gian và chi phí. Hơn nữa, tác phong kỷ luật làm việc của công nhân nước ta còn rất nhiều hạn chế, thêm vào đó là sự yếu kém về thể lực,….. Phần 2 : Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại quốc tế. 2.1. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại quốc tế 2.1.1. Một vài nhận định về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước và sau dỡ bỏ hạn ngạch Dệt may nằm trong số các mặt hàng đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, chỉ sau dầu thô, chiếm trên 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Những năm qua, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã đạt những bước tiến vượt bậc với kim ngạch 3,6 tỷ USD năm 2003 và 4,319 tỷ USD năm 2004. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là Mỹ, EU, Nhật Bản. Bước sang năm 2005, Hiệp định dệt may của WTO (ATC) chính thức thực hiện xoá bỏ chế độ hạn ngạch dệt may cho các nước thành viên, Việt Nam có những thời cơ mới và thách thức mới cho ngành dệt may xuất khẩu. Về thị trường Mỹ: Mỹ vẫn là thị trường áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may xuất khẩu của ta, bởi vậy các doanh nghiệp phải tận dụng những lợi thế sẵn có để gia tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường này. Về thị trường EU: Tuy Việt Nam vẫn chưa là thành viên của WTO, nhưng kể từ 1/1/2005 hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam không phải chịu sự áp đặt hạn ngạch từ phía các nước EU. Đây thực sự là một điều kiện rất tốt để các doanh nghiệp tự khẳng định năng lực và sức bật của mình. Đồng thời khi không còn chế độ phân giao hạn ngạch nữa, các doanh nghiệp của ta cũng phải tự cố gắng rất nhiều để có thể giữ vững và nâng cao vị thế của mình trên đấu trường quốc tế. Về thị trường Nhật Bản: Nhật là thị trường phi hạn ngạch, nên việc xoá bỏ hạn ngạch đối với các nước thành viên WTO cũng không ảnh hưởng nhiều tới tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Vấn đề cốt lõi là ngành dệt may Việt Nam làm sao nâng cao chất lượng, đảm bảo uy tín để giữ vững thị phần đứng thứ 2 tại thị trường này. Qua đây ta thấy, liệu ngành dệt may Việt Nam hậu hạn ngạch có phát triển hay không, có đạt được kế hoạch năm 2005 đạt 5,183 tỷ USD hay không, phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành, nỗ lực từ phía nhà nước với tư cách là người hướng dẫn chỉ đạo, đầu tư cải tiến trang thiết bị, máy móc, công nghệ cho ngành. 2.1.2. Hậu hạn ngạch tại một số thị trường lớn trên thế giới Việc dỡ bỏ các hàng rào thương mại và giới hạn hạn ngạch sẽ mang lại những cơ hội xuất khẩu rất lớn cho các nhà xuất khẩu dệt may Châu á, hiện đang đạt kim ngạch xuất khẩu 9 tỷ USD/ năm và tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm. Trong đó, Trung Quốc, ấn Độ và Pakistan được dự báo sẽ là 3 nước chi phối thị trường dệt may thế giới ít nhất là cho đến năm 2010. Những nước này sẽ tăng mạnh thị phần của họ tại thị trường dệt may thế giới nhờ vào giá cả sản phẩm rất cạnh tranh của mình. Hiện tại, 3 nước này đang chiếm ưu thế nổi trội ở cả thị trường nhập khẩu dệt may thế giới có hạn ngạch và phi hạn ngạch với thị phần chung tại thị trường hạn ngạch là 44% và tại thị trường phi hạn ngạch là 82% (số liệu tháng 5/2004). Nhiều nguồn tin trong ngành cho rằng khi bước vào chế độ hậu hạn ngạch, Trung Quốc sẽ vươn tới chiếm giữ thị phần lớn nhất về thương mại dệt may toàn cầu (hiện đang chiếm 28% thị phần thị trường dệt may toàn cầu), trong khi ấn Độ sẽ có được vị trí thứ 2 về xuất khẩu hàng dệt may vào EU và Mỹ. 2.1.2.1. Trung Quốc: Dệt may Trung Quốc có mặt ở hầu hết các thị trường lớn trên thế giới. Nhãn hiệu hàng “Made in China” có thể chiếm khoảng 50% thị phần hàng dệt may thế giới vào năm 2007 sau khi WTO bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may kể từ 1/1/2005, thúc đẩy các nhà sản xuất Trung Quốc và các nhà bán lẻ toàn cầu chiếm thị phần của các nhà xuất khẩu nhỏ lẻ. Các nhà sản xuất hàng dệt may Mỹ dự báo thị phần của Trung Quốc trong nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ sẽ tăng từ 16% năm 2003 đến 71% vào cuối năm 2006, đạt 42 tỷ USD. Lợi thế lớn nhất của Trung Quốc là có nguồn nguyên liệu rất dồi dào, các chính sách trợ giúp của nhà nước rất lớn giúp hạ thấp giá thành. Trong khi đó, mạng lưới của người Hoa ở nước ngoài để tiêu thụ mặt hàng này lại rộng khắp.Với những ưu thế như vậy, chỉ riêng tháng 1/2005 Trung Quốc đã xuất vào Mỹ 1,9 tỷ USD hàng dệt may, tăng 41% so với tháng 12 năm trước, tăng hơn 30% so với cùng kỳ, bằng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2003 của Việt Nam vào Mỹ. Hiện nay Trung Quốc đang chiếm giữ 22% thị trường Mỹ, so với 16% hồi cuối năm ngoái; thị phần hàng dệt may Trung Quốc tại Mỹ đã tăng đáng kể. 2.1.2.2. ấn Độ: Cùng với Trung Quốc, ấn Độ cũng là sự lựa chọn của các doanh nghiệp nhập khẩu Mỹ vào năm 2005. Theo các nhà phân tích, với lực lượng lao động dồi dào, có tay nghề và giá nhân công không cao chính là thế mạnh của ngành dệt may ấn Độ. Ngoài ra, ấn Độ còn là nước sản xuất bông lớn thứ 3 thế giới. Hiện các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới như Wal Mart, The Gap đã sẵn sàng đặt hàng ấn Độ. Các tập đoàn này dự định sẽ lập văn phòng tại ấn Độ để nắm bắt xu hướng phát triển của ngành dệt may ấn Độ sau ngày 1/1/2005. Dự kiến năm 2005, ngành dệt may ấn Độ sẽ đóng góp khoảng 8% vào GDP, 17% vào sản xuất công nghiệp, 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này. Hiện ấn Độ vẫn là nước sản xuất hàng dệt may lớn thứ 2 thế giới, chiếm hơn 3% thị phần thương mại toàn cầu về dệt may. Khi hạn ngạch được xoá bỏ, dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may ấn Độ sẽ tăng từ 12 tỷ USD năm 2003 lên 50 tỷ USD vào năm 2010, riêng kim ngạch của ngành may phải đạt 25 tỷ USD (nay là 6,2 tỷ USD). Điều này sẽ tạo ra khoảng 5 triệu việc làm, thị phần ở Mỹ tăng tương ứng từ 4% lên 15%. 