Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển

Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật Thuỵ Điển (Luật số 729 ngày 30/12/1960, sửa đổi, bổ sung ngày 1/4/2000) Chương I Đối tượng và phạm vi bảo hộ Điều 1: Bất kỳ người nào sáng tạo ra tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật đều có quyền tác giả đối với tác phẩm đó, bất kể đó là: 1. Sự thể hiện mang tính hư cấu hoặc miêu tả trong bài viết hoặc bài nói; 2. Chương trình máy tính; 3. Tác phẩm âm nhạc hoặc tác phẩm kịch; 4. Tác phẩm điện ảnh; 5. Tác phẩm nhiếp ảnh hoặc các tác phẩm mỹ thuật khác; 6. Tác phẩm kiến trúc hoặc tác phẩm mỹ thuật ứng dụng; 7. Tác phẩm được thể hiện dưới hình thức khác. Bản đồ và những loại tác phẩm thiết kế mang tính mô tả khác như bản vẽ, trạm trổ, hoặc hình thức không gian ba chiều cũng được coi là tác phẩm văn học. Những điều được quy định trong luật này liên quan đến chương trình máy tính sẽ được áp dụng với những sửa đổi thích hợp cho những tài liệu dự phòng của chương trình máy tính. Điều 2. Với những giới hạn được nêu dưới đây, quyền tác giả bao gồm quyền độc quyền kiểm soát việc sao chép và cung cấp bản gốc hoặc bản sửa đổi của tác phẩm tới công chúng, việc dịch và cải biên chuyển thể tác phẩm sang loại hình văn học hoặc nghệ thuật khác, hoặc bằng các phương tiện kỹ thuật khác. Cũng được coi là một bản sao khi những bản ghi tác phẩm được làm bằng các vật liệu có thể sao chép được. Tác phẩm được cung cấp tới công chúng bằng hình thức biểu diễn công cộng, bán, cho thuê, cho mượn bản sao tác phẩm hoặc phân phối dưới các hình thức khác hoặc trưng bày công cộng. Buổi biểu diễn được thực hiện trong khuôn khổ của các hoạt động thương mại phục vụ cho một nhóm người tương đối rộng có quan hệ thân thiết cũng được coi là biểu diễn công cộng. Điều 3. Khi tác phẩm được sao chép hoặc được cung cấp tới công chúng thì phải nêu tên tác giả của tác phẩm theo phạm vi và cách thức thông thường. Không được thay đổi tác phẩm làm ảnh hưởng đến danh tiếng và uy tín cá nhân của tác giả, và cũng không được cung cấp tới công chúng theo cách thức nêu trên. Tác giả có thể từ bỏ quyền của mình theo Điều này chỉ khi liên quan đến việc sử dụng được giới hạn cũng như tới tính chất và phạm vi của chúng. Điều 4. Người thực hiện việc dịch hoặc phóng tác một tác phẩm hoặc thay đổi tác phẩm đó sang một loại hình tác phẩm văn học nghệ thuật khác sẽ có quyền tác giả đối với tác phẩm ở loại hình mới đó, nhưng quyền kiểm soát của người này đối với tác phẩm mới phụ thuộc vào quyền tác giả tác phẩm gốc. Nếu một người, không bị ràng buộc với tác phẩm khác, tạo ra một tác phẩm mới và độc lập, quyền tác giả của họ sẽ độc lập với quyền tác giả của tác phẩm gốc. Điều 5. Một người, bằng cách phối hợp các tác phẩm hoặc các phần tác phẩm, sáng tạo ra một tác phẩm văn học nghệ thuật hợp tuyển sẽ có quyền tác giả đối với tác phẩm đó, nhưng quyền của người này sẽ không được làm ảnh hưởng đến các quyền của các tác phẩm cấu thành. Điều 6. Nếu một tác phẩm có hai hoặc nhiều tác giả, phần đóng góp của họ không tạo thành các tác phẩm độc lập, quyền tác giả thuộc về các đồng tác giả. Tuy nhiên, mỗi người trong số họ đều có quyền kiện việc vi phạm bản quyền tác phẩm. Điều 7. Người có tên, bút danh thông thường hoặc chữ ký xuất hiện trên bản sao của tác phẩm hoặc khi tác phẩm được cung cấp tới công chúng, nếu không có bằng chứng ngược lại, thì được coi là tác giả của tác phẩm đó. Nếu tác phẩm được công bố mà không có tên của tác giả xuất hiện theo như cách nêu tại đoạn 1, thì người phụ trách xuất bản hoặc nhà xuất bản nếu có tên ghi trên tác phẩm, sẽ đại diện cho tác giả cho tới khi tên của tác giả được nêu trong một xuất bản phẩm mới hoặc trong một thông báo gửi tới Bộ Tư Pháp. Điều 8.Tác phẩm được coi là đã cung cấp tới công chúng khi nó đã sẵn sàng cung cấp tới công chúng một cách hợp pháp. Tác phẩm được coi là đã công bố khi bản sao của tác phẩm, với sự đồng ý của tác giả, được đưa ra bán hoặc phân phối tới công chúng dưới các hình thức khác. Điều 9. Quyền tác giả không áp dụng đối với: 1. Luật và các quy định khác; 2. Các quyết định của cơ quan công quyền; 3. Các báo cáo của cơ quan công quyền Thuỵ Điển; 4. Bản dịch chính thức của các văn bản đã nêu tại khoản 1 đến 3. Tuy nhiên, quyền tác giả áp dụng đối với các tác phẩm thuộc các thể loại sau đây khi nó là một phần của các tài liệu được nêu trong Đoạn 1: 1. Bản đồ; 2. Tác phẩm đồ hoạ, hội hoạ, trạm trổ; 3. Tác phẩm âm nhạc; hoặc 4. Tác phẩm thơ ca; Quyền tác giả cũng áp dụng đối với những tác phẩm tạo nên một phần trong phụ lục của quyết định của cơ quan công quyền, nếu quyết định này liên quan đến quyền truy cập tài liệu công cộng khi mà tác phẩm tạo nên phần đó. Điều 10. Quyền tác giả tồn tại đối với tác phẩm thậm chí nó đã được đăng ký dưới dạng kiểu dáng. Quyền tác giả không tồn tại đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp. Các quy định đặc biệt áp dụng cho các quyền đối với các thiết kế này.

pdf36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2597 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3. Những gì được nêu ra trong buổi chất vẫn như được nêu trong đoạn 1(4), không được sử dụng trên sóng phát thanh và truyền hình. Điều 26a. Mọi người đều được phép sử dụng các tác phẩm là các phần của những tài liệu được nêu tại Điều 9, đoạn 1, và thuộc các thể loại được nêu tại Điều 9, đoạn 2 mục 2 đến 4. Tuy nhiên, không áp dụng đối với những tác phẩm được nêu trong Điều 9 đoạn 3. Tác giả được quyền hưởng tiền bản quyền trừ trường hợp việc sử dụng liên quan đến: 1. Các hoạt động của cơ quan Nhà nước; 2. Báo cáo về trình tự luật pháp hoặc các vụ việc tố tụng mà trong đó tác phẩm xuất hiện và tác phẩm chỉ được sử dụng trong phạm vi cần thiết vì mục đích thông tin. Mọi người đều có quyền sử dụng các tài liệu được chuẩn bị bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền Thuỵ Điển nhưng nó không phải là các tài liệu đã được đề cập tại Điều 9, đoạn 1. Đoạn 2 không áp dụng đối với: 1. bản đồ, 2. mẫu kỹ thuật, 3. chương trình máy tính, 4. các tác phẩm được tạo ra nhằm phục vụ mục đích giáo dục, 5. các tác phẩm là kết quả của các nghiên cứu khoa học, 6. tác phẩm đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, 7. tác phẩm âm nhạc, 8. tác phẩm thơ, hoặc 9. bản sao các tác phẩm được cung cấp tới công chúng thông qua cơ quan nhà nước liên quan đến các hoạt động thương mại. Điều 26b. Mặc dù bảo hộ quyền tác giả nhưng những văn bản nhà nước vẫn được cung cấp tới công chúng như quy định tại Chương 2 Luật Tự do Báo chí. Quyền tác giả không ngăn cản việc sử dụng tác phẩm trong việc quản lý của cơ quan tư pháp hoặc công an. Sự thay đổi các công trình xây dựng và đồ trang trí nội thất Điều 26c. Chủ sở hữu của công trình xây dựng hoặc đồ trang trí nội thất có quyền sửa đổi nó