Luận văn Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay

Trong sự nghiệp cách mạng XHCN, Đảng ta rất coi trọng vấn đề nông dân, nông thôn, nông nghiệp, coi đây là đối tượng và địa bàn chiến lược trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trực tiếp làm chuyển biến mạnh mẽ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, vì vậy nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, muốn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải tôn trọng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, mà địa bàn nông thôn vẫn chưa được chú trọng, đề cao đúng mức. Do đó, phải có những giải pháp tích cực, hữu hiệu để nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, làm cơ sở cho việc phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.

pdf94 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3293 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tích cực và khắc phục những hạn chế yếu kém qua sự phân tích thực trạng nêu ở trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay như sau: 2.2.1. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử để giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, rằng ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định; đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất. Do đó, vận dụng nguyên lý ấy vào thực tiễn, muốn nâng cao ý thức pháp luật cải thiện đời sống pháp luật của người nông dân, phát huy dân chủ ở nông thôn trước hết chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế - xã hội cơ sở một cách nhanh chóng và vững chắc. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn như Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) của Đảng đã chỉ rõ: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật vào công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường [17, tr.93]. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn [17, tr.93-94]. Sở dĩ cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, nâng cao mức sống cho nhân dân, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho các vùng kinh tế ở các địa phương theo hướng sản xuất công nghiệp, theo hướng chuyên môn hóa, tập trung nhân lực chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ nền sản xuất nhỏ, phân tán, chậm phát triển sang sản xuất hàng hóa lớn, có giá trị kinh tế cao theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) sẽ có tác dụng to lớn đến việc nâng cao ý thức pháp luật cho nông dân và phát huy dân chủ ở nông thôn hiện nay, điều đó thể hiện: Nó trực tiếp làm chuyển đổi mạnh mẽ nhận thức của người nông dân trong cộng đồng làng xã và cán bộ cơ sở (xã) về pháp luật và dân chủ. Bởi lẽ, đối với người nông dân ở nước ta từ bao đời này đều có nhu cầu bức thiết đó đời sống vật chất trước hết là lương thực, thực phẩm no đủ, ổn định, do vậy vấn đề nâng cao đời sống dân sinh kinh tế cho người dân luôn là một vấn đề quan tâm hàng đầu của các cấp ủy đảng, chính quyền trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Cũng chính từ thực trạng khó khăn do thiếu hiểu biết về khoa học - kỹ thuật, về phát triển kinh tế của nông dân cộng với sự lúng túng của cán bộ cơ sở trong việc tháo gỡ vướng mắc cần được giải quyết nhằm thực hiện công cuộc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phương đòi hỏi phải có những giải pháp tích cực mới khắc phục được tình trạng ấy. Bước vào thời kỳ kinh tế thị trường, cùng với sự thiếu thông tin, cơ sở vật chất thiếu thốn, người nông dân rất muốn phát triển kinh tế nhưng rất bế tắc về cách giải quyết. Vì vậy, ở địa phương nào mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, mở rộng học tập, giao lưu, tạo lưu thông phân phối, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nơi đó sẽ làm nhanh chóng thay đổi cách nghĩ, cách làm của người nông dân và cả cán bộ, đảng viên. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng năng suất vật nuôi cây trồng, cho giá trị kinh tế cao thực sự làm cho ý Đảng hợp với lòng dân. Đây cũng chính là cơ sở đòi hỏi người nông dân phải am hiểu pháp luật mới biết được những chính sách và quy định của Nhà nước về phát triển kinh tế. Chúng tôi xin đơn cử thực tế ở 2 địa phương về tác động mạnh mẽ của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa những năm vừa qua như sau: - Khảo sát đánh giá nhu cầu pháp luật của nông dân ở 3 xã (Vũ Lâm, Nhân Nghĩa và Xuất Hóa) huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình cho thấy do chuyển đổi cơ cấu kinh tế chậm, đồng bào các dân tộc (Mường, Thái) ở đây cơ bản vẫn sản xuất theo lối độc canh, tự cấp, tự túc, sản xuất nhỏ, manh mún, nhỏ lẻ, lưu thông phân phối chậm chạp, trong tâm lý người dân tự bằng lòng với cuộc sống hiện tại, tuy yên ổn về xã hội nhưng đời sống kinh tế người dân rất thấp kém, do đó việc nâng cao ý thức về pháp luật là một trong những khó khăn cần được giải quyết, vì nó liên quan trực tiếp đến công cuộc xóa đói giảm nghèo của người nông dân ở những địa phương này. Qua khảo sát 100 hộ gia đình thì mới có 17 gia đình biết một vài mục về vay vốn sản xuất, đối tượng này chủ yếu là gia đình cán bộ cơ sở hoặc có người là cán bộ hưu trí hoặc thoát ly. Cùng với nội dung khảo sát trên, như 3 xã Gia Xuyên, Hồng Hưng, Thạch Khôi huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương thì người nông dân nhận thức khác nhau, có tới 99/100 số hộ biết các thủ vục vay vốn sản xuất, phát triển kinh tế. Do yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế vật nuôi cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa (cánh đồng 50 triệu đồng/ha) nên khi hỏi về một số văn bản pháp luật như Luật Hợp tác xã, Luật Đất đai, Luật Giao thông, Quy chế dân chủ cơ sở, Pháp lệnh tín dụng ngân hàng, Pháp lệnh thú y, quy định về thuế phí và lao động công ích... có tới 93-98% trả