Lời mở đầu
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát thấp: nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc, còn ở trong tình trạng phổ biến của sản xuất giản đơn, lực lượng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, quan hệ sản xuất yếu kém, cản trở cho sự phát triển và tăng trưởng; kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang trong quá trình hình thành; thu nhập quốc dân bình quân đầu người thấp, là một trong số các quốc gia nghèo và chậm phát triển.
Vì vậy trong thời kỳ quá độ cần phải động viên được mọi nguồn lực tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp.
Để sử dụng nguồn lực tổng hợp này một cách tối ưu chúng ta phải sử dụng các đòn bẩy kinh tế như các quy luật kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường.
Quy luật giá cả là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hoá, là một đòn bẩy quan trọng để phát triển và củng cố nền sản xuất xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng quy luật giá cả để thúc đẩy nền sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến tới, có một tầm quan trọng lớn lao.
Từ nhận thức về vai trò của quy luật giá cả, chúng ta thực hiện việc nghiên cứu quy luật giá cả và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta để vận dụng có hiệu qủa cho sự phát triển kinh tế, hạn chế những khuyết tật thị trường.
Với đề tài: "Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng vào Việt Nam hiện nay"
Do trình độ có hạn, đề tài này không tránh khỏi những hạn chế nhất định.Em mong thầy cô giáo xem xét giúp để bài viết của em hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã giúp em hoàn thành đề tài này.
41 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3400 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng vào Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư nhau.
Có nhiều công cụ quản lý nhà nước được Trung Quốc sử dụng trong quản lý nền kinh tế thị truờng XHCN như Tài chính, Pháp luật. Về tài chính: các công cụ như giá cả và các đòn bẩy khác như lợi nhuận, thuế, lãi suất... được sử dụng khá phổ biến. Trung Quốc đã thực hiện cắt giảm lãi suất, tài trợ tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, giảm miễn thuế cho doanh nghiệp mở rộng thị phần hay có kinh nghạch lớn. Việc thực hiện đều dựa trên các yêu cầu của quy luật giá cả.
Trong công tác quản lý nhà nước Trung Quốc đã đạt được một số thành công. Trong xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô, Nhà nước đã không buông lỏng cơ thị trường mà từng bước vững chắc xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô. Trong cơ chế tài chính, Nhà nước thực hiện phân rõ thu chi, phân cấp đảm nhận, xây dựng chế độ phân chia thuế khoá thích ứng với yêu cầu thị trường. Đó là do sử dụng quy luật giá cả một cách linh hoạt.
Tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế đó là do sự can thiệp của chính phủ qua nhiều trong kiểm soát và đầu tư vi phạm tính khách quan của quy luật giá cả.
Từ thực tiễn có thể rút ra một số kinh nghiệm cho việc vận dụng quy luật giá cả trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế ở việt nam.
Trước hết là tạo lập môi trường kinh tế ổn định, thuận lợi để tăng trưởng kinh tế nhanh,vững chắc, đưa ra được khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các thành phần kinh tế như: có quy định về thu thuế thu nhập doanh nghiệp sao cho khuyến khích doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nhưng cũng hạn chế sự dư thừa hàng hoá trên thị trường; có những quy định ưu đãi về các nguyên liệu đầu vào đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh trong các đặc khu kinh tế...Tiếp sau đó là đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ. Nhà nước nên tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế quản lý tài chính của các doanh nghiệp nhà nước gắn với quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp đó. Đổi mới chính sách tiền tệ càn hướng vào mục tiêu: ổn định giá cả đồng nội tệ,ổn định tỷ giá hối đoái thực tế, đảm bảo tín dụng hợp lý với nhu cầu kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động tài chính trong nền kinh tế. Đổi mới chính sách thu nhập đi đôi với chính sách giá cả thông qua thị trường, như vậy qua thị trường mới cân bằng giữa lương và giá. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, tam giác giá-lương-thị trường là tam giác “thần” đẩy nền kinh tế phát triển. Phối hợp tốt ba yếu tố này là tuân theo những yêu cầu của quy luật giá cả và đảm bảo tính khách quan.
Nhìn chung nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn còn chưa hoàn thiện.Muốn thúc đẩy nền kinh tế phát triển cần sử dụng hiệu quả các đòn bẩy kinh tế.
Chương 2
sự vận dụng quy luật giá cả v à vai trò của nó trong nền kinh tế hàng hoá và vận dụng nó trong nền kinh tế nước ta thời gian qua.
một số giải pháp cơ bản nhằm vận dụng tốt quy luật giá cả ở việt nam.
2.1 Thực trạng sự vận dụng quy luật giá cả ở nước ta trong thời gian qua
Cơ chế thị trường tự điều tiết là cơ chế vận động của hệ thống các quy luật kinh tế. Quy luật giá cả là quy luật “thống soái” chi phối cơ chế thị trường. Quy luật giá cả quyết định giá cả hàng hoá dịch vụ mà giá cả là tín hiệu nhạy bén nhất của cơ chế thị trường. Hoạt động của quy luật giá cả được thể hiện bằng hững đòn bẩy kinh tế như giá cả, lãi suất, thuế, tín dụng, tiền tệ…Do đó sự vận dụng quy luật giá cả trong nền kinh tế chính là việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế trên, trong nền kinh tế thị trường, tuân theo nội dung quy luật.
2.1.1 Vận dụng quy luật giá cả trong công cuộc đổi mới chính sách giá cả
Nghị quyết đại hội đảng lần thứ VI đã chỉ đạo: “phấn đấu thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp. Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp các quy luật, trong đó quy luật giá cả có tác động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá cả, đồng thời phải phù hợp với sức mua của đồng tiền và tính đến quan hệ cung cầu, không thể ổn định giá bằng cách giữ giá cả cứng nhắc, bất chấp sức mua của đồng tiền, bất chấp quan hệ cung cầu và sự biến động của các yếu tố hình thành giá cả.”
Thực hiện phương hướng trên đây, trong những năm 1978-1988, nhà nước đã tiếp tục điều chỉnh giá mua nông sản, giá bán tư liệu sản xuất, giá bán lẻ hàng tiêu dùng, và việc điều chỉnh được làm dần từng bước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có hậu quả của cuộc tổng điều chỉnh giá tháng 10-1985 cộng với sự bao cấp qua vốn đã làm cho “lạm phát ngầm” trong nền kinh tế nổi lên bề mặt của đời sống kinh tế xã hội và tạo nên lạm phát cao phi mã. Để chống được lạm phát hàng loạt các biện pháp được đề ra và tổ chức thực hiện. Đặc biệt là những biện pháp chống bao cấp.
