Ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000

Trong vụ án trên, việc giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuân Trường là đúng pháp luật vì Toà án đã giải quyết dựa vào căn cứ ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, nếu nhìn một cách khách quan thì rõ ràng, người chịu thiệt thòi là chị Tâm vì chị đã hết lòng vì chồng, vì con. Trong khi đó, anh Đức lại có quan hệ bất chính với người khác (việc làm của anh đã vi phạm vào Điều 147 Bộ Luật hình sự: “Người nào đang có vợ có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm” 2), không quan tâm đến mẹ con chị. Chính anh là người có lỗi trong việc dẫn đến vợ chồng ly hôn mà bên kia không có lỗi gì nghiêm trọng thì bên có lỗi phải chịu một phần thiệt thòi nhằm bù đắp những tổn thất cho bên kia. Chế tài được nói ở đây là việc đánh vào giá trị tài sản cá nhân của một bên vợ hoặc bên chồng có lỗi. Điều đó được thể hiện qua việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hoặc quy định bên có lỗi. Điều đó được thể hiện qua việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hoặc quy định bên có lỗi phải bồi thường cho bên kia một khoản tiền theo sự thoả thuận của vợ chồng hoặc theo mức do pháp luật quy định. Trước đây chúng ta thường phê phán quan điểm của pháp luật tư sản giải quyết ly hôn dựa vào yếu tố lỗi. Nhưng bên cạnh đó, cũng cần phải nhìn thẳng khía cạnh tích cực nào đó của việc quy định này. Xã hội Việt Nam mà hầu hết trong các vụ ly hôn, người thiệt thòi thường là phụ nữ và trẻ em.

doc65 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3873 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(Mục 9 điểm b, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000). Trong những năm gần đây, đã xuất hiện một số trường hợp xin thuận tình ly hôn giả tạo, lừa dối cơ quan pháp luật, nhằm mưu cầu lợi ích riêng. Họ tự nghĩ ra những mâu thuẫn và lý do ly hôn nhìn bề ngoài có vẻ chính đáng nhưng thực tế họ lại không mong muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng và giữa họ không hề có mâu thuẫn. Nếu không điều tra kỹ, dễ dẫn đến trường hợp Toà án có thể kết luận là đã có đủ căn cứ để công nhận thuận tình ly hôn. Như vậy, chúng ta đã mắc lừa họ và họ sẽ đạt được mục đích riêng như thuận tình ly hôn giả để chuyển hộ khẩu; phụ cấp người ăn theo; lấy vợ lẽ nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với người khác. Vì vậy, trong những trường hợp này, Toà án cần xử bác đơn xin ly hôn của đương sự, đồng thời nghiêm khắc phê phán, giáo dục đương sự với những hành vi sai trái đó. 2.2.2 Ly hôn theo yêu cầu của một bên Ly hôn theo yêu cầu của một bên (của một bên vợ hoặc một bên chồng) là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân 1. Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hường : Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tr. 160 – 162 . Điều 91, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem xét, giải quyết ly hôn”. Về nguyên tắc, Toà án chỉ xét xử ly hôn nếu xét thấy quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Như vậy, giải quyết ly hôn trong cả hai trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn hoặc do một bên vợ hoặc một bên chồng yêu cầu ly hôn đều giống nhau về bản chất. Bản án và quyết định ly hôn của Toà án đều là việc Toà án xác nhận một cuộc hôn nhân đã “chết”, không thể tồn tại được nữa. Trong trường hợp một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn thì chỉ có một bên vợ, chồng tự nguyện và nhận thức được quan hệ hôn nhân đã tan vỡ, còn bên kia - người chồng, vợ không muốn ly hôn vì không nhận thức được mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng hoặc có thể nhận thức được nhưng lại xin đoàn tụ vì động cơ nào đó. Về trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ, chồng, Nghị quyết số 02/2000/NQ/HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn tại mục 10 như sau : Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn thì Toà án phải tiến hành hoà giải. Nếu hoà giải đoàn tụ không thành mà người yêu cầu xin ly hôn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 - Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người xin ly hôn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành. Sau 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không có sự thay đổi ý kiến cũng như Viện kiểm sát không phản đối thì Toà án quyết định công nhận hoà giải đoàn tụ thành. Quyết định công nhận hoà giải đoàn tụ thành có hiệu lực pháp luật ngay và các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. (Mục 10, điểm a, Nghị quyết số 02/2000/NQ/HĐTP ngày 23/12/2000). Trong trường hợp hoà giải đoàn tụ không thành thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành, đồng thời tiến hành mở phiên Toà xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung (Mục 10, điểm b, Nghị quyết số 02/2000/NQ/HĐTP ngày 23/12/2000). Đối với trường hợp người vợ, chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích có yêu cầu ly hôn, theo mục 8, điểm b Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau : Theo quy định tại khoản 2, Điều 89: Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mắt tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn. Thực tiễn cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp như sau: - Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp này, nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho ly hôn, nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng. - Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường hợp này, Toà án giải quyết cho ly hôn. - Khi Toà án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải quyết việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo quy định tại Điều 79 Bộ luật dân sự 2005. trong các trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu mà Toà án các địa phương đã thụ lý và giải quyết thì tỉ lệ đơn