2.1.2.3. Pakistan: Sau Trung Quốc và ấn Độ, Pakistan cũng là một nước có nhiều tiềm năng chiếm lĩnh thị trường thế giới về hàng dệt may xuất khẩu. Với những lợi thế cạnh tranh chủ yếu là lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ, đồng thời có một môi trường kinh doanh hết sức thuận lợi. Chính phủ nước này đang từng bước đưa ra biện pháp đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường thế giới cho ngành dệt may, vấn đề an toàn cá nhân và an ninh trong vận chuyển hàng giữa nhà máy và cảng đều được quan tâm thoả đáng. Điều này là cơ sở để có thể nhận định rằng: Pakistan sẽ tiếp tục là nước xuất khẩu sang Mỹ, được nhiều doanh nghiệp Mỹ lựa chọn là đối thủ cạnh tranh của Trung Quốc, đặc biệt là hàng may mặc dành cho nam giới và có thể tiếp tục là nước xuất khẩu sợi và vải cotton ra thị trường thế giới 2.1.3.Những ảnh hưởng của việc xoá bỏ hạn ngạch đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam Xoá bỏ hạn ngạch dệt may dành cho các nước thành viên WTO không chỉ tác động đến tình hình chung của các nước lớn về xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới mà còn ảnh hưởng đến ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam, có cả những cơ hội và có cả những thách thức. 2.1.3.1. Cơ hội: Hậu hạn ngạch, nhiều nhà chuyên gia nhận định rằng: Trung Quốc sẽ thống trị thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng. Trung Quốc thực sự sẵn sàng để trở thành một nhà cung cấp thống trị thị trường dệt may Mỹ bởi nước này có khả năng lớn nhất trong việc đáp ứng mọi nhu cầu về bất kì chủng loại hàng dệt may nào với nhiều cấp độ chất lượng và giá cả cạnh tranh nhất. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng: dù có tốc độ tăng trưởng cao nhưng Trung Quốc sẽ khó duy trì ổn định sự phát triển ấy do vấp phải những khó khăn khách quan. Trong số đó là thị hiếu tiêu dùng hàng dệt may của người dân Mỹ rất dễ thay đổi và Trung Quốc cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều từ điều khoản mà nước này đã cam kết khi gia nhập WTO rằng, phải bảo đảm không gây tổn hại đến sự tăng trưởng như hiện nay của những nước cung cấp hàng dệt may khác vào thị trường Mỹ và những thị trường khác. Hơn thế, nhằm giảm bớt mức độ rủi ro của xu hướng nhập khẩu nguyên vật liệu và sản phẩm chỉ từ một quốc gia như Trung Quốc, các nhà nhập khẩu Mỹ dự kiến sẽ mở rộng quan hệ thương mại với những nước cung cấp hàng giá rẻ hay lao động dồi dào khác như ấn Độ, Băng la đét, Pakistan,….trong đó có Việt Nam. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào Mỹ có những thuận lợi cơ bản là ngành dệt may Việt Nam ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà nhập khẩu Mỹ do chất lượng may tốt và đảm bảo thời gian giao hàng. Nguồn tin từ Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) cho biết, đơn giá xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ ngày càng cao, và các khách hàng lớn của Mỹ vẫn chọn Việt Nam là thị trường đặt hàng chiến lược. Báo cáo của Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) về khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may vào nước này sau 1/1/2005 đã đánh giá rằng, trong các nước châu á chỉ có Việt Nam và chừng mực nào đó còn có Inđônêsia là có thể cạnh tranh với Trung Quốc. Nguồn tin từ Hiệp hội nhập khẩu Dệt may Hoa Kỳ (USA - IAA) cũng cho biết Việt Nam được coi là nguồn cung lựa chọn thứ 2 sau Trung Quốc (nếu Việt Nam không có khó khăn về hạn ngạch), nhất là đối với Cat 347/348, 647/348, 338/339, 638/639, 340/640. Ngoài ra, Việt Nam có lợi thế là lao động rẻ, chất lượng may tốt hơn so với ấn Độ (ấn Độ là nguồn cung lựa chọn tiếp theo sau Việt Nam trong điều kiện Việt Nam không bị khó khăn bởi hạn ngạch). Tuy Việt Nam phải nhập khẩu nhiều nguyên phụ liệu song nguồn cung phần lớn ở ngay gần Việt Nam và việc nhập khẩu cũng không mấy khó khăn. Bởi vậy, ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam vẫn có cơ hội to lớn khi bước vào thời kỳ hậu hạn ngạch kể từ 1/1/2005. Cụ thể, từ 1/1/2005 chỉ còn 9 mặt hàng phải nộp phí quota khi xuất khẩu. 9 mặt hàng này đều là những Cat nóng xuất vào Mỹ và với mức thu phí mới đã được giảm tới 70% so với năm 2004 trở về trước. Mức thu các mặt hàng này: áo khoác nam nữ chất liệu bông 1800 đồng/tá, áo sơ mi dệt kim nam nữ chất liệu bông 750 đồng/tá, áo sơ mi nam, nữ dệt thoi chất liệu bông và sợi nhân tạo 1200 đồng/tá,…. 10 mặt hàng dệt may xuất vào Mỹ còn lại là những Cat nguội và sẽ không phải nộp phí hạn ngạch khi vào thị trường Mỹ. Gồm: áo khoác nam dạng comple, áo sweater chất liệu bông, quần áo ngủ chất liệu bông và sợi nhân tạo,…. Ngoài những thuận lợi nói trên, hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ còn được hưởng những ưu đãi hết sức hấp dẫn như : nếu xuất dưới 20 tá hoặc 120 kg thì không cần thông báo với Bộ thương mại (được phép làm thủ tục xin cấp visa xuất khẩu tại các phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực). Hơn thế, EU còn quyết định tăng hạn ngạch nhập khẩu 14 Cat của Việt Nam khi thêm 10 nước thành viên mới kể từ 1/5/2004. Một cơ hội rất lớn của Việt Nam, đó là đàm phán thành công với EU về việc xoá bỏ hạn ngạch dệt may cho Việt Nam khi chưa phải là thành viên của WTO. Khi không còn phải chịu sự hạn chế của hạn ngạch nhập khẩu nữa, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể bằng chính năng lực sản xuất, nỗ lực của mình để xuất sang các thị trường tiềm năng trong cộng đồng chung Châu Âu (EU). Với những cơ hội hết sức thuận lợi trên, ngành dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể đạt chỉ tiêu đã đề ra với kim ngạch xuất khẩu 8 - 9 tỷ USD vào năm 2010. 