Về giá Nhà nước đã từng bước chuyển hệ thống giá mua nông sản, giá bán lẻ và giá bán vật tư sang cơ chế kinh doanh( đầu năm 1989 thực hiện mua nông sản, bán vật tư nông nghiệp theo giá thoả thuận sát giá thị trường; thực hiện cơ chế một giá kinh doanh đối với hàng tiêu dùng; thực hiện tính đúng tính đủ đối với các loại vật tư cơ bản để chuyển sang cơ chế một giá kinh doanh…). Giá thị trường xoay quanh giá cả hàng hoá của nó, điều này là do tác động của quy luật cung cầu. Nhưng quy luật cung cầu chỉ thực hiện yêu cầu của quy luật giá cả. Do đó việc chuyển hệ thống giá mua nông sản, giá bán lẻ và giá bán vật tư nông nghiệp theo giá thoả thuận sát với giá thị trường là thực hiện yêu cầu của quy luật giá cả.
Có thể khẳng định, sự thành công trên được đường lối mới của Đại hội Đảng VI soi đường thông qua việc chúng ta đã thực hiện việc chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường; thực hiện cải cách toàn bộ hệ thống giá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là khâu đột phá của tiến trình đổi mới cơ chế kinh tế. Cơ chế kinh tế mới với đặc trưng cơ bản của nó là nhà nước đã tự rời bỏ quyền can thiệp sâu, quyết định mọi vấn đề của sản xuất kinh doanh và trao lại quyền đó cho đúng người chủ và đúng địa chỉ của nó. Người sản xuất kinh doanh được tự chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở những tín hiệu khách quan của thị trường.Nhà nước đã giải phóng cơ chế giá kế hoạch, không còn công bố những tỷ lệ trao đổi hiện vật định sẵn, chủ quan để buộc thị trường chấp nhận chuyển sang thực hiện cơ chế giá thị trường.
Cơ chế giá kế hoạch là một cơ chế cứng nhắc, nó vi phạm tính khách quan của quy luật giá cả. Thực hiện cơ chế giá thị trường, một cơ chế giá linh động, sự vận động của giá cả thị trường là tuân theo những quy luật kinh tế hoạt động trong cơ chế kinh tế thị trường. Chính sách của Đảng đã chú ý đến tính khách quan của quy luật giá cả, một khía cạnh quan trọng, có tác động rất lớn trong việc phát triển kinh tế.
Trong năm 1991-1995, trên cơ sở những thành quả và kinh nghiệm đạt được trong những năm đầu của cuộc cải cách kinh tế nói chung và cải cách nói riêng, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII tiếp tục chỉ đạo: “Kiên trì vận dụng cơ chế thị trường đối với giá hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng; điều chỉnh từng bước mặt bằng giá và quan hệ tỷ giá cho phù hợp với sự thay đổi của giá quốc tế với các loại vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu, song phải đảm bảo sản xuất phát triển, kiểm tra và giám sát các loại vật tư, hàng hoá dịch vụ, quan trọng nhất là giá của một số đơn vị độc quyền kinh doanh. Tiếp tục xoá bỏ các hình thức phân phối hiện vật, tính đủ giá cả đối với tài sản đất đai tài nguyên…đưa vào sử dụng”.
Thực hiện nghị quyết trên, về cơ chế quản lý giá, chúng ta xác định rõ: việc quản lý sẽ được thực hiện thông qua các hình thức can thiệp gián tiếp bằng các biện pháp quản lý vĩ mô ngoài công cụ giá(điều hoà cung cầu, chính sách thuế, tỷ giá hối đoái, lưu thông tiền tệ, xuất nhập khẩu, kinh doanh nội địa…để tác động đến giá thị trường xã hội chủ nghĩa và giá hàng hoá quan trọng thiết yếu cho sản xuất đời sống,hướng sự hình thành và vận dụng giá cả thị trường vào thực hiện các mục tiêu định hướng của nền kinh tế ! Can thiệp trực tiếp với mức độ khác nhau phù hợp với tính chất của từng loại hàng hoá dịh vụ như định giá chuẩn hoặc giá giới hạn đối với đất đai, tài nguyên và một số ít hàng hoá dịch vụ quan trọng độc quyền, hàng hoá dịch vụ chi từ nguồn ngân sách Nhà nước. Đảng ký giá đối với một số hàng hoá quan trọng cho sản xuất và đời sống… Hiệp thương giá theo yêu cầu của doanh nghiệp… Thực hiện niêm yết giá…
Đặc biệt, để chủ động thực hiện tốt công tác bình ổn giá ngày 12/4/1993 Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 151/TTG về việc: “hình thành và quản lý quỹ bình ổn giá”.
Cùng với việc hình thành Quỹ bình ổn giá, trong những năm 1991-1995, Nhà nước đã chủ động từng bước điều chỉnh giá một số vật tư, hàng hoá thuộc danh mục Nhà nước định giá cho phù hợp với chi phí sản xuất, lưu thông quan hệ cung cầu và giá cả thị trường thế giới(năm 1995 so với năm 1991 giá điện tăng gấp 2,4 lần, xăng ô tô tăng gấp 1,4 lần,xi măng tăng gấp 2,5 lần, giấy tăng gấp 1,3 lần…)
Việc điều chỉnh giá những vật tư quan trọng trên đây đã góp phần từng bước xoá bỏ bao cấp qua giá, tính đúng, tính đủ chi phí, giảm bù lỗ, tiến tới xoá bỏ bù lỗ tăng thu cho ngân sách. Điều quan trọng hơn là việc điều chỉnh giá những vật tư quan trọng là đầu vào của sản xuất, buộc các doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm vật tư, tăng cường quản lý, giảm chi phí sản xuất, lưu thông, đổi mới mặt hàng nâng cao chất lượng để cạnh tranh được trên thị trường trong nước và thế giới. Sự điều chỉnh này đã thực hiện những yêu cầu của quy luật giá cả và khắc phục những mặt trái của quy luật này. Một trong những khuyết tật được hạn chế là: việc chạy theo lợi nhuận của các nhà sản xuất bằng cách cắt giảm chi phí để hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, làm cho chất lượng hàng hoá kém, ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
Thực hiện các chính sách, biện pháp giá cả trên, cùng với các biện pháp quản lý vĩ mô khác như: Điều hoà cung cầu xuất nhập khẩu, thuế, tín dụng, tỷ giá hối đoái… góp phần vào việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát đưa chỉ tăng giá tiêu dùng từ 67,5 % năm 1991 xuống còn 12,7% năm 1995; thúc đẩy việc thay đổi cơ cấu kinh tế, phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực của đất nước.
