Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải tăng cường trình độ của cán bộ quản lý
Nhà nước về đầu tư bằng cách có chế độ tuyển dụng hợp lý thu hút được nhiều
người tài có trình độ cao nhưng đồng thời có tư cách đạo đức tốt. Có như vậy,
đội ngũ cán bộ chúng ta mới có cái gốc trong sạch và vững vàng. Tuy nhiên,
chúng ta cũng cần phải có chính sách tiền lương hợp lý để tiền lương không phải
là yếu tố thúc đẩy tham nhũng.
43 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về đầu tư và công bằng xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệc thí điểm lồng ghép Chiến
lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo vào kế hoạch phát triển
hàng năm và dài hạn của các tỉnh và tỉnh Trà Vinh sẽ là một trong những tỉnh
nghèo đầu tiên được thực hiện.
2.2. Nội dung và các hoạt động Đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo.
Nhà nước đã đầu tư cho xoá đói giảm nghèo thông qua các chương trình
mục tiêu của quốc gia.
Chương trình xoá đói giảm nghèo là một chương trình lớn của quốc gia,
có tính chất chiến lược ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
bền vững. Mục tiêu của chương trình này là giảm dần và xoá bỏ hộ đói, giảm hộ
nghèo, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Mỗi năm phấn đấu giảm 3- 4% hộ đói
nghèo. UNDP, WB và ADB thường trợ vốn cho các chương trình này.
Chương trình 135 là chuơng trình kinh tế xã hội tổng hợp, thực hiện trên địa
bàn các xã được công nhận là xã đặc biệt khó khăn (cả nước có trên 1700 xã).
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Mục tiêu tổng quát của chương trình là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho đồng bào các dân tộc tạo điều kiện các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo
nàn lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập với sự phát triển chung của cả nước.
Thành tựu cơ bản của chương trình 135 đã thể hiện hầu hết các lĩnh vực đời
sống xã hội vùng đồng bào dân tộc miền núi. Hàng ngàn công trình cơ sở hạ tầng
tại các xã đặc biệt khó khăn và các trung tâm cụm xã được xây dựng. Hệ thống
cơ sở vật chất ở miền núi, vùng cao được hình thành và cải thiện rõ rệt so với
trước đây, góp phần thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần từng bước phát triển;
nhiều vùng đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa.
2.3. Những hoạt động chính của chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo
Biện pháp đầu tiên của chương trình là đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng
cho các xã nghèo. Ngay từ năm 1999, chưong trình đã đầu tư hơn 500 tỷ đồng
xây dựng 1753 công trình cho các xã nghèo như đường giao thông, thuỷ lợi nhỏ,
trường học hệ thống cấp nước và điện sinh hoạt, trạm y tế, chợ nông thôn,…
Ngoài vốn NSNN, các địa phương huy động thêm nguồn vốn trên địa bàn, lồng
ghép vốn xây dựng cơ bản từ các chương trình và dự án khác để đầu tư thêm cho
176 xã nghèo khác với tổng kinh phí 100 triệu đồng.
Với công tác định canh định cư, di dân kinh tế mới chương trình đã đầu tư
252 tỷ đồng cho việc định canh định cư tập trung cho 47 nghìn hộ, hỗ trợ cho họ
khoanh nuôi bảo vệ trồng mới xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định đời sống di dân
kinh tế mới cho 15,3 nghìn hộ tính tại thời điểm năm 1999.
Cuối cùng, hoạt động đầu tư cho xoá đói giảm nghèo cũng được thực hiện
qua việc chuyển giao công nghệ hướng dẫn cho họ cách làm ăn. Năm 1999,
chương trình đã đầu tư 8 tỷ đồng để xây dựng 150 mô hình trình diễn kỹ thuật, tổ
chức 180 lớp khuyến nông cho khoảng trên 854 nghìn lượt người nghèo. Đây là
cách thức có hiệu quả lâu dài, một biện pháp tránh tái nghèo tốt nhất.
2.4. Những bất cập tồn tại trong hoạt động đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo.
a) Nguồn lực đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn hạn chế, chưa cân đối với mục
tiêu chung nhất là nguồn vốn đầu tư từ NSNN, hàng năm mới chỉ có thể đáp ứng
được khoảng 15- 20% yêu cầu.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Nguồn lực trong nước còn quá hạn hẹp, vừa phải đầu tư lớn cho sự phát triển
chung của đất nước vừa phải đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, trong khi đó việc
khai thác các nguồn lực chưa được nhiều và chưa có hiệu quả. Một số định
hướng đầu tư đang trong quá trình điều chỉnh, khả năng tái đầu tư không đáng
kể, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Hơn nữa thị trường tài
chính đang hình thành nên huy động đầu tư còn yếu.
Các nguồn lực cho chương trình xóa đói giảm nghèo tuy có tăng lên qua các
năm, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của các địa phương. Địa bàn trọng điểm
cần xóa đói giảm nghèo hiện nay là những vùng cao, vùng sâu có nhiều khó
khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và lạc hậu, suất đầu tư cao, chi phí lớn, khó thu hút
khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Đây thực sự là một thách thức lớn cho công tác
xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới.
b) Hiệu quả đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn chưa cao.
Do các dự án đầu tư này tại các vùng khó khăn thường xa TW nên ít chịu sự
giám sát chặt chẽ của các cấp TW. Trong khi năng lực cán bộ địa phương cho
công tác xoá đói giảm nghèo lại rất thấp, không đủ khả năng kiểm tra các công
trình đầu tư vốn lớn từ TW. Do vậy tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu tư
theo các chơng trình về Xoá đói giảm nghèo vẫn rất phổ biến.
Trong chương trình 135, hàng năm chúng ta đều có tổ chức kiểm tra, có
thống kê của các tỉnh, của các đoàn trung ương. Năm 2001, qua kiểm tra 17 dự
án với số vốn khoảng 9,5 tỷ đồng, thì những sai sót được phát hiện là 687 triệu
đồng. Tình trạng thất thoát cũng do nhiều nguyên nhân khách quan như bị đội
giá thành xây dựng hoặc điều kiện thi công rất khó khăn.
Chất lượng các công trình xây dựng cũng rất thấp do bên thi công khó
thanh toán công trình nên thiếu tính trách nhiệm. Nhiều công trình không làm
đúng quy tắc đấu thầu mà lạm dụng chỉ định thầu.
Năng lực cán bộ xã rất hạn chế, nhiều cán bộ đọc không thông thạo nên không
thể quản lý và giám sát đầu tư. Năng lực hấp thụ tại địa phương rất thấp, có nơi
chỉ có 400 triệu đồng nhưng địa phương vẫn không biết nên đầu tư vào công
trình nào cho hiệu quả. Do đó tại nhiều xã, nhân dân và địa phương không được
tham gia vào chương trình. Vì vậy, tính giải quyết việc làm không cao.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
c) Hệ thống chính sách, cơ chế đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn thiếu đồng
bộ. Cơ chế vận hành và trách nhiệm của từng ngành chưa rõ, chưa dân chủ công
khai, kiểm tra giám sát tuy có thực hiện nhưng còn mang tính hình thức. Còn
thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị quản lý dự án xoá đói giảm
nghèo. Hiện nay, hệ thống các chương trình dự án XĐGN ở nước ta còn nhiều
cơ quan, đơn vị tham gia quản lý.
