Luật Hiến Pháp - Vị trí, tính chất, vai trò của quốc hội qua các thời kì

Lời nói đầuA.ĐẶT VẤN ĐỀ B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.VỊ TRÍ,TÍNH CHẤT, VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI QUA CÁC THỜI KÌ PHÁT TRIỂN 1 1.Thời kì 1946-1960 .1 2.Thời kì 1960-1980 1 3.Thời kì 1980-1992 2 4.Thời kì từ năm 1992 đến nay .2 II.QUỐC HỘI LÀ CƠ QUAN ĐẠI BIỂU CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN .2 1.Quốc Hội do toàn dân bầu ra 3 2. Quốc Hội thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao vì lợi ích của nhân dân .3 3.Quốc Hội chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân 5 III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN TỐT NHIỆM VỤ CỦA QUỐC HỘI .6 1.Một số hạn chế còn tồn tại và giải pháp khắc phục 6 2.Một số phương hướng xây dựng, hoàn thiện nhằm nâng cao vai trò của Quốc Hội .7 IV. KẾT LUẬN 8 Tài liệu tham khảo

docx8 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3234 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật Hiến Pháp - Vị trí, tính chất, vai trò của quốc hội qua các thời kì, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.ĐẶT VẤN ĐỀ Sáu mươi năm qua, với 11 khóa, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước, Quốc hội nước ta đã xây dựng và thông qua 4 bản Hiến pháp.Tất cả các bản Hiến pháp đều là sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước, quyết tâm tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong từng thời kỳ. Các Hiến pháp không phủ định nhau mà kế thừa và phát triển Hiến pháp trước, với nội dung thể hiện sâu sắc ý chí và nguyện vọng của nhân dân, vừa thấm đượm những giá trị vốn có của dân tộc ta, vừa tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại. Trên cơ sở các Hiến pháp, Quốc hội các khóa đã lần lượt được nhân dân bầu ra, với tổ chức và hoạt động không ngừng được đổi mới, hiệu lực và hiệu quả hoạt động ngày càng nâng cao, được nhân dân quan tâm, đồng tình, ủng hộ .Qua đó thể hiện tính đại diện cho nhân dân cả nước của Quốc Hội. B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.VỊ TRÍ,TÍNH CHẤT, VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI QUA CÁC THỜI KÌ PHÁT TRIỂN. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, Quốc hội đã trải qua gần XI khóa hoạt động và có thể chia thành bốn thời kì căn cứ vào bốn bản Hiến pháp mà Quốc hội đã ban hành như sau: 1.Thời kì 1946-1960 Quốc hội khóa I (1946-1960) với 12 kỳ họp đã có những đóng góp to lớn vào việc xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa từ những năm tháng đầu tiên sau khi cách mạng tháng tám thành công, Quốc hội đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Quốc hội đã thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng bộ máy nhà nước, thông qua bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Đánh giá về công lao to lớn của Quốc hội khóa I, tại kì họp thứ 12, Chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã nói: “Quốc hội ta đã hết lòng vì dân,vì nước, đã làm trọn một cách vẻ vang nhiệm vụ của những người đại biểu của nhân dân”. Nội dung bản Hiến pháp 1946 đã tuyên bố tất cả quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực bằng cách bầu ra cơ quan đại diện quyền lực. Do đó, ngay từ Hiến pháp năm 1946, nhân dân ta đã thực hiện quyền làm chủ đất nước bằng cả hình thức dân chủ đại diện và hình thức dân chủ trực tiếp. Cơ quan đại diện quyền lực cao nhất của nhân dân là Nghị viện nhân dân. 2.Thời kì 1960-1980 Trong thời kì này, Quốc hội hoạt động theo Hiến pháp 1959 và trải qua 5 khóa hoạt động: Quốc hội khóa II (1960-1964), khóa III ( 1964-1971), khóa IV ( 1971-1975), khóa V (1975- 1976), khóa VI ( 1976-1981). Hiến pháp 1959 quy định rõ ràng và đầy đủ hơn trước về vị trí, vai trò của Quốc hội. Theo đó, Quốc hội có 17 nhiệm vụ, quyền hạn như làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm pháp luật, giám sát việc thi hành Hiến pháp, vv…Hiến pháp 1959 tiếp tục khẳng định: “ Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân” và “Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”( Điều 4). Trong giai đoạn này, Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng Chủ nghĩa xã hội, kháng chiến dành thắng lợi, thống nhất đất nước. 3.Thời kì 1980-1992 Đây là thời kì Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp năm 1980, theo đó Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Quốc Hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. 