Những năm gần đây, công tác giá đã tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá, tạo môi trường pháp lý tiếp tục xoá bao cấp giá, giảm thiểu tình trạng bảo hộ, trợ cấp xin cho không hợp lý để người sản xuất kinh doanh chủ động tính toán hiệu quả kinh tế cạnh tranh lành mạnh về giá cả. Tiếp tục thực hiện điều chỉnh giá những hàng hoá dịch vụ thuộc danh mục nhà nước định giá phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế. Thực hiện thẩm định giá đối với các tài sản góp vốn đầu tư liên doanh; các tài sản vật tư thiết bị có giá rrị cao, khối lượng mua sắm từ nguồn ngân sách nhà nước. Đồng thời thực hiện biện pháp nhằm góp phần giữ bình ổn giá cả thị trường, ngăn ngừa thiểu phát trong những năm 1999-2000.
Thực hiện biện pháp giá cả trên cùng phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý khác như: điều hoà cung cầu, xuất nhập khẩu, chính sách tài chính tiền tệ … đã góp phần kiềm chế lạm phát, kéo chỉ số giá tiêu dùng tiêu dùng xuống mức tăng dưới 10%, thúc đẩy việc tăng trưởng kinh tế, phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 7-8%/năm. chính vì vậy tại công văn số 472-CV/TW ngày 13-4-2000 của ban thương vụ Bộ chính trị- Ban chấp hành TW Đảng gửi Ban cán sự Đảng Ban vật giá, Chính phủ đã khẳng định: “Trong những năm qua, Ban vật giá chính phủ đã có nhiều những cố gắng để nghiên cứu đề xuất các cơ chế mới mà đáng chú ý là cơ chế bình ổn giá, mở rộng hoạt động thẩm định giá … góp phần vào việc ổn định thị trường, đẩy mạnh sản xuất phát triển và ổn định đời sống nhân dân”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đảm bảo cho giá cả đóng góp vai trò tích cực, có hiệu quả vào quá trình sản xuất bảo vệ người tiêu dùng, Nhà nước cần phải kiểm soát giá độc quyền đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh độc quyền . vận dụng quy luật giá cả trong việc kiểm soát giá độc quyền cũng chính là tác động tới sự vận động của giá cả độc quyền với mục đích bảo vệ người tiêu dùng và đạt hiệu quả trong sản xuất. Các giải pháp được sử dụng để kiếm soát giá đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền là:
Thứ nhất là căn cứ vào tính chất và mức độ độc quyền của từng nghành hàng hóa độc quyền mà có những hình thức quy định giá thích hợp . Giải pháp này không hề vi phạm tính khách quan của quy luật giá cả, vẫn đảm bảo giá cả hàng hóa vận động quanh giá cả của nó.
Thứ hai, Ngoài việc kiểm soát việc chấp hành các mức giá mà nhà nước quy định, cần phải kiểm tra chi phí sản xuất một cách chặt chẽ và nghiêm ngặt trên chi phí sản xuất hợp lý. Chi phí sản xuất hợp lý phải dựa trên những định mức tiên tiến và có tham khảo với các nước trong khu vực và thế giới.
Thứ tư, Dân chủ hóa trong việc định giá đối với sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền.
Thứ năm, Mức giá nhà nước quy định đối với hàng hóa độc quyền cần gắn với chất lượng của nó và chất lượng dịch vụ.
Trong kiểm soát giá độc quyền, nhà nước ta đã vận dụng triệt để quy luật giá cả, đưa ra những quy định chặt chẽ vừa đảm bảo công bằng với người tiêu dùng, với nhà sản xuất, vừa đảm bảo cho sự phát triển nền kinh tế.
Tuy có nhiều thành công nhưng nếu so với yêu cầu giai đoạn mới, cơ chế quản lý điều hành với hệ thống giá hiện tại còn bộc lộ nhiều như điểm như: Tình trạng độc quyền, liên minh độc quyền, đầu cơ lũng đoạn, cạnh tranh không lành mạnh về giá nhằm thu lợi nhuận không chính đáng làm phương hại đến lợi ích người tiêu dùng diễn ra khá phổ biến nhưng chưa có luật lệ kiểm soát có hiệu quả; Tình trạng thương mại bất công bằng, gian lận chi phí sản xuất, chi phí đầu tư và giá cả góp vốn, gian lận giá cả chưa có cơ chế khắc phục. Sự hội nhập của nền kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới cũng đã được thúc đẩy một bước; nhưng những biện pháp kinh tế để kiểm soát việc xuất nhập khẩu chưa được xử lý linh hoạt; khi xuất khẩu được giá thì tranh mua đấy giá nội địa tăng cao, tranh bán ngoài nước làm cho giá hạ thấp; khi giá thế giới hạ không đẩy mạnh mua xuất khẩu làm cho giá hạ thấp không hợp lý, nhiều khi vượt quá cả nhu cầu tiêu dùng nội địa gây ứ đọng, giá hạ thấp… chính sách cơ chế đối với vùng núi và vùng sâu vùng xa, cơ chế giá bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, người sản xuất và của Nhà nước còn sơ khai, kém hiệu lực… những tồn tại chủ yếu sự lợi dụng khe hở pháp luật của những kẻ làm ăn bất chính; sự hướng dẫn thực hiện không chặt chẽ của nhà quản lý.
2.1.2 Vận dụng quy luật giá cả trong hạch toán kinh tế ở các doanh ngiệp nhà nước
Hạch toán kinh tế là phạm trù kinh tế gắn liền với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hóa, đồng thời hạch toán kinh tế là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều đợt cải tiến công tác quản lý ở nước ta đã chứng tỏ rằng: không có hạch toán chừng nào cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn thống trị, chừng nào chưa thừa nhận trên thực tế sản xuất hàng hóa, quy luật giá cả và các phạm trù của nó. ở nước ta hiện nay sự chuyển đổi cơ chế kinh tế trên phạm vi toàn nền kinh tế ở tầm vĩ mô, gắn liền với nó là sự chuyển biến từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa, để đứng vững trên thị trường họ không thể không tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức: giá cả, lợi nhuận,chi phí, giá cả,…thường xuyên so sánh đối chiếu đầu ra đầu vào. Mỗi doanh nghiệp là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập. Lợi nhuận luôn là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp phải hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất và tăng năng suất lao động. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều tuân theo yêu cầu của quy luật giá cả. Mọi hình thức áp dụng đều làm cho hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội.
