Đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nước ta, để chuyển sang phương
thức mua nguyên liệu bán thành phẩm thì việc nghiên cứu mẫu mốt là một yêu cầu
không thể thiếu được. Nó giúp cho các doanh nghiệp của ta phát triển theo hướng tự
chủ, không phụ thuộc vào khách đặt hàng nước ngoài, nhờ đó nâng cao khả năng sản
xuất kinh doanh, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá phương thức kinh doanh, thị
trư ờng kinh doanh.
50 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2359 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Năm 1997, Việt Nam đã trở thành một trong 7 nước xuất khẩu quần áo lớn nhất
vào Nhật Bản, tuy nhiên cũng như ở các thị trường khác, hàng may Việt Nam cũng chỉ
chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé trong tổng nhập khẩu của thị trường này, còn thua kém xa so với
thị phần của Trung Quốc.
Trong năm 1998, xuất khẩu của ngành tới thị trường Nhật Bản là 321 triệu USD,
tuy có giảm so với năm 1997 song vẫn đạt 15,67% tổng kim ngạch của ngành dệt may.
Qua đây ta thấy, cần nhìn nhận lại thị trường này, đặc biệt là về mẫu mã sản phẩm, chất
lượng sản phẩm và các phương pháp tiến hành kinh doanh với Nhật Bản để cải thiện
tình hình sa sút ở thị trường này.
1.3. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
1.3.1. Những kết quả đạt được
Có thể nói những năm qua là những năm thành công với những nỗ lực và cố gắng
rất lớn của ngành dệt may, đặc biệt là xuất khẩu. Xuất khẩu hàng dệt may năm 2004 ước
đạt 4,319 tỷ USD, với mức tăng trưởng cao trên 30%, đóng góp lớn vào nền kinh tế của
đất nước.
Cùng với những nỗ lực của các doanh nghiệp dệt may, ngành dệt may nói chung
và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng đã đạt được những tiến bộ vượt bậc. Đến nay,
ngành dệt may Việt Nam đã trở thành ngành công nghiệp tương đối mạnh, đóng vai trò
khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân: có kim ngạch xuất khẩu cao, chiếm 16,33%
tỷ trọng trong tổng số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, chỉ đứng sau dầu thô về
kim ngạch xuất khẩu. Với bước tiến như vậy, có cơ sở tin vào một tương lai tươi sáng
cho ngành dệt may xuất khẩu của ta nhất là khi Việt Nam đàm phán thành công gia nhập
WTO vào cuối năm nay.
Hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam bước đầu đã tạo được uy tín trên thị trường
nhập khẩu lớn trên thế giới như : Mỹ, EU, Nhật Bản, SNG và Đông Âu,….Đặc biệt,
hàng dệt may Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của thị trường lớn khó tính như Nhật
Bản. Những thị phần hàng dệt may của ta hiện có ở các nước là cơ sở để ngành dệt may
Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
1.3.2. Những hạn chế cơ bản:
Bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khích lệ đó, ngành dệt may nước ta
còn bộc lộ nhiều yếu kém.
- Về quy mô sản xuất: cả nước có khoảng hơn 200 doanh nghiệp dệt với năng lực
sản xuất 500 triệu mét vải/năm, trong đó chỉ có 30% là đủ tiêu chuẩn cho ngành may
xuất khẩu (tương đương 700 triệu mét). So với các nước khác trong khu vực năng suất
lao động của ngành dệt nước ta chỉ bằng 30 - 50% do còn yếu kém về thiết bị, công
nghệ.
- Về giá thành: giá thành hàng dệt may Việt Nam cao hơn từ 30 - 40% so với mặt
hàng này của Trung Quốc, Pakistan, ấn Độ, Inđônêsia,….
- Về chất lượng: chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong những
năm gần đây tuy đã có rất nhiều cải tiến song chưa phải đã hoàn toàn đạt yêu cầu, đặc
biệt là đối với ngành dệt. Quy chế kiểm tra chất lượng còn chưa chặt chẽ, tình trạng
hàng xuất kém chất lượng gây mất uy tín vẫn còn tồn tại. Tính đến cuối năm 1999, toàn
ngành mới có 8 doanh nghiệp đăng kí áp dụng hệ thống ISO 9002 trong quản lí chất
lượng, và mới có 4 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ.( Công ty liên doanh sản xuất chỉ
Phong Phú, Công ty may 10, may Thăng Long và Dệt may Hà Nội ).
- Về mẫu mã, kiểu dáng: Đây là yếu tố ngày càng trở nên có ý nghĩa trong việc
duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu. Các khâu thiết kế mẫu mã, kiểu dáng,….còn
chưa được chú trọng đúng mức, còn hết sức hạn chế, kém sáng tạo, chưa theo kịp đòi
hỏi của khách hàng. Đó là do công nghiệp dệt may của Việt Nam lâu nay chủ yếu thực
hiện theo phương thức gia công, kiểu cách, mẫu mã do phía nước ngoài đặt. Đồng thời
do sáng tạo mẫu mốt của ta vẫn là một công việc mới mẻ nên chưa phát triển về lý
thuyết và thực tế.
- Về lao động: lực lượng lao động của Việt Nam rất đông đảo. Tuy nhiên số đông
lao động không có tay nghề. Lao động có kỹ năng đang bị thiếu. Dù đào tạo cho ngành
dệt may không đòi hỏi chi phí quá cao song để có được một đội ngũ thợ lành nghề cũng
cần rất nhiều thời gian và chi phí. Hơn nữa, tác phong kỷ luật làm việc của công nhân
nước ta còn rất nhiều hạn chế, thêm vào đó là sự yếu kém về thể lực,…..
Phần 2 : Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại
quốc tế.
2.1. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương
mại quốc tế
2.1.1. Một vài nhận định về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước và sau
dỡ bỏ hạn ngạch
Dệt may nằm trong số các mặt hàng đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, chỉ sau
dầu thô, chiếm trên 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Những năm qua, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã đạt những bước tiến vượt
bậc với kim ngạch 3,6 tỷ USD năm 2003 và 4,319 tỷ USD năm 2004. Thị trường xuất
khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là Mỹ, EU, Nhật Bản.
Bước sang năm 2005, Hiệp định dệt may của WTO (ATC) chính thức thực hiện
xoá bỏ chế độ hạn ngạch dệt may cho các nước thành viên, Việt Nam có những thời cơ
mới và thách thức mới cho ngành dệt may xuất khẩu.
Về thị trường Mỹ: Mỹ vẫn là thị trường áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may
xuất khẩu của ta, bởi vậy các doanh nghiệp phải tận dụng những lợi thế sẵn có để gia
tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường này.
Về thị trường EU: Tuy Việt Nam vẫn chưa là thành viên của WTO, nhưng kể từ
1/1/2005 hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam không phải chịu sự áp đặt hạn ngạch từ phía
các nước EU. Đây thực sự là một điều kiện rất tốt để các doanh nghiệp tự khẳng định
năng lực và sức bật của mình.
Đồng thời khi không còn chế độ phân giao hạn ngạch nữa, các doanh nghiệp của
ta cũng phải tự cố gắng rất nhiều để có thể giữ vững và nâng cao vị thế của mình trên
đấu trường quốc tế.