4.Thời kì từ năm 1992 đến nay Đây là thời kì Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1992. Để thể hiện sự tập trung ( thống nhất) quyền lực, Hiến pháp 1992 khẳng định Quốc hội vẫn là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Ngoài ra trong tổ chức hoạt động của Quốc hội đã có những đổi mới cơ bản, khắc phục tính hình thức, hạn chế trong hoạt động ở các khóa Quốc hội trước và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. II.QUỐC HỘI LÀ CƠ QUAN ĐẠI BIỂU CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN. Theo điều 83, Hiến pháp 1992, Quốc Hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước ta. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất đã khẳng định Nhà Nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa việt nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Đồng thời Hiến Pháp cũng xác định trách nhiệm của nhà nước là bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, mọi người đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Xuất phát từ bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiến pháp đã chỉ ra cách thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước. Điều 6 Hiến Pháp 1992 quy định:” Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc Hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Như vậy, có thể khẳng định rằng, theo Hiến Pháp thì nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, nhưng Quốc hộ là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. 1.Quốc Hội do toàn dân bầu ra. Quốc hội Việt Nam là cơ quan duy nhất do toàn dân trực tiếp bầu ra dựa trên nguyên tắc đã được Hiến pháp quy định đó là phổ thông, đầu phiếu, bình đẳng, và bỏ phiếu kín. Thông qua bầu cử, cử tri cả nước lựa chọn những đại biểu đại diện cho tiếng nói và nguyện vọng của mình để hình thành lên Quốc hội. Việc người dân tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội thể hiện tính dân chủ trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Các đại biểu Quốc hội do cử tri trực tiếp bầu ra với nhiệm kì 5 năm. Hệ thống bầu cử ở đây chỉ áp dụng chế độ đại cử tri hoặc chế độ đại diện theo các cơ cấu chính trị- xã hội như ở nhiều nước khác. Quốc hội có cơ cấu thành phần phản ánh sự đoàn kết rộng rãi,theo quy định của Hiến pháp và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, tất cả các công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và từ đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội đại diện cho các tầng lớp nhân dân, từ đại diện của nông dân đến đại diện của đội ngũ trí thức, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã hội - nghề nghiệp, đại diện cho các giới .v.v…Tính đại diện cao nhất của Quốc hội được thể hiện không chỉ ở thành phần, cơ cấu đại biểu Quốc hội mà còn được thể hiện ở vai trò của đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ:” Các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một Đảng phái nào cả mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Quốc hội là tiêu biểu cho ý chí thống nhất của toàn dân tộc ta, một ý chí sắt đá không gì không gì lay chuyển nổi”. Quốc hội Việt Nam bao gồm các đại biểu là người đại diện cho ý chí , nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho ý chí, nguyện vọng cho nhân dân cả nước. Hoạt động của đại biểu tại kỳ họp của Quốc hội, phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các hoạt động khác đều là hoạt động đại diện cho cử tri đã bầu ra mình và cử tri cả nước. 2. Quốc Hội thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao vì lợi ích của nhân dân. Nền dân chủ nhà nước ta là nền dân chủ mà ở đó, người dân có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, có quyền tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Cách thức để nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình là tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, hình thành nên Quốc hội. Qua cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội , nhân dân cả nước lựa chọn những người có tài, có đức hợp thành Quốc hội ( người đại diện) để thay mặt nhân dân( người được đại diện) thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Hiến