2.1.3.2. Thách thức: Bên cạnh những cơ hội to lớn có được, ngành dệt may Việt Nam còn phải đối phó với những thử thách không dễ dàng vượt qua. Các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước mối đe doạ không còn thị trường xuất khẩu khi mà Hiệp định MFA - Hiệp định về chế độ hạn ngạch đối với Việt Nam - chấm dứt giữa các nước thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Mốc thời điểm này là cơ hội để Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan,….- những thành viên chính thức của WTO xuất khẩu vào những nước thành viên khác với số lượng không hạn chế, trong khi đó Việt Nam, một nước chưa phải là thành viên chính thức của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này, lại bị giới hạn bởi chế độ hạn ngạch. Do không còn hạn ngạch, mặt bằng giá nhập khẩu dệt may nói chung vào Mỹ sẽ giảm đáng kể. Theo một số dự đoán, giá nhập khẩu bình quân sẽ giảm khoảng 30%. Cũng theo phân tích của Hiệp hội các nhà sản xuất Dệt may Hoa Kỳ, giá trung bình mỗi nét vuôn (tính trung bình) cho 29 chủng loại như sau: giá của Trung Quốc đã giảm 58% so với giá năm 2002, trong khi của thế giới nói chung giảm 3%. Trung tâm Thương mại Thế giới có trụ sở đặt tại Gieneva phân tích. Mức độ giảm giá sẽ khác nhau đối với các chủng loại. Dự đoán giá các Cat của Trung Quốc vào thị trường Mỹ sẽ giảm như sau: Cat.347 giảm khoảng 45%, Cat.348 : - 42%, Cat.647 : - 5%, Cat.345: - 34%, Cat.648 : - 26%, Cat.339 : - 25%, Cat.338 : - 19,5%. Nếu dự đoán trên là đúng thì những Cat này của Việt Nam sẽ gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ Trung Quốc và sẽ không tránh khỏi phải giảm giá. Như vậy, hàng dệt may Việt Nam đang phải cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc, là một thách thức rất lớn đối với một ngành công nghiệp còn nhiều yếu kém về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và chủ yếu phải nhập khẩu nguyên phụ liệu như ngành dệt may Việt Nam. Khâu yếu nhất của ngành dệt may Việt Nam là sản xuất vải phụ liệu phục vụ may xuất khẩu. Khoảng 80% nguyên phụ liệu vẫn phải nhập khẩu, sản phẩm yếu về mẫu mốt, chủng loại, nhãn mác, phần lớn các doanh nghiệp chưa có thương hiệu của mình, ngay cả việc đăng kí sở hữu bản quyền, thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm thoả đáng, năng suất lao động của công nhân Việt Nam hiện còn ở mức thấp, chi phí giao dịch còn lớn. Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng hiệu quả còn thấp do tới khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu thực hiện theo phương thức gia công, chỉ khoảng 30% xuất khẩu theo phương thức bán sản phẩm. Thị phần khách hàng Việt Nam trên thị trường thế giới còn khá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có (mới chỉ chiếm khoảng 0,95% thị trường EU; 29% thị trường Nhật Bản; 3,2% thị trường Mỹ và khoảng 1% tổng thương mại dệt may toàn cầu), còn bị phụ thuộc vào hạn ngạch, chưa tận dụng hết khả năng khai thác thị trường phi hạn ngạch, chưa thâm nhập được vào mạng lưới phân phối của các thị trường lớn, thường phải xuất khẩu qua trung gian. Các rào cản thương mại như chống bán phá giá, các quy định nghiêm ngặt về xuất xứ hàng hoá mà các nền kinh tế phát triển như EU, Mỹ thường xuyên sử dụng sẽ là những cản trở đối với xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam. Một bất lợi phải kể đến khi chế độ hạn ngạch được xoá bỏ, đó là trong giai đoạn đầu thực hiện bão bỏ hạn ngạch, các nước có quyền áp đặt biện pháp bảo vệ tạm thời trong vòng 3 năm kể từ 2005 để bảo vệ sản xuất trong nước. Còn Việt Nam sẽ gặp khó khăn vì vẫn được coi là nước có nền kinh tế phi thị trường. Có thể nói ngay cả khi Việt Nam đã là thành viên của WTO, ngành dệt may Việt Nam cũng như nhiều nước khác vẫn chịu sức ép lớn trước sức cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan. Đứng trước những thách thức như vậy, ngành dệt may Việt Nam liệu có đủ khả năng để giữ vững đồng thời tăng thị phần của mình tại các thị trường lớn trên thế giới hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực từ phía Nhà nước cũng như các doanh nghiệp trong ngành. 2.2. Định hướng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong điều kiện mới 2.2.1. Định hướng và mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 2.2.1.1. Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010: Bước vào thế kỷ 21, tình hình kinh tế và thương mại thế giới đã có nhiều thay đổi thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam. Vì vậy, Tổng công ty dệt may Việt Nam đã trình và được chính phủ phê duyệt: “Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010” với những mục tiêu phù hợp với khả năng phát triển của ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Từ 2001 - 2005, dự kiến kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình mỗi năm 13,3% đến năm 2005 đạt 5 tỷ USD, sử dụng lao động tăng bình quân 12%/năm, đạt từ 2,5 - 3 triệu người, sản lượng bông xơ và vải lụa tăng bình quân mỗi năm 25,4% và 18%. Đây là một mục tiêu táo bạo, yêu cầu tốc độ tăng nhanh của các chỉ tiêu. Để đạt được mục tiêu này cần có sự cố gắng nỗ lực và sự đầu tư nhanh và mạnh của mọi thành phần kinh tế. Phấn đấu đạt mục tiêu đề ra cho năm 2005 sẽ là điều kiện tốt nhất để ngành dệt may Việt Nam tiến tới hoàn thành tốt chỉ tiêu cho năm 2010. Từ 2006 - 2010, chỉ tiêu đó là đạt kim ngạch xuất khẩu 8 - 9 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 11%, sử dụng lao động bình quân hàng năm khoảng 5,7%, sản lượng bông xơ và vải lụa tăng lần lượt 20,8% và 8%. Bảng 7: Các chỉ tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010 Chỉ tiêu Đơn vị tính Mục tiêu hoàn thành 2005 2010 1. Sản xuất Bông xơ Tấn 30.000 80.000 Xơ sợi tổng hợp Tấn 60.000 120.000 Sợi các loại Tấn 150.000 300.000 Vải lụa thành phẩm Triệu m2 800 1.400 Dệt kim Triệu SP 300 500 May mặc Triệu SP 780 1.500 2. Kim ngạch xuất khẩu TriệuUSD 4000-5000 8000-9000 3. Sử dụng lao động Triệu người 2,5 – 3 4 – 4,5 4.Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu % >50 >75 5. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển Tỷ đồng 35.000 30.000 - Vốn đầu tư mở rộng Tỷ đồng 23.200 20.000 - Vốn đầu tư chiều sâu Tỷ đồng 11.800 10.000 Trong đó : Vinatex Tỷ đồng 12.500 9.500 6. Vốn đầu tư phát triển trồng bông Tỷ đồng 1.500 Nguồn : VINATEX 2.2.1.2. Định hướng cơ bản cho phát triển ngành dệt may Việt Nam: Với mục tiêu phát triển ngành dệt may như trên, ngành cũng có những định hướng như sau: - Đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong quá trình tăng tốc phát triển ngành dệt may. Có như vậy mới huy động được mọi nguồn lực từ bên trong và bên ngoài, kể cả nguồn lực quốc tế cho bước phát triển tăng tốc trong một thời gian ngắn đối với ngành dệt may Việt Nam. Coi trọng nguồn lực từ nhân dân lao động, đẩy mạnh kêu gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dệt may, góp phần tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển ngành. Trong 10 năm tới, ngành dệt may cần nguồn vốn khoảng 65.000 tỷ đồng, trong đó, vốn để đầu tư mở rộng là 43.200 tỷ đồng. - Coi trọng phát triển chiều rộng đi đôi với củng cố chiều sâu. Đây là bước đi quyết định trong giai đoạn đến năm 2010. Công nghiệp dệt cần phát triển thành từng cụm, nằm trong các khu công nghiệp nhằm tiết kiệm vốn đầu tư cho hạ tầng cơ sở, giải quyết vấn đề nước thải tập trung, bảo vệ môi trường sinh thái. Từ đó có thể hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên cơ sở đó có thể đưa các công nghệ hiện đại vào sản xuất và áp dụng các mô hình quản lý, điều hành tiên tiến vào ngành dệt may Việt Nam. Hơn mười năm đổi mới vừa qua là giai đoạn đầu tư chiều sâu nhằm thay thế dần các loại thiết bị và công nghệ quá lỗi thời. Tuy nhiên, việc thay thế này vẫn chưa hoàn tất. Do vậy, việc đầu tư chiều sâu vẫn được khuyến khích, để tự các doanh nghiệp tiếp tục thực hiện và hoàn tất trong thời gian tới. - Tập trung phát triển các vùng nguyên liệu. Đó là các loại: bông, tơ tằm, xơ sợi tổng hợp cùng với việc phát triển công nghiệp hoá dầu. Cho đến nay, Việt Nam vân phải nhập khẩu khoảng 70 - 90% nguyên liệu ban đầu cho ngành dệt may. Việc nâng cao tỷ lệ giá trị xuất xứ nội địa trên sản phẩm dệt may là một trong những mục tiêu chính của chiến lược tăng tốc nhằm nâng cao phần lợi nhuận trong xuất khẩu hàng dệt may của ta. Cùng với những nỗ lực trong sản xuất xơ, sợi ngành cũng cố gắng đến năm 2005 đáp ứng 30% nhu cầu ngành dệt và đến năm 2010 nâng cao tỷ lệ đáp ứng này lên 70%. Nếu thực hiện được đúng như kế hoạch, đó sẽ là một thành công lớn trong nỗ lực nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm dệt may của Việt Nam. - Tăng tốc phát triển bằng việc đầu tư các công nghệ mới, hiện đại. Đây là việc nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về chất lượng và sản lượng. Mặt khác, cần coi trọng và tận dụng các loại thiết bị đã qua sử dụng những máy móc có năng suất cao thế hệ từ những năm 90 trở lại đây. Đầu tư phát triển ngành dệt may theo hướng chuyên môn hoá cao, có như vậy mới tạo được bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải đi chuyên sâu và làm chủ được một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng mới với chất lượng cao. - Đặc biệt quan tâm đến phương thức xuất khẩu. Cần chuyển dần sang phương thức xuất khẩu mua nguyên liệu, bán thành phẩm, giảm hình thức gia công để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Rõ ràng phương thức xuất khẩu trực tiếp có hiệu quả cao, nếu phần lớn nguyên liệu được sản xuất trong nước thì hiệu quả còn cao hơn, bởi không phải tốn kém chi phí nhập khẩu mà lại không bị phụ thuộc về thời gian mua nguyên liệu, có thể chủ động hơn trong sản xuất. Tuy nhiên, muốn thực hiện phương thức xuất FOB thì các doanh nghiệp phải có tính năng động rất cao, am hiểu thị trường và có thông tin đầy đủ về thị trường, tạo lập được các kênh tiêu thụ và bạn hàng thường xuyên….Đây là một khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. - Mở rộng thị trường nước ngoài. Đây luôn là vấn đề được Nhà nước cũng như ngành dệt may Việt Nam đặt lên hàng đầu. Phát triển thị trường hiện có và tìm kiếm những thị trường mới sẽ tạo cho ngành dệt may nhiều cơ hội trong tương lai. Hiện ngành đã có những thị trường như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, ASEAN, Nga, Hàn Quốc, Hồng Kông,….Trong đó những thị trường có khả năng mở rộng là các thị trường như : Bắc Mỹ, Mỹ, Trung Đông,….Cần tận dụng mọi cơ hội để hàng dệt may của Việt Nam có thể vươn tới nhiều thị trường trên thế giới. 2.2.2. Những giải pháp cơ bản thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 2.2.2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước:  Giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất cần phải làm là hoàn thiện cơ cấu xuất nhập khẩu. Trước hết cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên vật liệu, hàng mẫu. Ngành dệt may cần được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan hợp lý, chính sách thưởng xuất nhập khẩu….thực hiện chế độ thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp đạt thành tích như xuất khẩu mặt hàng mới, kim ngạch xuất khẩu tăng năm nay so với năm trước. Điều này sẽ động viên cả về tinh thần lẫn vật chất cho các doanh nghiệp tiếp tục phấn đấu nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả trong xuất khẩu. Cơ chế phân bổ hạn ngạch phải được thay đổi căn bản tránh mọi khả năng tiêu cực xảy ra. Có thể tiếp tục thực hiện đấu thầu hạn ngạch hoặc phân bổ hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu vào thị trường không hạn ngạch. Ngoài ra, việc cấp hạn ngạch cũng nên chú ý ưu tiên đối với doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu trong nước. Như vậy sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh, đồng thời tạo sự bình đằng giữa các doanh nghiệp.  