Về thị trường Nhật Bản: Nhật là thị trường phi hạn ngạch, nên việc xoá bỏ hạn
ngạch đối với các nước thành viên WTO cũng không ảnh hưởng nhiều tới tình hình xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Vấn đề cốt lõi là ngành dệt may
Việt Nam làm sao nâng cao chất lượng, đảm bảo uy tín để giữ vững thị phần đứng thứ 2
tại thị trường này.
Qua đây ta thấy, liệu ngành dệt may Việt Nam hậu hạn ngạch có phát triển hay
không, có đạt được kế hoạch năm 2005 đạt 5,183 tỷ USD hay không, phụ thuộc rất
nhiều vào nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành, nỗ lực từ phía nhà nước với tư cách
là người hướng dẫn chỉ đạo, đầu tư cải tiến trang thiết bị, máy móc, công nghệ cho
ngành.
2.1.2. Hậu hạn ngạch tại một số thị trường lớn trên thế giới
Việc dỡ bỏ các hàng rào thương mại và giới hạn hạn ngạch sẽ mang lại những cơ
hội xuất khẩu rất lớn cho các nhà xuất khẩu dệt may Châu á, hiện đang đạt kim ngạch
xuất khẩu 9 tỷ USD/ năm và tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm. Trong đó, Trung
Quốc, ấn Độ và Pakistan được dự báo sẽ là 3 nước chi phối thị trường dệt may thế giới ít
nhất là cho đến năm 2010. Những nước này sẽ tăng mạnh thị phần của họ tại thị trường
dệt may thế giới nhờ vào giá cả sản phẩm rất cạnh tranh của mình. Hiện tại, 3 nước này
đang chiếm ưu thế nổi trội ở cả thị trường nhập khẩu dệt may thế giới có hạn ngạch và
phi hạn ngạch với thị phần chung tại thị trường hạn ngạch là 44% và tại thị trường phi
hạn ngạch là 82% (số liệu tháng 5/2004).
Nhiều nguồn tin trong ngành cho rằng khi bước vào chế độ hậu hạn ngạch, Trung
Quốc sẽ vươn tới chiếm giữ thị phần lớn nhất về thương mại dệt may toàn cầu (hiện
đang chiếm 28% thị phần thị trường dệt may toàn cầu), trong khi ấn Độ sẽ có được vị trí
thứ 2 về xuất khẩu hàng dệt may vào EU và Mỹ.
2.1.2.1. Trung Quốc:
Dệt may Trung Quốc có mặt ở hầu hết các thị trường lớn trên thế giới. Nhãn hiệu
hàng “Made in China” có thể chiếm khoảng 50% thị phần hàng dệt may thế giới vào
năm 2007 sau khi WTO bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may kể từ 1/1/2005, thúc
đẩy các nhà sản xuất Trung Quốc và các nhà bán lẻ toàn cầu chiếm thị phần của các nhà
xuất khẩu nhỏ lẻ.
Các nhà sản xuất hàng dệt may Mỹ dự báo thị phần của Trung Quốc trong nhập
khẩu hàng dệt may của Mỹ sẽ tăng từ 16% năm 2003 đến 71% vào cuối năm 2006, đạt
42 tỷ USD.
Lợi thế lớn nhất của Trung Quốc là có nguồn nguyên liệu rất dồi dào, các chính
sách trợ giúp của nhà nước rất lớn giúp hạ thấp giá thành. Trong khi đó, mạng lưới của
người Hoa ở nước ngoài để tiêu thụ mặt hàng này lại rộng khắp.Với những ưu thế như
vậy, chỉ riêng tháng 1/2005 Trung Quốc đã xuất vào Mỹ 1,9 tỷ USD hàng dệt may, tăng
41% so với tháng 12 năm trước, tăng hơn 30% so với cùng kỳ, bằng kim ngạch xuất
khẩu cả năm 2003 của Việt Nam vào Mỹ. Hiện nay Trung Quốc đang chiếm giữ 22% thị
trường Mỹ, so với 16% hồi cuối năm ngoái; thị phần hàng dệt may Trung Quốc tại Mỹ
đã tăng đáng kể.
2.1.2.2. ấn Độ:
Cùng với Trung Quốc, ấn Độ cũng là sự lựa chọn của các doanh nghiệp nhập
khẩu Mỹ vào năm 2005.
Theo các nhà phân tích, với lực lượng lao động dồi dào, có tay nghề và giá nhân
công không cao chính là thế mạnh của ngành dệt may ấn Độ. Ngoài ra, ấn Độ còn là
nước sản xuất bông lớn thứ 3 thế giới. Hiện các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới như
Wal Mart, The Gap đã sẵn sàng đặt hàng ấn Độ. Các tập đoàn này dự định sẽ lập văn
phòng tại ấn Độ để nắm bắt xu hướng phát triển của ngành dệt may ấn Độ sau ngày
1/1/2005. Dự kiến năm 2005, ngành dệt may ấn Độ sẽ đóng góp khoảng 8% vào GDP,
17% vào sản xuất công nghiệp, 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này.
Hiện ấn Độ vẫn là nước sản xuất hàng dệt may lớn thứ 2 thế giới, chiếm hơn 3%
thị phần thương mại toàn cầu về dệt may. Khi hạn ngạch được xoá bỏ, dự kiến kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may ấn Độ sẽ tăng từ 12 tỷ USD năm 2003 lên 50 tỷ USD vào
năm 2010, riêng kim ngạch của ngành may phải đạt 25 tỷ USD (nay là 6,2 tỷ USD).
Điều này sẽ tạo ra khoảng 5 triệu việc làm, thị phần ở Mỹ tăng tương ứng từ 4% lên
15%.
2.1.2.3. Pakistan:
Sau Trung Quốc và ấn Độ, Pakistan cũng là một nước có nhiều tiềm năng chiếm
lĩnh thị trường thế giới về hàng dệt may xuất khẩu.
Với những lợi thế cạnh tranh chủ yếu là lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ, đồng
thời có một môi trường kinh doanh hết sức thuận lợi. Chính phủ nước này đang từng
bước đưa ra biện pháp đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường thế giới cho ngành dệt
may, vấn đề an toàn cá nhân và an ninh trong vận chuyển hàng giữa nhà máy và cảng
đều được quan tâm thoả đáng. Điều này là cơ sở để có thể nhận định rằng: Pakistan sẽ
tiếp tục là nước xuất khẩu sang Mỹ, được nhiều doanh nghiệp Mỹ lựa chọn là đối thủ
cạnh tranh của Trung Quốc, đặc biệt là hàng may mặc dành cho nam giới và có thể tiếp
tục là nước xuất khẩu sợi và vải cotton ra thị trường thế giới
2.1.3.Những ảnh hưởng của việc xoá bỏ hạn ngạch đến xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam
Xoá bỏ hạn ngạch dệt may dành cho các nước thành viên WTO không chỉ tác
động đến tình hình chung của các nước lớn về xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới mà
còn ảnh hưởng đến ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam, có cả những cơ hội và có cả
những thách thức.
2.1.3.1. Cơ hội:
Hậu hạn ngạch, nhiều nhà chuyên gia nhận định rằng: Trung Quốc sẽ thống trị thị
trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng. Trung Quốc thực sự sẵn sàng để
trở thành một nhà cung cấp thống trị thị trường dệt may Mỹ bởi nước này có khả năng
lớn nhất trong việc đáp ứng mọi nhu cầu về bất kì chủng loại hàng dệt may nào với
nhiều cấp độ chất lượng và giá cả cạnh tranh nhất.
Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng: dù có tốc độ tăng trưởng cao nhưng Trung
Quốc sẽ khó duy trì ổn định sự phát triển ấy do vấp phải những khó khăn khách quan.
Trong số đó là thị hiếu tiêu dùng hàng dệt may của người dân Mỹ rất dễ thay đổi và
Trung Quốc cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều từ điều khoản mà nước này đã cam kết khi gia
nhập WTO rằng, phải bảo đảm không gây tổn hại đến sự tăng trưởng như hiện nay của
những nước cung cấp hàng dệt may khác vào thị trường Mỹ và những thị trường khác.
Hơn thế, nhằm giảm bớt mức độ rủi ro của xu hướng nhập khẩu nguyên vật liệu và sản
phẩm chỉ từ một quốc gia như Trung Quốc, các nhà nhập khẩu Mỹ dự kiến sẽ mở rộng
quan hệ thương mại với những nước cung cấp hàng giá rẻ hay lao động dồi dào khác
như ấn Độ, Băng la đét, Pakistan,….trong đó có Việt Nam.
Xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào Mỹ có những thuận lợi cơ bản là ngành dệt
may Việt Nam ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà nhập khẩu Mỹ do chất lượng may
tốt và đảm bảo thời gian giao hàng. Nguồn tin từ Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS)
cho biết, đơn giá xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ ngày càng cao, và các
khách hàng lớn của Mỹ vẫn chọn Việt Nam là thị trường đặt hàng chiến lược. Báo cáo
của Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) về khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng
dệt may vào nước này sau 1/1/2005 đã đánh giá rằng, trong các nước châu á chỉ có Việt
Nam và chừng mực nào đó còn có Inđônêsia là có thể cạnh tranh với Trung Quốc.
Nguồn tin từ Hiệp hội nhập khẩu Dệt may Hoa Kỳ (USA - IAA) cũng cho biết Việt Nam
được coi là nguồn cung lựa chọn thứ 2 sau Trung Quốc (nếu Việt Nam không có khó
khăn về hạn ngạch), nhất là đối với Cat 347/348, 647/348, 338/339, 638/639, 340/640.
Ngoài ra, Việt Nam có lợi thế là lao động rẻ, chất lượng may tốt hơn so với ấn Độ
(ấn Độ là nguồn cung lựa chọn tiếp theo sau Việt Nam trong điều kiện Việt Nam không
bị khó khăn bởi hạn ngạch). Tuy Việt Nam phải nhập khẩu nhiều nguyên phụ liệu song
nguồn cung phần lớn ở ngay gần Việt Nam và việc nhập khẩu cũng không mấy khó
khăn.
Bởi vậy, ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam vẫn có cơ hội to
lớn khi bước vào thời kỳ hậu hạn ngạch kể từ 1/1/2005.
Cụ thể, từ 1/1/2005 chỉ còn 9 mặt hàng phải nộp phí quota khi xuất khẩu. 9 mặt
hàng này đều là những Cat nóng xuất vào Mỹ và với mức thu phí mới đã được giảm tới
70% so với năm 2004 trở về trước. Mức thu các mặt hàng này: áo khoác nam nữ chất
liệu bông 1800 đồng/tá, áo sơ mi dệt kim nam nữ chất liệu bông 750 đồng/tá, áo sơ mi
nam, nữ dệt thoi chất liệu bông và sợi nhân tạo 1200 đồng/tá,….
10 mặt hàng dệt may xuất vào Mỹ còn lại là những Cat nguội và sẽ không phải
nộp phí hạn ngạch khi vào thị trường Mỹ. Gồm: áo khoác nam dạng comple, áo sweater
chất liệu bông, quần áo ngủ chất liệu bông và sợi nhân tạo,….
Ngoài những thuận lợi nói trên, hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ còn
được hưởng những ưu đãi hết sức hấp dẫn như : nếu xuất dưới 20 tá hoặc 120 kg thì
không cần thông báo với Bộ thương mại (được phép làm thủ tục xin cấp visa xuất khẩu
tại các phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực). Hơn thế, EU còn quyết định tăng hạn
ngạch nhập khẩu 14 Cat của Việt Nam khi thêm 10 nước thành viên mới kể từ 1/5/2004.
Một cơ hội rất lớn của Việt Nam, đó là đàm phán thành công với EU về việc xoá
bỏ hạn ngạch dệt may cho Việt Nam khi chưa phải là thành viên của WTO. Khi không
còn phải chịu sự hạn chế của hạn ngạch nhập khẩu nữa, các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam có thể bằng chính năng lực sản xuất, nỗ lực của mình để xuất sang các thị trường
tiềm năng trong cộng đồng chung Châu Âu (EU).
Với những cơ hội hết sức thuận lợi trên, ngành dệt may Việt Nam hoàn toàn có
thể đạt chỉ tiêu đã đề ra với kim ngạch xuất khẩu 8 - 9 tỷ USD vào năm 2010.
2.1.3.2. Thách thức:
Bên cạnh những cơ hội to lớn có được, ngành dệt may Việt Nam còn phải đối phó
với những thử thách không dễ dàng vượt qua.
Các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước mối đe doạ không còn thị trường
xuất khẩu khi mà Hiệp định MFA - Hiệp định về chế độ hạn ngạch đối với Việt Nam -
chấm dứt giữa các nước thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Mốc
thời điểm này là cơ hội để Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan,….- những thành viên chính
thức của WTO xuất khẩu vào những nước thành viên khác với số lượng không hạn chế,
trong khi đó Việt Nam, một nước chưa phải là thành viên chính thức của tổ chức thương
mại lớn nhất thế giới này, lại bị giới hạn bởi chế độ hạn ngạch.
Do không còn hạn ngạch, mặt bằng giá nhập khẩu dệt may nói chung vào Mỹ sẽ
giảm đáng kể. Theo một số dự đoán, giá nhập khẩu bình quân sẽ giảm khoảng 30%.
Cũng theo phân tích của Hiệp hội các nhà sản xuất Dệt may Hoa Kỳ, giá trung bình mỗi
nét vuôn (tính trung bình) cho 29 chủng loại như sau: giá của Trung Quốc đã giảm 58%
so với giá năm 2002, trong khi của thế giới nói chung giảm 3%. Trung tâm Thương mại
Thế giới có trụ sở đặt tại Gieneva phân tích. Mức độ giảm giá sẽ khác nhau đối với các
chủng loại. Dự đoán giá các Cat của Trung Quốc vào thị trường Mỹ sẽ giảm như sau:
Cat.347 giảm khoảng 45%, Cat.348 : - 42%, Cat.647 : - 5%, Cat.345: - 34%, Cat.648 : -
26%, Cat.339 : - 25%, Cat.338 : - 19,5%.
Nếu dự đoán trên là đúng thì những Cat này của Việt Nam sẽ gặp phải sự cạnh
tranh khốc liệt từ Trung Quốc và sẽ không tránh khỏi phải giảm giá. Như vậy, hàng dệt
may Việt Nam đang phải cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc, là một thách thức rất lớn
đối với một ngành công nghiệp còn nhiều yếu kém về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và chủ
yếu phải nhập khẩu nguyên phụ liệu như ngành dệt may Việt Nam.