mà không cần có sự đồng ý của tác giả. Các quy định đặc biệt liên quan đến phát thanh và truyền hình Điều 26d. Các tổ chức phát thanh và truyền hình trong những trường hợp đặc biệt do Chính phủ quyết định được quyền phát những tác phẩm văn học và âm nhạc đã công bố và những tác phẩm mỹ thuật đã cung cấp tới công chúng, với điều kiện là có giấy phép tập thể mở rộng áp dụng theo Điều 26i. Những quy định của đoạn 1 không áp dụng đối với những tác phẩm kịch, cũng không áp dụng đối với những tác phẩm khác nếu tác giả đã cấm việc phát sóng này hoặc có những lý do đặc biệt để cho rằng tác giả sẽ phản đối việc phát sóng. Những quy định của đoạn 1 áp dụng đối với việc truyền lại nêu tại Điều 26f. Đối với việc truyền qua vệ tinh thì giấy phép tập thể mở rộng chỉ áp dụng nếu tổ chức phát qua vệ tinh thực hiện việc phát đồng thời với việc phát của nhà truyền phát ở mặt đất. Điều 26e. Tổ chức phát thanh hoặc truyền hình có quyền phát sóng tác phẩm thì cũng có quyền ghi tác phẩm trên chất liệu có thể nhận biết được nếu việc làm này được thực hiện nhằm 1. Sử dụng trong các buổi phát sóng của họ một vài lần trong một khoảng thời gian nhất định, 2. Bảo đảm các bằng chứng liên quan đến nội dung của buổi phát sóng, hoặc 3. Tạo thuận lợi cho cơ quan chính phủ thực hiện sự giám sát các hoạt động phát sóng. Các bản ghi được thực hiện phù hợp với những quy định của đoạn 1, mục 2 và 3 , chỉ có thể được sử dụng nhằm các mục đích đã nêu ở đây. Tuy nhiên, các bản ghi này có giá trị tư liệu có thể được bảo vệ trong cơ quan lưu trữ bản ghi âm và ghi hình. Cơ quan chính phủ giám sát việc quảng cáo trên sóng phát thanh, truyền hình được quyền sử dụng chương trình phát sóng trong phạm vi cần thiết cho mục đích thực hiện nhiệm vụ của mình. Điều 26f. Mọi người đều có quyền phân phối tới công chúng một cách đồng thời và dưới một hình thức không đổi, thông qua các phương tiện vô tuyến hoặc cáp (truyền phát lại), những tác phẩm trong buổi phát thanh và truyền hình, nếu giấy phép tập thể mở rộng áp dụng theo Điều 26i. Những quy định của Đoạn 1 không áp dụng đối với những tác phẩm mà quyền phát lại thuộc về tổ chức phát thanh truyền hình thực hiện việc phát lần đầu. Những quy định đặc biệt về chương trình máy tính Điều 26g. Bất kỳ người nào có được quyền sử dụng chương trình máy tính thì được quyền làm bản sao chương trình và tiến hành các cải biên chuyển thể cần thiết phục vụ cho mục đích sử dụng của bản thân người đó. Điều này cũng áp dụng đối với các chỉnh sửa lỗi. Bất kỳ người nào có quyền sử dụng chương trình máy tính thì được quyền làm bản sao dự phòng của chương trình đó, nếu điều này là cần thiết cho mục đích sử dụng chương trình. Các bản sao được làm trên cơ sở các quy định của đoạn 1 và 2 không được sử dụng cho các mục đích khác, và hơn thế nữa cũng không thể được sử dụng khi quyền sử dụng chương trình đã kết thúc. Bất kỳ người nào có quyền sử dụng chương trình máy tính thì được quyền tìm hiểu, nghiên cứu hoặc kiểm tra chức năng của chương trình nhằm mục đích biết rõ về các ý tưởng và các nguyên tắc giải đáp cho các chi tiết của chương trình. Điều này áp dụng với điều kiện là các hành vi được tiến hành liên quan đến việc chuyển các lệnh chương trình hoặc dữ liệu từ một đĩa vào bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM) của máy tính, việc hiển thị lên màn hình, việc xử lý ( sự thực hiện các chỉ lệnh của chương trình bằng đơn vị xử lý trung tâm(CPU) của máy tính, để biến đổi dữ liệu theo một số cách như phân loại nó, lựa chọn ra một số trong nó phù hợp với tiêu chuẩn đã định, hoặc thực hiện các tính toán số học với nó), việc truyền phát hoặc việc lưu giữ chương trình mà họ được thực hiện. Bất kỳ ai có quyền sử dụng dữ liệu thì cũng có quyền sắp xếp các dữ liệu theo cách thức cần thiết để người đó có thể sử dụng dữ liệu phục vụ cho mục đích sử dụng của mình. Các điều khoản hợp đồng giới hạn quyền của người sử dụng theo các đoạn 2, 4 và 5 không có hiệu lực. Điều 26h. Việc sao chép mã của chương trình hoặc dịch mã của chương trình là được phép nếu những hành vi này được yêu cầu nhằm đạt được sự tương thích giữa chương trình này và chương trình khác, tuy nhiên phải đáp ứng các điều kiện sau: 1. Các hành vi được thực hiện bởi một người có quyền sử dụng chương trình, hoặc bởi người được người có quyền uỷ quyền thực hiện các hành vi này, 2. Các thông tin cần thiết để đạt được sự tương thích đã không có sẵn để cung cấp trước cho những người nêu tại mục 1, 3. Các hành vi bị hạn chế với đối với các phần này của chương trình gốc là cần thiết để đạt được sự tương thích. Những quy định của đoạn 1 không cho phép các thông tin 1. được sử dụng cho mục đích khác ngoài việc đạt được sự tương thích như mong đợi, 2. được cung cấp tới những người khác trừ khi điều này là cần thiết để đạt được sự tương thích như mong đợi, 3. được sử dụng để phát triển, sản xuất hoặc đưa ra thị trường chương trình máy tính tương tự cơ bản về hình thức thể hiện với một chương trình đã được bảo hộ, hoặc 4. được sử dụng cho các hành vi khác hàm chứa sự vi phạm quyền tác giả. Các điều khoản hợp đồng hạn chế các quyền của người sử dụng theo đoạn này sẽ không có hiệu lực. Những quy định chung liên quan đến Giấy phép tập thể mở rộng. Điều 26i. Giấy phép tập thể mở rộng được nêu trong Điều 13, 26d và 26f áp dụng đối với việc sử dụng tác phẩm trong những trường hợp đặc biệt, khi một thoả thuận về việc sử dụng được ký kết với một tổ chức đại diện cho phần lớn tác giả Thuỵ Điển trong lĩnh vực có liên quan. Giấy phép tập thể mở rộng cho phép người sử dụng có quyền sử dụng tác phẩm dưới những loại hình được nêu trong thoả thuận kể cả trong thực tế các tác giả của những tác phẩm này không được đại diện bởi tổ chức. Để một tác phẩm được sử dụng theo Điều 13, thoả thuận phải được ký kết với người tiến hành hoạt động giáo dục có tổ chức. Tác giả có quyền nhận thù lao khi tác phẩm được sử dụng theo Điều 26d. Trường hợp tác phẩm được sử dụng theo Điều 13 hoặc 26f, áp dụng như sau. Những điều kiện liên quan đễn việc sử dụng tác phẩm tuân theo thoả thuận. Liên quan đến tiền thù lao có được từ thoả thuận và liên quan đến những lợi ích khác mà tổ chức phải trả ngoài tiền thù lao, tác giả được đối xử ngang bằng như đối với những tác giả là thành viên của tổ chức. Tuy nhiên, không ảnh hưởng tới những gì hiện đã được ấn định, những tác giả này luôn có quyền nhận thù lao đối với việc sử dụng với điều kiện là họ đưa ra yêu cầu việc trả tiền thù lao này trong khoảng thời hạn 3 năm kể từ năm việc sử dụng được tiến hành. Việc yêu cầu tiền thù lao này chỉ có thể thực hiện trực tiếp với tổ chức. Chỉ những tổ chức ký kết được hưởng quyền đưa ra yêu cầu đối với người sử dụng về tiền thù lao sử dụng tác phẩm trên cơ sở của Điều 26f. Tất cả những yêu càu này được đưa ra tại cùng một thời điểm. Chương