Nhà nước cần phải khẩn trương đàm phán thương mại cấp quốc gia để tạo cho các doanh nghiệp có cùng điều kiện xuất khẩu như các nước khác trong khu vực, cụ thể như sau: - Tiếp tục đàm phán với Mỹ trong quan hệ thương mại giữa hai nước sau Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và Hiệp định hàng dệt may đã ký để tăng thêm hạn ngạch cho phía Việt Nam vì hạn ngạch Mỹ phân bổ cho Việt Nam vẫn chưa tương xứng với năng lực sản xuất của phía Việt Nam. - Đàm phán với Nhật về việc tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này khi nền kinh tế nước này đang trên đà phục hồi và phát triển. - Phấn đấu đàm phán gia nhập WTO vào cuối năm 2005 để hàng dệt may Việt Nam được bỏ quota như các nước thành viên WTO vào thời điểm này tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam giảm bớt những khó khăn của thời hậu hạn ngạch.  Chính phủ bổ trợ cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, đặc biệt là các thị trường mới như Trung Mỹ, Châu Phi, Trung Cận Đông qua việc trích phí quota để bổ trợ một phần kinh phí thâm nhập thị trường mới. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần có một trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, giới thiệu sản phẩm, thu thập và xử lý các thông tin về thị trường, về khách hàng một cách nhanh chóng, kịp thời với những diễn biến, thay đổi của thị trường đặc biệt thời kỳ hậu hạn ngạch. Ngoài ra, cần tiếp tục xúc tiến việc củng cố và mở rộng thị trường bằng việc khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp mở các chi nhánh, văn phòng đại diện, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, trung tâm xúc tiến thương mại, tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu hàng hoá, thời trang. Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ để các doanh nghiệp chủ động ra nước ngoài tìm kiếm thị trường, xác lập hệ thống kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm tại những thị trường chính (đặc biệt là thị trường Mỹ, EU) và cả những thị trường mới.  Khẩn trương sửa đổi một số nội dung trong luật lao động, luật công đoàn về lệ phí công đoàn, về mức khống chế giờ tăng ca, điều kiện tinh thần cũng như vật chất,….để giúp doanh nghiệp có điều kiện giảm giá thành, tăng hiệu quả quản lý, sản xuất nhằm tăng khả năng xuất khẩu. Tạo điều kiện thông thoáng hơn trong luật đầu tư nước ngoài để mở rộng cơ hội đầu tư về lĩnh vực hàng dệt may của các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam.  Chính phủ và các Bộ, Ngành hữu quan thường xuyên hợp tác với Hiệp hội dệt may Việt Nam để tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp nhằm nắm rõ tình hình cùng những yêu cầu, kiến nghị của các doanh nghiệp tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và xuất khẩu, giải quyết kịp thời những vướng mắc trở ngại phát sinh, những bất hợp lý, đồng thời cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm hiểu luật thương mại của các thị trường Việt Nam xuất khẩu để tránh bị chèn ép, thiệt hại cho phía Việt Nam do không nắm rõ luật thương mại nước ngoài.  Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc biệt (như lãi suất vay ưu đãi, thuế, thị trường,….) để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhanh chóng mở rộng đầu tư sản xuất nhằm tăng cường năng lực sản xuất của ngành dệt may xuất khẩu trước thời kỳ hậu hạn ngạch. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ và hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp nhanh chóng xác lập và đăng ký các tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế (ISO 9000, ISO 14000, SA 8000,….), bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền, ghi nhãn, mã số, mã vạch theo quy chế và sớm đăng ký nhãn hiệu tại thị trường quốc tế, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp khi bước vào thời kỳ sau năm 2005, khi tự do hoá thương mại dệt may thì cạnh tranh mặt hàng này ngày một khốc liệt hơn, để các doanh nghiệp Việt Nam có thể giữ vững, củng cố và mở rộng thị phần, thương hiệu của mình trên thị trường khu vực và thế giới. 2.2.2.2. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp trong ngành: Để có một ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu phát triển mạnh, sự nỗ lực từ phía Nhà nước thôi chư đủ. Điều quan trọng và quyết định đến sự thành công của ngành nằm chính ngay trong sự cố gắng từ bản thân các doanh nghiệp. Cụ thể doanh nghiệp cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, chủ động tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Có thể nói một khó khăn chủ yếu nhất của Tổng công ty dệt may Việt Nam cũng như của toàn ngành dệt may Việt Nam hiện nay và cả trong những năm trước mắt là tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để mở rộng thị trường xuất khẩu cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp sau: - Cần phải quan tâm tới mọi khu vực thị trường với những mức độ khác nhau nhằm thích ứng và khai thác tối đa ưu thế của mỗi thị trường. Nghiên cứu các khu vực thị trường khác nhau với những tiềm năng và đặc điểm của nó về tiêu thụ sản phẩm dệt may nhằm tìm ra mối liên hệ chặt chẽ giữa khả năng sản xuất của mình và đặc điểm tiêu dùng của từng thị trường trên từng khu vực thị trường nhằm thích ứng được với nó cũng như có định hướng trọng tâm với những mức độ khác nhau trong chiến lược thị trường nhằm khai thác tối đa ưu thế của mỗi thị trường là giải pháp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. - Tổ chức thực hiện tốt công tác tiếp thị. Đây là giải pháp then chốt để khai thác và phát triển thị trường. Chú trọng công tác nghiên cứu và phát triển thị trường nhiều khi là yếu tố quyết định cho thành công của doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Để có thể nắm bắt thông tin về thị trường thì không ai khác mà chính doanh nghiệp cần phải chủ động tổ chức công tác nghiên cứu thị trường, coi trọng công tác thị trường phải trở thành nguyên tắc trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Rõ ràng khi đưa một loại sản phẩm có sẵn hay triển khai một sản phẩm