Còn thiếu sự tham gia đầy đủ tích cực của cộng đồng trong việc thực
hiện dự án XĐGN. Tại nhiều địa phương, người dân vẫn không được tham gia
đầy đủ trong việc trực tiếp quyết định, xây dựng kế hoạch và quản lý, vận hành
các chương trình dự án XĐGN. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý các chương trình
dự án XĐGN còn chồng chéo và chưa tập trung, thống nhất. Cán bộ quản lý các
chương trình dự án đầu tư cho XĐGN thường phải kiêm nhiệm rất nhiều công
việc khác nhau gây nên sự quá tải đối với các công tác hành chính.
d) Tính bền vững của thành quả XĐGN chưa cao. Một bộ phận dân cư có nguy
cơ phát sinh nghèo và tái đói nghèo do sinh sống ở vùng thường xuyên bị thiên
tai, mất mùa, do thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định, có thu nhập thấp và
không có tích luỹ.
II. Đầu Tư cho các vấn đề phúc lợi xã hội.
1. Tình hình Đầu tư cho Giáo dục và tính CBXH trong giáo dục.
1.1. Tình hình đầu tư cho Giáo dục và đào tạo.
Phát triển GD ĐT nhằm tạo ra các cơ hội về việc làm mới và nâng cao thu
nhập qua đó thúc đẩy xoá đói giảm nghèo và thực hiện CBXH .
Nhà nước ta từ trước tới nay đều rất chú trọng đầu tư cho giáo duc. Ngân sách
giáo dục từ năm 1995 trở đi mỗi năm tăng 1% và năm 2000 ngân sách giáo dục
đạt 15% tổng ngân sách tiêu dùng. Giai đoạn 1996- 2000, vốn đầu tư cho giáo
dục là 15400 tỷ đồng chiếm 2,7 % vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ lệ đầu tư cho giáo
dục từ vốn NSNN giai đoạn 1996-2000 là 6,6%. Trong giai đoạn 2001- 2003,
đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, tăng
15,2%/năm, nên tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực này đã đạt tương ứng là
12,7% và 8,1% vốn đầu tư toàn xã hội. Cũng trong giai đoạn 2001- 2003, tỷ lệ
đầu tư cho khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
thao từ nguồn NSNN chiếm 21,1%. Năm2003, tỷ lệ đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là chiếm 3,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đầu tư cho giáo dục đã bước đầu tập trung xây dựng các cơ sở giáo dục
trọng điểm, đã hình thành cơ sở vật chất ban đầu cho các cơ sở giáo dục lớn.
Vốn viện trợ và vay nước ngoài (ODA) đã được ưu tiên đầu tư cho giáo dục
chưa kể các dự án viện trợ không hoàn lại. Nhà nước đã thực hiện một số dự án
thành công như như dự án phát triển giáo dục tiểu hoc (gần 80 triệu USD vay
vốn WB), dự án phát triển giáo dục dạy nghề (trên 100 USD, vay vốn ADB),
chương trình kiên cố hoá trường học…
Tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng trường học là rất lớn. Cũng
như trong đầu tư xây dựng cơ bản khác, trong khâu lập và thẩm định dự án, hiện
tượng lập dự toán vượt khối lượng so với thiết kế rất phổ biến. Ngoài ra, quy
trình lập, phê duyệt đầu tư không chặt chẽ, sử dụng vốn không đúng mục đích đã
gây lãng phí rất lớn.
1.2. Tình hình CBXH trong Đầu tư cho giáo dục.
Đầu tư cho Giáo dục cho đã tăng nhưng tính bất bình đẳng trong giáo
dục cũng tăng nhanh. Trong thành thị xu hướng đầu tư vào giáo dục ngày càng
tăng trong lúc ở nông thôn đặc biệt là vùng sâu, vùng xa giáo dục bị xuống cấp
nghiêm trọng. Người dân ở những khu vực này ít có xu hướng đầu tư cho giáo
dục. Chính vì vậy, trong khi cơ hội giáo dục ở khu vực thành thị có rất nhiều thì
ở khu vực nông thôn lại rất ít. Và khu vực thành thị có 47% dân số tốt nghiệp
PTTH trở lên thì ở nông thôn chưa quá 30% số dân tốt nghiệp PTCS (số liệu
năm 2000).
Cũng theo số liệu thống kê năm 2000, chúng ta thấy khoảng 90% người
nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống
cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%,
tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo
dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận
được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo.
Tỷ lệ nghèo giảm xuống chỉ khi trình độ giáo dục tăng lên. 80% số
người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp.
Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác,
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và
ổn định hơn.
2. Đầu tư cho y tế và tăng cường các dịch vụ y tế cho ngưòi nghèo.
Năm 2003, đầu tư cho y tế và cứu trợ xã hội cũng tăng, chiếm khoảng
1,3% so với vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn 2001- 2003, đầu tư cho lĩnh
vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, tăng 15,2%/năm, nên tỷ
trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực này đã đạt tương ứng là 12,7% và 8,1% vốn
đầu tư toàn xã hội. Theo Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2003- 2005,
ngành y tế cần đầu tư khoảng 1,5 nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên, con số trên vẫn còn quá nhỏ bé so với nhu cầu về y tế của
người dân. Hầu hết các xã có cơ sở y tế nhưng thuốc men, trang thiết bị nghèo
nàn, đội ngũ thầy thuốc còn nhiều hạn chế. Chi phí sử dụng dịch vụ y tế và tiền
thuốc chữa bệnh trung bình của một người là 35000 đồng cho 1 lần khám và
điều trị tại các trạm y tế xã; 77000 đồng cho một lần đi khám và chữa bệnh ngoại
trú tại bệnh viện và con số này là 210000 đồng cho một lần chữa bệnh nội trú tại
bệnh viện. Số liệu trên cho thấy các gia đình đã phảI trả khá nhiều tiền cho việc
sử dụng các y tế. Do đó, cơ hội chữa bệnh cho người có thu nhập thấp lại càng
khó hơn khi 1 tháng thu nhập của họ chỉ khoảng hơn 100000 đồng. Do vậy tính
bình đẳng trong y tế cũng khó thực hiện.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ
TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. Một số mục tiêu trong việc giải quyết vấn đề Công Bằng Xã Hội của
Đảng và Nhà nước ta.
1. Mục tiêu về giảm tỷ lệ nghèo đói.
Đến năm 2010 giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế và giảm
3/4 tỷ lệ nghèo về lương thực thực phẩm so với năm 2000. Đến năm 2005 giảm
2/5 tỷ lệ hộ nghèo và đến 2010 giảm 3/5 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2000 theo
chuẩn của Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm.