Khâu yếu nhất của ngành dệt may Việt Nam là sản xuất vải phụ liệu phục vụ
may xuất khẩu. Khoảng 80% nguyên phụ liệu vẫn phải nhập khẩu, sản phẩm yếu về mẫu
mốt, chủng loại, nhãn mác, phần lớn các doanh nghiệp chưa có thương hiệu của mình,
ngay cả việc đăng kí sở hữu bản quyền, thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp vẫn
chưa được quan tâm thoả đáng, năng suất lao động của công nhân Việt Nam hiện còn ở
mức thấp, chi phí giao dịch còn lớn.
Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng hiệu quả còn thấp do tới khoảng
70% kim ngạch xuất khẩu thực hiện theo phương thức gia công, chỉ khoảng 30% xuất
khẩu theo phương thức bán sản phẩm. Thị phần khách hàng Việt Nam trên thị trường thế
giới còn khá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có (mới chỉ chiếm khoảng
0,95% thị trường EU; 29% thị trường Nhật Bản; 3,2% thị trường Mỹ và khoảng 1% tổng
thương mại dệt may toàn cầu), còn bị phụ thuộc vào hạn ngạch, chưa tận dụng hết khả
năng khai thác thị trường phi hạn ngạch, chưa thâm nhập được vào mạng lưới phân phối
của các thị trường lớn, thường phải xuất khẩu qua trung gian.
Các rào cản thương mại như chống bán phá giá, các quy định nghiêm ngặt về
xuất xứ hàng hoá mà các nền kinh tế phát triển như EU, Mỹ thường xuyên sử dụng sẽ là
những cản trở đối với xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam.
Một bất lợi phải kể đến khi chế độ hạn ngạch được xoá bỏ, đó là trong giai đoạn
đầu thực hiện bão bỏ hạn ngạch, các nước có quyền áp đặt biện pháp bảo vệ tạm thời
trong vòng 3 năm kể từ 2005 để bảo vệ sản xuất trong nước. Còn Việt Nam sẽ gặp khó
khăn vì vẫn được coi là nước có nền kinh tế phi thị trường.
Có thể nói ngay cả khi Việt Nam đã là thành viên của WTO, ngành dệt may Việt
Nam cũng như nhiều nước khác vẫn chịu sức ép lớn trước sức cạnh tranh của hàng dệt
may Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan.
Đứng trước những thách thức như vậy, ngành dệt may Việt Nam liệu có đủ khả
năng để giữ vững đồng thời tăng thị phần của mình tại các thị trường lớn trên thế giới
hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực từ phía Nhà nước cũng như các doanh
nghiệp trong ngành.
2.2. Định hướng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam trong điều kiện mới
2.2.1. Định hướng và mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2.2.1.1. Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010:
Bước vào thế kỷ 21, tình hình kinh tế và thương mại thế giới đã có nhiều thay đổi
thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam. Vì vậy, Tổng công ty dệt may Việt Nam đã trình
và được chính phủ phê duyệt: “Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam
đến năm 2010” với những mục tiêu phù hợp với khả năng phát triển của ngành dệt may
Việt Nam trong thời gian tới. Từ 2001 - 2005, dự kiến kim ngạch xuất khẩu tăng trung
bình mỗi năm 13,3% đến năm 2005 đạt 5 tỷ USD, sử dụng lao động tăng bình quân
12%/năm, đạt từ 2,5 - 3 triệu người, sản lượng bông xơ và vải lụa tăng bình quân mỗi
năm 25,4% và 18%. Đây là một mục tiêu táo bạo, yêu cầu tốc độ tăng nhanh của các chỉ
tiêu. Để đạt được mục tiêu này cần có sự cố gắng nỗ lực và sự đầu tư nhanh và mạnh của
mọi thành phần kinh tế. Phấn đấu đạt mục tiêu đề ra cho năm 2005 sẽ là điều kiện tốt
nhất để ngành dệt may Việt Nam tiến tới hoàn thành tốt chỉ tiêu cho năm 2010.
Từ 2006 - 2010, chỉ tiêu đó là đạt kim ngạch xuất khẩu 8 - 9 tỷ USD với tốc độ
tăng bình quân hàng năm khoảng 11%, sử dụng lao động bình quân hàng năm khoảng
5,7%, sản lượng bông xơ và vải lụa tăng lần lượt 20,8% và 8%.
Bảng 7: Các chỉ tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010
Chỉ tiêu Đơn vị tính
Mục tiêu hoàn thành
2005 2010
1. Sản xuất
Bông xơ Tấn 30.000 80.000
Xơ sợi tổng hợp Tấn 60.000 120.000
Sợi các loại Tấn 150.000 300.000
Vải lụa thành phẩm Triệu m2 800 1.400
Dệt kim Triệu SP 300 500
May mặc Triệu SP 780 1.500
2. Kim ngạch xuất khẩu TriệuUSD 4000-5000 8000-9000
3. Sử dụng lao động Triệu người 2,5 – 3 4 – 4,5
4.Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ
liệu nội địa trên sản phẩm dệt may
xuất khẩu
% >50 >75
5. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển Tỷ đồng 35.000 30.000
- Vốn đầu tư mở rộng Tỷ đồng 23.200 20.000
- Vốn đầu tư chiều sâu Tỷ đồng 11.800 10.000
Trong đó : Vinatex Tỷ đồng 12.500 9.500
6. Vốn đầu tư phát triển trồng bông Tỷ đồng 1.500
Nguồn : VINATEX
2.2.1.2. Định hướng cơ bản cho phát triển ngành dệt may Việt Nam:
Với mục tiêu phát triển ngành dệt may như trên, ngành cũng có những định
hướng như sau:
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong quá trình tăng tốc phát triển ngành dệt
may. Có như vậy mới huy động được mọi nguồn lực từ bên trong và bên ngoài, kể cả
nguồn lực quốc tế cho bước phát triển tăng tốc trong một thời gian ngắn đối với ngành
dệt may Việt Nam. Coi trọng nguồn lực từ nhân dân lao động, đẩy mạnh kêu gọi đầu tư
nước ngoài vào lĩnh vực dệt may, góp phần tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển ngành.
Trong 10 năm tới, ngành dệt may cần nguồn vốn khoảng 65.000 tỷ đồng, trong đó, vốn
để đầu tư mở rộng là 43.200 tỷ đồng.
- Coi trọng phát triển chiều rộng đi đôi với củng cố chiều sâu.
Đây là bước đi quyết định trong giai đoạn đến năm 2010. Công nghiệp dệt cần
phát triển thành từng cụm, nằm trong các khu công nghiệp nhằm tiết kiệm vốn đầu tư
cho hạ tầng cơ sở, giải quyết vấn đề nước thải tập trung, bảo vệ môi trường sinh thái. Từ
đó có thể hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên cơ sở đó có thể đưa các công
nghệ hiện đại vào sản xuất và áp dụng các mô hình quản lý, điều hành tiên tiến vào
ngành dệt may Việt Nam.
Hơn mười năm đổi mới vừa qua là giai đoạn đầu tư chiều sâu nhằm thay thế dần
các loại thiết bị và công nghệ quá lỗi thời. Tuy nhiên, việc thay thế này vẫn chưa hoàn
tất. Do vậy, việc đầu tư chiều sâu vẫn được khuyến khích, để tự các doanh nghiệp tiếp
tục thực hiện và hoàn tất trong thời gian tới.