IIa Quyền thù lao đặc biệt Thù lao đối với việc bán lại các bản sao tác phẩm nghệ thuật Điều 26j. Khi bản sao của tác phẩm nghệ thuật đã được chuyển giao được thương nhân bán lại trong thời hạn bảo hộ quyền tác giả khi người này thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, tác giả có quyền nhận tiền thù lao từ người bán. Tác giả cũng có quyền nhận tiền thù lao trong trong các trường hợp khác, khi mà việc buôn bán do thương nhân thực hiện trong phạm vi hoạt động kinh doanh của họ. Trong trường hợp này tiền thù lao sẽ do thương nhân đó trả. Tiền thù lao là 5% giá bán buôn không tính thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, tác giả sẽ không có quyền nhận tiền thù lao 1. Khi giá bán lại, không tính thuế giá trị gia tăng, không vượt quá một phần 20 tổng số theo Luật Bảo hiểm (1961:381), 2. Khi bản sao của tác phẩm nghệ thuật là bản sao của tác phẩm kiến trúc, hoặc 3. Khi bản sao của tác phẩm nghệ thuật là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đã được sản xuất với một số lượng bản sao giống hệt nhau. Quyền nhận thù lao mang tính cá nhân và không thể chuyển giao. Tuy nhiên, không phụ thuộc những quy định của Chương 10, Điều 3, Luật Hôn nhân, những quy định về phân chia tài sản giữa vợ chồng, về thừa kế sẽ áp dụng đối với quyền nhận thù lao sau khi tác giả chết. Chỉ tổ chức đại diện cho phần lớn các tác giả Thuỵ Điển trong lĩnh vực có liên quan mới có quyền yêu cầu tiền thù lao. Tổ chức yêu cầu tiền thù lao và trả cho người hưởng quyền sau khi đã trừ đi một khoản quản lý phí của tổ chức, Nếu tổ chức không yêu cầu người có trách nhiệm trả tiền tiền thù lao trong thời hạn 3 năm kể từ khi kết thúc năm việc bán được thực hiện thì yêu cầu bị hết hiệu lực. Theo yêu cầu của tổ chức, người có trách nhiệm trả tiền thù lao phải cung cấp các chi tiết về việc bán đã thực hiện trong vòng 3 năm trước đó để làm căn cứ tính tiền thù lao. Tiền thù lao đối với việc sản xuất và nhập khẩu các nguyên vật liệu để ghi âm ghi hình. Điều 26k. Khi một doanh nghiệp, trong phạm vi hoạt động nghề nghiệp của mình, sản xuất hoặc nhập khẩu các nguyên vật liệu để ghi âm, ghi hình và đặc biệt là phù hợp cho việc làm bản sao sử dụng vì mục đích cá nhân thì các tác giả có tác phẩm được bảo hộ đã được xuất bản trên các nguyên vật liệu có thể bị sao chép, có quyền nhận thù lao từ doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, tác giả không có quyền nhận thù lao nếu việc sản xuất hoặc nhập khẩu nguyên vật liệu nhằm 1. sử dụng cho các mục đích không phải là làm bản sao để sử dụng cá nhân, 2. xuất khẩu, hoặc 3. sử dụng làm bản sao cho những người khiếm thính hoặc khiếm thị. Tiền thù lao là 2 “Ores” cho mỗi phút có thể ghi, nhưng không quá 6 Cua – ron cho mỗi nguyên vật liệt. Chỉ tổ chức đại diện cho phần lớn các tác giả và người có quyền liên quan Thuỵ Điển trong các lĩnh vực có liên quan mới có quyền yêu cầu đối với tiền thù lao. Tổ chức sẽ yêu cầu tiền thù lao và phân chia tiền này cho những người có quyền sau khi đã trừ đi một khoản phí hợp lý. Khi phân chia tiền thì những người có quyền nhưng không dược đại diện bởi tổ chức sẽ được đối xử ngang bằng với những người có quyền được đại diện bởi tổ chức. Doanh nghiệp gửi thông báo đến tổ chức như được nêu trong đoạn 3. Theo yêu cầu của tổ chức, doanh nghiệp gửi số liệu về các nguyên vật liệu thuộc đối tượng trả thù lao, thời gian ghi của nguyên vật liệu và các trường hợp nguyên vật liệu được sản xuất hoặc nhập khẩu. Số liệu chỉ ra số lượng nguyên vật liệu nêu tại đoạn 2. Chương III Chuyển giao quyền tác giả Điều 27. Tuỳ thuộc vào những giới hạn cho phép theo Điều 3, quyền tác giả có thể được chuyển giao toàn bộ hoặc từng phần. Việc chuyển giao một bản sao không bao gồm việc chuyển giao quyền tác giả. Tuy nhiên, trong trường hợp một bức ảnh chân dung được thuê chụp thì tác giả không thể thực hiện quyền của mình nếu không có sự cho phép của người thuê chụp hoặc của vợ (chồng), người thừa kế của người thuê chụp trong trường hợp người thuê chụp đã chết. Những quy định về việc chuyển giao quyền tác giả trong những trường hợp đặc biệt này được quy định tại các điều từ 30 đến 40a Đ. Tuy nhiên, những quy định này chỉ áp dụng trong trường hợp không có thoả thuận ngược lại. Điều 28. Trường hợp không có thoả thuận ngược lại, người được chuyển giao quyền tác giả không thể thay đổi tác phẩm hoặc chuyển giao quyền tác giả cho những người khác. Nếu quyền tác giả là một phần của hoạt động kinh doanh, nó có thể được mua đi bán lại giữa các bên đối tác; việc chuyển giao vẫn phải tuân theo toàn bộ thoả thuận. Điều 29. Trường hợp tác giả chuyển giao cho nhà sản xuất bản ghi âm hoặc ghi hình quyền truyền đạt tới công chúng thông qua việc cho thuê các bản ghi này, tác giả có quyền nhận khoản tiền thù lao hợp lý. Những điều khoản trong hợp đồng mà giới hạn quyền này sẽ không có hiệu lực. Hợp đồng biểu diễn công cộng Điều 30. Nếu quyền biểu diễn công cộng một tác phẩm được chuyển giao thì việc chuyển giao đó có giá trị trong thời hạn 03 năm và không bao gồm quyền độc quyền. Nếu thoả thuận thời hạn dài hơn 03 năm và quyền độc quyền được chuyển giao, thì tác giả vẫn có thể tự mình biểu diễn tác phẩm hoặc chuyển giao quyền biểu diễn cho người khác nếu quyền này không được thực hiện trong thời hạn 03 năm. Quy định của Điều này không áp dụng đối với các tác phẩm điện ảnh. Hợp đồng xuất bản Điều 31. Thông qua hợp đồng xuất bản, tác giả chuyển giao cho nhà xuất bản quyền sao chép tác phẩm văn học nghệ thuật bằng việc in ấn hoặc theo một cách thức tương tự và quyền xuất bản chúng. Bản thảo viết tay hoặc bản sao khác mà trên cơ sở đó tác phẩm được sao chép thì vẫn thuộc quyền sở hữu của tác giả. Điều 32. Nhà xuất bản có quyền xuất bản một ấn phẩm, trong trường hợp là tác phẩm văn học thì không thể vượt quá 2000 bản, tác phẩm âm nhạc thì không thể vượt quá 1000 bản, tác phẩm nghệ thuật thì không thể vượt quá 200 bản. Một ấn phẩm được hiểu là cái gì mà nhà xuất bản sản xuất tại một hoặc cùng một thời điểm. Điều 33. Nhà xuất bản có trách nhiệm xuất bản tác phẩm trong thời gian hợp lý, đảm bảo việc phân phối bản sao tác phẩm theo cách thông thường, và tiếp tục khai thác xuất bản phẩm trong phạm vi cho phép của điều kiện thị trường và các hoàn cảnh khác.Trong trường hợp không trả tiền đúng kỳ hạn, tác giả có thể huỷ bỏ hợp đồng và giữ lại số tiền thù lao đã nhận được. Nếu tác giả phải chịu thiệt hại không bao gồm trong khoản tiền thù lao thì thiệt hại đó cũng sẽ được bồi thường. Điều 34. Nếu một tác phẩm không được xuất bản trong thời gian là 2 năm, nếu tác phẩm âm nhạc không được xuất bản trong thời gian là 4 năm, kể từ khi tác giả giao bản viết tay hoặc các bản sao khác để xuất bản, tác giả có thể huỷ bỏ hợp đồng và giữ lại tiền thù lao đã nhận được kể cả khi nhà xuất bản không có lỗi. áp