2. Đảm bảo công trình hạ tầng thiết yếu cho người nghèo, cộng đồng nghèo
và xã nghèo
Tiếp tục cải tạo, nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các công trình hạ
tầng thiết yếu (thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm y tế xã, đường giao thông, điện
chiếu sáng, nước sinh hoạt, chợ, các điểm bưu điện văn hóa xã, nhà hội họp...)
bảo đảm đến năm 2005 cung cấp cho 80% xã nghèo và đến 2010 cho 100% xã
nghèo có các cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đến năm 2005 mở rộng điện lưới quốc gia
đến trung tâm 900 xã nghèo, bảo đảm 90% số xã có điện. Bảo đảm có đường ô
tô về tới trung tâm xã. Phấn đấu 80% đường xã có kết cấu mặt đường phù hợp,
trong đó 30% mặt đường được rải nhựa hoặc xi măng.
Đến năm 2005, phấn đấu 80% dân số thành thị, đặc biệt là ở những khu vực xa
đường giao thông chính, và 60% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch với
số lượng 50 lít/người/ngày.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
3. Tiép tục giải quyết việc làm đặc biệt cho người nghèo.
Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 1,4-1,5 triệu lao động/năm. Nâng tỷ
lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới lên 40% vào năm 2005 và 50% vào
năm 2010. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005 và 40% vào
năm 2010. Nâng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005
và 85% vào năm 2010, trong đó tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của nữ là 75%
vào năm 2005 và 80% vào năm 2010.
Giảm tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị xuống khoảng 5,4%
trong tổng số lao động trong độ tuổi vào năm 2005 và xuống dưới 5% vào năm
2010.
4. Tăng cường hệ thống giáo dục và đưa giáo dục vè tay người nghèo.
Củng cố, duy trì và phát huy thành quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa
mù chữ, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện phổ cập
trung học cơ sở trong cả nước. Tăng tỷ lệ trẻ em dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12%
năm 2000 lên 15% năm 2005 và 18% năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh đi học trong
độ tuổi lên 97% vào năm 2005 và lên 99% vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh
học xong tiểu học lên 85-95% vào năm 2010. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở
các thành phố, khu đô thị và một số nơi khác vào năm 2005 và toàn quốc vào
năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi lên 80% vào năm
2005 và 90% vào năm 2010.Tăng tỷ lệ học sinh trung học phổ thông trong độ
tuổi lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2010,
phần lớn các trường tiểu học và phổ thông cơ sở có đủ điều kiện cho học sinh
học tập và hoạt động hai buổi tại trường.
Phấn đấu xóa mù chữ cho 95% số phụ nữ bị mù chữ ở độ tuổi dưới 40
tuổi vào năm 2005 và 100% vào năm 2010. Thu hút học sinh trong độ tuổi vào
các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% vào năm 2005, 15% năm 2010; thu
hút học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào các trường dạy nghề từ 6% năm
2000 lên 10% năm 2005 và 15% năm 2010. Cải thiện chất lượng giáo dục ở mọi
cấp học và cho mọi đối tượng, đặc biệt chú ý đến các học sinh nghèo. Nâng cao
chất lượng giáo dục cho tất cả mọi người, đặc biệt cho người nghèo.
II. Một số giải pháp khắc phục những khó khăn tồn tại trong hoạt động
đầu tư cho Công bằng xã hội
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
1. Tiếp tục tăng cường và đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho Công bằng xã
hội.
Một trong những tồn tại trong hoạt động đầu tư cho CBXH mà chúng ta
đã tìm hiểu ở trên chính là nguồn vốn đầu tư cho các lĩnh vực này còn quá nhỏ
bé.Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt là cần tăng nguồn vón đầu tư cho CBXH. Tuy
nhiên, nguồn vốn NSNN lại hạn chế do vừa thực hiện mục tiêu cho phát triển
kinh tế vừa thực hiện CBXH trong khi nguồn vón từ các khu vực tư nhân, nước
ngoài lại ít khi đầu tư vào CBXH. Vì vậy để đạt được mục tiêu tăng vốn đầu tư
cho CBXH, chúng ta cần phải tiếp tục có một số biện pháp thúc đẩy quá trình xã
hội hoá đầu tư cho CBXH để không còn lệ thuộc vào một nguồn từ NSNN.
Đối với nguồn vốn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nhà nước
cần tiếp tục hoàn chỉnh và bổ sung Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước
ngoài; mở rộng phạm vi hình thức ưu đãi để thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu
tư của xã hội cho nông nghiệp và nông thôn. Chúng ta cũng cần công bố rộng rãI
kế hoạch phát triển, danh mục các chương trình các dự án đầu tư trung hạn và
dài hạn của ngành nông nghiệp, dịch vụ nông thôn để định hướng cho các nhà
đầu tư lựa chọn, làm cơ sở cho việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển.
Năm 2004, Bộ Nông nghiệp vừa đưa ra định hướng kêu gọi vốn đầu tư FDI vào
các ngành lương thực, rau quả, cà phê, cao su, chè, chăn nuôI, trồng rừng và chế
biến gỗ.
Đối với nguồn vốn cho sự phát triển của các vùng sâu, vùng xa, Nhà nước
cần có chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư bằng các chính sách thuế, giá
thuế đất.. có lợi hơn cho nhà đầu tư ở vùng khác. Ngoài ra, các vùng này cần phảI
thực hiện tốt công tác cải cách nền hành chính và chống tham nhũng có hiệu quả.
Có như vậy mới tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư có điều kiện kinh
doanh đạt hiệu quả.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần khuyến khích xã hội hoá của vấn đề phúc lợi xã
hội. Bởi nó khai thác được nguồn lực to lớn của xã hội đồng thời khơi dậy lòng
nhân ái, đùm bọc chia sẻ khó khăn của người khác. Tiếp tục khuyến khích tập
thể và tư nhân tham gia các hoạt động từ thiện và hoạt động xã hội khác.
2. Nâng cao hiệu quả đầu tư cho xoá đói giảm nghèo và Công bằng xã hội.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Hiệu quả đầu tư cho CBXH trong thời gian qua chưa cao, chưa tương xứng với
nguồn lực mà xã hội phải bỏ ra. Chính vì vậy, tác dụng tích cực của nó đối với
CBXH chưa cao. Do đó, chúng ta cần tiếp tục nâng cao hiệu quả đầu tư cho
CBXH.
a) Để khắc phục hiện tượng đầu tư trong nông nghiệp nông thôn, trong xoá đói
giảm nghèo còn phân tán, dàn trải, chúng ta cần đầu tư tập trung có trọng điểm,
đầu tư cần theo quy hoạch chung của Nhà nước. Trước hết, chúng ta cần tập
trung đầu tư hơn nữa cho phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là hệ thống đường
giao thông nông thôn, coi đây là khâu đột phá có tính quyết định tạo tiền đề thúc
đẩy sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, cần nhanh chóng
triển khai đầu tư để hình thành các trung tâm cụm xã, tạo điều kiện phát triển
giao lưu hàng hoá, cải thiện đời sống đồng bào ở những vùng khó khăn. Bên
cạnh đó, chúng ta cần tiếp tục khắc phục hoàn toàn tình trạng “xin cho” dự án
và “chạy” để có dự án; thực hiện phân phối vốn ngân sách trên cơ sở có căn cứ
khách quan, xác đáng.