của vợ và chồng là ngang nhau. Nhìn chung, qua việc giải quyết các yêu cầu ly hôn cho thấy quan hệ vợ chồng đã có những mâu thuẫn trầm trọng và các bên không thể chung sống với nhau được nữa, một bên không yêu cầu ly hôn chỉ vì không nhận thức và đánh giá đúng thực chất của quan hệ vợ chồng hoặc có thể đã đánh giá và nhận thức đúng thực chất quan hệ vợ chồng nhưng không muốn ly hôn vì một động cơ nào đó. Trong các trường hợp này, Toà án xét xử chỉ căn cứ vào thực chất của quan hệ vợ chồng. Do đó, dù bên không làm đơn yêu cầu ly hôn và không đồng ý ly hôn, Toà án vẫn có thể quyết định cho vợ chồng ly hôn khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Ngoài ra trong trường hợp hai vợ chồng xin thuận tình ly hôn, sau khi điều tra, hoà giải, Toà án xét thấy một bên vợ, chồng không tự nguyện ly hôn do bị cưỡng ép, bị lừa dối ly hôn, hoặc do sĩ diện, tự ái dẫn đến xin thuận tình ly hôn thì Toà án cần xử bác đơn xin thuận tình ly hôn mà không giải quyết theo thủ tục một bên vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. 2.3 Hậu quả pháp lý của ly hôn Ly hôn ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến lợi ích của vợ chồng, của các con và lợi ích của xã hội. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn Toà án phải thận trọng để có quyết định đúng đắn. Đồng thời, các cơ quan nhà nước cần có những biện pháp hạn chế tới mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu cực của ly hôn tới gia đình và xã hội. 2.3.1 Quan hệ nhân thân giữa hai vợ chồng Theo nguyên tắc chung, khi bản án, quyết định ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng được chấm dứt. Người vợ, chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác. Sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt hoàn toàn, dù vợ chồng có thoả thuận hay không thoả thuận được thì Toà án cũng sẽ quyết định. Nghĩa là những quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn, gắn bó tương ứng giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (như nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thuỷ giữa vợ chồng, quyền đại diện cho nhau…..) sẽ đương nhiên chấm dứt. Một số quyền nhân thân khác mà vợ, chồng với tư cách là công dân thì không ảnh hưởng, không thay đổi dù vợ chồng ly hôn. Trong xã hội ta hiện nay, thực tế có một số trường hợp vợ chồng đã ly hôn, phán quyết ly hôn của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, sau đó vợ chồng lại “tái hợp” chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn theo thủ tục luật định. Khi có tranh chấp, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ gặp những khó khăn nhất định. Ví dụ: chị T và anh P được Toà án nhân dân quận B, thành phố H quyết định cho ly hôn tháng 6/1998. Hai người sống riêng được một thời gian thì lại trở về chung sống với nhau từ tháng 12/1998 nhưng không đăng ký kết hôn. Tháng 3/2001, anh P bị tai nạn giao thông chết. Trong thời gian chung sống từ tháng 12/1998 đến tháng 3/2001, họ có thêm một số tài sản có giá trị 120 triệu đồng. Khi anh P chết, cha mẹ anh P cho rằng chị T không phải là vợ của anh P, do đó, không được nhận thừa kế tài sản của anh P. Phần tài sản trị giá 120 triệu đồng đó là tài sản do anh kinh doanh mà có nên là tài sản riêng của anh P. Chị T khởi kiện yêu cầu công nhân quan hệ giữa chị và anh P là vợ chồng nên chị được thừa kế tài sản của anh P và yêu cầu Toà án xác định khối tài sản trị giá 120 triệu đồng là tài sản chung của vợ chồng chị. Toà án nhân dân quận B đã bác yêu cầu của chị T vì cho rằng chị và anh P đã được Toà án giải quyết cho ly hôn, khi trở về chung sống với nhau không đăng kí kết hôn lại, do đó chị và anh P không phải là vợ chồng nên chị không được thừa kế tài sản của anh P. Về khối tài sản trị giá 120 triệu đồng đúng là tài sản do anh P kinh doanh mà có, chị T không tham gia công việc làm ăn của anh P nên Toà xác định là chị T không đóng góp công sức trong việc tạo ra tài sản, do vậy chị không được chia tài sản đó 1.Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hường : Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tr. 164 - 165 . Như vậy, sau khi ly hôn, nếu các bên lại trở về chung sống với nhau mà không đăng kí kết hôn thì việc bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của các bên sẽ khó có thể thực hiện được. Đối với ví dụ trên, nếu chị T và anh P đăng kí kết hôn lại với nhau thì đương nhiên chị T được thừa kế tài sản của anh P, và khối tài sản trị giá 120 triệu đồng sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng, dù chị T không trực tiếp đóng góp công sức vào việc tạo lập khối tài sản đó thì chị cũng được hưởng một phần trong khối tài sản chung đó. Do đó, pháp luật quy định vợ chồng đã ly hôn, sau đó lại trở về chung sống với nhau cũng phải đăng kí kết hôn là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, bảo vệ gia đình và xã hội. Theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, trong trường hợp vợ chồng đã ly hôn theo phán quyết ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp luật, sau đó vợ chồng lại “tái hợp” chung sống với nhau được một thời gian, giữa họ có con chung, có tài sản chung và vì lí do nào đó, sau này họ lại có yêu cầu “chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn” thì Toà án không giải quyết việc ly hôn nữa. Theo Điều 57 Bộ Luật Dân sự quy định trường hợp vợ chồng đã ly hôn, phán quyết ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp luật, nếu kết hôn với nhau với nhau vẫn phải đăng ký kết hôn theo thủ tục luật định (Điều 11, Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội đã quy định về tình trạng nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn sẽ không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Việc kết hôn không đăng kí (trước đây là hôn nhân thực tế) kể từ ngày 01/01/2000 (là ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực pháp luật) đã bị xoá bỏ. 2.3.2 Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là một vấn đề phức tạp nhất hiện nay trong các án kiện về hôn nhân và gia đình, có những vụ án phải giải quyết nhiều lần vì việc giải quyết các tranh chấp tài sản không làm thoả mãn mong muốn của đương sự. Để đảm bảo công bằng và hợp lý khi chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định những nguyên tắc khi chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. 