lời có biết, và cho rằng rất cần thiết với người dân ở nông thôn. Như vậy, biện pháp tích cực làm chuyển đổi nhanh chóng ý thức pháp luật của người nông dân đó là biện pháp kinh tế, nói cụ thể hơn đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện tốt chủ trương này sẽ trực tiếp làm thay đổi cách nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ cơ sở (xã) từ bỏ quan niệm cũ, lối tư duy kinh nghiệm, tư tưởng phong kiến gia trưởng sang quan niệm mới, cách làm việc khoa học, tiếp cận xử lý công việc một cách linh hoạt, bài bản, hiệu quả hơn. Đồng thời, phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn sẽ làm cơ sở cho người dân được tiếp xúc với cơ chế mới, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, biết và xử lý những công việc có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân, khắc phục tư tưởng "trông chờ", "ỷ lại", thụ động và tình trạng thiếu hiểu biết pháp luật, làm sai pháp luật, thay vào đó là thái độ cởi mở, có chủ kiến, tinh thần tự chủ, hợp tác trong giao tiếp xã hội, quan hệ sản xuất của người nông dân ở nông thôn hiện nay. Từ bài học về giải quyết điểm nóng Thái Bình những năm trước đây và khảo sát thực tế ở các địa phương nói trên cho ta nhận định chung là: - Muốn làm thay đổi ý thức pháp luật của người nông dân phải xuất phát từ chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trực tiếp là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu cũ sang sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là cơ sở để người nông dân có điều kiện cập nhật, nắm bắt, giải quyết các vấn đề về quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo pháp luật. - Phải vận dụng sát thực tế điều kiện hoàn cảnh thực tế của từng địa phương, tùy từng đối tượng người nông dân ở địa phương, vùng miền khác nhau để tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, ở địa bàn nông thôn có các mối quan hệ hết sức phức tạp như họ hàng, làng xã, hương ước, tập tục, tín ngưỡng tôn giáo... hết sức "nhạy cảm"... đòi hỏi phải kiên trì, sáng tạo mới có thể thực sự tạo chuyển mạnh mẽ ý thức pháp luật và phát huy được quyền làm chủ của người nông dân. - Mặt khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng, để đưa vào hiện thực cuộc sống nhân dân đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ cơ sở tích cực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân mới có thể thực hiện được chủ trương đúng đắn đó. 2.2.2. Đẩy mạnh và đa dạng hóa các loại hình tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nông dân Nhấn mạnh tầm quan trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (giữa nhiệm kỳ) của Đảng đã khẳng định: "Tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật đảm bảo cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng" [14, tr.57]. Đây là biện pháp trực tiếp trang bị những kiến thức pháp luật cơ bản cho người nông dân, qua đó hình thành nên tình cảm, thái độ tích cực của họ với pháp luật, đồng thời tạo dựng thói quen tuân thủ pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trở nên hết sức quan trọng và bức thiết đối với việc nâng cao ý thức cho người nông dân hiện nay. Bởi lẽ, giáo dục pháp luật chính là sự tác động chủ động của chủ thể giáo dục lên khách thể (đối tượng giáo dục). "Bản chất của giáo dục pháp luật đó là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành" [22, tr.20]. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân, nâng cao dân trí nói chung, trong đó dân trí pháp luật là một trong những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. Bởi lẽ, nó có tác dụng cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nó làm cơ sở cho việc thực hiện, phát huy dân chủ cơ sở, mở rộng quyền tự do cho mọi người. "Điều quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao dân trí, hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân, thường xuyên giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân" [75, tr.91-92]. Nâng cao mặt bằng dân trí về pháp luật là nhân tố quan trọng để người nông dân thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời có điều kiện tham gia, đóng góp ý kiến chủ trương, chính sách, bổ sung những chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, giúp họ hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong quá trình quản lý làng xã và đất nước. Vậy theo chúng tôi, để nâng cao ý thức pháp luật, dân trí pháp luật cho người nông dân nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn hiện nay ở nước ta nên tập trung tiến hành một số biện pháp sau: Một là: về nội dung tuyên truyền giáo dục pháp luật cho người nông dân cần phải đầy đủ, cụ thể hóa những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp, thiết thực với họ. Qua khảo sát nắm bắt ở cơ sở cho thấy những nội dung cơ bản mà người nông dân có nhu cầu hiểu biết về pháp luật (xem phụ lục 5). Hai là: Về hình thức và biện pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người nông dân. - Trước hết phải coi trọng việc đưa giáo dục pháp luật vào trong hệ thống các trường học ở địa bàn nông thôn. Chăm lo đến đối tượng con em nông dân ngay từ tuổi học đường. Trang bị cho đối tượng này những kiến thức cơ bản, những hành vi ứng xử tối thiểu để các em học sinh có những hành trang pháp lý tối thiểu bước vào cuộc sống sau này. Họ cũng vừa là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân trong tương lai, làm chủ ở nông thôn sau này. Do vậy, phải có những đổi mới cả nội dung, hình thức cho phù hợp ở mỗi cấp, lứa tuổi và địa bàn. Ba là: Tăng cường việc hướng dẫn, phổ biến, giải thích, giải đáp pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa bàn nông thôn như đài, vô tuyến, các loại báo, tạp chí, bướm tin, tờ rơi, panô, áp phích... sẽ có tác dụng rất lớn trong việc phổ biến, giải thích, cổ vũ, động viên tập hợp lực lượng quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Với phương châm kiên trì, tỷ mỷ, thiết thực hiệu quả, "mưa dầm thấm lâu" sẽ có tác dụng lớn làm chuyển đổi thái độ, tình cảm, tâm lý, ý thức của người nông dân đối với pháp luật. Bởi lẽ, thông qua việc tiếp nhận, xử lý thông tin pháp luật, cùng với sự định hướng pháp luật, người nông dân hình thành từng bước thói quen, tiếp cận ngôn ngữ quy phạm pháp luật, qua đó họ có được những tri thức cần thiết để có thể áp dụng vào đời sống với các mối quan hệ xã hội, làm phương tiện để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình (xem phụ lục 6). Tuy nhiên, một thực tế đặt ra hiện nay đó là thông tin về tới nông thôn, đối với người nông dân vừa thiếu vừa yếu, đặc biệt ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đơn cử qua khảo sát ở 4 tỉnh: Hải Dương, Thái Bình, Hòa Bình, Sơn La. Nếu như ở Hải Dương và Thái Bình có tới 100% số xã, phường, thị trấn có mạng lưới truyền thanh đến cấp xã, thôn, với gần 100% xã có điểm bưu điện văn hóa xã thì ở Hòa Bình, Sơn La tỷ lệ này chưa đạt 50 %, nhiều xã chưa có hệ thống loa truyền thanh xuống xóm, thôn. Do vậy, đây cũng là một nguyên nhân bà con nông dân đóiv ề kiến thức pháp luật, thậm chí hầu như không hiểu biết gì về pháp luật, tâm trạng thái độ thờ ơ không quan tâm đến pháp luật. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới, cùng với việc mở rộng chuyên mục về phổ biến, giải đáp pháp luật với thời lượng và nội dung phong phú hơn. Nhà nước và địa phương cần có những chế độ chính sách mới như trợ giá, miễn phí cho đối tượng vùng sâu vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng dân tộc ít người, để nhân dân, trước hết là bà con nông dân ở đó có điều kiện tiếp xúc thông tin cần thiết về pháp luật. Một ví dụ rất đáng học tập như Nghị quyết của Tỉnh ủy Hải Dương và Thái Bình chỉ đạo từ 1997: 100% số chi bộ có đủ đầu Báo Nhân dân, Hải Dương hoặc báo Thái Bình, kinh phí địa phương hỗ trợ. Do đó, các thông tin thường nhật và một số chính sách chủ trương lớn của các cấp ủy đảng, chính quyền luôn được cập nhật và đến tận người dân một cách nhanh chóng, chính xác. Hay một chủ trương khác đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của bà con nông dân người dân tộc thiểu số, đó là Chương trình 1637 của Thủ tướng Chính phủ "đưa ấn phẩm văn hóa về vùng sâu, vùng xa"; tuy nhiên qua 2 năm thực hiện ở một số tỉnh miền núi phía Bắc như Sơn La, Lai Châu, Hà Giang... cho thấy chương trình này cũng cần phải đổi mới theo hướng sát thực với địa bàn vùng cao và tập quán của bà con dân tộc mới đem lại hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa. Bốn là: việc đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần phải đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động giáo dục pháp luật như "trợ giúp pháp lý", "tư vấn pháp luật", "văn phòng luật sư", ở các cấp, nhất là cấp cơ sở và địa bàn nông thôn, tăng cường hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban tư pháp, tổ hòa giải... tiếp tục đẩy mạnh các hình thức, mô hình tự quản như mô hình "làng văn hóa", "khu dân cư văn hóa", "khu dân cư tự quản", "làng xã an toàn"... cùng loại hình các cuộc vận động như toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, "ông bà mẫu mực, con trung hiếu, cháu thảo hiền" (ủy ban Mặt trận tổ quốc phát động", câu lạc bộ: Tuổi trẻ với pháp luật, phong trào thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước (Đoàn Thanh niên), cuộc vận động chị em phụ nữ giúp nhau làm kinh tế, nuôi dạy con ngoan khoẻ (Hội Phụ nữ), Câu lạc bộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi (Hội nông dân)... nhằm nâng cao ý thức tự chủ, tự giác, tự quản của nhân dân, nhất là bà con ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Năm là: Tăng cường giáo dục pháp luật cho đối tượng là nông dân thông qua nâng cao chất lượng xét xử số các vụ án lưu động ở địa bàn nông thôn, nhất là các vụ án hình sự, dân sự ở phạm vi pháp luật cho phép; thông qua bản án, quyết định xử đúng người, đúng tội danh, đúng pháp luật của Tòa án sẽ có tác dụng giáo dục pháp luật rất lớn. Không chỉ với người được áp dụng mà ngay cả với những người tham dự phiên tòa, do vậy đòi hỏi phải không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng làm án, xét xử, thi hành án đối với đối tượng nông dân ở địa bàn nông thôn. 2.2.3. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, công tác tiếp dân theo hướng thiết thực, hiệu quả Một là, để đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát huy dân chủ cơ sở, nâng cao ý thức pháp luật cho người nông dân, nâng cao vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật XHCN. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng chỉ rõ: "Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, nâng do dân trí, trình độ pháp luật cho nông dân" [13, tr.90-91]. Có thể nói, qua 60 năm xây dựng chế độ dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, song do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của chúng ta vừa thừa vừa thiếu đồng bộ, nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật chậm đổi mới, chồng chéo... thực trạng đó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao ý thức pháp luật của người dân, nhất là đối tượng lại là người nông dân. Do vậy, một mặt chúng ta phải nhanh chóng khắc phục tình trạng luật chỉ dừng lại ở những quy định chung, xa thực tế, có khi phải có những văn bản chế tài khác hướng dẫn mới có thể thực hiện được. Mặt khác, các loại văn bản pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, cụ thể, đơn giản để mọi người dân có thể đọc luật là hiểu được nội dung và thực hiện được. Đồng thời, loại bỏ những văn bản không còn hiệu lực, trái với Hiến pháp và pháp luật; ở địa