dụng tương tự khi bản sao của tác phẩm đã bán hết và nhà xuất bản có quyền xuất bản ấn phẩm mới nhưng nhà xuất bản đã không thực hiện điều này trong vòng một năm kể từ khi tác giả đưa ra yêu cầu. Điều 35. Nhà xuất bản phải cung cấp cho tác giả giấy chứng nhận liên quan đến số lượng bản sao được làm ra của nhà in hoặc của người thực hiện việc sao chép tác phẩm. Nếu trong năm tài chính, việc bán được thực hiện thì tác giả được hưởng thù lao, nhà xuất bản sẽ gửi tiền thù lao vào tài khoản của tác giả trong vòng 9 tháng kể từ khi kết thúc năm đó, và thông báo số bản sao đã bán được trong năm và số lượng còn tồn lại khi kết thúc năm. Tác giả cũng có quyền yêu cầu có được bản báo cáo về số tồn kho khi kết thúc năm. Điều 36. Nếu việc xuất bản một ấn phẩm mới được tiến hành sau hơn một năm kể từ khi khi ấn phẩm trước được xuất bản, thì trước khi việc sản xuất này bắt đầu, tác giả có quyền sửa đổi tác phẩm nhưng không dẫn tới thay đổi giá cả của tác phẩm một cách bất hợp lý và không thay đổi tính chất của tác phẩm. Điều 37. Trước khi ấn phẩm hoặc những ấn phẩm mà nhà xuất bản được phép xuất bản được tiêu thụ hết thì tác giả không được quyền xuất bản lại tác phẩm dưới hình thức và phương thức đã nêu trong hợp đồng. Tuy nhiên, sau 15 năm kể từ khi xuất bản tác phẩm, tác giả được hưởng quyền đưa tác phẩm văn học trong xuất bản phẩm đó vào sưu tập hoặc tuyển tập của mình. Điều 38. Những quy định về hợp đồng xuất bản không áp dụng đối với những bài viết cho báo hoặc tạp chí. Điều 33 và 34 không được áp dụng đối với những bài viết trong các tác phẩm hỗn hợp khác. Hợp đồng Phim Điều 39. Việc chuyển giao quyền đưa tác phẩm văn học, nghệ thuật vào bộ phim bao gồm cả quyền phổ biến tác phẩm tới công chúng thông qua phim, chiếu trong các rạp chiếu bóng, trên vô tuyến truyền hình hoặc các hình thức khác và bao gồm cả quyền làm phần lời của bộ phim theo nguyên bản hoặc dịch sang ngôn ngữ khác. Quy định này không áp dụng đối với tác phẩm âm nhạc. Điều 40. Nếu quyền sử dụng một tác phẩm văn học hoặc âm nhạc đưa vào một bộ phim với mục đích trình chiếu công cộng được chuyển giao, thì người được chuyển giao sẽ sản xuất phim và cung cấp cho công chúng trong thời gian hợp lý. Nếu việc này không thực hiện, thì tác giả có thể huỷ bỏ hợp đồng và giữ lại khoản tiền thù lao đã nhận. Nếu tác giả phải chịu những thiệt hại không bao hàm trong số tiền tiền thù lao thì thiệt hại đó sẽ được bồi thường. Trong trường hợp một tác phẩm điện ảnh không được sản xuất trong vòng 5 năm kể từ khi tác giả đã thực hiện các nghĩa vụ của mình, thì tác giả có thể huỷ bỏ hợp đồng và giữ lại số tiền bản quyền đã nhận, kể cả khi không có lỗi từ phía người được chuyển giao. Chương trình máy tính được sáng tạo theo quan hệ làm công. Điều 40a. Quyền tác giả đối với chương trình máy tính được sáng tạo bởi người làm thuê như là một phần nhiệm vụ của họ hoặc theo sự chỉ dẫn của người thuê thì được chuyển giao cho người thuê trừ khi có thoả thuận khác theo hợp đồng. Chuyển giao quyền tác giả khi tác giả chết. Điều 41. Bất kể những quy định của Chương 10, Điều 3(1) Luật Hôn nhân quy định sự phân chia tài sản giữa vợ và chồng, quyền thừa kế, di chúc sau khi tác giả chết cũng được áp dụng đối với quyền tác giả. Người quản lý tài sản, nếu không có sự đồng ý của người thừa kế, không thể khai thác tác phẩm theo cách khác với cách nó đã được khai thác trước đây. Tác giả, trong mối quan hệ với vợ (hoặc chồng) hoặc người thừa kế, trong bản di chúc của mình có thể đưa ra các quyết định của mình về việc thực hiện quyền tác giả hoặc uỷ quyền cho người khác đưa ra những quyết định này. Điều 42. Quyền tác giả không phụ thuộc vào việc chiến hữu hợp pháp của bản thân tác giả hay của những người khác theo những quy định về tài sản giữa vợ và chồng, thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc. áp dụng tương tự đối với các bản viết tay và đối với các tác phẩm mỹ thuật chưa được trưng bày, bày bán hoặc các việc cho phép khác để cung cấp tới công chúng. Chương 4 Thời hạn bảo hộ quyền tác giả Điều 43. Quyền tác giả của một tác phẩm tồn tại cho đến khi kết thúc năm thứ 70 sau năm tác giả qua đời, hoặc đối với tác phẩm nêu tại Điều 6 là sau năm tác giả cuối cùng qua đời. Tuy nhiên, quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh tồn tại cho đến khi kết thúc năm thứ 70 sau năm người cuối cùng trong số những người sau đây qua đời: đạo diễn chính, tác giả kịch bản phim, tác giả lời thoại và nhạc sĩ sáng tác phần nhạc dành riêng cho bộ phim. Điều 44. Trong trường hợp tác phẩm được công bố mà không nêu tên tác giả hoặc chữ ký thông dụng của tác giả, thì quyền tác giả tồn tại cho đến khi kết thúc năm thứ 70 sau năm tác phẩm được công bố. Nếu tác phẩm gồm hai hoặc nhiều phần gắn liền với nhau, thì thời hạn sẽ được tính tách riêng cho từng phần. Nếu tác giả bộ lộ rõ danh tính của mình trong thời hạn nêu tại đoạn 1 thì áp dụng quy định của Điều 43. Đối với những tác phẩm không được công bố và không biết tác giả thì quyền tác giả sẽ tồn tại cho đến khi kết thúc năm thứ 70 sau năm tác phẩm được sáng tạo. Điều 44a. Trong trường hợp tác phẩm không được công bố trong thời hạn nêu tại Điều 43 hoặc 44, người mà sau đó đã công bố tác phẩm lần đầu hoặc phổ biến tác phẩm đến công chúng sẽ được hưởng các quyền kinh tế trong thời hạn là 25 năm sau năm mà tác phẩm được công bố hoặc phổ biến tới công chúng. Chương 5 Các quyền liên quan đến quyền tác giả Nghệ sĩ biểu diễn Điều 45. Buổi biểu diễn tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật của một nghệ sĩ nếu không được sự cho phép của nghệ sĩ đó thì không thể 1. ghi âm, đưa vào phim hoặc các phương tiện vật chất khác mà từ đó có thể sao chép lại được, hoặc 2. phát thanh, truyền hình hoặc được phổ cập tới công chúng bằng cách truyền trực tiếp. Một buổi biểu diễn được ghi trên các phương tiện vật chất như được nêu tại đoạn 1 mục 1, nếu không có sự đồng ý của nghệ sĩ biểu diễn thì không thể chuyển từ phương tiện ghi này sang phương tiện ghi khác hoặc phổ biến tới công chúng trong vòng 50 năm kể từ khi buổi biểu diễn được thực hiện, hoặc trong trường hợp bản ghi đã công bố hoặc phổ biến tới công chúng trong vòng 50 năm kể từ khi biểu diễn thì thời hạn này được tính từ năm sau năm bản ghi được công bố lần đầu hoặc phổ biến tới công chúng. Những quy định của Điều 3, 6 - 9, 11 - 13, 15, 16, 21, 22, 25 - 26b, 26e, 26f, 26k, 27 –29, 39(1), 41 và 42 được áp dụng đối với các buổi biểu diễn được nêu trong Điều này. Trường hợp bản sao của bản ghi buổi biểu diễn theo Điều này được chuyển giao trong các nước thuộc khu vực kinh tế Châu Âu với sự đồng ý của người biểu diễn thì có thể được phân phối tiếp. Những quy định của đoạn 4 không đưa đến quyền cung cấp tới công chúng. 