Luật hành chính cá nhân 2: Vi phạm hành chính
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
1. Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành vi vi phạm hành chính. 2
2. Các dấu hiệu khác như thời gian thực hiện hành vi phạm tội, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, công cụ phương tiện vi phạm, hậu quả và mối quan hệ nhân quả. 3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 5
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc do vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm và theo qui định của pháp luật bị xử phạt hành chính. Cũng như bất kì loại vi phạm pháp luật nào, vi phạm hành chính được cấu thành bởi bốn yếu tố bao gồm mặt khách quan, chủ quan, khách thể, chủ thể. Sau đây, em xin phân tích các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của vi phạm hành chính.
A, ĐẶT VẤN ĐỀ
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội và đang có xu thế ngày càng tăng lên. Tuy mức độ nguy hiểm của nó không cao so với tội phạm nhưng nó cũng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích chính đáng của cá nhân cũng như lợi ích chung của cả cộng đồng được pháp luật bảo vệ, và đó là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như không được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Xử phạt hành chính là một biện pháp hiệu quả góp phần khá quan trọng vào việc xử lý các vi phạm hành chính. Để cho việc xử phạt được khách quan, chính xác, đúng người, đúng vi phạm và đúng pháp luật thì việc xử phạt vi phạm hành chính phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc có tính bắt buộc do pháp luật quy định.
4 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2676 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật hành chính cá nhân 2: Vi phạm hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A, ĐẶT VẤN ĐỀ
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội và đang có xu thế ngày càng tăng lên. Tuy mức độ nguy hiểm của nó không cao so với tội phạm nhưng nó cũng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích chính đáng của cá nhân cũng như lợi ích chung của cả cộng đồng được pháp luật bảo vệ, và đó là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như không được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Xử phạt hành chính là một biện pháp hiệu quả góp phần khá quan trọng vào việc xử lý các vi phạm hành chính. Để cho việc xử phạt được khách quan, chính xác, đúng người, đúng vi phạm và đúng pháp luật thì việc xử phạt vi phạm hành chính phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc có tính bắt buộc do pháp luật quy định.
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Dựa trên tinh thần của Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ban hành ngày 2/7/2002, Pháp lệnh số: 31/2007/PL-UBTVQH11 về việc sửa đổi một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ban hành ngày 08/3/2007, thì việc xử phạt vi phạm hành chính phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, việc xử lý các vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật.
Đây là một nguyên tắc pháp chế trong xử lý các vi phạm hành chính, theo đó thì chỉ có những chức danh được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính mới có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, ngoài các chức danh này thì không một người nào có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và việc xử lý phải dựa trên các quy định của pháp luật.
Những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là những người được pháp luật trao quyền, thay mặt nhà nước xử phạt các chủ thể có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật hành chính, do vậy khi tiến hành xử phạt thì các chủ thể có thẩm quyền không được tùy tiện mà nhất thiết phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật.
Thứ hai, cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt khi có hành vi khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.
Đây chính là một tư tưởng quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, đồng thời cũng là một đảm bảo quan trọng cho việc thực hiện quyền con người đối với mỗi cá nhân trong xã hội.
Dựa trên tinh thần của pháp luật nói chung, một hành vi được gọi là trái pháp luật khi nó được quy định trong văn bản luật. Nếu pháp luật không có quy định thì một hành vi nào đó dù có ra sao thì vẫn không bị coi là vi phạm pháp luật. Tính trái pháp luật hay không chủ yếu phụ thuộc vào việc nhà làm luật đã dự trù được hành vi đó hay chưa và đã thể hiện nó vào các văn bản luật hay chưa. Trong pháp luật hành chính cũng vậy, một hành vi bị coi là vi phạm hành chính khi hành vi đó đã được pháp luật hành chính quy định, nếu pháp luật chưa quy định thì không có vi phạm hành chính xảy ra và đương nhiên không thể bị xử phạt hành chính đối với hành vi đó được.
Thứ ba, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng pháp luật.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải tích cực chủ động trong việc thanh tra, kiểm tra và thực thi công vụ để kịp thời phát hiện các vi phạm hành chính và một khi đã phát hiện thì phải tiến hành xử lý một cách nhanh chóng, công minh và triệt để. Hậu quả do hành vi vi phạm gây ra phải được khắc phục vì lợi ích của cộng đồng nhằm đảm bảo lập lại trật tự pháp luật, góp phần thiết lập kỉ cương, ổn định xã hội, phát triển kinh tế.