- Tập trung phát triển các vùng nguyên liệu. Đó là các loại: bông, tơ tằm, xơ sợi
tổng hợp cùng với việc phát triển công nghiệp hoá dầu. Cho đến nay, Việt Nam vân phải
nhập khẩu khoảng 70 - 90% nguyên liệu ban đầu cho ngành dệt may. Việc nâng cao tỷ
lệ giá trị xuất xứ nội địa trên sản phẩm dệt may là một trong những mục tiêu chính của
chiến lược tăng tốc nhằm nâng cao phần lợi nhuận trong xuất khẩu hàng dệt may của ta.
Cùng với những nỗ lực trong sản xuất xơ, sợi ngành cũng cố gắng đến năm 2005
đáp ứng 30% nhu cầu ngành dệt và đến năm 2010 nâng cao tỷ lệ đáp ứng này lên 70%.
Nếu thực hiện được đúng như kế hoạch, đó sẽ là một thành công lớn trong nỗ lực nâng
cao tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm dệt may của Việt Nam.
- Tăng tốc phát triển bằng việc đầu tư các công nghệ mới, hiện đại. Đây là việc
nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về chất lượng và sản lượng. Mặt khác, cần coi trọng và
tận dụng các loại thiết bị đã qua sử dụng những máy móc có năng suất cao thế hệ từ
những năm 90 trở lại đây.
Đầu tư phát triển ngành dệt may theo hướng chuyên môn hoá cao, có như vậy
mới tạo được bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải đi
chuyên sâu và làm chủ được một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng mới với
chất lượng cao.
- Đặc biệt quan tâm đến phương thức xuất khẩu. Cần chuyển dần sang phương
thức xuất khẩu mua nguyên liệu, bán thành phẩm, giảm hình thức gia công để nâng cao
hiệu quả xuất khẩu.
Rõ ràng phương thức xuất khẩu trực tiếp có hiệu quả cao, nếu phần lớn nguyên
liệu được sản xuất trong nước thì hiệu quả còn cao hơn, bởi không phải tốn kém chi phí
nhập khẩu mà lại không bị phụ thuộc về thời gian mua nguyên liệu, có thể chủ động hơn
trong sản xuất. Tuy nhiên, muốn thực hiện phương thức xuất FOB thì các doanh nghiệp
phải có tính năng động rất cao, am hiểu thị trường và có thông tin đầy đủ về thị trường,
tạo lập được các kênh tiêu thụ và bạn hàng thường xuyên….Đây là một khó khăn đối với
các doanh nghiệp Việt Nam.
- Mở rộng thị trường nước ngoài. Đây luôn là vấn đề được Nhà nước cũng như
ngành dệt may Việt Nam đặt lên hàng đầu. Phát triển thị trường hiện có và tìm kiếm
những thị trường mới sẽ tạo cho ngành dệt may nhiều cơ hội trong tương lai. Hiện ngành
đã có những thị trường như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, ASEAN, Nga, Hàn Quốc,
Hồng Kông,….Trong đó những thị trường có khả năng mở rộng là các thị trường như :
Bắc Mỹ, Mỹ, Trung Đông,….Cần tận dụng mọi cơ hội để hàng dệt may của Việt Nam
có thể vươn tới nhiều thị trường trên thế giới.
2.2.2. Những giải pháp cơ bản thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2.2.2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước:
Giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất cần phải làm là hoàn thiện cơ cấu xuất
nhập khẩu. Trước hết cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên vật liệu, hàng mẫu. Ngành
dệt may cần được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan hợp lý, chính sách thưởng xuất nhập
khẩu….thực hiện chế độ thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp đạt thành tích như xuất
khẩu mặt hàng mới, kim ngạch xuất khẩu tăng năm nay so với năm trước. Điều này sẽ
động viên cả về tinh thần lẫn vật chất cho các doanh nghiệp tiếp tục phấn đấu nâng cao
khả năng cạnh tranh và hiệu quả trong xuất khẩu. Cơ chế phân bổ hạn ngạch phải được
thay đổi căn bản tránh mọi khả năng tiêu cực xảy ra. Có thể tiếp tục thực hiện đấu thầu
hạn ngạch hoặc phân bổ hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu vào thị trường không hạn
ngạch. Ngoài ra, việc cấp hạn ngạch cũng nên chú ý ưu tiên đối với doanh nghiệp sử
dụng nguyên phụ liệu trong nước. Như vậy sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chủ động
trong hoạt động kinh doanh, đồng thời tạo sự bình đằng giữa các doanh nghiệp.
Nhà nước cần phải khẩn trương đàm phán thương mại cấp quốc gia để tạo cho
các doanh nghiệp có cùng điều kiện xuất khẩu như các nước khác trong khu vực, cụ thể
như sau:
- Tiếp tục đàm phán với Mỹ trong quan hệ thương mại giữa hai nước sau Hiệp
định thương mại Việt - Mỹ và Hiệp định hàng dệt may đã ký để tăng thêm hạn ngạch
cho phía Việt Nam vì hạn ngạch Mỹ phân bổ cho Việt Nam vẫn chưa tương xứng với
năng lực sản xuất của phía Việt Nam.
- Đàm phán với Nhật về việc tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này khi
nền kinh tế nước này đang trên đà phục hồi và phát triển.
- Phấn đấu đàm phán gia nhập WTO vào cuối năm 2005 để hàng dệt may Việt
Nam được bỏ quota như các nước thành viên WTO vào thời điểm này tạo điều kiện
thuận lợi cho Việt Nam giảm bớt những khó khăn của thời hậu hạn ngạch.
Chính phủ bổ trợ cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, đặc biệt là các thị
trường mới như Trung Mỹ, Châu Phi, Trung Cận Đông qua việc trích phí quota để bổ
trợ một phần kinh phí thâm nhập thị trường mới.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần có một trung tâm giao dịch
xúc tiến xuất khẩu đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, giới thiệu sản
phẩm, thu thập và xử lý các thông tin về thị trường, về khách hàng một cách nhanh
chóng, kịp thời với những diễn biến, thay đổi của thị trường đặc biệt thời kỳ hậu hạn
ngạch.
Ngoài ra, cần tiếp tục xúc tiến việc củng cố và mở rộng thị trường bằng việc
khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp mở các chi nhánh, văn phòng đại
diện, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, trung tâm xúc tiến thương mại, tổ chức hội chợ triển
lãm giới thiệu hàng hoá, thời trang. Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ để các doanh
nghiệp chủ động ra nước ngoài tìm kiếm thị trường, xác lập hệ thống kênh phân phối,
tiêu thụ sản phẩm tại những thị trường chính (đặc biệt là thị trường Mỹ, EU) và cả
những thị trường mới.
Khẩn trương sửa đổi một số nội dung trong luật lao động, luật công đoàn về lệ
phí công đoàn, về mức khống chế giờ tăng ca, điều kiện tinh thần cũng như vật
chất,….để giúp doanh nghiệp có điều kiện giảm giá thành, tăng hiệu quả quản lý, sản
xuất nhằm tăng khả năng xuất khẩu.
Tạo điều kiện thông thoáng hơn trong luật đầu tư nước ngoài để mở rộng cơ hội
đầu tư về lĩnh vực hàng dệt may của các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam.
Chính phủ và các Bộ, Ngành hữu quan thường xuyên hợp tác với Hiệp hội dệt
may Việt Nam để tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp nhằm nắm rõ tình hình cùng
những yêu cầu, kiến nghị của các doanh nghiệp tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh
nghiệp trong quá trình sản xuất và xuất khẩu, giải quyết kịp thời những vướng mắc trở
ngại phát sinh, những bất hợp lý, đồng thời cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm
hiểu luật thương mại của các thị trường Việt Nam xuất khẩu để tránh bị chèn ép, thiệt
hại cho phía Việt Nam do không nắm rõ luật thương mại nước ngoài.
Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc biệt (như lãi suất vay ưu
đãi, thuế, thị trường,….) để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế nhanh chóng mở rộng đầu tư sản xuất nhằm tăng cường năng lực sản xuất của ngành
dệt may xuất khẩu trước thời kỳ hậu hạn ngạch. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách
hỗ trợ và hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp nhanh chóng xác lập và đăng ký các tiêu
chuẩn quản lý chất lượng quốc tế (ISO 9000, ISO 14000, SA 8000,….), bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp, bản quyền, ghi nhãn, mã số, mã vạch theo quy chế và sớm đăng ký
nhãn hiệu tại thị trường quốc tế, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp khi bước
vào thời kỳ sau năm 2005, khi tự do hoá thương mại dệt may thì cạnh tranh mặt hàng
này ngày một khốc liệt hơn, để các doanh nghiệp Việt Nam có thể giữ vững, củng cố và
mở rộng thị phần, thương hiệu của mình trên thị trường khu vực và thế giới.
2.2.2.2. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp trong ngành:
Để có một ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu phát triển mạnh, sự nỗ lực từ
phía Nhà nước thôi chư đủ. Điều quan trọng và quyết định đến sự thành công của ngành
nằm chính ngay trong sự cố gắng từ bản thân các doanh nghiệp. Cụ thể doanh nghiệp
cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, chủ động tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Có thể nói một khó khăn chủ yếu nhất của Tổng công ty dệt may Việt Nam cũng như
của toàn ngành dệt may Việt Nam hiện nay và cả trong những năm trước mắt là tìm
kiếm thị trường xuất khẩu. Để mở rộng thị trường xuất khẩu cần tiến hành đồng bộ một
số giải pháp sau:
- Cần phải quan tâm tới mọi khu vực thị trường với những mức độ khác nhau
nhằm thích ứng và khai thác tối đa ưu thế của mỗi thị trường. Nghiên cứu các khu vực
thị trường khác nhau với những tiềm năng và đặc điểm của nó về tiêu thụ sản phẩm dệt
may nhằm tìm ra mối liên hệ chặt chẽ giữa khả năng sản xuất của mình và đặc điểm tiêu
dùng của từng thị trường trên từng khu vực thị trường nhằm thích ứng được với nó cũng
như có định hướng trọng tâm với những mức độ khác nhau trong chiến lược thị trường
nhằm khai thác tối đa ưu thế của mỗi thị trường là giải pháp có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng.
- Tổ chức thực hiện tốt công tác tiếp thị. Đây là giải pháp then chốt để khai thác
và phát triển thị trường. Chú trọng công tác nghiên cứu và phát triển thị trường nhiều khi
là yếu tố quyết định cho thành công của doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Để có
thể nắm bắt thông tin về thị trường thì không ai khác mà chính doanh nghiệp cần phải
chủ động tổ chức công tác nghiên cứu thị trường, coi trọng công tác thị trường phải trở
thành nguyên tắc trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Rõ ràng khi đưa một loại sản
phẩm có sẵn hay triển khai một sản phẩm mới vào một thị trường xuất khẩu nào đó như
thị trường Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ hay Nhật Bản thì điều cốt lõi để đảm bảo sản phẩm
có phù hợp và thích ứng với người tiêu dùng của nước nhập khẩu do vậy cần phải nắm
vững các đặc điểm, nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng sản phẩm dệt may của thị trường đó.
Để thực hiện tốt công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, trước hết các doanh
nghiệp cần quan tâm, chú trọng đến công tác nghiên cứu phát triển thị trường và phải đặt
thành nội dung quan trọng trong chiến lược Marketing của mình. Từ đó cần có kế hoạch,
biện pháp tổ chức và đầu tư thích đáng cho công tác nghiên cứu thị trường. Chi phí cho
công tác nghiên cứu, phát triển thị trường phải được xem là bộ phận không thể thiếu
được trong kế hoạch tài chính của doanh nghiệp. Với điều kiện của chúng ta, mặc dù
kinh phí còn hạn hẹp thì cần phải vận dụng tối đa biện pháp nghiên cứu thị trường, nắm
bắt thông tin qua các nguồn tài liệu và đặc biệt qua bạn hàng là rất quan trọng.
Thông qua các mối quan hệ với bạn hàng đang tìm hiểu hoặc đang làm ăn với
doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần tìm hiểu để nắm bắt được bí quyết kinh nghiệm của
họ trong việc nghiên cứu thị trường vì đây là cách hiệu quả nhất để hiểu biết về thị
trường một cách sát thực trong khi điều kiện khảo sát thị trường trực tiếp còn khó khăn
và không phải lúc nào cũng thực hiện được.
Để nắm bắt thông tin và tìm bạn hàng, một vấn đề cơ bản là các doanh nghiệp cần
phải duy trì mối quan hệ tốt với các cơ quan chức năng trong và ngoài nước như Phòng
thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội dệt may, Thương vụ của ta tại các
nước,…. để có thể nắm bắt thông tin và tìm bạn hàng.
Trong điều kiện kinh phí không phải lúc nào cũng đủ thì muốn giới thiệu doanh
nghiệp với khách hàng, thu hút được khách hàng đến với doanh nghiệp thì ngoài các mối
quan hệ trên doanh nghiệp còn phải làm tốt công tác thông tin quảng cáo bằng mọi hình
thức để quảng bá, giới thiệu hình ảnh của doanh nghiệp đến với khách hàng. Ngoài các
phương tiện thông tin đại chúng, doanh nghiệp cần phải tích cực tham gia các hội chợ
triển lãm hàng dệt may trong cũng như ngoài nước.
- Tổ chức tốt các đầu mối tiếp thị. Những yếu kém và hạn chế trong sản xuất và
kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nước ta như không tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng, phải qua trung gian, thiếu thông tin, thiếu thị trường, nên phải tranh
giành khách hàng, bị ép giá gia công,….đều bắt nguồn từ những yếu kém trong việc tổ
chức các đầu mối tiếp thị của ngành dệt may xuất khẩu nước ta. Vì vậy tổ chức thật tốt
hệ thống các đầu mối tiếp thị để các đầu mối này hoạt động có hiệu quả là giải pháp
quan trọng đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa doanh nghiệp và các cơ quan chức năng.
Thứ hai, thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư , thu hút và sử dụng hiệu quả vốn
đầu tư.