phương các loại quy định tạm thời là cần thiết song không nên để kéo dài quá một nhiệm kỳ khóa Hội đồng nhân dân, có như vậy, người nông dân mới có điều kiện tiếp xúc, nắm bắt thông tin và hiểu được những quyền lợi và nghĩa vụ của mình, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Hai là: - Phải đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, công tác tiếp dân ở cơ sở, xử lý giải quyết dứt điểm những vụ việc mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân ở nông thôn, tránh tình trạng khiếu kiện kéo dài. - Xuất phát từ yêu cầu sát với điều kiện thực tế nhằm thu hút được kết quả thiết thực, tác động tích cực tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, do vậy Đảng, Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa VII) chỉ rõ: "Cải cách hành chính là nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực, hiệu quả công việc của Nhà nước được dân tin, dân yêu" [4, tr.244]. Từ yêu cầu đó, đối với cấp cơ sở (xã) cải tiến thủ tục hành chính, công tác tiếp dân trước hết cần phải cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của chính quyền cấp xã (HĐND, UBND) bằng việc định rõ phận sự, thẩm quyền và trách nhiệm của các thành viên HĐND, UBND xã thông qua quy chế làm việc, quy định cán bộ công chức cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn), trong đó làm rõ vai trò, trách nhiệm của những người đảm đương các chức danh chủ chốt (Chủ tịch, phó Chủ tịch, trưởng công an, cán bộ văn phòng...) thường xuyên tiếp xúc với người dân nên loại bỏ những việc làm hình thức, kém hiệu quả, giảm hội họp, giấy tờ hành chính rườm rà gây phiền hà cho người dân. Vì vậy, một mặt phải đầu tư thỏa đáng cho cấp xã về tài liệu, sách báo, tạp chí, văn bản pháp luật, cùng chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương. Trang bị những cơ sở vật chất thiết yếu đến các phương tiện phục vụ cho công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân theo hướng từng bước hiện đại hóa, cụ thể: từ trụ sở, văn phòng làm việc đến âm ly, loa máy, truyền thanh, điện thoại, vi tính... theo chủ trương: Tăng cường đầu tư để đến năm 2010, các cơ quan hành chính có trang thiết bị tưong đối hiện đại, cơ quan hành chính cấp xã trong cả nước có trụ sở và phương tiện làm việc đảm bảo nhiệm vụ quản lý, mạng tin học diện rộng của Chính phủ được thiết lập đến cấp xã [4, tr.255]. - Đối với những địa phương nông thôn có những diễn biến phức tạp, mất ổn định, có biểu hiện mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, vi phạm pháp luật thì đòi hỏi cấp ủy, chính quyền cơ sở phải chủ động giải quyết, các tổ chức đoàn thể cần tích cực vào cuộc cùng tháo gỡ, tránh tình trạng đùn đẩy lên trên hoặc để dây dưa kéo dài gây nên những hoài nghi trong quần chúng nhân dân, dễ bị kẻ xấu lợi dụng xuyên tạc làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, chính quyền và sự nghiêm minh của pháp luật. Ba là, để phát huy dân chủ cơ sở, nâng cao ý thức pháp luật cho người nông dân đòi hỏi nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở (xã), xây dựng đội ngũ cán bộ thôn, xã có đủ năng lực trước hết cần am hiểu kiến thức pháp luật để trực tiếp giải quyết các vụ việc, giải thích cho người dân hiểu về pháp luật một cách căn bản. Bởi lẽ, thực trạng kiến thức và trình độ, nhận thức pháp luật của cán bộ cơ sở (xã, thôn, làng bản) còn rất hạn chế, mặc dù trong số họ có khá nhiều người đã được phổ biến về Quy chế dân chủ cơ sở và nắm được số nội dung pháp luật cơ bản liên quan đến hoạt động của họ, nhưng các kiến thức và thông tin pháp luật mà đội ngũ cán bộ cơ sở hiện có không đủ đáp ứng cho việc giải quyết các công việc hàng ngày của họ; ví dụ: Hộp số 2: Thiếu cán bộ chuyên môn, cách làm chậm đổi mới. Xã Vũ Lâm hiện không có cán bộ tư pháp làm chuyên trách, chính vì vậy khi có văn bản pháp luật ở trên gửi xuống, chúng tôi (lãnh đạo xã) phải tự ngồi đọc và tóm tắt rồi gửi cho trưởng thôn, xóm đọc cho bà con. Nguồn: Phỏng vấn từ lãnh đạo xã. Qua thực tế trên cho chúng ta thấy, vai trò của cán bộ cơ sở hết sức quan trọng và cần thiết trong các lĩnh vực công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật cho người dân ở cơ sở, vì rằng, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phần lớn thông qua chủ thể này mà đến với các tầng lớp nhân dân lao động trong đó có người nông dân. Cũng chính bởi vậy, "hiệu quả giáo dục pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào trình độ năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật" [53, tr.84]. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật một mặt đối với các địa phương phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn pháp luật cho đội ngũ cán bộ cơ sở, cán bộ thôn xóm, mặt khác phải nâng cao kỹ năng nghiệp vụ công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật ở các cấp thông qua hệ thống trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, sở tư pháp, trung tâm trợ giúp pháp lý, hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật; đồng thời chính quyền các cấp cũng cần có chế độ chính sách đãi ngộ thỏa đáng, khuyến khích động viên tạo điều kiện để đội ngũ này hoàn thành tốt nhiệm vụ. Giải pháp nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục pháp luật là một trong những giải pháp quan trọng và bức thiết, nó có tác dụng to lớn trực tiếp làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức pháp luật của người nông dân ở cơ sở (chủ thể nhận thức pháp luật), góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay ở nước ta. 2.2.4. Tiếp tục thực hiện hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở làm mục tiêu và động lực thúc đẩy xã hội phát triển Vì rằng, "Dân chủ cao hay thấp, đầy đủ hay không đầy đủ chỉ thể hiện ở những quyền được ghi trong Hiến pháp, pháp luật. Vấn đề còn