1. bản sao của bản ghi, thông qua việc cho thuê hoặc các hành vi tương tự, hoặc 2. bản sao của một bộ phim hoặc các phương tiện vật chất khác mà có thể ghi được phim, thông qua việc cho mượn. Nhà sản xuất bản ghi âm hoặc ghi hình Điều 46. Băng ghi âm, phim hoặc các phương tiện vật chất khác mà âm thanh hoặc hình ảnh được ghi trên đó không thể được sao chép hoặc cung cấp tới công chúng nếu không có sự đồng ý của nhà sản xuất bản ghi trong thời hạn 50 năm kể từ khi bản ghi được làm ra, hoặc trong trường hợp bản ghi đã công bố hoặc phổ biến tới công chúng trong vòng 50 năm kể từ khi ghi thì thời hạn này được tính từ năm sau năm bản ghi được công bố lần đầu hoặc phổ biến tới công chúng. Việc chuyển từ loại hình ghi này sang một loại hình ghi khác cũng coi là sao chép. Những quy định của các Điều 6 đến 9, 11 đoạn 2, 12, 13, 15, 16, 21, 22, 25 đến 26b, 26e và 26k được áp dụng đối với các bản ghi nêu tại Điều này. Hơn thế nữa, Điều 26f được áp dụng liên quan đến các bản ghi ngoài các loại được đề cập tại Điều 47. Nếu được sự đồng ý của nhà sản xuất, khi bản sao của một bản ghi theo Điều này đã được chuyển giao trong các nước thuộc khu vực kinh tế Châu Âu, thì bản sao đó có thể được phân phối tiếp. Những quy định của đoạn 3 không tạo nên quyền cung cấp tới công chúng 1. các bản sao của bản ghi, thông qua việc cho thuê hoặc các hành vi tương tự, hoặc 2. các bản sao của bộ phim hoặc các phương tiện vật chất khác mà có thể ghi được phim, thông qua cho mượn. Sử dụng bản ghi âm để biểu diễn công cộng Điều 47. Bất kể những quy định của Điều 45 đoạn 2, và 46 đoạn 1, các bản ghi âm có thể được sử dụng trong các buổi phát thanh và truyền hình hoặc trong các buổi biểu diễn công cộng khác. Trong trường hợp này nhà sản xuất và những người biểu diễn có các buổi diễn được ghi có quyền nhận thù lao. Nếu có hai hoặc nhiều người tham gia vào buổi biểu diễn, thì quyền của họ chỉ có thể được yêu cầu đồng thời. Yêu cầu đối với người sử dụng bản ghi được đưa ra từ phía người biểu diễn và nhà sản xuất phải được thực hiện tại cùng một thời điểm. Những quy định về các chương trình phát thanh hoặc truyền hình trong đoạn 1 cũng áp dụng khi chương trình phát sóng vô tuyến được phát lại tới công chúng, đồng thời và không thay đổi, bằng phương tiện vô tuyến hoặc bằng cáp (phát lại). Yêu cầu đối với người thực hiện việc phát lại về việc trả thù lao chỉ có thể được đưa ra thông qua các tổ chức đại diện cho phần lớn người biểu diễn hoặc nhà sản xuất Thuỵ Điển. Các tổ chức đưa ra yêu cầu của mình cùng lúc với các yêu cầu được nêu tại Điều 26i đoạn 5. Những quy định của Điều 8 và 9, 11 đoạn 2, 21, 22, 25 - 26a áp dụng trong các trường hợp được nêu tại đoạn này. Về quyền của nghệ sĩ biểu diễn cũng áp dụng những quy định của Điều 27, 28, 41 và 42. Điều này không áp dụng đối với phim âm thanh. Tổ chức phát thanh và truyền hình Điều 48. Nếu không có sự đồng ý của tổ chức phát thanh truyền hình, chương trình phát thanh và truyền hình không thể 1. được ghi trên các phương tiện vật chất mà từ đó có thể sao chép lại được, hoặc 2. được phát sóng lại hoặc cung cấp tới công chúng tại nơi mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng phải mua vé vào cửa. Chương trình phát sóng được ghi lại trên phương tiện vật chất như nêu trong đoạn 1 mục 1, nếu không có sự đồng ý của tổ chức phát sóng, không thể chuyển sang loại hình phương tiện vật chất khác trong vòng 50 năm kể từ khi buổi phát sóng được thực hiện. Hơn thế nữa, nếu không có sự đồng ý của tổ chức thì các phương tiện vật chất để ghi không thể cung cấp tới công chúng trước thời hạn này. Những quy định của các Điều 6 - 9, 11 đoạn 2, 12, 15, 16, 21, 22, 25 - 26b và 26e áp dụng đối với các chương trình phát thanh truyền hình nêu tại Điều này. Trường hợp bản sao của bản ghi theo điều này đã được chuyển giao trong các nước thuộc khu vực kinh tế Châu Âu thì có thể được phân phối tiếp. Nếu tổ chức phát thanh hoặc truyền hình có yêu cầu về tiền thù lao đối với việc phát lại này như đã nêu tại Điều 26f được thực hiện với sự cho phép của tổ chức, yêu cầu phải đưa ra cùng thời điểm với những yêu cầu nêu tại Điều 26i đoạn 5. Nhà sản xuất Catalogue Điều 49. Bất kỳ ai sản xuất Catalogue, bảng hoặc các sản phẩm tương tự khác mà trong đó chứa một số lượng lớn những mục thông tin được kết hợp với nhau, hoặc là kết quả của sự đầu tư đáng kể, có quyền độc quyền trong việc làm bản sao của sản phẩm và cung cấp đến công chúng. Quyền theo đoạn một kéo dài 15 năm kể từ năm sản phẩm được hoàn thành. Trường hợp sản phẩm được cung cấp tới công chúng trong vòng 15 năm kể từ khi sản phẩm được hoàn thành thì quyền sẽ kéo dài 15 năm kể từ năm sản phẩm được cung cấp đến công chúng lần đầu tiên. Những quy định của Điều 2 đoạn 2 và 3, Điều 6 – 9, 11 đoạn 2, 12 đoạn 1 và 2, 13 – 22, 25, 26, 26b, 26d, 26f, 26g đoạn 5 và 6, và 26i cũng sẽ được áp dụng đối với sản phẩm nêu tại Điều này. Nếu sản phẩm của loại này, hoặc một phần của loại này, là đối tượng của quyền tác giả thì cũng có thể yêu cầu bảo hộ quyền tác giả. Các điều khoản hợp đồng mở rộng quyền của các nhà sản xuất theo đoạn 1 đối với sản phẩm đã được cung cấp tới công chúng sẽ không có hiệu lực. Người chụp ảnh Điều 49a. Bất kỳ người nào tạo ra bức ảnh đều có quyền độc quyền trong việc sao chép bức ảnh và cung cấp bức ảnh đó tới công chúng. Quyền này áp dụng bất kể với bức ảnh được sử dụng là bản gốc hay bản sửa đổi và không phụ thuộc vào công nghệ được sử dụng để tạo ra bức ảnh đó. Một bức ảnh cũng được coi là một tác phẩm nhiếp ảnh nếu nó được tạo ra bằng phương thức tương tự như nhiếp ảnh. Quyền nêu tại đoạn 1 tồn tại 50 năm kể từ năm bức ảnh được tạo ra. Những quy định của Điều 2 đoạn 2 và 3, Điều 3, 7 đến 9, 11, 12 đoạn 1, 13, 15, 16, 18 đến 20, 23, 24 đoạn 1, 25 đến 26b, 26d đến 26f, 26i đến 28, 31 đến 38, 41, 42 và 50 đến 52 sẽ được áp dụng đối với những bức ảnh được nêu trong Điều này. Nếu bức ảnh này là đối tượng của quyền tác giả thì cũng được yêu cầu bảo hộ quyền tác giả. Chương VI Những quy định đặc biệt Điều 50. Một tác phẩm văn học nghệ thuật không thể cung cấp tới công chúng dưới tên, bút danh hoặc chữ ký mà tác phẩm hoặc tác giả của tác phẩm này có thể dễ bị nhầm lẫn với tác phẩm đã cung cấp tới công chúng trước đây hoặc nhầm với tác giả của tác phẩm đó. Điều 51. Nếu tác phẩm văn học nghệ thuật được biểu diễn hoặc sao chép theo một cách thức mà vi phạm đến lợi ích văn hoá, thì toà án trên cơ sở đề nghị của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể ban hành lệnh cấm việc sử dụng này, phạt tiền. Quy định này không áp dụng trong suốt cuộc đời tác giả. Điều 52. Liên quan tới hình phạt, Toà án có thể ban hành các biện pháp hợp lý nhằm ngăn chặn sự lạm dụng các bản sao là đối tượng cấm theo Điều 51 và các thiết bị chuyên được dùng để làm các bản sao này. Biện pháp này có thể là buộc tiêu huỷ hoặc thay đổi tính năng của các thiết bị đó