Đối với mỗi vùng khó khăn, đầu tư tập trung trọng điểm sẽ giúp cho các
vùng này nhanh chóng rút ngắn khảng cách với các vùng khác. Đối với vùng
trung du và miền núi Bắc, cần hướng tới một số trọng tâm: tuyến đường bộ biên
giới nố các tỉnh trong vùng; một số trung tâm kinh tế văn hoá xã hội trong vùng;
hệ tống rừng phòng hộ.
Đối với vùng Tây nguyên trọng tâm là: tuyến đường Hồ Chí Minh trên
địa bàn các tỉnh trong vùng; một trung tâm kinh tế văn hoá chung cho toàn vùng;
hệ thống các tiểu vùng sản xuất hàng hoá mà vùng có thế mạnh như chè, cà phê,
cao su, ngô, đậu, hồ tiêu,…
Đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long, cần hoàn thiện hệ thống đường
bộ nối liền các tỉnh; hình thành vùng sản xuất lúa hang hoá nhằm đảm bảo an
toàn lương thực quốc gia và xuất khẩu.
b) Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư cho CBXH là tình
trạng thất thoát lãng phí rất lớn. Nguyên nhân của tình trạng trên có rất nhiều
song chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau.
Chúng ta cần đầu tư một cách đồng bộ, toàn diện và có hiệu quả thiết thực.
Trong nông nghiệp, chúng ta cần đầu tư từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ cho
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
từng loại sản phẩm, ưu tiên đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu tránh tình trạng
một số nhà máy đã hoàn thành song chưa hoạt động vì không có nguyên liệu.
Ngoài ra, tại các vùng sâu, vùng kém phát triển, chúng ta cần tạo lập môi trường
đồng bộ như phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực để làm cơ sở cho
xoá đói giảm nghèo được thực hiện vững chắc. Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch
tổng thể về phát triển vùng và phát triển ngành.
Bên cạnh đó, chúng cần tiếp tục đẩy mạnh và tăng cường công tác giám sát
trong việc thực hiện các dự án đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, nông nghiệp. Có
thể phân cấp trách nhiệm giám sát dự án cho từng địa phương để người dân có
thể trực tiếp tham gia lập kế hoạch và xem xét quá trình thực hiện dự án. Bảo
đảm người dân được cung cấp đầy đủ thông tin về hoạt động kinh tế, các chỉ tiêu
kế hoạch và nguồn tài chính cho các dự án, chương trình phát triển ở địa phương,
được quyền tham gia, góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển, tham gia thực
hiện, vận hành, duy tu, bảo dưỡng và đóng góp công lao động, thể hiện vai trò
chủ nhân để nâng cao trách nhiệm trong sử dụng và quản lý công trình cơ sở hạ
tầng.
Cần tiếp tục tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong
trong đầu tư và thực hiện dự án. Nhà nước cũng cần giảm bớt mối đầu tư, khắc
phục tình trạng đầu tư qua nhiều khâu, nhiều cấp để chống đầu tư trùng lặp và
cắt xén vốn đầu tư. Phải quy định rõ trách nhiệm của cơ quan cấp vốn là phải cấp
đúng tiến độ, quy mô và bảo đảm nguồn vốn đó đến được tận tay người dân.
c) Vốn đầu tư phát huy tác dụng hiệu quả đến đâu phụ thuộc vào cán bộ lãnh
đạo, các ngành mà trực tiếp là những cán bộ làm công tác quản lý đầu tư từ TW
đến cơ sở. Thực tiễn cho thấy, địa phương nào mà cán bộ có năng lực cao thì
hiệu quả đầu tư cũng cao. Do vậy chúng ta cần tiếp tục tăng cường năng lực cán
bộ quản lý cấp xã cả về số lượng và chất lượng để sử dụng đồng vốn có hiệu quả
hơn. Cần phải phân công thêm cán bộ chuyên trách cho các chương trình dự án
Xoá đói giảm nghèo đồng thời tăng cường cán bộ kỹ thuật chuyên môn trong
công tác đào tạo về quản lý chương trình lập kế hoạch, giám sát và đánh giá dự
án. Về chất lượng, các cán bộ cấp xã, bản cần được đào tạo một cách bài bản với
những nội dung như: phương pháp xây dựng, quản lý và cách thức phối hợp lồng
ghép các dự án nhỏ trên địa bàn xã; quản lý sử dụng và khai thác các công trình
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Tiếp tục thực hiện chính sách đẩy
mạnh các chính sách thu hút nhân tài về các địa phương.
d) Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần khuyến khích các thành phần kinh tế khác
tiếp tục đầu tư phát triển ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, tránh tình
trạng nguồn vốn từ NSNN chỉ tập trung cho các doanh nghiệp Nhà nước. Bởi
chúng ta đều biết rằng các doanh nghiệp này hoạt động không mấy hiệu quả làm
lãng phí nguồn lực của Nhà nước, lãng phí đồng vốn đầu tư cho nông nghiệp và
xoá đói giảm nghèo. Nhà nước khuyến khích các hộ nông dân đầu tư và làm giàu
chính đáng. Chúng ta cũng cần phải thu hồi mặt bằng đối với những doanh
nghiệp sử dụng kém hiệu quả để cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thuê lại;
biểu dương và tôn vinh các nhà doanh nghiệp có chí hướng phát triển lâu dài
trong một số lĩnh vực đã kinh doanh đạt hiệu quả, đóng góp Ngân sách và tạo
nhiều việc làm cho người nghèo
e) Cuối cùng, cũng sẽ rất cần thiết nếu chúng ta quan tâm đến việc đầu tư phát
triển nguồn nhân lực; đặc biệt là việc đầu tư giáo dục đưa kiến thức về tận người
dân tại các vùng khó khăn. Có như vậy họ mới biết cách sử dụng vốn và đầu tư
có hiệu quả hơn.
Tóm lại, hiệu quả đầu tư nói chung và đặc biệt là hiệu quả đầu tư cho
CBXH chưa cao đòi hỏi các biện pháp khắc phục trước mắt cũng như lâu dài.
Như thủ tướng Phan Văn Phải nói tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm
kỳ 2002 -2007: “ Từ nay trở đi phải soát xét rất kỹ về đầu tư. Chúng ta đã có
những bài học đau xót về sự ấu trĩ trong đầu tư, không mang lại hiệu quả kinh tế.