là phải tạo ra những điều kiện để người dân được hưởng, thực hiện được những quyền đó. Không có những điều kiện đó, dân chủ chỉ là hình thức" [54, tr.25]. Do vậy, để nâng cao ý thức pháp luật cho nông dân, nhằm phát huy dân chủ cơ sở ở nông thôn vừa là một mục tiêu lớn, vừa là động lực, nó không chỉ là một chủ trương lớn của Đảng trong thời kỳ đổi mới mà nó còn thể hiện sự ưu việt của chế độ XHCN. Quy chế dân chủ ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) ra đời đáp ứng nhu cầu bức thiết của nhân dân, đây là một thiết chế đảm bảo cho việc thực hiện quyền làm chủ của nông dân ở nông thôn nước ta. Khẳng định vai trò hết sức to lớn của nhân dân lao động trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta nêu rõ: Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay [15, tr.73]. Vì vậy, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30/CT-TW về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (18-2-1998). Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã (kèm theo Nghị định 29/1998/NĐ-CP ngày 11-5-1998 của Chính phủ). Hơn 7 năm qua, quy chế đi vào cuộc sống đã tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở hơn trong xã hội, thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào chế độ. Trong đó thực hiện Quy chế dân chủ ở xã đã thực sự làm ổn định tình hình chính trị - xã hội ở nông thôn, "tạo nên động lực thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương và các ngành. Rõ nét nhất là sự chuyển biến trên lĩnh vực kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng ở xã, phường, thị trấn, xây dựng nếp sống văn hóa ở nông thôn" [6, tr.10]. Đồng thời, Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã có địa bàn và có ý nghĩa sâu rộng nhất. Liên quan trực tiếp nhất đến lực lượng sản xuất và lực lượng chính trị to lớn, đông đảo nhất ở nước ta hiện nay là giai cấp nông dân, gắn với bước đầu đẩy mạnh nhiệm vụ trọng tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn [2, tr.22]. Có thể nói ý nghĩa và tác dụng của Quy chế dân chủ cơ sở rất to lớn, nó thực sự là một trong những văn bản pháp luật hoàn chỉnh quy định những quyền và nghĩa vụ của người dân, những việc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" ở nông thôn. Tuy nhiên, về mặt hạn chế yếu kém cần phải đặt ra để khắc phục như thông báo kết luận của Ban Bí thư về kết quả 6 năm thực hiện chỉ thị số 30 CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở (ngày 29-9-2004) đã nêu rõ: Việc thực hiện còn mang nặng tính hình thức. Tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn nhiều, có khi nghiêm trọng, những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, tiêu cực không được phát hiện và đấu tranh ngăn chặn, khắc phục kịp thời, làm giảm lòng tin gây bất bình trong nhân dân, dẫn đến khiếu kiện kéo dài vượt cấp [58, tr.2]. Vì vậy, để tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị số 10-CT/TW (ngày 28-3-2002) của Ban Bí thư (khóa IX), đưa quy chế đi vào cuộc sống mang tính bền vững, chúng tôi đề xuất một số giải pháp lớn như sau: Một là: Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của các cấp ủy đảng, đặc biệt là Đảng ủy cấp xã. Coi đây là thời cơ để các cấp ủy đảng thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm, uy tín của Đảng trước quần chúng nhân dân, làm theo quy chế thực sự làm cầu nối thể hiện mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Hai là: Củng cố tăng cường hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gồm lãnh đạo Đảng, chính quyền đoàn thể và thanh tra nhân dân, trong đó lãnh đạo Đảng làm trưởng ban chỉ đạo. Một mặt, phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện quy chế theo hướng thiết thực hiệu quả. Mặt khác, cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn, như việc có thể thể chế hóa một số nội dung quy định của Quy chế dân chủ làm cơ sở pháp lý xử lý các hành vi vi phạm các quy định. Ba là: Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền nhất là chính quyền cơ sở trong việc tổ chức triển khai thực hiện các quy định của quy chế. Cụ thể hóa các khâu, các việc gắn với chức danh, nhiệm vụ của các thành viên HĐND, UBND cấp xã. Bốn là: Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, phải thường xuyên củng cố nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở làm cơ sở vững chắc phát huy dân chủ cơ sở trong đó có địa bàn nông thôn. Muốn vậy, phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ cơ sở làm nòng cốt trong việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở địa bàn nông thôn. Năm là: Tiếp tục đổi mới theo hướng đơn giản và cụ thể hóa các bước, các khâu, cách thức, quá trình thực hiện nội dung Quy chế dân chủ ở xã, thôn, bản, xóm, như việc xây dựng quy ước, hương ước làng, xã quy trình bầu trưởng thôn, quy trình huy động và quản lý vốn do nhân dân đóng góp, công khai các chương trình dự án ở xã, thôn, quy trình lấy ý kiến tín nhiệm cán bộ chủ chốt, quy chế phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức đoàn thể... Sáu là: Đầu tư thỏa đáng cơ sở kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; như điện, đường, trường, trạm, nước, thông tin, những nhu cầu thiết yếu phát triển dân sinh kinh tế ở cộng đồng dân cư ở mỗi địa phương. Đòi hỏi các cấp chính quyền quan tâm chú trọng đúng mức, có như vậy mới tạo điều kiện cho người dân nhất là nông dân ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, dân tộc ít người được tiếp cận thông tin và làm cơ sở để biết, để bàn, làm và kiểm tra các công việc của chính quyền cơ sở trong phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đúng như Hồ Chủ tịch nói: dưới chế độ quân chủ phong kiến, nhân dân ta không có dân chủ, còn dưới chế độ thực dân thì dân chủ chẳng có là bao. Vì vậy, chúng ta phải xây dựng một