Việc xây dựng và thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư đến năm 2010, ngoài việc
đầu tư chiều sâu và mở rộng các doanh nghiệp hiện có, ngành dệt may dự kiến đầu tư
xây dựng 10 cụm công nghiệp dệt may theo từng vùng là định hướng phát triển mới có
tính hiệu quả và khả thi cao. Mỗi cụm công nghiệp quy hoạch tập trung sẽ có ưu điểm là
tiết kiệm vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường sự hợp tác giữa các doanh
nghiệp, khắc phục được tình trạng đầu tư phân tán hiệu quả thấp. Tuy nhiên việc đầu tư
các cụm công nghiệp cần tính đến yếu tố liên hoàn để khai thác hết tiềm năng và chuyên
môn của nội bộ ngành. Trước mắt, đầu tư trọng điểm cho ngành dệt để có những dây
chuyền thiết bị với công nghệ hiện đại, đồng thời phải ưu tiên đầu tư vào công đoạn dệt
nhuộm, các sản phẩm dệt có yếu tố chất xám cao, sử dụng công nghệ dệt tiên tiến như
công nghệ nano đang được nghiên cứu và ứng dụng trong tương lai góp phần tăng nhanh
về số lượng chủng loại, chất lượng vải, nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm dệt may, cung
cấp cho ngành may và phấn đấu đến năm 2010 có thể cung cấp trên 75% nguyên phụ
liệu cho ngành may tạo điều kiện cho ngành may chủ động được nguyên phụ liệu, đáp
ứng yêu cầu xuất khẩu, đồng thời đó cũng là yếu tố tăng khả năng cạnh tranh hàng dệt
may Việt Nam trên thị trường quốc tế thời gian tới. Và trong quá trình đầu tư cần được
kiểm soát chặt chẽ theo đúng quy hoạch phát triển tổng thể, các doanh nghiệp cần nắm
bắt thông tin về tình hình đầu tư, sản xuất mặt hàng gì, quy mô sản xuất, để có hướng
đầu tư đúng, tránh đầu tư trùng lặp, tránh những thiệt hại nghiêm trọng về lâu dài cho
ngành và cho nền kinh tế.
Mặt khác, để đạt mục tiêu đến năm 2010, ngành dệt may sản xuất 2 tỷ mét vải các
loại và xuất khẩu 8 tỷ USD, cần đầu tư thật mạnh mẽ để huy động, sử dụng hiệu quả
nguồn vốn trong nước. Công ty tài chính dệt may cần phát huy vai trò bằng cách thay
mặt cho nghiệp đoàn các doanh nghiệp dệt may trong nước để huy động vốn, sau đó hỗ
trợ cho các doanh nghiệp đơn lẻ. Về phía các doanh nghiệp dệt may, phải đẩy mạnh tiến
trình cổ phần hoá để huy động vốn trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đồng
thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may như hình thức đầu
tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, liên doanh, liên kết,…..
Thứ ba, đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực tốt là một đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Vì vậy,
để đáp ứng nguồn nhân lực có tay nghề cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 là hết
sức cần thiết và cấp bách, là một vấn đề lớn và khó đối với cả doanh nghiệp dệt may và
các trường đào tạo nghề và quản lý. Ngành dệt may cần một đội ngũ lớn từ công nhân
lành nghề, cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã cho
đến giám đốc doanh nghiệp và quản lý cấp cao. Biện pháp tốt nhất để đào tạo cán bộ
quản lý các cấp là tăng cường sự kết hợp giữa các doanh nghiệp và các trường đại học
để mở lớp đào tạo dài hạn chuyên ngành quản lý có kiểm tra chất lượng đào tạo gắn với
thực tiễn, đồng thời cấp bằng tốt nghiệp sau mỗi khoá học dùng là cơ sở để tiêu chuẩn
hoá cán bộ của ngành. Đối với lực lượng công nhân lành nghề ngoài việc tăng cường
đào tạo tại doanh nghiệp, ngành dệt may nên có kiến nghị với Nhà nước để cấp kinh phí
đào tạo cho các trường dạy nghề để đào tạo miễn phí cho lực lượng lao động ở những
vùng nông thôn khó khăn nhưng chấp nhận học nghề may công nghiệp để vào làm việc
tại các doanh nghiệp may, dĩ nhiên với nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy
phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của ngành. Ngoài ra, đối với đội ngũ
công nhân đang làm việc cũng phải có những khoá đào tạo lại, đào tạo bổ sung để thích
nghi với môi trường sản xuất mới, công nghệ hiện đại.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả của gia công xuất khẩu từng bước tạo tiền đề, chuyển
sang xuất khẩu trực tiếp, giảm dần tỷ trọng gia công và xuất khẩu sang nước thứ ba.
Cần khẳng định rằng trong thời gian tới, các doanh nghiệp của ta vẫn sẽ gia công
hàng may xuất khẩu rất nhiều, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất
yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may của chúng ta cũng chưa thể
hoàn chỉnh để có thể hoàn toàn xuất khẩu trực tiếp. Gia công là bước đi cần thiết và
quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới bằng những
ưu thế riêng như giá rẻ, chất lượng tốt, giao hàng đúng hạn,….Đồng thời thông qua gia
công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm quản lý, sản xuất kinh doanh, tiếp thu công nghệ
của các nước khác và tích luỹ đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần
sang xuất khẩu trực tiếp. Để nâng cao hiệu quả hoạt động gia công, các doanh nghiệp dệt
may cần mở rộng gia công xuất khẩu các mặt hàng mới sang các thị trường mới. Tránh
tập trung gia công một mặt hàng cho một thị trường để dẫn tới bị ép giá, lệ thuộc. Trong
hoạt động gia công, phía Việt Nam cần thoả thuận để dành quyền tự cung cấp nguyên
liệu, quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm để từng bước giúp
khách hàng làm quen với sản phẩm, đồng thời khẳng định thương hiệu của doanh
nghiệp.
Trong quá trình gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp đồng thời phải chuẩn bị
cho xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là biện pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu
quả xuất khẩu, tăng lợi nhuận và tính chủ động xuất khẩu của doanh nghiệp. Để nâng
cao tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, giảm dần tỷ trọng gia công cần phải:
- Đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu: các doanh nghiệp dệt cần cố gắng nâng cao
chất lượng sản phẩm ngành dệt để có thể đáp ứng được nhu cầu của ngành may, tạo ra
mối quan hệ mật thiết giữa ngành dệt và ngành may. Kết hợp phát triển sản xuất phụ liệu
trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ
liệu cho sản phẩm may.
- Từng bước tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế. Để có
thể xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng các nhãn mác
của chính mình trên thị trường quốc tế. Muốn vậy:
Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải
cũng như sản phẩm may.
Tổ chức tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
Trước mắt doanh nghiệp nào chưa có khả năng tạo mốt thì cần phải hợp tác với
viện mốt thời trang hoặc thuê các chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để đẩy
nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới.
- Chú trọng công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. ở nhiều nước, đăng nhãn hiệu
hàng hoá của doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc. Hiện tại, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu
qua các nước trung gian hoặc gia công cho các nước khác. Để có thể xuất khẩu trực tiếp,
sản phẩm dệt may Việt Nam cần khẳng định vị trí của mình trên thị trường thế giới bằng
nhãn hiệu của chính mình. Tuy nhiên, việc dăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải chịu chi phí
có khi lên tới hàng ngàn USD. Vì vậy, để tiết kiệm chi phí các doanh nghiệp có thể kết
hợp với nhau để cùng đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm.
Đồng thời với các biện pháp trên cần giảm tỷ trọng xuất khẩu gián tiếp qua các
nước thứ ba là một biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may.
Muốn vậy, các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm,
thực hiện tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu thương mại của hàng hoá.
Thứ năm, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm.
Một trong những ưu thế của hàng dệt may Việt Nam là chất lượng tương đối cao
và giao hàng đúng thời hạn. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là kể từ
năm 2005, khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ, thị phần của
mỗi nước xuất khẩu hàng dệt may phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản
phẩm. Để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới cần thực hiện
đồng bộ một số biện pháp sau:
- Cải thiện chất lượng sản phẩm:
Đối với hàng may mặc, các biện pháp cạnh tranh phi giá cả, trước hết là cạnh
tranh về chất lượng hàng hoá, trong rất nhiều trường hợp trở thành yếu tố quyết định
trong cạnh tranh. Chẳng hạn các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như EU, Mỹ,
Nhật Bản, ….đều là những thị trường rất khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng. Người tiêu
dùng ở các thị trường khó tính này có khả năng thanh toán cao nên yếu tố chất lượng và
nhãn mác sản phẩm được chú ý hơn là giá cả.