theo các cách thức cụ thể. Những quy định của Điều này không áp dụng đối với người có được tài sản hoặc quyền đối với thiết bị đó một cách hợp pháp. Thiết bị nêu tại đoạn 1 có thể bị thu giữ để thực hiện các biện pháp đề cập tại Điều này; các quy định chung về giam giữ tội phạm cũng được áp dụng. Điều 52a Đ. Bất kỳ người nào muốn tiến hành việc truyền lại bằng hữu tuyến tác phẩm là một phần của buổi phát thanh, truyền hình vô tuyến và là người đề nghị một thoả thuận với tổ chức đại diện cho các chủ sở hữu quyền Thuỵ Điển hoặc với tổ chức phát thanh, truyền hình thực hiện việc phát sóng trong phạm vi Cộng đồng Châu Âu nhưng bị từ chối thoả thuận này về những điều khoản đã đề nghị, sẽ được quyền đàm phán với các tổ chức hoặc tổ chức phát thanh, truyền hình với những đề nghị tương ứng. Bên có nhiệm vụ tham gia vào các cuộc đàm phán này, đích thân hoặc thông qua người đại diện tham dự các cuộc đàm phán này và, nếu việc này là cần thiết, đưa ra đề xuất thuyết phục cho việc giải quyết vấn đề đang đàm phán. Các bên có thể thống nhất một hình thức đám phán nào đó khác với hình thức một cuộc họp. Bất kỳ người nào không tuân theo những quy định của đoạn 2 sẽ phải trả khoản tiền bồi thường cho những thiệt hại gây ra. Khi xem xét mức độ thiệt hại của một người nào đó thì ngoài lợi ích của họ theo quy định còn phải tính đến các trường hợp khác ngoài vấn đề kinh tế thuần tuý. Chương VII trách nhiệm hình sự và dân sự Điều 53. Người nào thực hiện hành vi vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật quy định tại chương 1 và 2 hoặc xâm phạm tới những quyết định được đưa ra theo Điều 41 khoản 2, hoặc Điều 50, sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù tới 2 năm, nếu hành vi đó được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Người nào vì mục đích sử dụng cá nhân mà sao chép chương trình máy tính đã được công bố hoặc một chương trình máy tính mà bản sao của chương trình đã được chuyển giao với sự cho phép của tác giả sẽ không thuộc đối tượng chịu trách nhiệm hình sự, nếu bản sao gốc không được sử dụng vì mục đích thương mại hoặc các hoạt động công cộng và người này không sử dụng các bản sao của chương trình máy tính ngoài mục đích sử dụng cá nhân. Người nào vì mục đích sử dụng cá nhân mà làm bản sao dưới dạng kỹ thuật số của các sưu tập dữ liệu dưới dạng kỹ thuật số đã được cung cấp tới công chúng, trong những điều kiện tương tự, sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Các quy định của đoạn một cũng áp dụng nếu một người nhập khẩu vào Thuỵ Điển bản sao tác phẩm để phân phối tới công chúng, nếu những bản sao này được sản xuất ở nước ngoài thì trong trường hợp này các sản phẩm tương tự ở đây sẽ bị xử phạt theo đoạn 1. Người nào vi phạm các lệnh của toà án về hình phạt theo Điều 53a, cũng có thể không phải chịu trách nhiệm pháp lý theo luật hình sự về hành vi vi phạm lệnh của Toà án. Sự vi phạm có liên quan đến các hành vi được đề cập trong đoạn 1 hoặc 3 cũng như kế hoạch hành động của các hành vi này sẽ có thể bị xử phạt theo các quy định của Chương 23 Bộ luật Hình sự. Điều 53a. Theo yêu cầu của tác giả hoặc người thừa kế của tác giả hoặc người có quyền sử dụng tác phẩm trên cơ sở được cấp phép, Toà án có thể ban hành lệnh cấm, phạt tiền người có hành vi vi phạm hoặc tái phạm Điều 53. Khi nguyên đơn trình bày khả năng có thể xảy ra một hành vi vi phạm hoặc xâm phạm theo Điều 53 hoặc có thể có lý do khi khẳng định rằng bị đơn thông qua việc tiếp tục hành vi làm giảm giá trị mà quyền tác giả mang lại thì Toà án có thể ban hành lệnh trước khi vụ án có được phân xử cuối cùng hoặc nói cách khác là được quyết định. Không một lệnh nào được ban hành trước khi bị đơn có cơ hội phản hồi lại, trừ khi việc trì hoãn này gây ra rủi ro dẫn đến thiệt hại. Lệnh như được nêu tại đoạn 2 chỉ có thể được ban hành khi nguyên đơn đặt cọc một khoản bảo chứng với toà án để đảm bảo cho những thiệt hại có thể gây ra cho bị đơn. Nếu nguyên đơn không có khả năng đặt cọc khoản bảo chứng này thì toà án có thể miễn việc đặt cọc cho nguyên đơn. Liên quan đến khoản bảo chứng, thì Chương 2, Điều 25 Luật Thực thi được áp dụng. Khoản bảo chứng sẽ được toà án kiểm tra trừ khi bị đơn chấp nhận nó. Khi vụ án được đưa ra xét xử, Toà án sẽ quyết định lệnh cấm được ban hành theo đoạn 2 có còn được tiếp tục áp dụng hay không. Những quy định về việc kháng cáo các quyết định theo Chương 15 Luật Thủ tục Tố tụng sẽ được áp dụng đối với việc kháng cáo các quyết định theo đoạn 2 và 3 và đối với thủ tục tại Toà cấp trên. Đề nghị áp dụng hình phạt tiền có thể do người đã đề nghị ban hành lệnh của toà án đưa ra. Liên quan đến hình phạt này, đề nghị có thể dẫn đến một lệnh mới được ban hành về hình phạt tiền. Điều 54. Người nào khai thác tác phẩm mà vi phạm Luật này hoặc những quyết định được đưa ra theo Điều 41 khoản 2 sẽ phải trả một khoản bồi thường cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả như một khoản tiền thù lao hợp lý cho việc khai thác tác phẩm. Trong trường hợp việc khai thác tác phẩm được thực hiện cố ý hoặc vô ý do cẩu thả, một khoản bồi thường cũng sẽ phải trả cho thiệt hại ngoài số tiền thù lao mất đi cũng như phải trả cho những tổn thất về tinh thần và vật chất khác. Người nào cố ý hoặc vô ý tiến hành các hành vi liên quan đến việc vi phạm hoặc xâm phạm theo Điều 53, sẽ phải trả cho tác giả hoặc người thừa kế của tác giả một khoản tiền bồi thường cho các tổn thất, thiệt hại về tinh thần và vật chất do các hành vi đó gây ra. Điều 55. Người nào tiến hành các hành vi liên quan đến việc vi phạm hoặc xâm phạm theo Điều 53, dù có lý do chính đáng hay không chính đáng đều phải giao nộp lại cho tác giả hoặc người thừa kế của tác giả các thiết bị liên quan đến việc vi phạm hoặc xâm phạm. Tương tự cũng áp dụng đối với bản chữ, bản khắc in, khuôn đúc nặn, hoặc các thiết bị tương tự có thể sử dụng để sản xuất ra các vật thuộc các thể loại đã được đề cập đến. Thay vì ban hành lệnh phải giao nộp lại như nêu trong đoạn 1, theo yêu cầu của tác giả hoặc người thừa kế của tác giả, liên quan đến những gì được coi là có lý do, Toà án có thể ra lệnh là những vật này sẽ bị tiêu huỷ hoặc sửa đổi theo các cách thức đặc biệt hoặc các biện pháp khác sẽ được tiến hành để ngăn chặn việc sử dụng không được phép. Yêu cầu này cũng có thể do công tố viên đưa ra, nếu nó dựa trên việc bảo vệ lợi ích của công cộng. Các lệnh được đề cập tại đoạn này sẽ không được ban hành nếu việc giao nộp hoặc các biện pháp nhằm ngăn chặn việc sử dụng không được phép đã được quyết định theo Bộ luật Hình sự. Những quy định của đoạn 1 và 3 không được áp dụng đối với những người có được tài sản hoặc quyền đối với tài sản đó một cách hợp pháp, cũng như trường hợp liên quan đến công trình xây dựng một tác phẩm kiến trúc. Nếu những thiết bị khác ngoài những thiết bị