chế độ dân chủ mới thực sự do dân, của dân và vì dân. Nên ngay từ phiên họp đầu tiên của Chính phủ (lâm thời) Việt Nam dân chủ cộng hòa (3-9-1945) Hồ Chủ tịch đã chỉ đạo thành lập một ban soạn thảo Hiến pháp. Cho đến nay, nền dân chủ XHCN ở nước ta trải qua 60 năm, do những biến cố thăng trầm của lịch sử, do chiến tranh kéo dài, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân ta đã và đang phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của mình trong công cuộc xây dựng XHCN. Thắng lợi của 20 năm công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó phải nói đến sự hình thành, xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là một thành công lớn của Đảng và nhân dân ta. Đây là cơ sở pháp lý mang tính bền vững để nhân dân ta, trong đó có người nông dân phát huy quyền làm chủ của mình, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở lên một tầm cao mới, mang tính bền vững sẽ là một nhân tố quan trọng đảm bảo sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.2.5. Nâng cao vai trò trách nhiệm, hiệu lực của các cơ quan quyền lực trong việc thực thi nghiêm chỉnh pháp luật ở địa phương - Biết rằng, để pháp luật đi vào đời sống xã hội, ý thức pháp luật của người nông dân được nâng cao, phát huy quyền dân chủ của người nông dân ở nông thôn, thiết nghĩ không chỉ nâng cao chất lượng hệ thống văn bản pháp luật, không chỉ tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nói chung mà cần phải có những biện pháp mạnh, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật do vậy đòi hỏi phải nâng cao vai trò trách nhiệm, hiệu lực của các cơ quan công quyền trong việc thi hành nghiêm chỉnh pháp luật ở địa phương. Cơ quan quyền lực các cấp ở địa phương không ai khác là chính quyền, tổ chức, đơn vị quản lý và thi hành pháp luật ở địa phương (như UBND, công an, Viện kiểm sát, tư pháp, tòa án, thanh tra...). Đây là những cơ quan chuyên trách thực thi công vụ pháp lý ở địa phương, duy trì trật tự kỷ cương xã hội, định hướng hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và giải quyết mọi hành vi vi phạm pháp luật theo luật định. Thực tế trong những năm qua, bên cạnh những nỗ lực, cố gắng song trước yêu cầu đổi mới, trước những tác động mạnh mẽ của cơ chế kinh tế thị trường, khách quan trong xem xét, đánh giá thì hiệu quả công tác quản lý pháp luật, thi hành luật ở các địa phương còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, duy trì trật tự kỷ cương xã hội, còn nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những vụ việc mất ổn định, thách thức dư luận, gây bức xúc xã hội, đặc biệt là ở địa bàn nông thôn. "Hạn chế này do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu vẫn là do ý thức pháp luật của toàn xã hội còn ở trình độ thấp, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ tạo kẽ hở cho một số đối tượng luồn lách pháp luật, vi phạm pháp luật" [49, tr.90]. Tuy nhiên, một nguyên nhân cũng rất lớn đó là việc kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện pháp luật, công tác chấp hành luật pháp còn chưa nghiêm, chẳng hạn theo Báo cáo của Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XI về công tác xét xử, thi hành án thì có tới hơn 80% số vụ việc theo đơn thư chưa được xét xử, công tác thi hành án nhất là án dân sự ở các địa phương rất thấp. Mặt khác, tác động mặt trái cơ chế kinh tế thị trường đã ảnh hưởng xấu đời sống pháp luật của nhân dân và ở không ít cán bộ đảng viên gây nhức nhối xã hội, đó là lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, bất chấp pháp luật, tình trạng quan liêu tham nhũng, hối lộ, gây thất thoát tài sản nhà nước ngày một gia tăng. Cùng với nó là các đối tượng tội phạm về ma túy, mại dâm, lừa đảo về kinh tế, và các tệ nạn xã hội khác cũng bùng phát ở nhiều địa phương, không chỉ ở địa bàn thành phố, thị xã mà lan tỏa ở địa bàn nông thôn. Ví dụ: ở xã Ngọc Lũ (Hà Nam) cứ 10 thanh niên, thì có tới 3 người nghiện ma túy hoặc vi phạm pháp luật (bản tin Đài tiếng nói Việt Nam 8-6-2005). Vì vậy, giải pháp nâng cao vai trò, trách nhiệm hiệu lực của các cơ quan quản lý pháp luật ở địa phương cũng như việc kiểm tra, giám sát chấp hành pháp luật là rất bức thiết và quan trọng. Nêu theo chúng tôi, kiến giải một số vấn đề sau: - ở mỗi khóa HĐND các cấp đòi hỏi UBND và các thành viên trực thuộc, các cơ quan pháp luật, tập thể và cá nhân, phải có cam kết về thực thi trách nhiệm của mình trước đại biểu HĐND, UBND qua đó thể hiện vai trò, nghĩa vụ ý thức trách nhiệm của họ trước pháp luật, trước nhân dân. - Tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc "nổi cộm" theo phân cấp, thẩm quyền quy định của mỗi cấp, mỗi ngành, tránh tình trạng dây ưa, đùn đẩy trách nhiệm, chồng chéo, vượt cấp nhất là những đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ các cấp, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo ở cơ sở. Kết hợp với công tác kiểm tra chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. - Tôn trọng và bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, kiên quyết xử lý các vụ việc lợi dụng chức quyền làm sai chính sách, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt các tội danh tham nhũng, hối lộ, ma túy, mại dâm... làm rối loạn trật tự kỷ cương phép nước, mất ổn định ở địa phương. - Một điểm nữa không kém phần quan trọng đó là việc tuân thủ nghiêm túc quy trình, nguyên tắc, thủ tục khâu thi hành luật đối với các cơ quan tham gia tố tụng, bởi lẽ không thực hiện đúng quy trình, nguyên tắc sẽ tạo nhiều kẽ hở để những người có chức có quyền can thiệp chạy án, bao che cho phạm tội, làm sai lệch sự thật (bản án), viện cớ lý do "xử lý nội bộ", lý do không chính đáng để giảm mức án... Tóm lại, để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật XHCN, duy trì trật tự kỷ cương và