2.3.2.1 Đối với tài sản riêng của mỗi bên Trước hết, theo các nguyên tắc quy định tại Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó (khoản 1, Điều 95). Nếu vợ chồng không thoả thuận được với nhau thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó. Sau khi ly hôn vợ, chồng có tài sản riêng thì có quyền lấy về. Tuy nhiên, người có tài sản riêng phải chứng minh được đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể bằng sự công nhận của bên kia hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu riêng của mình (các văn tự, di chúc hoặc các chứng từ khác chứng tỏ tài sản đó là tài sản riêng của vợ, chồng). Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung (khoản 3, Điều 27). Khi chia tài sản là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng mà có tranh chấp, cần lưu ý đã có sự trộn lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài sản riêng trong quá trình sử dụng ở thời kì hôn nhân. Trường hợp vợ, chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì người có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc đền bù. Có trường hợp tài sản riêng tăng giá trị lên rất nhiều lần vì người có tài sản riêng đã dùng tài sản chung để tu sửa làm tăng giá trị cho tài sản riêng của mình, Toà án cần xác định phần tăng giá trị đó, nhập vào tài sản chung để chia. Đối với những đồ trang sức mà vợ, chồng được cha mẹ vợ (hoặc cha mẹ chồng) tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng, nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung. Trong trường hợp người vợ hay người chồng đã vay mượn tiền bạc của người khác để chi dùng cho mục đích, nhu cầu riêng thì người vợ hoặc người chồng phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng (khoản 3, Điều 33). Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ để thanh toán thì phải thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng hoặc vợ chồng có thể thoả thuận với nhau để thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp con đã thành niên có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng và phát triển tài sản của cha mẹ thì được trích chia phần đóng góp của họ trong phần tài sản của cha mẹ khi ly hôn, theo yêu cầu của người con đó. Nếu con chưa thành niên mà có tài sản riêng (do được tặng cho, thừa kế, hoặc thu nhập hợp pháp của con) thì Toà án không chia, Toà án quyết định sẽ giao cho người nào nuôi giữ, chăm sóc, giáo dục đứa con đó quản lý tài sản riêng của con. Trên thực tế, khi vợ chồng ly hôn, một bên yêu cầu Toà án xác định một tài sản nào đó là tài sản riêng nhưng chứng cứ đưa ra để xác định tài sản riêng không thuyết phục, vì vậy tài sản đó vẫn được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Thường gặp nhất là trường hợp vợ hoặc chồng dùng khoản tiền là thu nhập từ lao động của mình, mua một tài sản nào đó để sử dụng trong thời kỳ hôn nhân. Khi vợ chồng ly hôn, họ lại khai rằng tài sản đó họ mua được là do bố, mẹ, anh, chị, em….. tặng riêng một khoản tiền. Đối với các trường hợp này, việc xác minh sẽ khó thu được kết quả chính xác. Bởi vì, bố mẹ, anh, chị, em…..sẵn sàng thừa nhận rằng họ đã cho riêng con, em mình số tiền đó. Để xác định một cách chính xác tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của một bên, Toà án càng thận trọng, một mặt phải lấy lời khai của những người có liên quan, mặt khác phải căn cứ vào thu nhập thực tế của các bên, từ đó mới có thể có các quyết định đúng đắn. 2.3.2.2 Đối với tài sản chung của vợ chồng Theo quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Về nguyên tắc, phần của vợ, chồng trong khối tài sản chung là ngang bằng nhau, do đó khi vợ chồng ly hôn, tài sản chung được chia đôi. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên và các lợi ích khác, trong từng trường hợp cụ thể, tài sản chung của vợ chồng không thể chia đôi mà còn phải tuân thủ các nguyên tắc khác, cụ thể là : - Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc đựơc chia đôi nhưng có xem xét đến tình trạng tài sản, hoàn cảnh của mỗi bên và công sức đóng góp của họ vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản. Lao động trong gia đình được coi là lao động có thu nhập. Có nghĩa là phải xem xét tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản gì, nguồn gốc phát sinh, tài sản có thể chia được bằng hiện vật hay không, vợ chồng kết hôn và chung sống với nhau thời gian bao lâu, vợ chồng cùng nhau cư trú hay có nơi cư trú khác nhau, ai là người có công sức đóng góp nhiều hơn vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, ai là người lao động chủ yếu trong gia đình... - Khi chia tài sản chung của vợ chồng, phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên bị tàn tật hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, để đảm bảo cho họ được ổn định cuộc sống. Khi chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên trong sản xuất kinh doanh và nghề nghiệp. Tài sản chung là tư liệu sản xuất, công cụ lao động phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của bên nào thì chia cho bên đó, tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi bên trong việc tiếp tục công tác, lao động sản xuất….. - Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị. Chia tài sản không thể làm mất giá trị sử dụng của tài sản đó. Người được nhận tài sản có giá trị lớn hơn so với giá trị phần tài sản họ được chia thì họ phải trả cho bên kia phần giá trị chênh lệch đó. Trong trường hợp vợ chồng