Từng bộ, ngành phải soát xét lại cách đầu tư, bảo đảm đầu tư tập trung, đúng
hướng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng
cạnh tranh, tạo việc làm cho người lao động.”
3. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách đầu tư cho Công bằng xã hội.
Để hoàn thiện các chính sách đầu tư, trước hết chúng ta cần phảI xác
định rõ mục tiêu đầu tư và có chính sách đầu tư cụ thể cho các ngành và lĩnh
vực. Có như vậy, các chính sách đầu tư cho CBXH mới không bị chồng chéo lẫn
nhau.
Tiếp tục rà soát, điều chinh bổ sung các quy hoạch, các chương trình dự án
đang triển khai đầu tư phù hợp với yêu cầu phát triển của các ngành, địa phương
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
và hội nhập của nền kinh tế; đồng thời làm căn cứ cho đầu tư xây dựng các
chương trình, dự án tiếp theo của ngành, vùng.
Đối với các chương trình dự án Nhà nước đang tập trung đầu tư như đầu
tư thuỷ lợi trong ngành nông nghiệp, chương trình định canh, định cư trong đầu
tư cho các xã khó khăn,..hoặc Nhà nước đầu tư 100% vốn ngân sách thì chuyển
sang hình thức đầu tư khác bằng nhiều nguồn vốn, để các thành phần kinh tế
khác cũng tham gia vào các dự án này. Nhà nước chỉ đầu tư hỗ trợ các hạng mục
chủ yếu như thuỷ lợi, đường giao thông chính, các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho
người nghèo. Có như vậy, nguồn vốn từ NSNN sẽ được tập trung trọng diểm
hơn, ít phân tán dàn trải.
Nhà nước cũng cần tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện các chính sách đầu tư
phát triển để huy động mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư của xã hội, nhất là vốn
đầu tư của khu vực tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước cần tiếp tục
hoàn chỉnh Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài; mở rộng phạm
vi hình thức ưu đãi để thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư của xã hội cho
nông nghiệp và nông thôn và các vùng khó khăn.
Tiếp tục tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị quản lý
dự án xoá đói giảm nghèo trong việc đưa ra các chính sách đầu tư phù hợp để
tránh tình trạng các chính sách chồng chéo nhau, các chính sách của vùng này lại
làm kìm hãm và cạnh tranh với vùng khác.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh các chính sách thu hút nhân tài về các vùng khó
khăn. Có thể đào tạo với những người ở ngay tại địa phương đó hoặc ưu tiên
những cán bộ nhiều tâm huyết về với vùng cao, đưa các sinh viên trẻ có khả
năng cống hiến cao về các xã, bản, mường. Tất nhiên, chúng ta phải cụ thể các
chính sách khuyến khích đó bằng các ưu đãi về tiền lương, công việc ổn định và
nhà cửa tai các địa phương đó.
Cuối cùng, Nhà nước cần thực hiện các chính sách về đầu tư và tín dụng
cho người nghèo nhằm mở rộng khả năng vay cho nông dân, chặn đứng tệ văy
nặng lãi thường phổ biến ở vùng nông thôn hay ở mốt số vùng người dân còn có
trình độ kém. Trong đó, nhà nước cần quy định lãi suất cho vay hợp lý đối với
từng vùng, từng hộ đặc biệt khó khăn để người đi vay có khả năng trả được nợ
vay ngân hàng.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
III. Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu tư trong việc thực hiện
Công bằng xã hội.
1. Phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế một cách hợp lý gắn với xoá đói giảm nghèo và Công bằng xã hội.
1.1. Phát huy vai trò của đầu tư hợp lý trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế giữa các ngành, gắn với xoá đói giảm nghèo và CBXH.
a) Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tạo nền tảng vững chắc cho
xoá đói giảm nghèo và CBXH.
Chúng ta đều biết rằng nông nghiệp có sự giới hạn tăng trưởng do diện
tích đất trồng trọt giới hạn và nhu cầu của thị trường nông sản truyền thống hạn
chế. Chính vì vậy, năng suất lao động ở khu vực nông thôn rất thấp và phần lớn
hộ nghèo đều nằm trong khu vực này.
Để đạt mức tăng trưởng cao, tạo cơ hội cho xóa đói giảm nghèo phải tiến
hành đầu tư đồng bộ như đầu tư phát triển khoa học công nghệ; tăng đầu tư cho
ngành nông nghiệp đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn; đầu tư phát triển nguồn
nhân lực. Bên cạnh đó, chúng ta phải tiến hành đồng bộ các biện pháp chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông thôn;cải cách chính sách về đất, đầu tư, tín dụng để
hướng đầu tư phục vụ cho người nghèo. Qua đó, chúng ta có thể thực hiện tốt
các mục tiêu tăng năng suất, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng
hóa nông nghiệp trên thị trường trong nước và nước ngoài.
Chúng ta cũng cần tăng cường đầu tư xây dựng các cơ sở công nghiệp
chế biến gắn với nông nghiệp, thúc đẩy đa dạng hóa sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp, tăng khả năng chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu
cầu trong nước và xuất khẩu. Qua đó sẽ tạo nhiều công ăn, việc làm và thu nhập
ở nông thôn.
Đối với các vùng sản xuất khó khăn có nhiều hộ nghèo, Nhà nước sẽ tăng
cường đầu tư kết hợp với huy động đầu tư của cộng đồng để đầu tư xây dựng các
cơ sở hạ tầng cần thiết như đường giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc,
trường học, trạm y tế xã; hỗ trợ xây dựng các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa
bàn.
Để thực hiện được các biện pháp trên, trước hết chúng ta cần phải đổi
mới cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp theo hướng chuyển mạnh từ đầu tư cho thuỷ
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
lợi, khai hoang sang đầu tư theo chiều sâu, đổ mới cơ cấu giống và kỹ thuật
trồng trọt; tăng cường đầu tư phát triển công nghệ sau thu hoạch.
Cuối cùng, trong cơ cấu đầu tư cần dành tỷ lệ hợp lý cho nội dung dạy
nghề cho nông dân bao gồm đào tạo nghề mới, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn
và kinh nghệm làm ăn bằng các ngành nghề nông nghiệp và công nghiệp dịch
vụ. Tăng cường đào tạo cho người nghèo bằng các chương trình khuyến nông
giúp họ khai thác tốt các tiềm năng và thế mạnh của vùng và của từng cá nhân.
Qua đó, người lao động đặc biệt là người nghèo mới có nền tảng vững chắc nhất
trong xoá đói giảm nghèo
b) Tiếp tục đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ nhằm tạo việc làm và nâng
cao đời sống cho người nghèo.