đã được đề cập tại đoạn 1 được sử dụng để làm các bản sao tác phẩm mà bị coi là vi phạm theo Luật này, thì các thiết bị hoặc giá trị của nó có thể bị buộc phải giao trả lại nếu biện pháp này được coi là cần thiết để ngăn chặn việc vi phạm hoặc có các lý do đặc biệt khác cho việc ra lệnh này. Điều này cũng được áp dụng tương tự đối với các thiết bị được sử dụng liên quan đến việc cố tình xâm phạm như được đề cập đến ở đây hoặc nó là một phần của kế hoạch thực hiện việc vi phạm này. Điều 56. Bất kể những quy định của Điều 55, trong trường hợp được coi là có lý do trên cơ sở giá trị nghệ thuật hoặc kinh tế của bản sao tác phẩm hoặc trong các trường hợp khác Toà án có thể quyết định rằng những bản sao đó sau khi đã trả khoản thù lao cụ thể cho tác giả hoặc người thừa kế của tác giả thì có thể được đưa ra cung cấp cho công chúng hoặc được sử dụng nhằm các mục đích nhất định khác. Điều 56a. Trường hợp có thể có lý do để cho rằng một người tiến hành các hành vi vi phạm hoặc xâm phạm như quy định tại Điều 53, nhằm mục đích bảo vệ chứng cứ liên quan tới việc vi phạm hoặc xâm phạm, Toà án có thể ra lệnh tiến hành điều tra về người đó để tìm kiếm vật chứng hoặc tài liệu được cho là quan trọng đối với việc điều tra hành vi vi phạm hoặc xâm phạm (điều tra vi phạm). Lệnh điều tra vi phạm chỉ được ban hành khi những lý do đưa ra chứng tỏ rằng biện pháp đó quan trọng hơn cả những bất lợi hoặc thiệt hại có thể gây ra cho phía bên kia hoặc cho bất kỳ bên nào có lợi ích liên quan . Những quy định của đoạn 1 và 2 cũng áp dụng đối với những hành vi vi phạm hoặc chuẩn bị thực hiện hành vi được nêu tại Điều 53 đoạn 5. Điều 56b. Lệnh điều tra vi phạm được Toà án ban hành trong trường quá trình Toà giải quyết vụ án. Trong trường hợp thủ tục tố tụng chưa được tiến hành thì áp dụng những quy định liên quan đến thẩm quyền của Toà án đối với các vụ án dân sự . Tuy nhiên, những quy định của Luật Thủ tục Tố tụng liên quan đến giới hạn thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các tranh chấp đã được các cơ quan ngoài toà án thụ lý sẽ không được áp dụng. Việc ban hành lệnh điều tra vi phạm chỉ có thể được tiến hành khi có đề nghị của tác giả, người thừa kế của tác giả hoặc bất kỳ người nào có được quyền khai thác tác phẩm trên cơ sở giấy phép. Khi thủ tục tố tụng chưa được tiến hành thì đề nghị nêu trên phải được đệ trình bằng văn bản. Bên kia sẽ được dành cho cơ hội đệ trình báo cáo trước khi lệnh điều tra được ban hành. Tuy nhiên trong trường hợp sự trì hoãn gây ra nguy hiểm cho các vật chứng và tài liệu quan trọng cho việc điều tra vi phạm như có thể bị tháo dỡ, pháp huỷ, thay đổi thì Toà án có thể ban hành lệnh ngay lập tức để đảm bảo thực thi cho đến khi có quyết định khác. Mặt khác, bất kỳ lệnh nào liên quan đến điều tra vi phạm được ban hành trước khi thủ tục tố tụng được bắt đầu sẽ được xem xét như khi nó được ban hành trong khi tiến hành thủ tục tố tụng. Điều 56c. Lệnh điều tra vi phạm chỉ được ban hành khi nguyên đơn nộp cho toà án tiền bảo chứng để đảm bảo cho những thiệt hại có thể gây ra cho bên kia. Trường hợp nguyên đơn không thể nộp tiền bảo chứng thì Toà án có thể miễn cho nguyên đơn. Liên quan đến khoản bảo chứng, thì Chương 2, Điều 25 Luật Thực thi sẽ được áp dụng. Việc bảo chứng sẽ được Toà án kiển tra trừ khi bên kia chấp thuận việc bảo chứng đó. Trường hợp liên quan đến việc kháng cáo các quyết định của Toà án về việc điều tra vi phạm cũng như liên quan đến thủ tục tại Toà cấp cao hơn áp dụng quy định về kháng cáo tại Chương 15 của Luật Tố tụng. Điều 56d. Lệnh về điều tra vi phạm bao gồm các nội dung sau 1. mục đích điều tra, 2. đối tượng và tài liệu điều tra, 3. địa điểm điều tra. Trong trường hợp cần thiết Toà án cũng sẽ quy định những điều kiện cho việc thi hành lệnh. Điều 56e. Lệnh điều tra vi phạm có thể thi hành ngay. Nếu đơn yêu cầu thi hành không được nộp trong vòng 1 tháng kể từ khi lệnh được ban hành thì lệnh đó hết hiệu lực. Trong vòng 1 tháng kể từ khi có quyết định thi hành mà người nộp đơn không chuẩn bị hoặc tiến hành các thủ tục liên quan đến việc thi hành thì các biện pháp đã được cam kết để điều tra vi phạm sẽ không còn hiệu lực. áp dụng tương tự đối với lệnh điều tra vi phạm hết hiệu lực khi việc điều tra đã hoàn thành. Điều 56f. Lệnh điều tra vi phạm được tiến hành thông qua cơ quan thực thi tại địa phương theo các điều kiện được quy định bởi Toà án và áp dụng Chương 1 đến 3, Chương 16, Điều 10, Chương 17, Điều 1 đến 5, Chương 18 Luật Thực thi. Bị đơn chỉ được thông báo về việc điều tra nếu lệnh điều tra vi phạm được ban hành sau khi Toà án nghe ý kiến của nguyên đơn. Cơ quan điều tra có quyền chụp ảnh, ghi âm, ghi hình các vật chứng phục vụ cho việc điều tra. Cơ quan điều tra cũng có thể sao chép hoặc trích dẫn từ tài liệu để phục vụ cho việc điều tra. Việc điều tra vi phạm không liên quan đến các văn bản nêu tại Chương 27, Điều 2, Luật Thủ tục Tố tụng. Điều 56g. Bị đơn có quyền mời luật sư khi lệnh điều tra vi phạm được tiến hành. Việc điều tra không thể tiến hành trước khi luật sư có mặt. Tuy nhiên, điều này không áp dụng khi 1. không cần thiết trì hoãn việc điều tra, hoặc 2. có rủi ro khác mà mục đích của việc điều tra không đạt được. Khi điều tra, cơ quan thực thi được phép mời các chuyên gia giúp đỡ trong trường hợp cần thiết. Cơ quan điều tra có thể cho phép nguyên đơn hoặc đại diện của nguyên đơn tham gia vào việc điều tra nhằm cung cấp thông tin. Nếu cho phép việc tham gia này thì cơ quan điều tra phải cân nhắc tới việc nguyên đơn hoặc đại diện của họ chỉ được cung cấp thông tin về những gì đã điều tra được trong phạm vi cần thiết. Điều 56h. ảnh chụp và bản ghi âm, ghi hình của vật chứng cũng như bản sao của nó, và các trích đoạn từ các tài liệu sẽ được liệt kê và thông báo cho nguyên đơn và bị đơn. Điều 57. Những quy định từ các Điều 53 đến 56 h cũng chỉ áp dụng đối với các quyền được bảo hộ theo các quy định của Chương 5. Điều 57a. Ngoài các trường hợp được nêu tại Điều 53, người nào bán, cho thuê, hoặc chào bán hoặc đưa ra bán, đưa ra cho thuê hoặc vì các mục đích thương mại khác các thiết bị nhằm can thiệp hoặc thay thế một cách bất hợp pháp các thiết bị bảo vệ chương trình máy tính nhằm chống việc sao chép bất hợp pháp, sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù tới 6 tháng. Điều 58. Toà án Thành phố Stockholm xét xử các vụ việc liên quan đến các tổ chức phát thanh truyền hình vi phạm Luật này. áp dụng tương tự đối với các trường hợp liên quan đến việc yêu cầu tiền thù lao theo Điều 18, 26a, đoạn 1, 26i, đoạn 3, hoặc 47 và trong các trường hợp yêu cầu khoản tiền thù lao tương ứng trên cơ sở các Điều 45, 46, 48, 49, 49a và trong các trường hợp liên quan đến tiền thù lao đối với việc truyền phát lại theo Điều 26f. Điều 59. Biện pháp hình sự đối với việc vi phạm