chung sống với gia đình bên nhà chồng (hoặc bên nhà vợ) mà ly hôn. Điều 90 quy định: nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thoả thuận với gia đình, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì khó khăn, phức tạp hơn cả là đối với những tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, tại các Điều 97, Điều 98, Điều 99 đã quy định về vấn đề này. Cụ thể là: Đối với việc chia quyền sử dụng đất, thì quyền sử dụng đất riêng của bên nào vẫn thuộc về bên ấy. Quyền sử dụng đất chung của vợ chồng, khi ly hôn được chia như sau: - Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, nếu cả hai vợ chồng đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng thì được chia theo sự thoả thuận của vợ chồng, nếu vợ chồng không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, Toà án căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản chung tại Điều 95 để chia. Nếu chỉ một bên có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng (Điều 97, khoản 2, mục a, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). - Trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng sẽ được tách ra để chia và cũng căn cứ vào nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất của các bên. Bên không có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất sẽ được thanh toán phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng. Đối với việc chia nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng, thì về nguyên tắc, nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng là tài sản chung của vợ chồng cho nên khi vợ chồng ly hôn áp dụng các nguyên tắc của việc chia tài sản chung của vợ chồng để chia. Trong việc xác định nhà là tài sản chung của vợ chồng, Toà án cần phân biệt các trường hợp: nhà do hai vợ chồng mua hoặc xây dựng, nhà do cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ cho chung cả hai vợ chồng (là tài sản chung của hai vợ chồng), nhà do vợ chồng thuê của nhà nước hoặc tư nhân, hoặc do cơ quan nhà nước cấp ( chỉ có quyền quản lý, sử dụng không phải là tài sản chung của vợ chồng ), trường hợp vợ chồng còn ở chung với gia đình cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ mà nhà đó là tài sản của cha mẹ, không thuộc tài sản chung của vợ chồng thì không chia. Trường hợp có tranh chấp trong việc nhà ở là tài sản riêng của chồng (vợ) nhưng đã được vợ chồng tu sửa làm tăng giá trị lên nhiều hoặc bên có nhà đã thoả thuận nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn lại nói là chưa nhập…..Vì vậy, Toà án cần phân biệt tuỳ từng trường hợp để giải quyết cho thoả đáng, thấu tình, đạt lý. - Trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng có thể chia để sử dụng thì khi ly hôn được chia theo quy định tại Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, nếu diện tích nhà quá nhỏ hoặc vì đặc điểm nào đó mà nhà không thể chia cho cả hai bên sử dụng thì một bên trực tiếp sử dụng, bên không trực tiếp sử dụng sẽ được thanh toán phần giá trị mà họ được hưởng căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương vào thời điểm Toà án xét xử. (Điều 98 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị quyết số 02/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000) - Khi vợ chồng ly hôn, nếu nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên mà đã được đưa vào sử dụng chung thì về nguyên tắc, nhà đó vẫn thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà nên không chia. Tuy nhiên, nếu bên kia đã có công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà thì sẽ được bên chủ sở hữu nhà thanh toán một phần giá trị nhà tương xứng với công sức đóng góp của họ (Điều 99 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Quy định trên đây nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên không phải là chủ sở hữu nhà khi ly hôn và hoàn toàn phù hợp với thực tế khi mà vợ chồng chung sống trong căn nhà thuộc sở hữu riêng của một bên. Tuy vậy, để xác định công sức của các bên không phải là chủ sở hữu nhà trong việc nâng cấp, bảo dưỡng, cải tạo, sửa chữa nhà là hết sức khó khăn và phức tạp, đồng thời việc xác định phần giá trị nhà mà họ được thanh toán cũng là công việc khó khăn. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này để giúp Toà án giải quyết trường hợp cụ thể được thấu tình đạt lý hơn. 2.3.3 Giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng là quy kết của quan hệ hôn nhân hợp pháp, phát sinh kể từ khi kết hôn. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng là một trong những quyền và nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân của vợ và chồng. Pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện quan hệ cấp dưỡng giữa vợ chồng, kể cả trong trường hợp vợ chồng ly hôn 1.Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, Tr.239 . Điều 60 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Như vậy, theo luật định, giải quyết việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn được đặt ra khi có các điều kiện: - Một bên vợ, chồng khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng; - Bên kia có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trong trường hợp vợ chồng túng thiếu, có khó khăn cần được cấp dưỡng để ổn định cuộc sống phải là trường hợp ốm đau, hạn chế hoặc không còn khả năng lao động để sinh sống (hoặc có lý do chính đáng khác). Đối với người có khả năng lao động mà không chịu lao động thì Toà án không giải quyết cấp dưỡng. Điều này phù hợp với nguyên tắc của cuộc sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tránh tình trạng ỷ lại, dựa dẫm, lười lao động. Về mức cấp dưỡng sẽ do vợ chồng thoả thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Khi có lí do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết (Điều 53). Về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, theo Điều 54 quy định : việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kì hàng tháng, hàng quí, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Các bên có thể thoả thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Trường hợp người vợ, chồng sau khi ly hôn được giải quyết cấp dưỡng mà kết hôn với người khác thì không được cấp dưỡng nữa. (chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng khoản 6 - Điều 61) 2.3.4 Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi cha mẹ ly hôn Theo luật định, vợ và chồng (với tư cách là cha là mẹ của con) đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong việc thương yêu, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Sau khi ly hôn, việc giáo dục con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình cho bên nào trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phải căn cứ vào điều kiện thực tế của vợ chồng và phải bảo đảm vì lợi ích mọi mặt của con. Toà án cần xem xét về tư cách đạo đức, hoàn cảnh công tác, điều kiện kinh tế, thời gian của mỗi bên vợ, chồng…..xem ai là người có điều kiện thực tế thực hiện việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con được tốt hơn thì giao con cho người đó. Trường hợp vợ chồng đã thoả thuận với nhau về việc giao con cho ai trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, về mức cấp dưỡng nuôi con, nếu xét thấy chưa hợp lý, quyền lợi của con chưa được đảm bảo thì Toà án cần phải xem xét để điều chỉnh cho đúng vì lợi ích của con. Trường hợp cha mẹ ly hôn, càng phải tạo điều kiện để cha mẹ được gần gũi, tiếp xúc với con, trực tiếp nuôi dạy con và phải tạo cho con một tâm lý thoải mái, nhẹ nhàng để việc cha mẹ ly hôn không ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của con, để con không cảm thấy bị cô đơn, thiệt thòi. Trong những trường hợp đặc biệt, Toà án có thể quyết định giao con cho ông bà hoặc những người thân thích khác nuôi dưỡng, giáo dục nếu xét thấy cả cha mẹ đều không đủ tư cách hay không có điều kiện thực tế chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. (khoản 1, Điều 92) Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con, nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, nếu con đủ 9 tuổi trở lên phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc con dưới 3 tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác. (khoản 2, Điều 92) Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên. (Điều 93) Cùng với việc giao con cho ai nuôi dưỡng, giáo dục, Toà án đồng thời giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con (khoản 11, Điều 8) phù hợp với các quy định về điều kiện cấp dưỡng, mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Chương VI của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Về mức cấp dưỡng nuôi con phải bao gồm cả ăn, mặc, học hành, chữa bệnh,…..và các khoản phí tổn khác của con. Phải bảo đảm yêu cầu tối thiểu về đời sống của con, đồng thời Toà án căn cứ vào hoàn cảnh và khả năng kinh tế của người phải cấp dưỡng và người được giao trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con để quyết định mức cấp dưỡng cho hợp lý. Mặc dù pháp luật quy định vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau khi ly hôn nhưng thực tế vấn đề này ít xảy ra. Qua tìm hiểu, có nhiều nguyên nhân khiến vợ chồng không yêu cầu cấp dưỡng khi ly hôn. Có thể bên có khó khăn biết rằng nếu họ có yêu cầu thì bên kia cũng không muốn cấp dưỡng hoặc không có khả năng để cấp dưỡng, do vợ, chồng không muốn thừa nhận là mình có khó khăn vì sợ rằng không được nuôi con, hoặc đơn giản là vì tự ái, sĩ diện .…. Về vấn đề này, tại mục 11 Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau : Theo quy định tại khoản 1, Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha mẹ, do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không. Người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần phải giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con. (Mục 11, điểm a, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000) Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý. (Mục 11, điểm b, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000) Về phương thức cấp dưỡng, do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kì hàng tháng. (Mục 11, điểm c, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000) Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai. Về nguyên tắc, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác. (Mục 11, điểm d, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000) Bên cạnh việc quy định giao con cho ai nuôi, mức cấp dưỡng nuôi con, Điều 94 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định về quyền thăm nom con sau khi ly hôn. Quy định này đã cụ thể hoá hơn các Điều 44 và Điều 45 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 : “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó ”. Chương 3 Thực tiễn áp dụng luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về ly hôn và một số kiến nghị trong lĩnh vực hoàn thiện chế định về ly hôn 3.1 Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về ly hôn Trong những năm gần đây, cùng với sự thay đổi về kinh tế - xã hội, nền kinh tế thị trường cùng với sự hội nhập khu vực và thế giới được thiết lập và phát triển mạnh mẽ. Thực tế đó đã đêm lại sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và nói riêng. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng làm cho nhiều quan hệ xã hội bị tác động mạnh mẽ, trong đó có quan hệ gia đình. Sự tăng trưởng về kinh tế không đồng nghĩa với sự tăng trưởng về văn hoá. Văn hoá trong gia đình là nền tảng của những cuộc hôn nhân hạnh phúc. Song không phải ai cũng thấy hết điều đó. Những toan tính vật chất đời thường, những nhu cầu không chính đáng của cá nhân đã làm sa sút về mặt đạo đức, làm cho biết bao gia đình bị tan vỡ. Họ coi ly hôn như là một biện pháp để giải phóng con người ra khỏi cuộc hôn nhân đã chết. Hiện nay, số lượng vụ án ly hôn mà các Toà giải quyết ngày càng nhiều, có thể thấy rõ qua các số liệu sau 1. Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 : Năm 1999 là 40.988 vụ Năm 2000 là 44.377 vụ Năm 2001 là 48.476 vụ Năm 2002 là 54.035 vụ Năm 2003 là 55.456 vụ Năm 2004 là 58.844 vụ Năm 2005 là 63.934 vụ Năm 2006 là 65.796 vụ Năm 2007 là 73.114 vụ Qua thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn trong những năm gần đây, có thể đưa ra một số nhận xét chung như sau: Thuận lợi : Để đáp ứng yêu cầu giải quyết các án ly hôn, đồng thời giúp Toà án có thêm căn cứ pháp lý khi xét xử vụ án ly hôn, nhà nước ta đã và đang rất quan tâm xây dựng một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về Hôn nhân và gia đình như: Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị quyết số 35/QH ngày 09/6/2000 về việc thi hành luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT; Nghị quyết số 01/2003/NQ- HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình,.... Bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về Hôn nhân và gia đình, nhà nước ta cũng đã chú trọng đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Từ đó nâng cao trình độ dân trí về pháp luật nói chung và pháp luật về Hôn nhân và gia đình nói riêng, giúp họ có ý thức bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ lợi ích của chính bản thân, những người có liên quan và đặc biệt là con cái họ. Đây là dấu hiệu quan trọng giúp Toà án giải quyết các án kiện ly hôn. Trong những năm qua, ngành Toà án đã có nhiều nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án, Toà án nhân dân tối cao đã tổ chức nhiều lớp tập huấn nghiệp vụ cho các Thẩm phán Toà án địa phương và giới thiệu văn bản về luật Hôn nhân và gia đình và những văn bản pháp luật có liên quan. Trong công tác xét xử, Toà án các cấp đã cố gắng áp dụng đúng các quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình, luật dân sự và đã chú ý thực hiện hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao đã vận dụng trong việc giải quyết các vụ án cụ thể. Bên cạnh đó, do nhận thức được vấn đề ly hôn là hiện tượng xã hội phức tạp vì nó động chạm đến đời sống tình cảm của vợ chồng, lợi ích của gia đình, của xã hội và có nhiều thẩm phán đã tỏ ra có kinh nghiệm, nắm vững pháp luật, đặc điểm của vụ án ly hôn cũng như kiến thức xã hội, kiến thức tâm lý gia đình do vậy đã tiến hành hoà giải, đoàn tụ và đã hoà giải thành nhiều cặp vợ chồng. Chính điều này đã giúp cho đội ngũ tư pháp ngày càng linh hoạt trong công việc. Đây là điều kiện thuận lợi để chất lượng xét xử của Toà án các cấp đạt hiệu quả cao, đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Hạn chế: Trên thực tế, mặc dù có luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nhưng do tác động của nhiều nguyên nhân nên các án kiện về ly hôn ngày càng phức tạp về tính chất tranh chấp như chia tài sản, cấp dưỡng khi ly hôn, giải quyết vấn đề con cái. Nguyên nhân của tình trạng này trước hết là do Toà án có khó khăn trong công tác điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ. Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, nhiệm vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ thuộc về đương sự và Toà án chỉ xác minh điều tra khi cần thiết. Song thực tế, khi giải quyết các vụ án cụ thể, Toà án phải tự điều tra, thu thập các tài liệu, chứng cứ để xây dựng hồ sơ vụ án. Các đương sự trong nhiều trường hợp vì những lý do khác nhau, không những không tạo thuận lợi cho cán bộ Toà án điều tra mà còn có hành vi cản trở, gây khó khăn làm cho việc giải quyết vụ việc ngày càng phức tạp. Bên cạnh đó, khi tiến hành giải quyết ly hôn, nhiều Toà án đã có những sai phạm từ việc điều tra không đầy đủ, chưa làm rõ nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chưa đánh giá đúng mức tình trạng hôn nhân. Luật Hôn nhân và gia đình quy định Toà án chỉ giải quyết cho vợ chồng ly hôn khi xét thấy thực sự quan hệ quan hệ hôn nhân đã đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Để có đủ căn cứ chứng minh được “tình trạng trầm trọng” của hôn nhân đòi hỏi sự thận trọng, trách nhiệm, trình độ của người thẩm phán. Trong quá trình xét xử, có một số trường hợp vợ chồng đã mâu thuẫn sâu sắc, hôn nhân đã thực sự tan vỡ nhưng Toà án lại xử bác đơn, và ngược lại có vụ mâu thuẫn chưa trầm trọng, vẫn có thể cứu vãn lại được nhưng Toà lại xử cho ly hôn; việc nam nữ sống chung với nhau không có đăng ký kết hôn, mặc dù không vi phạm các điều kiện kết hôn nhưng lại xử huỷ hôn nhân trái pháp luật và cũng không ít trường hợp Toà án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, nhưng sau đó, vợ chồng lại trở về đoàn tụ chung sống. Có thể lấy ví dụ: trường hợp bà Nguyễn Thị Hồng Thắng xin ly hôn với ông Nguyễn Xuân Đồng. Giữa ông Đồng và bà Thắng chung sống với nhau từ năm 1990 và không có đăng ký kết hôn, nhưng tạo lập được một số tài sản trong thời gian chung sống. Nhưng do mâu thuẫn nên bà Thắng xin ly hôn và chia tài sản chung. Tại Bản án sơ thẩm số 19 ngày 23/12/1998 của Toà án nhân dân thị xã Bắc Giang xử huỷ hôn nhân trái pháp luật là không đúng 1. Tổ chức Toà chuyên trách về hôn nhân và gia đình trong hệ thống Toà án nhân dân ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Số đăng ký : 2001 - 38 - 042, mã số đề tài : cấp cơ sở, Hà nội, 2002 . Khi giao con cho cha hay mẹ nuôi thì sai sót nhiều nhất là việc giải quyết về phí tổn nuôi con. Điều này do Toà án không điều tra về khả năng kinh tế của mỗi bên nên có vụ đã bắt đương sự đóng góp phí tổn nuôi con gần hết thu nhập hành thàng, hoặc đóng góp phí tổn nuôi con quá thấp, hay không buộc bên không nuôi con phải đóng góp phí tổn nuôi con, dù họ có khả năng và bên nuôi con gặp khó khăn về kinh tế; cũng có trường hợp buộc bên đóng góp phí tổn nuôi con phải đóng một lần, với số tiền lớn, nên họ không có khả năng thi hành 2. Tổ chức Toà chuyên trách về