Chúng ta vẫn cần tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn cần tiếp tục gắn
với quá trình CNH HĐH bởi đó là định hướng chung của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên vẫn phải cần cần tăng cường nguồn vốn đầu
tư cho nông nghiệp và các vùng chậm phát triển để giảI quyết việc làm và xoá
đói giảm nghèo. Chúng ta có thể kết hợp bằng cách tiếp tục đầu tư phát triển các
nhà máy, các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, ngành công nghiệp chế
biến tại khu vực nông thôn và các địa phương. Phát triển, hiện đại hóa các
ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn (hoá chất, phân
bón, bao bì...), tiếp tục đa dạng hóa và hiện đại hóa sản phẩm cơ khí đáp ứng
nhu cầu của sản xuất nông nghiệp như: máy kéo nhỏ, máy chế biến, bảo quản
sản phẩm sau thu hoạch, máy phun thuốc sâu và tưới nước hiện đại.
Kết hợp hợp lý giữa phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh,
ngành công nghệ cao, ngành mũi nhọn với việc phát triển các ngành công nghiệp
chế biến, công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ và sử dụng nhiều lao động để
thu hút lao động, tạo việc làm. Có như vậy chúng ta mới giải quyết được mối
quan hệ giữa tăng trưởng và CBXH.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các chủ sản xuất
kinh doanh, buôn bán nhỏ (cửa hàng, cửa hiệu, xưởng sản xuất...) mở rộng đầu
tư, phát triển kinh doanh lâu dài và thu hút nhiều lao động đặc biệt là tạo việc
làm cho người nghèo. Bởi vì yêu cầu làm việc của các hộ kinh doanh nhỏ này
không cần đòi hỏi trình độ cao, mà chủ yếu cần sự chăm chỉ cần cù rất phù hợp
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
với người nghèo. Các công ty, doanh nghiệp lớn trong ngành vận tải, xây dựng...
và những ngành khác cũng cần được khuyến khích tuyển dụng thêm lao động
phổ thông tạo việc làm ổn định cho người nghèo.
Tiếp theo, chúng ta cần phải giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo số lao
động sử dụng thêm; giúp doanh nghiệp trong việc đào tạo lao động. Có như vậy,
các doanh nghiệp sẽ có động cơ để tuyển dụng thêm lao động đặc biệt là những
người nghèo. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải thu hồi mặt bằng đối với
những doanh nghiệp sử dụng kém hiệu quả để cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả thuê lại; biểu dương và tôn vinh các nhà doanh nghiệp có chí hướng phát
triển lâu dài trong một số lĩnh vực đã kinh doanh đạt hiệu quả, đóng góp Ngân
sách và tạo nhiều việc làm cho người nghèo.
Khuyến khích các tổ chức tài chính ngân hàng, các doanh nghiệp lớn và thể nhân
giúp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng kinh doanh, cung cấp
thông tin kinh tế và đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.2. Phát huy vai trò của Đầu tư trong việc tạo một cơ cấu vùng hợp lý, tạo ra sự
phát triển hài hoà, tiến tới giảm sự chênh lệch giữa các vùng.
a) Giải pháp về Đầu tư trong việc thu hẹp khoảng cách giữa các vùng.
Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước vẫn tiếp tục đầu tư vào những
vùng kém phát triển nhưng giữa các vùng trọng điểm và vùng khó khăn vẫn còn
chênh lệch lớn. Điều này đã gây ra sự bất bình đẳng lớn giữa các vùng. Do đó,
chúng ta phải có giải pháp đầu tư theo vùng một cách hợp lý.
Trước hết, chúng ta cần phải tăng cuờng đầu tư hơn nữa cho các vùng
khó khăn và cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư cho các vùng này. Các
giải pháp này chúng ta đã nghiên cứu và xem xét kỹ ở phần trên. Ở đây, chúng
tôi xin đề xuất thêm một số giải pháp sau.
Chúng ta tuy đã tiếp tục đầu tư cho các vùng nhưng vấn đề cơ bản ở đây
là phải tạo cơ hội cho các hộ nghèo nắm bắt được những thành quả đầu tư đó. Qua
đó mới thực sự tạo ra một nền tảng bền vững trong việc thực hiện xóa đói giảm
nghèo. Muốn vậy, Nhà nước phải có chính sách tín dụng hợp lý tạo điều kiện đẩy
mạnh trợ giúp cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Có như
vậy đồng vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước mới đến được tay nhân dân. ở đây,
các địa phương cần lập ra kế hoạch chi tiết cụ thể về phương án đầu tư để qua đó,
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Nhà nước và Ngân hàng sẽ chuyển đồng vốn đến các hộ dân có nhu cầu đầu tư
cần thiết và phương án đầu tư khả thi.
Bên cạnh đó, việc nắm bắt những thành quả đầu tư của Nhà nước và các
thành phần kinh tế khác còn phụ thuộc vào trình độ học vấn của người nghèo. Do
vậy, chúng ta cần tiếp tục đầu tư cho giáo dục đào tạo phát triển cho người dân ở
những vùng khó khăn thông qua các chương trình khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư và hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn; tổng kết và nhân rộng
các mô hình xóa đói giảm nghèo đặc thù cho các vùng; tiến tới xóa bỏ kinh tế tự
cung, tự cấp ở vùng dân tộc ít người và miền núi.
Chúng ta cũng nên tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá,
giao thông, các chợ ở vùng sâu vùng xa nhằm cung cấp một số sản phẩm thiết yếu
cho người dân và tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chúng ta cũng cần thu
hút người nghèo tham gia xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, coi đó
là một hình thức tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo.
b) Tiếp tục đầu tư phát triển các vùng trọng điểm, tạo ra sự liên kết giưa vùng
phát triển và vùng chậm phát triển.
Giữa các vùng, khi xây dựng cơ cấu đầu tư phải đảm bảo sự chuyển dịch
giữa chúng có sự đồng bộ, cân đối và phát huy dược lợi thế so sánh của từng
vùng. Tạo điều kiện cho các vùng nghèo có cơ hội được phát triển.
Tuy nhiên để tạo thế và lực trong phát triển, cần xây dựng một số vùng kinh tế
trọng điểm (không nên dàn trải làm phân tán nguồn lực). Giữa các vùng vừa tận
dụng lợi thế của mình, vừa tạo nên sự liên kết, thúc đẩy, hỗ trợ nhau cùng phát
triển. Chẳng hạn, trong năm 2003, thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có chính
sách liên kết với các tỉnh Nghệ An, HảI Dương, Huế để Đầu tư xây dựng các nhà
máy giày da, may mặc tại các tỉnh này đồng thời cũng chuyển một phần nguồn
vốn đầu tư của Thành phố cho các địa phương này. Đây cũng là một mô hình tốt
về việc liên kết giữa vùng trọng điểm với vùng chậm phát triển mà các địa
phương và các vùng khác cần phải học tập.
2. Phát huy hiệu quả đầu tư trong việc giải quyết các vấn đề xá hội, cần nâng
cao hơn nữa hiệu quả Kinh Tế Xã Hội trong từng dự án đầu tư.