quản lý xã hội bằng pháp luật ở địa phương, trong đó địa bàn nông thôn như ông cha ta đã đúc rút từ xưa "quan thì xa, bản nha thì gần", hơn ai hết các cơ quan quyền lực ở địa phương một mặt nâng cao vai trò, trách nhiệm, hiệu quả trong việc thực thi pháp luật ở địa phương, mặt khác tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật, tôn trọng các quyền của công dân, trong giải thích, tư vấn, giáo dục pháp luật cho người dân một cách công minh, minh bạch trong xét xử, thi hành án. Chắc chắn đó sẽ là cơ sở vững chắc tác dụng tích cực tới việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân phát huy dân chủ ở cơ sở nhất là đối với người nông dân ở nông thôn nước ta hiện nay. Kết luận Trên cơ sở làm rõ ý thức pháp luật của người nông dân và vai trò của nó trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay, chúng tôi rút ra kết luận như sau: 1. ý thức pháp luật với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh đời sống pháp luật của người dân của cộng đồng, do tồn tại xã hội quy định. ý thức pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội của nhân dân. Đặc biệt, đối với người dân và địa bàn nông thôn như ở nước ta hiện nay do điều kiện kinh tế - xã hội, do các nhân tố khách quan và chủ quan tác động kiến thức pháp luật, ý thức pháp luật của người nông dân rất hạn chế, đòi hỏi nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân là nhu cầu hết sức bức thiết đặt ra cho các cấp, các ngành, địa phương, đoàn thể xã hội. 2. Trong sự nghiệp cách mạng XHCN, Đảng ta rất coi trọng vấn đề nông dân, nông thôn, nông nghiệp, coi đây là đối tượng và địa bàn chiến lược trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trực tiếp làm chuyển biến mạnh mẽ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, vì vậy nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, muốn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải tôn trọng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, mà địa bàn nông thôn vẫn chưa được chú trọng, đề cao đúng mức. Do đó, phải có những giải pháp tích cực, hữu hiệu để nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, làm cơ sở cho việc phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. 3. Do những điều kiện lịch sử để lại, mặt bằng dân trí, văn hóa thấp, tâm lý, phong tục tập quán sản xuất nhỏ, nền nông nghiệp lạc hậu; mặt khác, do những thách thức của xu thế mở cửa, hội nhập của kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi việc mở rộng dân chủ, đặc biệt là khơi dậy, phát huy quyền làm chủ của người dân bằng sự tham gia quản lý xã hội, quản lý ngày một nhiều hơn. 4. Do yêu cầu công cuộc đổi mới, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho quần chúng nhân dân với việc xã hội hóa các loại hình tự quản nhằm nâng cao ý thức tự chủ, tự giác của nhân dân, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. 5. Quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN với quá trình đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Như đồng chí Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh: "Dân chủ với pháp luật, kỷ cương, kỷ luật là những mặt thống nhất trong chế độ dân chủ. Quyền dân chủ của mỗi công dân được thể hiện trong luật pháp và được luật pháp bảo đảm. Cho nên thực thi dân chủ phải đi đôi với thực thi pháp luật, dân chủ phải đi liền với kỷ cương, quyền hạn đi đối với trách nhiệm" [43, tr.6]. Do vậy, phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, tiếp tục cải cách nền hành chính quốc gia đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Phạm Ngọc Anh (1998), Quan hệ giữa Nhà nước và nông dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 2. Nguyễn Đức Bách (2003), Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã đáp ứng những lợi ích thiết thân của nông dân. Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện CNXHKH, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 3. Ban Dân vận Trung ương (2000), Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Ban Tổ chức Trung ương Đảng (2002), Tài liệu bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, công chức đảng, đoàn thể ngạch cao cấp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Báo An ninh thế giới (2005), ra ngày 13-4-205. 6. Nguyễn Cúc (chủ biên) (2002), Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong tình hình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 (1991), Nxb Sự thật, Hà Nội. 8. Diu Righin (1986), Pháp luật, chính trị, đạo đức và ý thức pháp luật xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 9. Phan Đại Doãn - Nguyễn Toàn Minh (1997), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Nguyễn Đăng Dung, Ngô Đức Tuấn, Nguyễn Thị Khế (1986), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 11. Phạm Ngọc Dũng (2003), "Mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ cơ sở và đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở: Một số nguyên lý cơ bản", Triết học, (6), tr.9. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (giữa nhiệm kỳ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1988), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Đảng ủy xã Thái Thịnh (Thái Bình) (2004), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng củng cố tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở ở thời điểm mất ổn định (1997-2000). 19. Đảng ủy xã Thái Thịnh (Thái Bình) (2004), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng củng cố tổ chức trong hệ thống chính trị ở xã, thị trấn từ khi xảy ra mất ổn định ở nông thôn. 20. Đảng ủy xã Quỳnh Hoa (Thái Bình) (2004), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng củng cố tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở ở thời điểm mất ổn định (1997-2000). 