Vận dụng quy luật giá cả trong hoạt động hạch toán kinh tế tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng , thúc đẩy tính chủ động sáng tạo, phản ứng nhanh nhạy, kịp thời nắm bắt nhu cầu thị trường, thường xuyên cải tiến phương pháp tổ chức quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật… làm cho doanh nghiệp tự chủ và sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên không tránh khỏi tình trạng chạy theo lợi nhuận mà cắt giảm chi phí bằng các cách như trốn thuế, sản phẩm không đảm bảo sự an toàn,… là những khuyết tật cần chú ý khi vận dụng quy luật giá trị .
2.1.3 Vận dụng quy luật giá cả trong các phạm trù kinh tế: Tài chính, Tín dụng, Lưu thông tiền tệ
Tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ là những phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với kinh tế hàng hóa như là những điều kiện của tái sản xuất, đồng thời chúng còn là công cụ vĩ mô điều tiết nền kinh tế.
Tài chính là phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hóa và sự vận động của tài chính chịu sự tác động chi phối của cơ chế thị trường với những quy luật nội tại của nền sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn tài chính không chỉ bao gồm giá cả tổng sản phẩm xã hội , mà còn là giá cả tài sản quốc gia. Vì vậy không bó hẹp trong phạm vi phân phối giá cả của cải xã hội và tài sản quốc gia. Kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải tự lo liệu các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình từ việc đầu tư vốn, tổ chức kinh doanh đến tiêu thụ sản phẩm , nên tài chính đồng thời vừa là phương tiện, vừa là mục đích của các hành vi kinh tế. Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế. Việc vận dụng quy luật giá cả trong phạm trù tài chính thể hiện trong chức năng cơ bản của tài chính đó là chức năng tổ chức giám sát . Tổ chức giám sát: tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều gắn liền với các hoạt động tài chính thông qua sự vận động của đồng tiền. Quy luật giá cả hoạt động thông qua sự vận động của giá cả, mà giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá cả, nên có thể nhận định rằng quy luật giá cả hoạt động thông qua sự vận động của đồng tiền khi vận dụng nó vào trong phạm trù tài chính.
Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu cho người khác vay trong thời gian nhất định để thu món lời là lợi tức. Thừa nhận hoạt động tín dụng là hình thức kinh doanh tiền tệ thì lợi tức phải được xem như giá cả của loại hàng hóa- tiền tệ và nó thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Mặt khác quy luật cung cầu chỉ là sự biểu hiện của quy luật giá cả, do đó lợi tức bị chi phối bởi quy luật giá cả . Vận dụng quy luật giá cả trong phạm trù tín dụng chính là quyết định mức lãi suất tùy theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Lãi suất có tác dụng rất lớn trong việc khuyến khích đầu tư nhưng trái lại, nó cũng không tránh khỏi việc gây tác động xấu đến nền kinh tế, khi mà lãi suất quá cao hoặc quá thấp so với yêu cầu trên thị trường tiền tệ thì dẫn tới suy thoái hoặc lạm phát.
Tiền là phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hóa phản ánh mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa, đồng thời tiền là công cụ mục đích của người sản xuất hàng hóa, sự vận động của đồng tiền không ngừng từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực lưu thông và từ lưu thông sang sản xuất liên tục chuyển hóa cho nhau. lưu thông hàng hóa lấy tiền tệ là môi giới. Lưu thông tiền tệ dựa trên cơ sở của lưu thông hàng hóa và phụcvụ cho lưu thông hàng hóa. Vận dụng quy luật giá cả trong lưu thông tiền tệ là việc thực hiện tiết kiệm nghiêm ngặt trong sản xuất, xây dựng và tiêu dùng khi xảy ra lạm phát, để giảm bớt lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên áp dụng chính sách tiết kiệm trong thời kỳ suy thoái lại là cách đẩy nền kinh tế lâm vào suy thoái nặng nề hơn .
2.1.4 Vận dụng quy luật giá cả trong quan hệ kinh tế quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là thị trường thế giới, nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ không được thực hiện nếu các quốc gia tham gia không cùng cùng có lợi về kinh tế. Vì trong trường hợp này quan hệ kinh tế thế giới sẽ vi phạm các quy luật, nhất là quy luật giá cả, quy luật kinh tế vốn có của kinh tế thị trường trong thị trường quốc tế. Nguyên tắc cùng có lợi phải trở thành động lực kinh tế, để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển .
Báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu nhiệm vụ đối ngoại của nước ta là: Tiếp tục giữ môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế _xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân chủ tiến bộ xã hội. Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng độc lập,chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực bình đẳng cùng có lợi; giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Một trong những quan điểm phát triển trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Với mục tiêu đảm bảo xen kẽ giữa lợi ích quốc gia với lợi ích các nước, các vùng, các khu vực thì quan hệ kinh tế quốc tế trong trường hợp này tuân theo quy luật giá cả. Vì quy luật giá cả vận động thông qua hoạt động kinh tế của con người, động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động kinh tế của con người là lợi ích kinh tế nên vận dụng quy luật giá cả trong quan hệ kinh tế quốc tế chính là sự đảm bảo về mặt lợi ích kinh tế giữa các bên.
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Sự hình thành kết cấu hạ tầng và chi phí sản xuất ngày càng có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của các nước. Quốc tế hoá đời sống kinh tế còn biểu hiện ở sự hình thành chi phí sản xuất quốc tế, giá cả quốc tế. Mỗi nước có một điều kiện sản xuất khác nhau nên sản xuất ra cùng một loại hàng hoá sẽ có chi phí khác nhau. Thí dụ, nước ta sản xuất ra một tấn cao su, chè rẻ hơn Châu Âu, ngược lại Châu Âu lại sản xuất ra ô tô, máy bay rẻ hơn ta. Dựa vào chi phí sản xuất quốc tế, các nước tìm cách khai thác thế mạnh của mình để đạt hiệu quả kinh tế cao trong quan hệ quốc tế. Sự vận động của giá cả quốc tế là sự hoạt động của quy luật giá cả trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay. Nước nào thu được phần lợi nhuận lớn hay thắng trong cạnh tranh là đã thực hiện yêu cầu của quy luật giá cả. Bên cạnh những kết quả tốt thì còn có mặt trái đó là việc chạy theo lợi nhuận mà hàng hóa xuất khẩu có chất lượng kém, ngoài ra quy luật giá cả cũng phân hóa thành nước giàu và nước nghèo.