Pháp. Với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân , Quốc hội được Hiến Pháp xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và được giao ba chức năng quan trọng đó là: Lập hiến và lập pháp; quyết định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, nhiệm vụ kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những chính sách đối nội và đối ngoại ; quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước ( bao gồm tất cả các hoạt động của Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp). Ba chức năng này đã được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể tại điều 84 Hiến Pháp 1992. Với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội có trách nhiệm cao cả là thay mặt nhân dân không chỉ thực hiện đúng và đầy đủ những nhiệm vụ và quyền hạn được giao, mà còn phải một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Để làm được điều đó thì đại biểu Quốc hội phải lắng nghe ý kiến của nhân dân, liên hệ chặt chẽ với cử tri. Thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan. Xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó. Các đại biểu Quốc hội phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân để quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ , quyền hạn của Quốc hội. Để góp phần bảo đảm cho Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thực hiện tốt thuộc tính đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Điều 4 Luật tổ chức Quốc hội quy định, Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Ngoài ra, để có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ , quyền hạn được giao, điều 98 Hiến Pháp 1992 quy định cho đại biểu quốc hội có các quyền như sau. - Trình kiến nghị về luật và các dự án luật ra trước Quốc hội. - Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kì họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc tra lời bằng văn bản. - Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách của các cơ quan , tổ chức đơn vị này có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định. - Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ , thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định. Ngoài ra Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ , các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của nhà nước có trách nhiệm cung cấp tài liệu cần thiết mà đại biểu Quốc hội yêu cầu và tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu. Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Điều đó khẳng định nhân dân Việt Nam là người chủ thực sự của đất nước. Tuy nhiên, người dân không trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý đất nước và điều hành xã hội, mà Quốc hội thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, thành lập các cơ quan nhà nước và bầu ra những người lãnh đạo cao nhất của đất nước. Quyền lực nhà nước được xác định là thuộc về nhân dân nhưng nhân dân không trực tiếp sử dụng quyền lực đó mà trao cho Quốc hội, chính vì vậy Quốc hội là cơ quan có quyền lực cao nhất. Quyền lực của Quốc hội là quyền lực của nhân dân - những người làm chủ đất nước trao cho. Khi được Quốc hội thành lập, các cơ quan nhà nước hoạt động với một mục tiêu duy nhất là phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 3. Quốc Hội chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân Với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân( người được đại diện) về việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao.Điều đó đã được thực hiện trong Hiến Pháp cụ thể là đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân; chịu sự giám sát của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu kiến nghị của cử tri . Ngoài ra, để tạo điều kiện cho nhân dân có thể giám sát được hoạt động của Quốc hội, điều 66 Luật tổ chức Quốc hội quy định Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết , đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín. Trên thực tế, Quốc hội và các đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân thông qua việc bảo đảm cho nhân dân theo dõi quá trình làm việc của Quốc hội( như tham dự các phiên họp , truyền hình trực tiếp các phiên họp của toàn thể Quốc hội, đặc biệt là phiên họp chất vấn của Quốc hội) thông qua việc đại biểu Quốc hội phải báo cáo các hoạt động tại