21. Lê Xuân Đình (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản, (20), tr.34. 22. Trần Ngọc Đường - Dương Thanh mai (1996), Bàn về giáo dục pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Lê Mậu Hãn (1998), Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Vũ Văn Hiền (2004), Kinh nghiệm thực hiện dân chủ ở Thụy Điển, Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Vũ Văn Hiền (2004), Phát huy dân chủ ở xã phường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Hiến pháp Việt Nam 1946, 1959, 1980, 1992 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Phạm Đức Hóa (2003), Nâng cao chất lượng công tác vận động nông dân của các Đảng bộ xã ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 29. Lê Đình Khiên (2002), Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 31. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 32. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 33. Nguyễn Văn Long (2003), "Những hạn chế của lệ làng cần khắc phục trong quá trình dân chủ hóa xã hội ở nông thôn", Dân chủ và pháp luật, (11), tr.6 34. Lý luận chung về Nhà nước (1996), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 35. Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (2004), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 36. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Nông Đức Mạnh (2004), "Đưa cuộc vận động thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở lên một bước mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn", Tạp chí Cộng sản, (20), tr.3. 44. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Hồ Chí Minh (2002), Tuyển tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Mai Thị Ngọc Minh (2003), ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 50. Nguyễn Huy Quý (2005), "Dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản, (4), tr.43. 51. J.J.Rút xô (2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 52. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (2005), Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 53. Hoàng Trung Thành (2004), Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 54. Trần Thành (2005), "Nhận thức và vận dụng quan điểm mác xít về nhà nước", Lý luận chính trị, (5), tr.25. 55. Trần Hậu Thành (2005), "Một số vấn đề lý luận về quan hệ nhà nước, xã hội và công dân trong Nhà nước pháp quyền", Triết học, (6), tr.16. 56. Lê Minh Thông (1997), "Để Nhà nước ta thực sự là Nhà nước "của dân, do dân, vì dân"", Triết học, (6), tr.19. 57. Lê Minh Thông (1997), "Mấy vấn đề lý luận chung về Nhà nước trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (8), tr.26. 58. Thông tin cải cách nền hành chính nhà nước (2005), (1). 59. Tỉnh ủy Thái Bình (2002), Chỉ thị số 13 CT/TU về tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật cho nông dân Thái Bình. 60. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1993), Giáo trình chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội. 61. Trung tâm Nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý Việt Nam (2005), Báo cáo đánh giá thực trạng nhu cầu pháp luật của người dân 3 xã thuộc dự án LARC - CARE tại huyện Lạc Sơn - Hòa Bình. 62. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hải Dương (2005), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hải Dương (8/1998 - 6/2005). 63. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Sơn la (2005), Báo cáo (tóm tắt) tình hình tổ chức và hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Sơn La (10/1998 - 6/2005). 64. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1999), tập 1, Nxb Văn hóa thông tin. 65. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 66. ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp lý (2003), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 02, Quyết định số 03 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật. 67. ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương, Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương (2005), Báo cáo sơ kết 4 năm thực hiện Kế hoạch liên tịch số 01/KHLT-TP-PTTH V/v phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trên hệ thống đài phát thanh, truyền hình (2001- 2005). 68. ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương (1998), Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ 1998 đến năm 2000 trong tỉnh Hải Dương. 69. ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương, Trường Chính trị tỉnh Hải Dương (2002), Báo cáo kết quả đề tài khoa học "Thực trạng và giải pháp thực hiện quy chế dân chủ ở xã của tỉnh Hải Dương". 70. ủy ban Nhân dân tỉnh Sơn La, Sở Tư pháp Sơn La (2003), Tham luận công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở vùng đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số. 71. Vài ý kiến về xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa của cán bộ trong bộ máy nhà nước. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa của nước ta (1983), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 72. Nguyễn Thuý Vân (2000), "Một số đặc điểm của ý thức pháp luật Việt Nam", Triết học, (5), tr.47. 73. Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (2003), Kỷ yếu khoa học - Đề tài cấp bộ 2002- 2003, Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay. 74. Viện Hàn lâm khoa học xã hội thuộc ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (1986), Những nguyên lý xây dựng Nhà nước Xô viết và pháp quyền, Nxb Sách giáo khoa, Hà Nội. 75. Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1994), Xã hội và pháp luật (nhiều tác giả), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 76. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển Việt Nam, Nxb Đà Nẵng. 77. Lê Hữu Xanh (1999), Tâm lý nông dân đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay.pdf
Luận văn liên quan