2.1.5 Vận dụng quy luật giá cả trong xuất khẩu lao động
Chúng ta đều biết, Nước ta đất hẹp người đông. Trong quá trình CNH-HĐH, giải quyết công ăn việc làm, vấn đề thu nhập là nhu cấu hết sức cấp bách. GDP bình quân đầu người mới khoảng 400 USD, bình quân mỗi năm số người đến độ tuổi lao động ở nước ta là 1 triệu người. Những tính toán trong chiến lược 10 năm ( 2001-2010) vẫn không giải quyết hết số lao động. Vì vậy XKLĐ và chuyên gia là một trong những hướng giải quyết hết số lao động. Vì xuất khẩu lao động và chuyên gia là một trong những hướng giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân và người lao động. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược vừa cấp bách, vừa lâu dài của nước ta.
Trong bối cảnh thi trường lao động quốc tế suy giảm, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu lao động ngày càng gay gắt, phần lớn các doanh nghiệp của việt nam mới bước vào hoạt động còn ít kinh nghiệm. Hiện nay có hơn 300.000 lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc ở trên 400 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm nghành nghề thuộc các lĩnh vực: xây dựng, cơ khí, chế biến thủy sản, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học vv... năm 2000, thu nhập dòng của lao độngvà chuyên gia đạt khoảng 1,25 tỷ USD.
Đạt được thành tích trên, trước hết là do thực hiện nghị định 152/CP, Bộ lao động- thương binh và xã hội đã phối hợp với các Bộ, nghành có liên quan như Tài chính, Công an, Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước...ban hành một hệ thống các văn bản quy định, hướng dẫn về cấp phép,đăng ký hợp đồng, đơn giản hóa các thủ tục cấp hộ chiếu và lý lịch tư pháp của người lao động; hạ mức thuế suất đối với các doanh nghiệp làm dịch vụ xuất kẩu lao động; giảm chi phí dịch vụ và tiền đặt cọc của người lao động và cho vay với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Các chính sách trên của Nhà nước đã vận dụng tốt quy luật giá cả. Vì việc giảm thuế suất đối với các doanh nghiệp sẽ giúp cho chi phí của doanh nghiệp đó giảm đi, lợi nhuận tăng nên và tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp của các nước khác. Đối với người lao động thì đi xuất khẩu lao động dù cực khổ nhưng có thu nhập giúp đỡ gia đình, phần lớn họ là những người có thu nhập thấp, nên chính sách cho vay, giảm chi phí dịch vụ và tiền đặt cọc của người lao động làm tăng quy mô đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Trong xuất khẩu lao động có vấn đề đặt ra cho nước ta là thị trường tiếp nhận lao động nước ngoài có sự thay đổi cơ bản về nhu cầu chất lượng và cơ cấu, đó là sự đòi hỏi ngày càng cao về trình độ tay nghề, ngoại ngữ và ý thức kỷ luật, phong tục tập quán, tức là đòi hỏi tính văn hóa cao hơn trong trong XKLĐ. Muốn mở và giữ được thị trường phải có lao động chất lượng cao. Thị trường và nguồn lao động là hai yếu tố chính quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Nhận thức vấn đề này việc đào tạo nguồn lao động trở thành vấn đề trọng tâm được cả nước và doanh nghiệp rất quan tâm: từ chỗ tuyển lao động tự do nay Bộ LĐ-TBXH đã hướng các doanh nghiệp tuyển lao động từ các trường nghề. Đây là một hướng đi hết sức đúng đắn, giải tỏa được ách tắc về chất lượng lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài, cắt giảm được chi phí đào tạo so với tuyển lao động tự do. Nó có tác dụng tốt đối với các doanh nghiệp.
Nhìn chung các doanh nghiệp đều có quy chế, quy định rõ ràng. Công tác tuyển chọn được cải tiến và quan tâm nhiều hơn theo nguyên tắc trực tuyến, tuyển đúng nghành nghề, kỹ thuật. Bước đầu có ưu tiên nhất định với gia đình chính sách, gia đình nghèo. Việc thu chi được thực hiện rõ ràng, minh bạch, thanh toán kịp thời tiền lương do lao động gửi về. Với những hoạt động trên,doanh nghiệp nào thực hiện tốt sẽ tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước, trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
Việc vận dụng tốt quy luật giá cả trong hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp và Nhà nước ta là rất quan trọng, nó đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và làm tăng ngân sách nhà nước. Ngoài ra vấn đề việc làm được giải quyết, tệ nạn xã hội giảm.
Tuy nhiên vận dụng sai cơ chế tác động của quy luật giá cả thì sẽ có những tác động xấu đến sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Sự vận dụng không đạt hiệu quả quy luật giá cả thể hiện là vẫn còn tồn tại những yếu kém trong hoạt động xuất khẩu lao động ở Nước ta. Lao động nước ta được đánh giá là cần cù và khéo léo. Tuy nhiên kiến thức về ngoại ngữ, nhận thức về quan hệ chủ-thợ, kém hiểu biết về tác phong công nghiệp là nguyên nhân chu yếu gây ra tranh chấp lao động. Sai sót này do sự tuyển dụng và đào tạo của doanh nghiệp, do đào tạo sơ qua thì chi phí sẽ thấp đi và lợi nhuận thu được sẽ tăng nên. Doanh nghiệp đã vận dụng quy luật giá cả nhưng với mục đích lợi ích cá nhân, không tính đến lợi ích của xã hội, làm mất đi giá cả của con người Việt Nam ở nước ngoài. Những yếu kém còn tồn tại còn do sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong tổ chức triển khai chính sách xuất khẩu lao động. Đặc biệt là gần đây sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc hướng dẫn Luật doanh nghiệp chưa tốt, nên các văn bản hướng đã coi dịch vụ việc làm là một lĩnh vực kinh doanh không điều kiện. Vì vậy đã có một số lượng lớn các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ việc làm, trong đó có một số doanh nghiệp lợi dụng chức năng này để tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài trái pháp luật, mang tính lừa đảo, gây thiệt hại đối với người lao động, gây dư luận xấu trong xã hội.
Khe hở trong pháp luật mà các doanh nghiệp lợi dụng để đem lại lợi ích cho mình là do các nhà hoạch định chính sách đã không xét đến tính hai mặt của quy luật giá cả khi vận dụng nó. Bên cạnh mặt tích cực,chúng ta còn phải chú ý đến những tác đọng tiêu cực của nó.
2.1.6 Vận dụng quy luật giá cả để thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là một loại hình kinh tế (hay một kiểu tổ chức ) trong đó dựa trên hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất cụ thể, là nền tảng kinh tế hình thành các giai tầng, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
ở nước ta, việc khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển có tác phát huy mọi tiềm năng của từng thành phần kinh tế, cũng như sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Đó là những tiềm năng về vốn, kỹ thuật, sức lao động, kinh nghiệm tổ chức quản lý... Ngoài ra, việc kích thích các thành phần kinh tế phát triển còn có tác dụng thúc đẩy quá trình hội nhập và mở cửa kinh tế, thực hiện chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia và sức mạnh quốc tế nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển đất nước. Chính vì vậy từ đại hội Đảng VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định quan điểm thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và coi đó là đường lối chiến lược lâu dài ở nước ta.
“Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó nền kinh tế quá độ là nền kinh tế quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần. V.I Lênin chỉ ra rằng, ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phổ biến có ba thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế XHCN, kinh tế TBCN và kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ.”
Vận dụng tư tưởng của lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Đảng ta khẳng định, nước ta hiện có các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 2001 phân theo thành phần kinh tế(%) :
Kinh tế nhà nước: 38,58; kinh tế tập thể : 8,21; kinh tế tư bản nhà nước: 4,2; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: 13,11; kinh tế cá thể: 32,13; kinh tế tư bản tư nhân: 3,77.
Phát triển các thành phần kinh tế là điều kiện để đại đa số công dân tham gia hoạt động kinh tế, làm giàu chính đáng, không ngừng nâng cao đời sống. Đó là tiền đề cho dân chủ hóa đời sống kinh tế-xã hội và thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Đối với mỗi thành phần kinh tế nhà nước ta đã có những chủ trương và chính sách phù hợp.
Đối với thành phần kinh tế nhà nước: Xuất phát từ thực trạng của quá trình củng cố và sắp xếp lại kinh tế nhà nước trong thời gian qua và yêu cầu đòi hỏi đối với thành phần kinh tế này trong thời gian tới, Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo:làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội ; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển ; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Một trong những hướng giải quyết cho quá trình này là phát huy quyền làm chủ của người lao động, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, hối lộ lạm dụng chức quyền và các hiện tượng tiêu cực khác trong khu vực kinh tế này. Hướng giải quyết này được đề ra trên cơ sở vận dụng quy luật giá cả đó là thực hiện yêu cầu hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội như thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí. Phát huy quyền làm chủ của người lao động làm cho năng xuất lao động tăng và nó cũng thỏa mãn yêu cầu của quy luật giá cả.
Đối với thành phần kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, Đảng ta chủ trương không ngừng đổi mới và phát triển thành phần kinh tế hợp tác , hợp tác xã trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, thương nghiệp dịch vụ ở các thành thị và nông thôn theo luật hợp tác xã nhằm kết hợp sức mạnh của tập thể và sức mạnh của hộ xã viên, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình theo tinh thần nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VII. Việc phát huy sức mạnh tập thể tạo ra năng suất lao động thấp hơn là một yêu cầu của quy luật giá cả.
Đối với thành phần kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở đồng sở hữu về tư liệu sản xuất, kết hợp lợi ích nhà nước với lợi ích tư bản tư nhân trong nước và tư bản tư nhân nước ngoài. Nó là hình thức kinh tế quá độ trung gian thích hợp để đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, Đảng và nhà nước ta chủ trươngkhuyến khích phát triển kinh tế tư bản nhà nước. Được phép áp dụng nhiều phương thức góp vốn liên doanh tư nhân trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng cường hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài. Chủ trương của nhà nước dựa trên yêu cầu của quy luật giá cả vì hình thức góp vốn liên doanh sẽ tạo sự chủ động sử dụng vốn và không để phí những cơ hội kinh doanh vì thiếu vốn.
Đối với thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ,Đảng ta chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế cá thể trong các nghành nghề ở thành thị và nông thôn, nó không bị hạn chế trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh mà luật pháp cấm . Kinh tế cá thể có thể tồn tại độc lập hoặc liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác. Chủ trương này giải quyết được lao động dư thừa trong xã hội, là đệm cho sự phát triển nền kinh tế. Sự thông thoáng trong cơ chế này tạo cho người sản xuất kinh doanh có thể tự do kinh doanh và áp dụng các thành tựu công nghệ để thu được lợi nhuận cao, đó cũng là một chính sách xây dựng trên yêu cầu của quy luật giá cả.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân cũng như thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ nhưng ngoài ra còn được bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh tư nhân.
Tuy nhiên sự can thiệp quá sâu vào sự phát triển của các thành phần kinh tế của nhà nước cũng hạn chế sự phát triển của chúng. Mặt trái của quy luật giá cả là sự chạy theo lợi nhuận, khoảng cách giàu nghèo cũng không tránh khỏi có tác động khi ta vận dụng quy luật này cùng với những phạm trù kinh tế của nó.
2.1.7 Vận dụng quy luật giá cả trong việc điều tiết hành vi đạo đức của con người
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX vừa qua, nước ta bắt đầu bước vào giai đoạn đổi mới. Sự gặp nhau giữa sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường, sự mở rộng giao lưu hợp tác với nước ngoài, sự hội nhập kinh tế thế giới, cùng với cuộc cách mạng khoa học, thông tin hiện đại và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã tạo ra cho Việt nam nhiều nhân tố mới , cơ hội mới để phát triển, đặc biệt là những điều kiện hết sức thuận lợi cho con người khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Kinh tế thị trường với quy luật giá cả, nguyên tắc lợi nhuận tối đa, quan hệ cung cầu và sự cạnh tranh đã kích thích mạnh mẽ lợi ích cá nhân trước mắt. Đạo đức gắn liền với lợi ích. Trong kinh tế thị trường, lợi ích có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều tiết mối quan hệ giữa con người với con người thông qua các mối quan hệ lợi ích ở trong xã hội theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng về lợi ích. Điều đó có nghiã là quan hệ lợi ích góp phần tích cực điều tiết hành vi đạo đức con người, làm cho đạo đức xã hội dần hoàn thiện hơn, lành mạnh hơn.
Quy luật giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con người, nó thực hiện sự tìm kiếm lao động và phân hóa người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo.