đơn vị bầu cử của mình bầu ra mình. Do Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị, quyết định theo đa số và nhiệm vụ chính của Quốc hội là làm Hiến Pháp, nên việc chịu trách nhiệm của Quốc hội thường là chịu trách nhiệm tập thể về các chủ trương, đường lối, chính sách được thực hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành. Trách nhiệm này của Quốc hội là trách nhiệm chính trị trị trước nhân dân. Không giống như các nước khác như Anh, Cộng Hòa Liên Bang Đức…Hiến Pháp Việt Nam không quy định đại biểu Quốc hội có quyền không bị truy tố vì phát biểu hoặc bỏ phiếu trong Quốc hội. Nhưng nếu các đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì cử tri có thể bãi miễn. III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN TỐT NHIỆM VỤ CỦA QUỐC HỘI 1.Một số hạn chế còn tồn tại và giải pháp khắc phục. Như vậy, thuộc tính đại diện cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân đã được ghi nhận trong Hiến Pháp Nước ta. Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân , Quốc hội Việt Nam cũng giống như tất cả các Nghị Viện trên thế giới đều có thuộc tính đại diện cho nhân dân. Thuộc tính đại diện cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân của Quốc hội là chức năng quan trọng nhất mà đại biểu phải thực hiện, vì Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện cho ý chí , nguyện vọng nhân dân. Nếu không thực hiện được chức năng này thì việc vận hành các chức năng khác của Quốc hội như lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước , giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước sẽ bị sai lệch, vì không phản ánh đúng nguyện vọng, ý chí, lợi ích của nhân dân. Để góp phần làm tốt là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân trước hết đòi hỏi các đại biểu Quốc hội phải có trình độ, năng lực đại diện. Do phần lớn các đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm và Quốc hội họp thường lệ mỗi năm 2 kì, mỗi kì họp thường chỉ kéo dài khoảng một tháng nên quỹ thời gian của các đại biểu này dành cho việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội là không nhiều. Thêm vào đó, các đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm chức vụ trong cơ quan hành chính hoặc tư pháp cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Việc kiêm nhiệm chức vụ hành chính hoặc tư pháp không chỉ làm cho đại biểu Quốc hội “ quá tải” mà còn có thể dẫn tới sự xung đột lợi ích trong việc thực hiện chức năng giám sát vào trong việc thực hiện chức năng lập pháp. Trong trường hợp xung đột lợi ích thì các đại biểu Quốc hội khó có thể phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân địa phương bầu ra mình cũng như nhân dân cả nước. Để khắc phục tình trạng này, cần nghiên cứu tăng dần số đại biểu Quốc hôi chuyên trách( hiên nay số đại biểu Quốc hội khoảng từ 400- 500 đại biểu) theo hướng xây dựng một Quốc hội chuyên nghiệp. Về cơ bản đã làm đại biểu Quốc hội thì thôi không làm quan chức hành chính nữa trừ các chức danh thuộc hành pháp chính trị như Thủ tướng, Phó thủ tướng và một số Bộ trưởng. Việc chia Quốc hội thành các đoàn đại biểu Quốc hội theo đơn vị tỉnh, thành phố và việc mỗi tỉnh còn có một số đại biểu Quốc hội chuyên trách làm cho Quốc hội trở thành một cơ quan đại diện xong trùng, vừa đại diện cho nhân dân cả nước vừa đại diện cho các đơn vị hành chính tỉnh. Do đó khi có sự xung đột lợi ích giữa trung ương và địa phương thì đại phương thường giành thắng ở Quốc hội, hoặc khi đại biểu Quốc hội của tỉnh muốn chất vấn các Bộ trưởng thì tỉnh sẽ không cho phép đại biểu của mình làm hỏng quan hệ tốt đẹp của tỉnh với các Bộ trưởng, vì các dự án của tỉnh có thể bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung quy định của Hiến Pháp về việc cho phép cử tri bãi miễn đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của “ nhân dân” để tránh việc lạm dụng quy định này nhằm chống lại những đại biểu Quốc hội đặt lợi ích của nhân dân cả nước trên lợi ích của nhân dân địa phương trong trường hợp có sự xung đột giữa giữa trung ương và địa phương. Hiến Pháp và Luật không quy định đại biểu Quốc hội có quyền không bị truy tố vì lý do phát biểu hoặc bỏ phiếu ở Quốc hội . Trên thực tế cho tới nay, chưa có đại biểu Quốc hội nào bị truy tố vì lý do phát biểu hoặc bỏ phiếu trong Quốc hội. Để