Như vậy yếu tố chất lượng là yếu tố sống còn đối với ngành dệt may Việt Nam,
do vậy cần phải thực hiện:
Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên
phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh xuống phảm cấp.
Câng chú ý rằng nguyên liệu sợi vải là những hàng hóa hút ẩm mạnh, dễ hư hỏng.
Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công
nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp
về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì,….
Tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu.
Để đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu, giữ và nâng cao uy tín trên thị trường
thế giới, một hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc là một biện pháp cần thiết.
Để sản phẩm dệt may của Việt Nam có khả năng cạnh tranh, đủ tiêu chuẩn
đứng vững và phát triển trên thị trường thế giới trong thời gian tới (nhất là theo phương
thức FOB) gắn liền với các biểu tượng có uy tín, chất lượng cao của nhãn hiệu Việt Nam
thì việc phổ cập ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 phải trở thành yêu cầu bức xúc hiện
nay.
Trong thời gian tới chúng ta cần nâng cao tỷ trọng xuất FOB và tiến tới xuất
CIF, chủ động trong thuê tàu vận chuyển và bảo hiểm, tránh rủi ro tổn thất và suy giảm
chất lượng thành phẩm. Đây chính là biện pháp để đảm bảo yêu cầu về thời hạn giao
hàng.
- Chú trọng việc nghiên cứu và phát triển mẫu mốt.
Khi tham gia vào thị trường dệt may thế giới, các nhà doanh nghiệp luôn phải đương đầu
với cạnh tranh. Thị trường dệt may thế giới là thị trường cạnh tranh mạnh giữa các nhà
sản xuất với nhau. Trong quá trình cạnh tranh đó, giá trị thẩm mỹ của sản phẩm được coi
trọng do tác động của mốt thời trang, hay nói cách khác đi là mẫu mốt thời trang tạo nên
sức cạnh tranh mạnh mẽ cho sản phẩm dệt may.
Đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nước ta, để chuyển sang phương
thức mua nguyên liệu bán thành phẩm thì việc nghiên cứu mẫu mốt là một yêu cầu
không thể thiếu được. Nó giúp cho các doanh nghiệp của ta phát triển theo hướng tự
chủ, không phụ thuộc vào khách đặt hàng nước ngoài, nhờ đó nâng cao khả năng sản
xuất kinh doanh, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá phương thức kinh doanh, thị
trường kinh doanh.
Để việc nghiên cứu phát triển mẫu mốt thực sự trở thành vũ khí cạnh tranh sắc
bén, các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu cần phải thực hiện:
Cần chú trọng quan tâm đặc biệt và tổ chức xây dựng hệ thống trung tâm
nghiên cứu mẫu mốt có quy mô lớn. Bên cạnh đó, cần hình thành một hệ thống các cơ
sở nghiên cứu mẫu mốt trong từng doanh nghiệp để có thể vươn kịp các nước trong khu
vực.
Chăm lo, bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn,
chuyên là công tác nghiên cứu sáng tác mẫu mốt.
Để công tác nghiên cứu mẫu mốt có thể triển khai được tốt, kế hoạch tài chính
của các doanh nghiệp phải dành một phần chi phí nghiên cứu, sáng tác, thiết kế, chế thử
mẫu mốt mới một cách thích đáng.
- Đảm bảo yêu cầu về giao hàng.
Giao hàng đúng hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do đặc điểm về thời
vụ và phù hợp thời trang là một trong những yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của
nhóm hàng này bằng cách:
Chủ động trong vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá.
Sắp xếp, tổ chức sản xuất một cách hợp lý các mã hàng, tránh để tình trạng có
lúc dây chuyền sản xuất để trống nhưng có lúc thì sản xuất không kịp để giao
hàng đúng thời hạn.
Đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu, có những cán bộ có kinh nghiệm
chuyên trách khâu làm thủ tục xuất nhập khẩu, tránh để tình trạng hàng sản xuất xong
nhưng lại không thể xuất được.
Sản phẩm dệt may của Việt Nam là mặt hàng có lợi thế so sánh quốc tế, có thị
trường xuất khẩu, đầu tư tương đối lớn, thời gian đầu tư nhanh, giải quyết nhiều việc
làm cho lao động. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo cơ sở quan trọng để thực
hiện “Chương trình đầu tư tăng tốc độ phát triển của ngành dệt may”, tạo tiền đề để Việt
Nam đứng được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt thời kỳ hậu hạn ngạch từ năm
2005 và hoàn thành tốt mục tiêu xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2010.
Kết luận
Kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp dệt may của các nước công nghiệp
trên thế giới cho thấy: Ngành dệt may Việt Nam sẽ có điều kiện tăng trưởng liên tục
khoảng 20 - 30 năm tới nhờ nhiều ưu thế trong đó đặc biệt là giá lao động rẻ. Hơn nữa,
xuất phát điểm của ngành dệt may thấp nên sẽ cho phép đẩy mạnh quá trình tăng trưởng
với tốc độ cao, góp phần giải quyết được rất nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập quốc
dân và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại
toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ, sản xuất và xuất khẩu dệt may Việt Nam
đang phải chịu sự cạnh tranh gay gắt, đặc biệt nó sẽ trở nên khốc liệt và toàn diện hơn
trên toàn thế giới trong thời kỳ hậu hạn ngạch từ năm 2005.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về tầm quan trọng cũng như những cơ hội và
thách thức đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, bài viết này đã phản
ánh rõ thực trạng tình hình xuất khẩu và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trên con đường thâm nhập thị
trường khu vực và thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Niên giám thống kê 2003 - NXB Thống kê, HN 2004
2. Tạp chí Phát triển kinh tế số 5/2002
3. Tạp chí Cộng sản số 12/2003
4. Thời báo kinh tế Việt Nam số 15/2002; 14/2003; 46/2004
5. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 3/2000
6. Tạp chí kinh tế và phát triển số 6/2002
7. Tạp chí Thương mại số 3/2003; số 3+4+5/2005
8. Tạp chí Công nghiệp và Thương mại số 2/2004; số 6/2004; số10/2004; số
12/2004; số 12 tháng 3/2005
9. Thông tin và Tài chính số 24 (12/2004)
10. Ngoại thương số 27 (21/9/2004 đến 31/9/2004); số 35 (11/12/2004 đến
20/12/2004)
11. Chuyên đề đặc biệt thông tin công nghiệp số 3+4 (19 đến 26/1/2004); số 7
(23/2/20040; số 9/2004; số 15 (19/4/2004); số 17 (3/5/2004); số 22 (7/6/2004)
12. Tạp chí kinh tế châu á - Thái Bình Dương số 11 (14 đến 20/3/2005)
13. Thông tin thương mại chuyên ngành Dệt may số ra ngày 16/2/2004, số ra từ 12/1
đến 26/1/2004
14. Một số trang Web:
www.vinatex.com.vn
www.mot.gov.vn
www.moi.gov.vn
www.vnexpress.net
www.vnn.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100506_14.pdf