Nên vận dụng quy luật giá cả trong việc điều tiết hành vi đạo đức của con người trong kinh doanh là một tất yếu. Người sản xuất kinh doanh luôn mong thu được lợi nhuận cao , quy luật giá cả là một cơ chể tác động công bằng đối với mọi nhà sản xuất kinh doanh. Quy luật giá cả yêu cầu hao phí lao động cá biệt phải nhỏ hơn hao phí xã hội. Các nhà sản xuất kinh doanh vận dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Có người do áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, có người thì làm mọi cách để đạt được điều đó bất chấp các tiêu chuẩn, pháp luật . Tuy nhiên Ai là người sản xuất giỏi sau một quá trình kinh doanh dài và sự tồn tại cùng danh tiếng trên thị trường chứ không phải là khoản lợi nhuận trước mắt. Những nhà sản xuất kinh doanh bất chấp thủ đoạn thì hoặc là sa lưới pháp luật hoặc bị thị trường đào thải. Những tấm gương về việc phá sản do những hành vi áp dụng quy luật giá cả nhưng với mục đích xấu là một bài học đối với các người sản xuất kinh doanh. Chỉ khi nào hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội mà đạt được do áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, tiết kiệm chống lãng phí trong sản xuất … thì người sản xuất mới thực sự phát triển lâu dài. Với những yếu kếm tồn tại trong việc xuất khẩu lao động có các hiện tượng thu phí cao hơn so với quy định của nhà nước. Lại có doanh nghiệp ký được hợp đồng lao động ngoại ít, song trong việc tuyển dụng lại thông báo số lượng tuyển dụng qúa mức để kiếm lời từ phí tuyển dụng bất chấp sự thiệt hại gây cho người lao động.Chỉ vì lợi ích trước mắt mà làm hại đến những người đã khốn khó lại càng khó khăn hơn trong cuộc sống.
Người ta không chỉ vì lợi ích của bản thân mà vi làm xấu đi mối quan hệ giữa con người với con người mà còn tác động đến cả thiên nhiên. Với lợi ích ích kỷ trước mắt con người chỉ nhìn thấy giá cả sử dụng của thiên nhiên . Tất cả các loại tài nguyên thiênnhiên như rừng, đất đai, nước, khoáng sản, thực vật,… đều đang bị con người khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí đưa đến ô nhiễm nặng nề môi trường sống.ở nước ta hiện tượng đó diễn ra đặc biệt từ khi chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đến nay.
quan hệ giữa thiên nhiên và con người được xem như là mối quan hệ đạo đức sinh thái. Quan hệđạo đức sinh thái thể hiện trước tiên qua quan hệ lợi ích. Quan hệ lợi ích giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi con người trong xã hội .Do đó có thể sử dụng cơ chế lợi ích như một công cụ hữu hiệu để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người. Quy luật giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con người, vì vậy quy luật giá cả là công cụ hữu hiệu để điều tiết hành vi đạo đức của con người.
2.2 Vai trò của quy luật giá cả trong thời gian qua
Nước ta bắt đầu sự nghiệp đổi mới từ Đại hội Đảng VI, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường. Đến nay đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn đi nên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn được kiên trì.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa chịu sự tác động của rất nhiều những quan hệ kinh tế trong đó quy luật giá cả đóng vai rò trung tâm. Sự tác động của quy luật giá cả được thực hiện trong mối liên hệ với hệ thống các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội đang hoạt động trong thời kỳ quá độ. Do đó vai trò điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa của quy luật giá cả còn phụ thuộc vào sự tác động của các quy luật kinh tế căn bản.
Việc thiết lập cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho quy luật giá cả phát huy tác dụng, trên cơ sở đó hình thành một môi trường cạnh tranh quyết liệt, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên bình diện quốc tế. Để tồn tại hầu hết các doanh nghiệp trong các nghành nghề đều phải tổ chức lại sản xuất, không ngừng đổi mới công nghệ, tiết kiệm chi phí , hạ giá thành sản phẩm,trên cơ sở đó hạ giá bán, chiếm lĩnh thị phần và lợi thế cạnh tranh. Cùng với đà phát triển và hoàn thiệ của kinh tế thị trường, xu hướng này diễn ra ngày càng rõ rệt, góp phần làm cho giá cả mặt bằng chung giảm xuống. Bên cạnh yếu tố cạnh tranh, sự phát triển khoa học công nghệ với tính chất là lực lượng sản xuất trực tiếp cũng góp phần quan trọng vào việc tăng năng xuất lao động, tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu, chi phí nhân cong quảng cáo là nhân tố quan trọng để hạ giá thành và giá bán sản phẩm .
Trong sản xuất : quy luật giá cả tác động từng mức độ khác nhau tới từng loại hình sản xuất hàng hóa. Tác động đến việc lựa chọn phương án sản xuất, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đến tính toán các tỷ lệ cân đối trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội,tính toán việc sử dụng lao động , tài nguyên, vật tư thiết bị và tiền vốn trong các nghành các địa phương và cơ sở nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
Trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa : Quy luật giá cả tác động đến phương án đầu tư xây dựng cửa hàng, kho bãi, cách thức bảo quản , phương diện vận chuyển, cân, đong, đo, đếm, đến kế hoạch điều hòa lưu thông hàng hóa giữa mọi miền đất nước nhằm mục tiêu với chi phí lưu thông ít nhất có thể lưu thông được một khối lượng hàng hóa nhiều nhất.
Đối với mỗi thành phần kinh tế: mỗi thành phần kinh tế xã hội khác nhau, cách thức đạt lợi nhuận khác nhau và sử dụng lợi nhuận khác nhau. Có tác dụng kích thích các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau ra sức cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượngvà hạ giá thành hàng hóa.
Quy luật giá cả là một trong những đòn bẩy kinh tế góp phần vào những thnàh tựu to lớn và rất quan trọng trong 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội và sau 15 năm đổi mới. Phần lớn các mục tiêu chủ yếu để ra trong chiến lược phát kinh tế xã hội 1991-2000 đã được thực hiện. Nền kinh tế –xã hội có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế. Tống sản phẩm trongnước (GDP) sau 10 năm tăng 2,07 lần; 5 năm qua GDP tăng bình quân hàng năm 7%; tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ mứckhông đáng kể, đến nay đạt 27% GDP; sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu xã hội, tăng xuất khẩu và có dự trữ; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực : Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% còn 24,3 %; công nghiệp từ 22,7% lên 36,6%; dịch vụ từ 38,6% lên 39,1 %. Nhịp độ tăng xuất khẩu gần gấp ba lần nhịp độ tăng GDP, từng bước chủ động hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, thực trạng kinh tế, xã hội còn những mặt yếu kém , bất cập , đất nước chưa vượt qua tình trạng nước nghèo và nước kém phát triển :nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu; tích lũy nội bộ và sức mua còn thấp ; quan hệ sản xuất còn xchưa có mặt phù hợp . Đó là câu hỏi đặt ra với các nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội.
2.3 Những giải pháp nhằm vận dụng tốt quy luật giá cả trong thời gian tới ở nước ta
Với những tác động của quy luật giá cả và những thành tựu mà nước ta đã đạt được thì cần có những giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật gai trị trong thời gian tới.