góp phần giúp các đại biểu Quốc hội là những người đại diện cho ý chí, nguyện vọng nhân dân cả nước khi phát biểu hoặc biểu quyết trong Quốc hội cần xem xét, ghi nhận ngay trong Hiến Pháp quyền của đại biểu Quốc hội là không bị truy tố hoặc biểu quyết trong Quốc hội như đã được quy định tại điều 40 Hiến Pháp 1946( Nghị viện không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong Nghi viện). Ngoài ra, một vấn đề đáng được quan tâm là việc quy định cho Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp vừa là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp. Theo đó Quốc hội vừa làm luật, vừa giám sát, quyết định về việc liệu một đạo luật do Quốc hội ban hành có phù hợp với Hiến Pháp hay không….Như vậy” còn có sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp và quyền tài phán ( quyền tư pháp) trong hoạt động của Quốc hội. Trong khi đó đại đa số đại biểu Quốc hội lại hoạt động kiêm nhiệm. Trong Hiến Pháp quy định” các đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật ra Quốc hội”. Nhưng cho tới nay, việc trình dự án luật của các đại biểu còn rất hạn chế..Việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội vẫn còn là một vấn đề được cử tri cả nước quan tâm. Bởi vì qua nhiều nhiệm kì Quốc hội, việc tiếp xúc cử tri còn biểu hiện nhiều tính hình thức. Do vậy đại biểu Quốc hội cần phải sát dân hơn , không chỉ nơi bầu ra mình mà còn phải tiếp xúc cư tri của từng thành phần trong nhân dân, nông dân, công nhân , tri thức, doanh nhân, công chức… 2.Một số phương hướng xây dựng, hoàn thiện nhằm nâng cao vai trò của Quốc Hội. Phấn đấu xây dựng một Quốc hội thực thi đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định, xứng đáng với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó đòi hỏi Quốc hội phải mạnh về lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao. Phương thức hoạt động của Quốc hội phải dựa trên hai trụ cột chính là ủy ban và đại biểu Quốc hội. Vai trò của các Ủy ban và Hội đồng Dân tộc phải được tăng cường. Coi trọng vai trò của các cá nhân đại biểu Quốc hội bằng cách phát huy trí tuệ chuyên sâu, chuyên trách và trách nhiệm của đại biểu trước nhân dân. Đồng thời, phải có sự đổi mới kỳ họp của Quốc hội để chuyển từ tham luận, phát biểu, nêu vấn đề sang một Quốc hội tranh luận và quyết định chủ yếu theo hình thức luật tại các kỳ họp,cụ thể : Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội, tạo điều kiện để Quốc hội làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định nhằm xây dựng một Quốc hội mạnh, thực quyền. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng dân chủ hóa, tạo mọi điều kiện để các kỳ họp của Quốc hội diễn ra thực sự dân chủ; cải tiến các hình thức lấy ý kiến nhân dân đối với các dự án luật và các hình thức tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, tăng cường mối quan hệ gắn bó và trách nhiệm lẫn nhau giữa đại biểu Quốc hội và cử tri. Nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội. Tăng cường hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Các cơ quan này phải chịu trách nhiệm chính về những vấn đề trong các báo cáo của mình trình ra Quốc hội, đặc biệt là các báo cáo thẩm tra. Trọng tâm hoạt động của Quốc hội phải chuyển từ hoạt động của ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội sang hoạt động chủ yếu tại ủy ban, Hội đồng Dân tộc và quyết định tại kỳ họp toàn thể của Quốc hội. Thành lập thêm một số ủy ban của Quốc hội để tạo điều kiện cho các ủy ban chuyên trách hóa hoạt động của mình theo hướng chuyên sâu về các lĩnh vực như tư pháp, tài chính, ngân sách... Kiện toàn các cơ quan tham mưu giúp việc cho Quốc hội trở thành một thiết chế mạnh, có tính ổn định. IV. KẾT LUẬN Tiếp tục những thành tựu to lớn qua 60 năm hình thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, với sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan hành pháp và tư pháp, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, Quốc hội nước ta nhất định sẽ tiếp tục đổi mới về tổ chức và hoạt động, thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp quy định trên mọi phương diện, xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân cả nước. 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxLuật Hiến Pháp - Vị trí, tính chất, vai trò của quốc hội qua các thời kì.docx