hôn nhân và gia đình trong hệ thống Toà án nhân dân ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Số đăng ký : 2001 - 38 - 042, mã số đề tài : cấp cơ sở, Hà nội, 2002 . Trong việc xác định tài sản chung, Toà án nhiều khi đã bỏ sót tài sản chung, hoặc tài sản riêng của mỗi bên, tài sản của con lại coi là tài sản chung của vợ chồng. Khi vợ chồng chung sống với gia đình, không làm rõ công sức của mỗi bên trong việc duy trì, tạo lập và phát triển tài sản chung, đặc biệt phần đóng góp của vợ chồng, nên đã chia đều theo đầu người. Đối với trường hợp vợ chồng có thời gian ly thân, một bên đi nơi khác tạo lập tài sản, Toà án không xác minh mà đưa số tài sản này vào khối tài sản chung 2. Tổ chức Toà chuyên trách về hôn nhân và gia đình trong hệ thống Toà án nhân dân ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Số đăng ký : 2001 - 38 - 042, mã số đề tài : cấp cơ sở, Hà nội, 2002 . Ngoài ra, một số Toà án đã ra các bản án, quyết định không phù hợp với pháp luật, thời gian giải quyết vụ án thì một số trường hợp bị kéo dài hơn so với thời hạn luật định. Những khó khăn trên đã và đang ảnh hưởng tính khách quan, tính chính xác và hợp lý của các bản án, quyết định của Toà án. Vì vậy, quyền và lợi ích chính đáng của các cặp vợ chồng, thành viên trong gia đình, người có quyền và lợi ích chính đáng không được đảm bảo, ảnh hưởng tới niềm tin của quần chúng đối với Toà án. 3.2 Một số kiến nghị trong lĩnh vực hoàn thiện chế định về ly hôn Thực tế cho thấy nguyên nhân dẫn đến ly hôn thường bắt nguồn từ lỗi của một bên. Pháp luật phong kiến và tư sản đã dựa vào yếu tố lỗi để xây dựng căn cứ ly hôn. Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành lại dựa vào thực trạng của quan hệ hôn nhân để giải quyết ly hôn. Điều này cũng thể hiện sự tiến bộ so với pháp luật phong kiến và tư sản. Nhưng trong quá trình áp dụng có một số bất cập. Chính vì yếu tố “lỗi” không phải là vấn đề quyết định để xử lý cho ly hôn hay không, yếu tố lỗi cũng không liên quan gì đến việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn. Có chăng thì việc xác định yếu tố lỗi chỉ có ý nghĩa trong công tác hoà giải. Người có lỗi gây ra tình trạng hôn nhân tan vỡ lại chính là người đưa đơn yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn để thoả mãn lợi ích riêng cho mình nhưng lại không phải chịu bất cứ một loại chế tài nào của luật Hôn nhân và gia đình. Vì vây, vợ chồng không thận trọng trong việc quyết định hành vi xử sự của mình. Hiện tượng các cặp vợ chồng xin ly hôn ngày càng cao. Hậu quả pháp lý của ly hôn là như nhau để đẳm bảo tính công bằng. Nếu không có một loại chế tài nào đó thực sự nghiêm khắc mang tính răn đe, định hướng hành vi xử sự của vợ chồng thì hiện tượng ly hôn sẽ còn diễn ra nhiều hơn và bên có lỗi hay không có lỗi đều phải gánh chịu hậu quả pháp lý như nhau. Xây dựng một gia đình hạnh phúc, bền vững là nghĩa vụ chung của hai vợ chồng. Nếu chỉ có một bên vun đắp, chăm lo cho hạnh phúc gia đình thì cũng chẳng mang lại kết quả gì. Ví dụ: trường hợp anh Phạm Văn Đức và chị Nguyễn Thị Tâm kết hôn với nhau từ năm 1990 và họ chung sống hạnh phúc với nhau trong 5 năm đầu. Chị Tâm ở nhà làm ruộng, còn anh Đức chạy xe ôm, thương xuyên đi làm ăn xa. Do vậy, anh ít về thăm nhà, không quan tâm đến mẹ con chị. Thời gian kéo dài suốt 10 năm làm chị sinh nghi. Chị phát hiện ra anh có quan hệ bất chính với một phụ nữ khác. Mỗi lần anh về nhà là lại thường xuyên mắng chửi, đánh đập vợ con. Năm 2000, anh Đức làm đơn xin ly hôn với lý do quan hệ vợ chồng không hàn gắn được, tình nghĩa vợ chồng không còn và việc này đã kéo dài quá lâu nên tha thiết xin ly hôn. Chị Tâm cũng thừa nhận quan hệ vợ chồng đã chấm dứt từ năm 1996, chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nhưng không nhất trí ly hôn vì không muốn làm ảnh hưởng đến con cái. Xét quan hệ hôn nhân giữa anh Đức và chị Tâm thì mâu thuẫn đã trầm trọng. Cả hai người đều thừa nhận vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa. Qua nhiều lần hoà giải và hai lần xử bác đơn xin ly hôn, tình cảm hai người không hàn gắn lại được. Tại bản án số 04 ngày 04/01/2000 của Toà án nhân dân huyện Xuân Trường đã quyết định: xử cho ly hôn giữa anh Đức và chị Tâm vì cuộc hôn nhân tan vỡ mà không đạt được mục đích 1. TAND huyện Xuân Trường, Bản án sơ thẩm số 02/LHST ngày 14/01/2000 . Trong vụ án trên, việc giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuân Trường là đúng pháp luật vì Toà án đã giải quyết dựa vào căn cứ ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, nếu nhìn một cách khách quan thì rõ ràng, người chịu thiệt thòi là chị Tâm vì chị đã hết lòng vì chồng, vì con. Trong khi đó, anh Đức lại có quan hệ bất chính với người khác (việc làm của anh đã vi phạm vào Điều 147 Bộ Luật hình sự: “Người nào đang có vợ có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm” 2. Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội, 2004 ), không quan tâm đến mẹ con chị. Chính anh là người có lỗi trong việc dẫn đến vợ chồng ly hôn mà bên kia không có lỗi gì nghiêm trọng thì bên có lỗi phải chịu một phần thiệt thòi nhằm bù đắp những tổn thất cho bên kia. Chế tài được nói ở đây là việc đánh vào giá trị tài sản cá nhân của một bên vợ hoặc bên chồng có lỗi. Điều đó được thể hiện qua việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hoặc quy định bên có lỗi. Điều đó được thể hiện qua việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hoặc quy định bên có lỗi phải bồi thường cho bên kia một khoản tiền theo sự thoả thuận của vợ chồng hoặc theo mức do pháp luật quy định. Trước đây chúng ta thường phê phán quan điểm của pháp luật tư sản giải quyết ly hôn dựa vào yếu tố lỗi. Nhưng bên cạnh đó, cũng cần phải nhìn thẳng khía cạnh tích cực nào đó của việc quy định này. Xã hội Việt Nam mà hầu hết trong các vụ ly hôn, người thiệt thòi thường là phụ nữ và trẻ em. Từ những