Trong nhữnh năm tới nước ta tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, do đó còn có sự hoạt động của quy luật giá cả và còn có sự vận động của giá cả là một tất yếu khách quan. Chính vì vậy trong chính sách giá cả nhà nước không thể buông lỏng, thả nổi giá cả mà phải có cơ chế chính sách để điều hành hệ thống giá, kiểm soát giáđộc quyền, mặt bằng vận động ở mức hợp lý làm chuẩn mực quan trọng để kiểm soát lạm phát (hoặc thiểu phát), ổn định các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô để phát huy nội lực, thu hút vốn đầu tư, tiết kiệm , phấn khởi thu nhập , ổn định và nâng cao đời sống và suy cho cùng là ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội nói chung của đất nước. Vì vậy cần phải nhấn mạnh việc tiết tục đổi mới quản lý điều hành giá cả thị trường trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhằm hình thành được hệ thống giá bình ổn hợp lý ,góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nề kinh tế ,khuyến khích xuất khẩu , thu hút vốn đầu tư , thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục và bền vững. Đối với các doanh nghiệp cần có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh quy định quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong hoạt động hạch toán kinh tế.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa; có cơ cấu kinh tế hợp lý , có hiệu quả và sức cạnh tranh ; có thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong xuất khẩu lao động phải nâng cao chất lượng lao động của người việt nam, vấn đề chất lượng đào tạo phải đặt ra như một yêu cầu lớn, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải gắn với trường dạy nghề, gắn với các trường đào tạo , làm thế nào để đào tạo cho phù hợp . Đào tạo tiếng nước ngoài, giáo dục về phong tục tập quán, văn hóa tôn giáo, pháp luật sở tại để cho họ thấy người lao động ta có văn hóa, đi lao động nhưng có bản chất, truyền thống văn hóa Việt Nam. Phải tìm hiểu thị trường, bố trí lại hệ thống xuất khẩu lao động, tăng cường quản lý cả trong nước lẫn nước ngoài,
quy định chặt chẽ về việc thành lập doanh nghiệp xuất khẩu lao động song song với việc tăng cường kỷ cương kỷ luật với người lao động.
Khi dùng tiền tệ để thực hiện công bằng xã hội chủ nghĩa chúng ta cần tách bạch những nguyên nhân phi tiền tệ ảnh hưởng tới giá (như dùng thuế cao gấp bội trường hợp mua về để dùng, đánh mạnh vào đầu cơ, mua đi bán lại nhà đất, sốt cây con giống …) để ổn định giá cả song song với việc kiểm soát lạm phát.
Ngoài ra cần có những giải pháp trong công tac quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta. Cần xây dựng chiến lược, sách lược phát triển bền vững, kết hợp phát triển hài hòa kinh tế xã hội với môi trường coi trọng nâng cao chất lượng và hiệu quả. Tạo lập đồng bộ các thị trường Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Phát triển hệ thống pháp luật đồng bộ, khuôn khổ pháp lý phù hợp cho hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm những khuyết tật khi áp dụng quy luật giá cả .
Để vận dụng tốt hơn quy luật giá cả trong thời gian tới cho sự phát triển của nền kinh tế, cần phải nhận thức rõ vị trí , nội dung yêu cầu tác dụng và các hình thức hoạt động của quy luật giá cả , hiểu rõ điều kiện kinh tế xã hội mà quy luật đang vận động. Việc nhận thức quy luật không chi dừng lại ở khâu nhận thức cảm tính , kinh nghiệm mà cần có trình độ nhận thức lý tính.
Kết luận
Phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xã hội là mục tiêu lâu dài của đất nước ta. Trong mỗi chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Đảng và nhà nước ta lại đưa ra những mục tiêu và các công cụ để thực hiện mục tiêu đó. Các công cụ kinh tế được đưa ra là dựa trên lý thuyết kinh tế cùng với kinh nghiệm thực tiễn qua các giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước ta và rút ra từ bài học kinh nghiệm của một số nước thành công và không thành công trong công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế.
Trong bất cứ nền kinh tế nào cũng có những quy luật chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá cả là quy luật kinh tế căn bản của nền sản xuất hàng hóa , là một đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế xã hội. Qua việc nghiên cứu những lý luận về quy luật giá cả ( tính chất , đặc điểm hoạt động , yêu cầu tác dụng ) cùng với thực trạng vận dụng quy luật giá cả trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, mới thấy rõ được tầm quan trọng của nó. Hiểu được tính xác thực của nhận định “ Trung tâm của cơ chế thị trường là quy luật giá cả”
Cùng với vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế là những khuyết tật của quy luật giá cả gây ra trong nền kinh tế như việc chạy theo lợi nhuận của người sản xuất kinh doanh. Tuy vậy chúng ta không hề phủ vai trò của nó trong nền kinh tế nước ta trong thời gian qua mà chỉ nghiên cứu những tác động tích cực và tiêu cực của quy luật giá cả để phát huy và có những giải pháp cho việc vận dụng hiệu quả quy luật giá cả trong thời gian tới vì mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo
1.C.Mác Tư bản, quyểnIII, tập 1,nhà xuất bản sự thật , hà nội ,1978.
2. Niên giám thống kê 2001, nhà xuất bản hà nội , 2002
3.Học viện nghiên cứu Nguyễn ái Quốc, kinh tế chính trị, t II, nxb: tư tưởng- văn hóa, hà nội ,1992
4. Học viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, phân viện hà nội ,khoa kinh tế chính trị, Kinh tế chính trị học Mác-Lênin, tI vàII, nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2001
5.Trung tâm thông tin tư liệu học viện chính trị quốc gia HCM, Một số vấn đề lý luận kinh tế chính trị và phát triển kinh tế Việt Nam , Hà nội ,1995
6.Trường đại học Kinh Tế Quốc Dân,Bộ môn kinh tế chính trị học, Kinh tế chính trị Mác-Lênin, tI vàII, nhà xuất bản giáo dục,1998
7.Viện nghiên cứu kinh tế thuộc viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Sách giáo khoa chính trị kinh tế học, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội ,1961.
8.Tạp chí cộng sản, số 18(9/2001)
9.Tạp chí giáo dục lý luận 2/01, 12/2002.
10.Tạp chí lao động và xã hội,1/2001, 4/2001
11.Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc 1/2003
12.Tạp chí ngân hàng ,số12 năm 2001
13. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số286(3/2001)
14.Tạp chí sở hữu lý luận 2/2001
15. Tạp chí thị trường giá cả, 9/2001, 1/2002
16. Thời báo kinh tế sài gòn 4/2002
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng vào Việt Nam hiện nay.docx