2.1. Nâng cao hiệu quả Xã hội trong từng dự án đầu tư.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Trong các bất cập về tác động của đầu tư đến CBXH ở phần trên, chúng ta
đã nhận thấy rằng hiệu quả xã hội trong đầu tư chưa được chú trọng đúng mức.
Chính vì điều này nên khi các nhà máy, cơ sở vật chất khi xây dựng song nhưng
không có tính giảI quyết việc làm cao, không có tính CBXH trong phân phối thu
nhập. Do đó, chúng ta cũng cần phải nâng cao hiệu quả xã hội trong từng dự án
đầu tư.
Muốn vậy, trước hết, chúng ta phải nâng cao hiệu quả đầu tư chung bằng
cách đầu tư cần phải theo quy hoạch, đầu tư trọng tâm trọng điểm, đồng thời đẩy
mạnh công tác giám sát thanh tra chống thất thoát lãng phí.
Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả xã hội, chúng ta cần phải tăng cường chất
lượng công tác lập dự án để việc tính toán hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế xã
hội tổng hợp cũng rất quan trọng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải dưa ra
các chỉ số cụ thể trong việc xác định các chỉ tiêu về hiệu quả xã hội. Có như vậy,
việc kiểm tra và thẩm định tính hiệu quả xã hội của dự án mới mới dễ dàng được
thực hiện. Cuối cùng, Nhà nước phải có biện pháp và chính sách cụ thể trong
việc gắn trách nhiệm đối với các cấp có thêm quyền trong việc cấp giấy phép
đầu tư nhưng không chú ý đến hết tác động của nó, đặc biệt là không quan tâm
vai trò của dự án đến xã hội. Và chính các dự án không hiệu quả này sẽ có thể
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội từ môI trường và các yếu tố xã hội khác
như việc làm, thu nhập thêm bất bình đẳng, công nhân bị bóc lột dã man.
2.2. Phát huy vai trò của đầu tư trong việc tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho
người nghèo.
Trước hết, Nhà nước có các chính sách đầu tư hỗ trợ các nhà đầu tư phát
triển các ngành sử dụng nhiều lao động; tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp
lớn trong các ngành như xây dựng vận tải tăng cường tuyển dụng lao động phổ
thông.
Tuy nhiên, Nhà nước cũng nên đầu tư một cách trọng tâm trọng điểm hơn.
Đối với những hoạt động đầu tư vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì nên khuyến
khích tất cả các nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế tham gia. Từ đó, nguồn vốn
từ NSNN sẽ ít bị chịu gánh nặng do phải chi nhiều khoản và tập trung đầu tư cho
CBXH. Từ các hoạt động đầu tư cho CBXH, người nghèo sẽ có nhiều cơ hộ tìm
kiếm việc làm nâng cao được thu nhập.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
3. Giải pháp đầu tư cho các vấn đề phúc lợi xã hội một cách hiệu quả, hợp lý
và bình đẳng hơn.
3.1. Giải pháp đầu tư cho giáo dục và tăng khả năng tiếp cận đến dịch vụ giáo
dục một cách công bằng hơn.
Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng bất bình đẳng trong
giáo dục. Do chi phí trong giáo dục còn quá cao nên người nghèo không thể chi
trả được và chỉ có thể được học tập trong môI trường chất lượng không cao. Do
đó, họ sẽ ít có cơ hội nâng cao thu nhập của mình. Chỉ có những gia đình giàu có
mới đủ điều kiện cho con cái mình học tại những trường chất lượng cao. Vì vậy,
sẽ thật cần thiết nếu chúng ta đưa ra các biện pháp đầu tư giáo dục một cách hợp
lý và công bằng.
Bên cạnh đó, việc đầu tư giáo dục cho người nghèo còn được thể hiện qua
việc tiếp tục đầu tư thích đáng cho hệ thống giáo dục của các xã nghèo, vùng
nghèo bằng cách tăng cường cơ sở vật chất bao gồm xây mới và xây lại các
phòng học tranh, tre, nứa, lá; cung cấp đầy đủ trang thiết bị giảng dạy và học tập
cho các trường tiểu học và trung học cơ sở.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quan tâm xây dựng trường kiên cố, bán kiên
cố cho các vùng thường xảy ra thiên tai; tiếp tục duy trì và mở rộng hệ thống
trường nội trú cho vùng sâu, vùng cao, vùng xa, hình thành hệ thống trường nội
trú xã, xây dựng để khuyến khích các hộ gia đình nghèo gửi con đi học.
Nhà nước cũng cần tiếp tục thực hiện chính sách đổi mới chế độ học phí
theo hướng tương xứng với chất lượng các dịch vụ giáo dục, phù hợp với khả
năng người đi học đồng thời miễn giảm cho người nghèo.
Tuy nhiên nguồn lực từ NSNN lại có hạn, ngân sách dành cho giáo dục lại càng
eo hẹp hơn. Do vậy, khi phần lớn nguồn vốn đầu tư cho giáo dục từ NSNN là
dành cho giáo dục cơ sở thì giáo dục trung học phổ thông, giáo dục đại học phải
được huy động từ tư nhân. Do vậy chúng ta phải có chính sách khuyến khích
mọi nguồn lực tham gia vào giáo dục đặc biệt là giáo dục bậc cao. Có như vậy sự
kết hợp giữa đầu tư cho giáo dục của Nhà nước và của tư nhân ở giáo dục bậc
cao mới thành công. Muốn vậy chúng ta cần phải khuyến khích và tạo điều kiện
để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục, đồng thời tạo cơ hội cho mọi người
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
được học thường xuyên, và có ý thức học tập suốt đời. Phát triển các trường
ngoài công lập, có cơ chế chính sách để họ được ưu tiên thuê đất, vay vốn tín
dụng. Mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục, khuyến khích cá nhân
và tập thể đầu tư cho giáo dục.
Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng thế giới
(WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), các tổ chức quốc tế và các nước khác
cho giáo dục.
3.2. Tăng cường đầu tư y tế cho người nghèo.
Nhà nước cần tiếp tục tăng cường đầu tư y tế cho người nghèo bằng cách
xây dựng các trạm xá, trạm y tế tại các xã nghèo, tiếp tục đổi mới trang thiết bị y
tế cho các xã này. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải tăng cường đội ngũ cán
bộ y tế cho các xã nghèo đảm bảo mục tiêu đến năm 2010: 80% số xã trong toàn
quốc có bác sỹ (trong đó miền núi: 60%); 100% thôn bản có nhân viên y tế sơ
học trở lên.
Có như vậy, người nghèo mới có cơ hội tiếp cận được các dịch vụ y tế.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải có các chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe
nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới đồng bào dân tộc ít
người và người nghèo. Tiếp tục tiến hành giảm viện phí ở các bệnh viện công để
chi phí cho y tế không phải là gánh nặng cho người nghèo.