mới vào một thị trường xuất khẩu nào đó như thị trường Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ hay Nhật Bản thì điều cốt lõi để đảm bảo sản phẩm có phù hợp và thích ứng với người tiêu dùng của nước nhập khẩu do vậy cần phải nắm vững các đặc điểm, nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng sản phẩm dệt may của thị trường đó. Để thực hiện tốt công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, trước hết các doanh nghiệp cần quan tâm, chú trọng đến công tác nghiên cứu phát triển thị trường và phải đặt thành nội dung quan trọng trong chiến lược Marketing của mình. Từ đó cần có kế hoạch, biện pháp tổ chức và đầu tư thích đáng cho công tác nghiên cứu thị trường. Chi phí cho công tác nghiên cứu, phát triển thị trường phải được xem là bộ phận không thể thiếu được trong kế hoạch tài chính của doanh nghiệp. Với điều kiện của chúng ta, mặc dù kinh phí còn hạn hẹp thì cần phải vận dụng tối đa biện pháp nghiên cứu thị trường, nắm bắt thông tin qua các nguồn tài liệu và đặc biệt qua bạn hàng là rất quan trọng. Thông qua các mối quan hệ với bạn hàng đang tìm hiểu hoặc đang làm ăn với doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần tìm hiểu để nắm bắt được bí quyết kinh nghiệm của họ trong việc nghiên cứu thị trường vì đây là cách hiệu quả nhất để hiểu biết về thị trường một cách sát thực trong khi điều kiện khảo sát thị trường trực tiếp còn khó khăn và không phải lúc nào cũng thực hiện được. Để nắm bắt thông tin và tìm bạn hàng, một vấn đề cơ bản là các doanh nghiệp cần phải duy trì mối quan hệ tốt với các cơ quan chức năng trong và ngoài nước như Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội dệt may, Thương vụ của ta tại các nước,…. để có thể nắm bắt thông tin và tìm bạn hàng. Trong điều kiện kinh phí không phải lúc nào cũng đủ thì muốn giới thiệu doanh nghiệp với khách hàng, thu hút được khách hàng đến với doanh nghiệp thì ngoài các mối quan hệ trên doanh nghiệp còn phải làm tốt công tác thông tin quảng cáo bằng mọi hình thức để quảng bá, giới thiệu hình ảnh của doanh nghiệp đến với khách hàng. Ngoài các phương tiện thông tin đại chúng, doanh nghiệp cần phải tích cực tham gia các hội chợ triển lãm hàng dệt may trong cũng như ngoài nước. - Tổ chức tốt các đầu mối tiếp thị. Những yếu kém và hạn chế trong sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nước ta như không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, phải qua trung gian, thiếu thông tin, thiếu thị trường, nên phải tranh giành khách hàng, bị ép giá gia công,….đều bắt nguồn từ những yếu kém trong việc tổ chức các đầu mối tiếp thị của ngành dệt may xuất khẩu nước ta. Vì vậy tổ chức thật tốt hệ thống các đầu mối tiếp thị để các đầu mối này hoạt động có hiệu quả là giải pháp quan trọng đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa doanh nghiệp và các cơ quan chức năng. Thứ hai, thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư , thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Việc xây dựng và thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư đến năm 2010, ngoài việc đầu tư chiều sâu và mở rộng các doanh nghiệp hiện có, ngành dệt may dự kiến đầu tư xây dựng 10 cụm công nghiệp dệt may theo từng vùng là định hướng phát triển mới có tính hiệu quả và khả thi cao. Mỗi cụm công nghiệp quy hoạch tập trung sẽ có ưu điểm là tiết kiệm vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, khắc phục được tình trạng đầu tư phân tán hiệu quả thấp. Tuy nhiên việc đầu tư các cụm công nghiệp cần tính đến yếu tố liên hoàn để khai thác hết tiềm năng và chuyên môn của nội bộ ngành. Trước mắt, đầu tư trọng điểm cho ngành dệt để có những dây chuyền thiết bị với công nghệ hiện đại, đồng thời phải ưu tiên đầu tư vào công đoạn dệt nhuộm, các sản phẩm dệt có yếu tố chất xám cao, sử dụng công nghệ dệt tiên tiến như công nghệ nano đang được nghiên cứu và ứng dụng trong tương lai góp phần tăng nhanh về số lượng chủng loại, chất lượng vải, nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm dệt may, cung cấp cho ngành may và phấn đấu đến năm 2010 có thể cung cấp trên 75% nguyên phụ liệu cho ngành may tạo điều kiện cho ngành may chủ động được nguyên phụ liệu, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, đồng thời đó cũng là yếu tố tăng khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế thời gian tới. Và trong quá trình đầu tư cần được kiểm soát chặt chẽ theo đúng quy hoạch phát triển tổng thể, các doanh nghiệp cần nắm bắt thông tin về tình hình đầu tư, sản xuất mặt hàng gì, quy mô sản xuất, để có hướng đầu tư đúng, tránh đầu tư trùng lặp, tránh những thiệt hại nghiêm trọng về lâu dài cho ngành và cho nền kinh tế. Mặt khác, để đạt mục tiêu đến năm 2010, ngành dệt may sản xuất 2 tỷ mét vải các loại và xuất khẩu 8 tỷ USD, cần đầu tư thật mạnh mẽ để huy động, sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong nước. Công ty tài chính dệt may cần phát huy vai trò bằng cách thay mặt cho nghiệp đoàn các doanh nghiệp dệt may trong nước để huy động vốn, sau đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp đơn lẻ. Về phía các doanh nghiệp dệt may, phải đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá để huy động vốn trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may như hình thức đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, liên doanh, liên kết,….. Thứ ba, đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực tốt là một đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Vì vậy, để đáp ứng nguồn nhân lực có tay nghề cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 là hết sức cần thiết và cấp bách, là một vấn đề lớn và khó đối với cả doanh nghiệp dệt may và các trường đào tạo nghề và quản lý. Ngành dệt may cần một đội ngũ lớn từ công nhân lành nghề, cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã cho đến giám đốc