Đối với việc xử phạt, việc phát hiện kịp thời sẽ góp phần nhanh chóng vào việc xử lý, giải quyết các vi phạm đã xảy ra tạo lòng tin cho nhân dân. Đồng thời việc phát hiện sớm các vi phạm hành chính còn có ý nghĩa cực kì quan trọng khác, đó là việc góp phần vào việc thiết lập và duy trì trật tự quản lý nhà nước, có tác dụng tích cực trong phòng ngừa và chống vi phạm hành chính, giáo dục người dân trong xã hội có ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện các quy tắc của đời sống cộng đồng.
Thứ tư, một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt.
Nếu một hành vi vi phạm đã bị một người có thẩm quyền lập biên bản xử phạt hoặc ra quyết định xử phạt thì không được lập biên bản hoặc ra quyết định xử phạt lần thứ hai đối với cùng một hành vi đó nữa. Khái niệm xử phạt lần thứ hai và khái niệm xử phạt khi tái phạm tuy có nhiều điểm giống nhau, nhưng đó không cùng loại. Tái phạm là một hành vi vi phạm khác có tính chất cùng loại với hành vi vi phạm mà chủ thể đã từng bị xử lý, trong khi đó thì khái niệm kia chỉ có một hành vi vi phạm tồn tại.
Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt thì không đồng thời áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đối với người thực hiện hành vi vi phạm này. Một hành vi vi phạm hành chính đã bị ra quyết định xử phạt, nếu sau này phát hiện hành vi đó có các dấu hiệu của tội phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải hủy quyết định xử phạt hành chính trước đây, rồi mới chuyển hồ sơ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm, thì người đó sẽ bị xử phạt về từng hành vi, sau đó tổng hợp lại thành hình phạt chung.
Trường hợp nhiều người cùng thực hiện một vi phạm hành chính thì mỗi người đều bị xử phạt vì vi phạm hành chính đó tổng hợp của tất cả các hành vi vi phạm của mỗi người.
Thứ năm, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm để quyết định hình thức, biện pháp xử phạt thích hợp.
Nguyên tắc này đòi hỏi người có thẩm quyển xử phạt trước khi ra quyết định xử phạt cần phải phân tích, làm rõ mức độ cũng như tính chất, các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ đối với từng hành vi vi phạm hành chính cụ thể. Nếu vi phạm do nhiều người gây ra thì phải đánh giá chính xác mức độ lỗi của mỗi người tham gia thực hiện vi phạm hành chính đó để từ đó có thể ra các biện pháp xử phạt hợp lý cho từng người. Và tất cả các tình tiết đó đều phải được ghi trong biên bản xử phạt.
Thứ sáu, không xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng kiểm điều khiển hành vi của mình.
- Tình thế cấp thiết là tình thế của một người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác đã phải gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn.
- Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của mình hay của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Chẳng hạn như hành vi chống trả người đang có hành vi tấn công mình hay tấn công người khác thì hành vi này không bị coi là vi phạm hành chính và không bị xử phạt hành chính. Tuy nhiên cần chú ý đó là hành vi chống trả lại phải nằm trong giới hạn phòng vệ chính đáng. Nếu vượt quá phạm vi phòng vệ chính đáng thì người này có thể vẫn bị xử lý về vi phạm hành chính.
- Sự kiện bất ngờ ở đây là trường hợp chủ thể có hành vi vi phạm không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả xảy ra của hành vi đó.
Như vậy, theo như nguyên tắc này, trường hợp nếu có vi phạm hành chính xảy ra thuộc một trong các trường hợp trên thì người thực hiện hành vi vi phạm tuy về mặt khách quan thì họ chính là người gây ra thiệt hạ, có hành vi vi phạm, nhưng theo quy định của pháp luật thì họ không bị xử lý hành chính và không áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính đối với họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, “Giáo trình luật hành chính Việt Nam” – Trường đại học Luật HN, 2008
2, “Bình luận khoa học pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002” – Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2005.
3, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
4, Pháp lệnh số: 31/2007/PL-UBTVQH11 về việc sửa đổi một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ban hành ngày 08/3/2007
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- camp225 nhamp226n 2 hamp224nh champ237nh.doc
- h258amp160nh ch258amp173nh c258amp161 nh258amp162n 2.doc