Luật này có thể được tiến hành bởi công tố viên chỉ trong trường hợp có yêu cầu từ phía người bị hại hoặc vì lợi ích công cộng. Biện pháp áp dụng liên quan đến việc vi phạm các quy định của Điều 3 hoặc các quyết định được đưa ra theo Điều 41 đoạn 2, có thể được tiến hành bởi vợ hoặc chồng của tác giả, bởi người thừa kế hàng trên hoặc hàng dưới hoặc bởi anh chị em ruột của tác giả. Nếu có lý do để tin rằng việc vi phạm hình sự theo Luật này xảy ra, các thiết bị được đề cập tại Điều 55 có thể bị thu giữ; các nguyên tắc chung về bắt giữ trong các vụ án hình sự sẽ được áp dụng. Chương VIII Sự áp dụng của Đạo luật Điều 60. Những quy định liên quan đến quyền tác giả áp dụng đối với: 1. tác phẩm của công dân Thuỵ Điển hoặc người thường trú tại Thuỵ Điển, 2. tác phẩm công bố lần đầu tại Thuỵ Điển hoặc công bố đồng thời tại Thuỵ Điển và nước ngoài, 3. tác phẩm điện ảnh mà nhà sản xuất có trụ sở hoặc thường trú tại Thuỵ Điển. 4. tác phẩm kiến trúc được xây dựng tại Thuỵ Điển, 5. tác phẩm nghệ thuật tạo hình được gắn với công trình xây dựng tại Thuỵ Điển hoặc dưới hình thức định hình vĩnh cửu trên mặt đất. Nhằm mục đích áp dụng đoạn 1, mục 2, được coi là công bố đồng thời nếu một tác phẩm được công bố tại Thuỵ Điển trong vòng 30 ngày kể từ ngày công bố lần đầu tiên tại nước ngoài. Nhằm mục đích áp dụng đoạn 1, mục 3, người có tên đề trên tác phẩm điện ảnh theo các cách thức thông thường, nếu không có các chứng cứ ngược lại, được coi là nhà sản xuất tác phẩm điện ảnh đó. Những quy định của các Điều 26j và 26k áp dụng đối với các tác phẩm của công dân Thuỵ Điển hoặc người thường trú tại Thuỵ Điển. Những quy định của Điều 44a áp dụng đối với các hành vi xuất bản hoặc cung cấp tới công chúng được thực hiện bởi công dân Thuỵ Điển hoặc người thường trú tại Thuỵ Điển. Những quy định của Điều 44a cũng áp dụng đối với các hành vi xuất bản hoặc cung cấp tới công chúng được thực hiện bởi các tổ chức có trụ sở chính tại Thuỵ Điển. Những quy định tại các Điều 50 và 51 được áp dụng đối với tất cả các tác phẩm văn học nghệ thuật không phụ thuộc vào nguồn gốc của tác phẩm đó. Điều 61. Những quy định của Điều 45, 47, và 48 áp dụng đối với buổi biểu diễn, bản ghi âm và chương trình phát thanh, truyền hình được thực hiện tại Thuỵ Điển. Hơn thế nữa, những quy định của Điều 45 áp dụng đối với buổi biểu diễn của công dân Thuỵ Điển hoặc người thường trú tại Thuỵ Điển, những quy định của Điều 47 áp dụng đối với bản ghi âm mà nhà sản xuất bản ghi âm là công dân hoặc pháp nhân Thuỵ Điển hoặc là người thường trú tại Thuỵ Điển, và những quy định của Điều 48 áp dụng đối với chương trình phát sóng của các tổ chức phát thanh, truyền hình có trụ sở chính tại Thuỵ Điển. Những quy định của Điều 46 áp dụng đối với các bản ghi âm và ghi hình mà nhà sản xuất là công dân hoặc pháp nhân Thuỵ Điển hoặc thường trú tại Thuỵ Điển cũng như được áp dụng đối với các bản ghi hình được thực hiện tại Thuỵ Điển. Tuy nhiên, những quy định của Điều 46 áp dụng cho sao chép tất cả các bản ghi âm. Những quy định của Điều 49 áp dụng cho những sản phẩm mà nhà sản xuất là công dân hoặc thường trú tại Thuỵ Điển . Những quy định của Điều 49 cũng áp dụng đối với những sản phẩm mà nhà sản xuất là pháp nhân Thuỵ Điển và có trụ sở đăng ký, trụ sở chính hoặc địa điểm kinh doanh chính tại Thuỵ Điển. Tuy nhiên, đối với trường hợp trụ sở đăng ký tại Thuỵ Điển nhưng pháp nhân đó lại không có trụ sở chính hoặc địa điểm kinh doanh chính tại Thuỵ Điển, thì những quy định này chỉ áp dụng khi việc sản xuất tạo nên hoạt động kinh doanh ở Thuỵ Điển. Liên quan đến các quy định của Điều 49a, thì cũng áp dụng Điều 50, 51 và các quy định khác đối với các bức ảnh mà: 1. nhà sản xuất là công dân hoặc người thường trú tại Thuỵ Điển; 2. bức ảnh được công bố lần đầu tiên hoặc công bố đồng thời tại Thuỵ Điển; 3. bức ảnh được đặt trong một toà nhà hoặc các công trình xây dựng khác được xây cố định trên mặt đất, nếu toà nhà hoặc công trình xây dựng này ở Thuỵ Điển. Nhằm mục đích áp dụng đoạn 3 mục 2, việc công bố được coi là đồng thời nếu tác phẩm được công bố tại Thuỵ Điển trong vòng 30 ngày kể từ ngày tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại nước khác. Liên quan đến các quy định của Điều 45, thì Điều 26k chỉ áp dụng đối với buổi biểu diễn được thực hiện bởi công dân hoặc người thường trú tại Thuỵ Điển. Liên quan đến các quy định của Điều 46, thì Điều 26k chỉ áp dụng đối với bản ghi mà nhà sản xuất là công dân hoặc pháp nhân Thuỵ Điển hoặc thường trú tại Thuỵ Điển. Liên quan đến các quy định của Điều 49a, thì Điều 26j và 26k chỉ áp dụng đối với những bức ảnh mà nhà sản xuất là công dân hoặc người thường trú tại Thuỵ Điển. Điều 61a Đ. Trong trường hợp một tác phẩm hoặc đối tượng khác được bảo hộ theo Luật này được truyền đạt tới công chúng qua vệ tinh, các hành vi liên quan xét dưới góc độ về quyền tác giả và các quyền liên quan được coi là thực hiện tại nước, nơi mà tổ chức phát sóng, dưới sự kiểm soát và trách nhiệm của nước đó, giới thiệu các đối tượng trong các kênh thông tin liên tục truyền lên vệ tinh để từ đó phát xuống trái đất. Những quy định này không áp dụng nếu việc hướng dẫn được thực hiện tại một nước không phải là thành viên của khu vực kinh tế Châu Âu và không áp dụng mức bảo hộ theo quy định tại chương 2 Chỉ thị số 93/83/EEG, ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Cộng đồng Châu Âu. Trong các trường hợp được đề cập tại đoạn 2, nếu việc truyền qua vệ tinh được thực hiện tại một nước là thành viên của Khu vực Kinh tế Châu Âu thì xét từ góc độ Quyền tác giả và quyền liên quan hành vi đó sẽ được coi là thực hiện tại nước mà việc phát sóng diễn ra. Nếu việc phát sóng không thực hiện từ một trong các nước thành viên của Khu vực Kinh tế Châu Âu nhưng tổ chức phát thanh truyền hình đã quyết định việc phát sóng đó có trụ sở ở một nước thành viên Khu vực Kinh tế Châu Âu, thì hành vi này xét từ góc độ quyền tác giả và quyền liên quan được coi là thực hiện tại nước thành viên đó. Điều 62. Trên nguyên tắc có đi có lại, hoặc trong trường hợp tuân thủ các hiệp định ký kết với nước ngoài hoặc với các tổ chức liên chính phủ đã được Nghị viện phê chuẩn, Chính phủ có thể quyết định áp dụng Luật này trong mối quan hệ với các nước khác. Chính phủ cũng có thể quy định áp dụng Luật đối với những tác phẩm và những bức ảnh được công bố lần đầu bởi các tổ chức Liên Chính phủ và đối với những tác phẩm và những bức ảnh chưa công bố mà tổ chức này có thể công bố. Chương IX Những quy định liên quan đến hiệu lực và những quy định chuyển tiếp Điều 63. Luật này có hiệu lực kể tư ngày 01 tháng 7 năm 1961. ( Không bao hàm những quy định khác về thời điểm có hiệu lực và các của các sửa đổi bổ sung của Luật này). --------------------------

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển.pdf