Cũng như đầu tư cho giáo dục, nguồn lực đầu tư cho y tế còn rất hạn hẹp
trong khi Nhà nước lại cần tập trung đầu tư cho người nghèo. Để đáp ứng các
mục tiêu trên, Nhà nước cũng nên xã hội hoá đầu tư cho y tế, khuyến khích toàn
xã hội tham gia vào việc đầu tư cho y tế đồng thời tăng cường các nguồn vốn tài
trợ từ quốc tế cho y tế.
4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về Đầu Tư
trong việc thực hiện CBXH.
4.1. Nâng cao năng lực hiệu quả cán bộ quản lý về đầu tư.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định tham nhũng và quan liêu là
một trong những nguy cơ hàng đầu của Nhà nước ta. Do đó, chúng ta phảI tăng
cường cuộc đấu tranh chống lại tệ quan liêu tham nhũng trong đó cần phát huy
toàn dân trong việc đấu tranh, phát hiện các tiêu cực của các cấp chính quyền.
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Bên cạnh đó, chúng ta phải có chính sách thưởng phạt nghiêm minh với cán bộ
quản lý nhà nước, phải quy định rõ trách nhiệm của từng cán bộ .
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải tăng cường trình độ của cán bộ quản lý
Nhà nước về đầu tư bằng cách có chế độ tuyển dụng hợp lý thu hút được nhiều
người tài có trình độ cao nhưng đồng thời có tư cách đạo đức tốt. Có như vậy,
đội ngũ cán bộ chúng ta mới có cái gốc trong sạch và vững vàng. Tuy nhiên,
chúng ta cũng cần phải có chính sách tiền lương hợp lý để tiền lương không phải
là yếu tố thúc đẩy tham nhũng.
Chúng ta cũng cần phải trang bị kiến thức quản lý cho cán bộ quản lý Nhà
nước về đầu tư để các cán bộ này đều phảI hiểu rõ và làm được việc đầu tư đúng
mục tiêu, đúng đói tượng, không thất thoát vốn, đem lai hiệu quả rõ ràng. Cán bộ
trực tiếp quản lý và thực hiện các dự án đầu tư phảI được học tập, bồi dưỡng qua
các lớp tập huấn tập trung về những vấn đề về lĩnh vực đầu tư. Cán bộ lãnh đạo
các ngành các cấp, phải được trang bị một số kiến thức về đầu tư bằng hình thức
giới thiệu truyền đạt trong các hội nghị, lớp học trong hệ thống trường chính trị.
Tiếp tục củng cố mạng lưới và đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo
tại các cấp, đặc biệt là các xã đặc biệt khó khăn. Nâng cao trình độ, bố trí cán bộ
làm công tác xóa đói giảm nghèo.
4.2. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý Nhà nước về đầu tư.
Tiếp tục quá trình cải cách hành chính. Để đạt được mục đích này phải tạo
nên một hệ thống hành chính với cơ chế, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ,
công chức về cơ bản có phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cải cách hành chính được thực
hiện trên 4 lĩnh vực là: cải cách thể chế; cải cách bộ máy hành chính; đổi mới,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng tăng quyền
chủ động và trách nhiệm cho cơ sở và chủ đầu tư. Tuy nhiên bên cạnh để cho các
cơ sở được phát huy tính trách nhiệm của mình thì Nhà nước cũng cần phảI phân
công trách nhiệm cho các Bộ, ngành liên quan và các cấp chính quyền địa
phương để theo dõi thực hiện Chiến lược và các hoạt động của ngành, cơ sở, địa
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
phương trong khuôn khổ Chiến lược. Nhà nước phải quy định cụ thể quyền hạn
và trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc tổ chức triển khai dự án, bảo đảm hiệu
quả của công trình.
Trong bộ máy Nhà nước đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, Nhà nước cần phải
thống nhất bộ máy tổ chức thực hiện các chương trình, dự án xoá đói giảm
nghèo từ TW đến địa phương, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng ở cùng một
địa phương có quá nhiều cơ quan quản lýcác chương trình, dự án xoá đói giảm
nghèo. Trước mắt cần có quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý chương
trình xoá đói giảm nghèo (như giữa Chương trình 133 và 135) nhằm thống nhất
phối hợp đồng bộ và lồng ghép có hiệu quả hơn các chương trình, dự án ở từng
địa bàn cụ thể.
Ở cấp TW, cần hình thành một bộ máy thống nhất quản lý, chỉ đạo các
chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo trên toàn quốc với nhiệm vụ chính là
điều phối, giám sát và đánh giá các chương trình. Ở các địa phương, cần tiếp tục
kiện toàn các cấp chỉ đạo xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là cấp xã có đủ năng lực
nhằm thống nhất quản lý và điều phối.
KẾT LUẬN
Mặc dù Nhà nước ta trong thời gian qua đã nỗ lực hết sức trong việc giải quyết
bất bình đẳng xã hội, xoá đói giảm nghèo nhưng những kết quả đạt được vẫn
chưa tương xứng với tiềm lực của Nhà nước đã bỏ ra.
Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn khẳng định tầm quan trọng của Công bằng xã
hội trên con đường phát triển của đất nước ta. Trong văn kiện Đại hội Đảng VII
đã khẳng định “Phát triển kinh tế phải đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng giai đoạn cũng như trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội
phải được thể hiện trong việc phân phối hợp lý phương tiện sản xuất và sản
phẩm, cũng như trong việc tạo điều kiện để tất cả mọi người có cơ hội phát triển
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
và sử dụng khả năng của bản thân.” Chính vì vậy, tôi luôn tin rằng quyết tâm đó
của Đảng và Nhà nước ta sẽ thực hiện được
Thông qua đề tài, tôi cũng hy vọng đóng góp một phần kiến thức nhỏ bé của
mình trên con đường phát triển của đất nước.
Hà Nội, ngày 28 tháng 11năm 2005
Sinh viên
Trương Thu Hương
Đầu tư 44A
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX.
2. Giáo trình Kinh Tế Đầu tư – Bộ môn Kinh tế Đầu Tư - năm 2003.
3. Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế- năm 2002.
4. Giáo trình Kinh tế phát triển – năm 1998.
5. Vũ Thị Ngọc Phùng : ”Tăng trưởng kinh tế và Xoá đói giảm nghèo,
thực hiện Công bằng xã hội”.
6. Trang web của Bộ Kế Hoạch Đầu tư.
7. Trang web của Tổng cục thống kê
Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thực hiện Công Bằng Xã Hội ở VN
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
8. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 2/04 – TS.Nguyễn Bạch Nguyệt
9. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 3/04 – TS.Nguyễn Bạch Nguyệt
10. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 5/04 – TS.Nguyễn Bạch Nguyệt
11.Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển năm 2001 – GS.TS Phạm Ngọc Kiểm.
12. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển năm 2001 – TS.Hoàng Văn Hoa.
13. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển năm 2000 – TS.Vũ Hoàng Ngân.
14. Nghiên cứu và Trao đổi số 23(12-2000) – Phạm Văn Hùng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề Tài -LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI.pdf