doanh nghiệp và quản lý cấp cao. Biện pháp tốt nhất để đào tạo cán bộ quản lý các cấp là tăng cường sự kết hợp giữa các doanh nghiệp và các trường đại học để mở lớp đào tạo dài hạn chuyên ngành quản lý có kiểm tra chất lượng đào tạo gắn với thực tiễn, đồng thời cấp bằng tốt nghiệp sau mỗi khoá học dùng là cơ sở để tiêu chuẩn hoá cán bộ của ngành. Đối với lực lượng công nhân lành nghề ngoài việc tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp, ngành dệt may nên có kiến nghị với Nhà nước để cấp kinh phí đào tạo cho các trường dạy nghề để đào tạo miễn phí cho lực lượng lao động ở những vùng nông thôn khó khăn nhưng chấp nhận học nghề may công nghiệp để vào làm việc tại các doanh nghiệp may, dĩ nhiên với nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của ngành. Ngoài ra, đối với đội ngũ công nhân đang làm việc cũng phải có những khoá đào tạo lại, đào tạo bổ sung để thích nghi với môi trường sản xuất mới, công nghệ hiện đại. Thứ tư, nâng cao hiệu quả của gia công xuất khẩu từng bước tạo tiền đề, chuyển sang xuất khẩu trực tiếp, giảm dần tỷ trọng gia công và xuất khẩu sang nước thứ ba. Cần khẳng định rằng trong thời gian tới, các doanh nghiệp của ta vẫn sẽ gia công hàng may xuất khẩu rất nhiều, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may của chúng ta cũng chưa thể hoàn chỉnh để có thể hoàn toàn xuất khẩu trực tiếp. Gia công là bước đi cần thiết và quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới bằng những ưu thế riêng như giá rẻ, chất lượng tốt, giao hàng đúng hạn,….Đồng thời thông qua gia công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm quản lý, sản xuất kinh doanh, tiếp thu công nghệ của các nước khác và tích luỹ đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. Để nâng cao hiệu quả hoạt động gia công, các doanh nghiệp dệt may cần mở rộng gia công xuất khẩu các mặt hàng mới sang các thị trường mới. Tránh tập trung gia công một mặt hàng cho một thị trường để dẫn tới bị ép giá, lệ thuộc. Trong hoạt động gia công, phía Việt Nam cần thoả thuận để dành quyền tự cung cấp nguyên liệu, quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm để từng bước giúp khách hàng làm quen với sản phẩm, đồng thời khẳng định thương hiệu của doanh nghiệp. Trong quá trình gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp đồng thời phải chuẩn bị cho xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là biện pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, tăng lợi nhuận và tính chủ động xuất khẩu của doanh nghiệp. Để nâng cao tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, giảm dần tỷ trọng gia công cần phải: - Đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu: các doanh nghiệp dệt cần cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm ngành dệt để có thể đáp ứng được nhu cầu của ngành may, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa ngành dệt và ngành may. Kết hợp phát triển sản xuất phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu cho sản phẩm may. - Từng bước tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế. Để có thể xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng các nhãn mác của chính mình trên thị trường quốc tế. Muốn vậy:  Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải cũng như sản phẩm may.  Tổ chức tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.  Trước mắt doanh nghiệp nào chưa có khả năng tạo mốt thì cần phải hợp tác với viện mốt thời trang hoặc thuê các chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới. - Chú trọng công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. ở nhiều nước, đăng nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc. Hiện tại, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho các nước khác. Để có thể xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm dệt may Việt Nam cần khẳng định vị trí của mình trên thị trường thế giới bằng nhãn hiệu của chính mình. Tuy nhiên, việc dăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải chịu chi phí có khi lên tới hàng ngàn USD. Vì vậy, để tiết kiệm chi phí các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để cùng đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm. Đồng thời với các biện pháp trên cần giảm tỷ trọng xuất khẩu gián tiếp qua các nước thứ ba là một biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may. Muốn vậy, các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm, thực hiện tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu thương mại của hàng hoá. Thứ năm, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Một trong những ưu thế của hàng dệt may Việt Nam là chất lượng tương đối cao và giao hàng đúng thời hạn. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là kể từ năm 2005, khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ, thị phần của mỗi nước xuất khẩu hàng dệt may phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới cần thực hiện đồng bộ một số biện pháp sau: - Cải thiện chất lượng sản phẩm: Đối với hàng may mặc, các biện pháp cạnh tranh phi giá cả, trước hết là cạnh tranh về chất lượng hàng hoá, trong rất nhiều trường hợp trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh. Chẳng hạn các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như EU, Mỹ, Nhật Bản, ….đều là những thị trường rất khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng. Người tiêu dùng ở các thị trường khó tính này có khả năng thanh toán cao nên yếu tố chất lượng và nhãn mác sản phẩm được chú ý hơn là giá cả. Như vậy yếu tố chất lượng là yếu tố sống còn đối với ngành dệt may Việt Nam, do vậy cần phải thực hiện:  Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh xuống phảm cấp. Câng chú ý rằng nguyên liệu sợi vải là những hàng hóa hút ẩm mạnh, dễ hư hỏng.  Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì,….  Tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu.  Để đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu, giữ và nâng cao uy tín trên thị trường thế giới, một hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc là một biện pháp cần thiết.  Để sản phẩm dệt may của Việt Nam có khả năng cạnh tranh, đủ tiêu chuẩn đứng vững và phát triển trên thị trường thế giới trong thời gian tới (nhất là theo phương thức FOB) gắn liền với các biểu tượng có uy tín, chất lượng cao của nhãn hiệu Việt Nam thì việc phổ cập ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 phải trở thành yêu cầu bức xúc hiện nay.  Trong thời gian tới chúng ta cần nâng cao tỷ trọng xuất FOB và tiến tới xuất CIF, chủ động trong thuê tàu vận chuyển và bảo hiểm, tránh rủi ro tổn thất và suy giảm chất lượng thành phẩm. Đây chính là biện pháp để đảm bảo yêu cầu về thời hạn giao hàng. - Chú trọng việc nghiên cứu và phát triển mẫu mốt. Khi tham gia vào thị trường dệt may thế giới, các nhà doanh nghiệp luôn phải đương đầu với cạnh tranh. Thị trường dệt may thế giới là thị trường cạnh tranh mạnh giữa các nhà sản xuất với nhau. Trong quá trình cạnh tranh đó, giá trị thẩm mỹ của sản phẩm được coi trọng do tác động của mốt thời trang, hay nói cách khác đi là mẫu mốt thời trang tạo nên sức cạnh tranh mạnh mẽ cho sản phẩm dệt may. Đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nước ta, để chuyển sang phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm thì việc nghiên cứu mẫu mốt là một yêu cầu không thể thiếu được. Nó giúp cho các doanh nghiệp của ta phát triển theo hướng tự chủ, không phụ thuộc vào khách đặt hàng nước ngoài, nhờ đó nâng cao khả năng sản xuất kinh doanh, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá phương thức kinh doanh, thị trường kinh doanh. Để việc nghiên cứu phát triển mẫu mốt thực sự trở thành vũ khí cạnh tranh sắc bén, các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu cần phải thực hiện:  Cần chú trọng quan tâm đặc biệt và tổ chức xây dựng hệ thống trung tâm nghiên cứu mẫu mốt có quy mô lớn. Bên cạnh đó, cần hình thành một hệ thống các cơ sở nghiên cứu mẫu mốt trong từng doanh nghiệp để có thể vươn kịp các nước trong khu vực.  Chăm lo, bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn, chuyên là công tác nghiên cứu sáng tác mẫu mốt.  Để công tác nghiên cứu mẫu mốt có thể triển khai được tốt, kế hoạch tài chính của các doanh nghiệp phải dành một phần chi phí nghiên cứu, sáng tác, thiết kế, chế thử mẫu mốt mới một cách thích đáng. - Đảm bảo yêu cầu về giao hàng. Giao hàng đúng hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do đặc điểm về thời vụ và phù hợp thời trang là một trong những yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này bằng cách:  Chủ động trong vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá.  Sắp xếp, tổ chức sản xuất một cách hợp lý các mã hàng, tránh để tình trạng có lúc dây chuyền sản xuất để trống nhưng có lúc thì sản xuất không kịp để giao hàng đúng thời hạn.  Đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu, có những cán bộ có kinh nghiệm chuyên trách khâu làm thủ tục xuất nhập khẩu, tránh để tình trạng hàng sản xuất xong nhưng lại không thể xuất được. Sản phẩm dệt may của Việt Nam là mặt hàng có lợi thế so sánh quốc tế, có thị trường xuất khẩu, đầu tư tương đối lớn, thời gian đầu tư nhanh, giải quyết nhiều việc làm cho lao động. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo cơ sở quan trọng để thực hiện “Chương trình đầu tư tăng tốc độ phát triển của ngành dệt may”, tạo tiền đề để Việt Nam đứng được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt thời kỳ hậu hạn ngạch từ năm 2005 và hoàn thành tốt mục tiêu xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2010. Kết luận Kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp dệt may của các nước công nghiệp trên thế giới cho thấy: Ngành dệt may Việt Nam sẽ có điều kiện tăng trưởng liên tục khoảng 20 - 30 năm tới nhờ nhiều ưu thế trong đó đặc biệt là giá lao động rẻ. Hơn nữa, xuất phát điểm của ngành dệt may thấp nên sẽ cho phép đẩy mạnh quá trình tăng trưởng với tốc độ cao, góp phần giải quyết được rất nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập quốc dân và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ, sản xuất và xuất khẩu dệt may Việt Nam đang phải chịu sự cạnh tranh gay gắt, đặc biệt nó sẽ trở nên khốc liệt và toàn diện hơn trên toàn thế giới trong thời kỳ hậu hạn ngạch từ năm 2005. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về tầm quan trọng cũng như những cơ hội và thách thức đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, bài viết này đã phản ánh rõ thực trạng tình hình xuất khẩu và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trên con đường thâm nhập thị trường khu vực và thế giới. Tài liệu tham khảo 1. Niên giám thống kê 2003 - NXB Thống kê, HN 2004 2. Tạp chí Phát triển kinh tế số 5/2002 3. Tạp chí Cộng sản số 12/2003 4. Thời báo kinh tế Việt Nam số 15/2002; 14/2003; 46/2004 5. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 3/2000 6. Tạp chí kinh tế và phát triển số 6/2002 7. Tạp chí Thương mại số 3/2003; số 3+4+5/2005 8. Tạp chí Công nghiệp và Thương mại số 2/2004; số 6/2004; số10/2004; số 12/2004; số 12 tháng 3/2005 9. Thông tin và Tài chính số 24 (12/2004) 10. Ngoại thương số 27 (21/9/2004 đến 31/9/2004); số 35 (11/12/2004 đến 20/12/2004) 11. Chuyên đề đặc biệt thông tin công nghiệp số 3+4 (19 đến 26/1/2004); số 7 (23/2/20040; số 9/2004; số 15 (19/4/2004); số 17 (3/5/2004); số 22 (7/6/2004) 12. Tạp chí kinh tế châu á - Thái Bình Dương số 11 (14 đến 20/3/2005) 13. Thông tin thương mại chuyên ngành Dệt may số ra ngày 16/2/2004, số ra từ 12/1 đến 26/1/2004 14. Một số trang Web: www.vinatex.com.vn www.mot.gov.vn www.moi.gov.vn www.vnexpress.net www.vnn.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf100506_14.pdf