nhận định trên, em xin được đưa ra một số các kiến nghị sau : Thứ nhất, vấn đề ly hôn là một vấn đề bức xúc của xã hội, số các vụ ly hôn chiếm một tỉ lệ rất lớn. Để giải quyết vấn đề này, Toà án cần phải điều tra đầy đủ, làm rõ nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, đánh giá đúng mức tình trạng hôn nhân. Toà án chỉ giải quyết cho vợ chồng ly hôn khi xét thấy thực sự quan hệ quan hệ hôn nhân đã đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Để có đủ căn cứ chứng minh được “ tình trạng trầm trọng ” của hôn nhân đòi hỏi sự thận trọng, trách nhiệm, trình độ của người thẩm phán. Muốn vậy thì cần phải nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các thẩm phán. Thứ hai, cần phải tăng cường công tác hoà giải tại cơ sở, việc hoà giải thành cho các cặp vợ chồng từ khâu này sẽ giảm bớt số vụ việc ly hôn phải đưa ra Toà xét xử, đỡ tốn công sức, thời gian của cơ quan nhà nước và tiền bạc của người dân. Bên cạnh đó, việc hoà giải thành sẽ giúp hạnh phúc gia đình của cặp vợ chồng đó không bị tan vỡ, không làm ảnh hưởng tới các thành viên khác trong gia đình mà trực tiếp là con cái của họ. Các cán bộ hoà giải địa phương phải nắm được nguyên nhân, mức độ mâu thuẫn giữa vợ và chồng, điều kiện công tác, hoàn cảnh cụ thể của gia đình để giải thích, khuyên nhủ, động viên giáo dục, giúp đỡ đương sự hàn gắn những rạn nứt, mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Muốn vậy, phải nâng cao trình độ hiểu biết trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trang bị kiến thức pháp lý, tập huấn kĩ năng hoà giải cho cán bộ hoà giải ở địa phương. Thứ ba, Nhà làm luật cần có quy định hiệu quả mang tính chất chế tài nào đó đối với người có lỗi trong sự đổ vỡ của hôn nhân. Quy định này hoàn toàn mang tính chất hướng dẫn xử sự và có ý nghĩa giáo dục ý thức trách nhiệm về mặt pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Chế định ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được xây dựng dựa trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình trong lịch sử và Pháp luật về hôn nhân và gia đình ở các nước khác trên thế giới. Đây chính là sự thể hiện trình độ khoa học pháp lý trong việc xây dựng và áp dụng chế định ly hôn nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các thành viên trong gia đình và lợi ích chung của toàn xã hội, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc thực hiện chế định ly hôn có ý nghĩa quan trọng trên phương diện khoa học pháp lý và thực tiễn xã hội sâu sắc, hoàn thiện và thực hiện đúng các quy định về ly hôn tạo ra một trật tự xã hội và môi trường pháp lý trong quan hệ hôn nhân và gia đình, tạo tiền đề cho quá trình vận động, phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, từ bỏ những quan niệm lạc hậu của chế độ phong kiến, tiến lên xã hội công bằng, dân chủ, văn minh cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2. Bộ luật dân sự nước Cộng hoà Pháp năm 1998, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 3. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, Tr.239 4. Luật ly hôn của Canada năm 1985 5. Luật Hôn nhân và gia đình Singapore 6. Luật dân sự Nhật Bản 7. Bộ luật dân sự Sài Gòn năm 1972 8. Bộ luật dân sự Trung Kì năm 1936 9. Bộ dân luật Bắc Kì năm 1883 10. Bộ luật giản yếu Nam Kì năm 1883 11. Bộ luật Hồng Đức năm 1483 12. Bộ luật Gia Long năm 1815 13. Bộ luật gia đình của chế độ Sài Gòn cũ năm 1959 14. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946 15 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959 16 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 17 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 18 Ly hôn- Một sự biếm hoạ của Chủ nghĩa Mác và Chủ nghĩa kinh tế đế quốc, Toàn tập, Tập 30, Nxb Maxcơva năm 1981, Tr 163 19 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo, tập I, Gia đình, Sài Gòn, 1962, tr 561 20 Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 8 ( 208 ) 21 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 22 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 23 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 24 C.Mác và Ph. Ănggheh : Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, T1,Tr. 234 - 235 25 V.I.Lênin -Toàn tập, Tập 25, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1980, Tr 335. 26 Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hường : Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tr. 160 – 162 27 Tổ chức Toà chuyên trách về hôn nhân và gia đình trong hệ thống Toà án nhân dân ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Số đăng ký : 2001 - 38 - 042, mã số đề tài : cấp cơ sở, Hà nội, 2002 28 Nghị định số 70/2001/NĐ- CP ngày 03/10/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 29 Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 30 Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 32 Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật 33 Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà quy định về vấn đề ly hôn 34 Tạp chí Toà án nhân dân số 5/2003 35 Tạp chí Toà án nhân dân số 9/2002 36 Tạp chí Toà án nhân dân số 1/2001 37 Tạp chí dân chủ và pháp luật tháng 7/2002 38 TANDTC ( 1999 ), Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 1999 39 TANDTC ( 2000 ), Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 2000 40 TANDTC ( 2001 ), Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 2001 41 TANDTC ( 2002 ), Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 2002 42 TANDTC ( 2003 ), Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 2003 43 TAND huyện Gia Lâm, Bản án sơ thẩm số 02/LHST ngày 14/8/2003 44 TAND huyện Xuân Trường, Bản án sơ thẩm số 02/LHST ngày 14/01/2000 45 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội, 2004

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLy hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.doc
Luận văn liên quan