LỜI GIỚI THIỆU
Sau hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nên những đổi thay trong nền kinh tế. Trong khi nhịp độ tăng trưởng nhanh và vượt mức kế hoạch thì cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Có được những thành công ấy một phần là do chủ trương đúng đắn của Đảng khi quyết định chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Đồng thời, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đang đặt ra trước chúng ta nhiều vấn đề lý luận cấp bách, trong đó có vấn đề nguồn gốc và động lực của sự phát triển xã hội. Không làm sáng tỏ vấn đề này, có thể nói chúng ta không biết tác động vào đâu, điều kiện sự vận động xã hội như thế nào để quá trình phát triểndiễn ra theo chiều và nhịp độ như chúng ta mong muốn. Tìm “nguồn gốc” tức là tìm “cái gây nên” sự vận động và phát triển của sự vật. Còn tìm “động lực” tức là tìm “ cái thúc đẩy sự vận động, phát triển ấy.
Theo nghĩa đó có thể thấy rằng mâu thuẫn vừa là nguồn gốc vừa là động lực của mọi sự vận động. Khẳng định điều trên đây có nghĩa là để tìm ra nguồn gốc và động lực phát triển của sự vật, chúng ta phải tiến hành phân tích các mâu thuẫn hiện đang tồn tại và tác động bên trong sự vật.
Vì lý do đó em chọn đề tài: “Mâu thuẫn biện chứng và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở việt nam
E1112.DOC
29 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2485 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mâu thuẫn biện chứng và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI GIỚI THIỆU
Sau hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nên những đổi thay trong nền kinh tế. Trong khi nhịp độ tăng trưởng nhanh và vượt mức kế hoạch thì cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Có được những thành công ấy một phần là do chủ trương đúng đắn của Đảng khi quyết định chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Đồng thời, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đang đặt ra trước chúng ta nhiều vấn đề lý luận cấp bách, trong đó có vấn đề nguồn gốc và động lực của sự phát triển xã hội. Không làm sáng tỏ vấn đề này, có thể nói chúng ta không biết tác động vào đâu, điều kiện sự vận động xã hội như thế nào để quá trình phát triểndiễn ra theo chiều và nhịp độ như chúng ta mong muốn. Tìm “nguồn gốc” tức là tìm “cái gây nên” sự vận động và phát triển của sự vật. Còn tìm “động lực” tức là tìm “ cái thúc đẩy sự vận động, phát triển ấy.
Theo nghĩa đó có thể thấy rằng mâu thuẫn vừa là nguồn gốc vừa là động lực của mọi sự vận động. Khẳng định điều trên đây có nghĩa là để tìm ra nguồn gốc và động lực phát triển của sự vật, chúng ta phải tiến hành phân tích các mâu thuẫn hiện đang tồn tại và tác động bên trong sự vật.
Vì lý do đó em chọn đề tài: “Mâu thuẫn biện chứng và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở việt nam
PHẦN NỘI DUNG
A-Cơ sở đề tài.
I-Cơ sở lí luận.
1.Nội dung qui luật mâu thuẫn của Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Khi nói về nguồn gốc sự vận động và phát triển của sự vật, chủ nghĩa Mac-Lê nin đã khẳng định rằng: tất cả các sự vật hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Như trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân, trong sinh vật có đồng hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền...Những mặt trái ngược đó được phép duy vật biện chứng gọi là mặt đối lập.Sự tồn tại của những mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Do đó mâu thuẫn biện chứng cũng là một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó không phải là chủ quan, ngẫu nhiên, cũng không phải là mâu thuẫn trong logic hình thức.
Khi nói đến mâu thuẫn biện chứng là nói tới sự thống nhất, nương tựa nhau không tách rời giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Hơn nữa, sự thống nhất còn là sự tác động ngang nhau giữa chúng. Đồng thời các mặt đối lập còn có sự đấu tranh tác động theo hướng bài trừ phủ định nhau. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Ví dụ như trong nền kinh tế thị trường “cung” và “cầu” là hai mặt đối lập. Mặt này luôn có xu hướng bài trừ phủ định mặt kia: khi cung quá lớn, lớn hơn cầu thì cầu sẽ giảm xuống và ngược lại. Nhưng chúng lại thống nhất với nhau vì không có nhà sản xuất thì người tiêu dùng không thể xuất hiện nhu cầu và cũng không thể thoả mãn nhu cầu đó. Ngược lại không có nhu cầu của người tiêu dùng thì không có nhà sản xuất ra mặt hàng đó để đáp ứng. Như vậy chúng luôn gắn kết chặt chẽ với nhau, vừa đấu tranh vừa thống nhất để tạo ra sự cân bằng giữa cung và cầu, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập qui định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản nhưng theo hai khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới, sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Lênin từng viết:”sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì không có đấu tranh giữa chúng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi.Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đói lập qui định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Như vậy, để nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt những khuynh hướng trái ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối lập và những mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. Nhận thức được điều này sẽ có ý nghĩa to lớn trong hoạt động thực tiễn
2.Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.
a. Quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin về quá trình nhận thức mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mâu thuẫn luôn luôn tồn tại khách quan trong bản thân sự vật, bất chấp chúng ta có nhận thức được nó hay không. Nhận thức của chúng ta về mâu thuẫn nói riêng và về sự vật nói chung bao giờ cũng là một quá trình. Quá trình nhận thức này sẽ đưa lại cho chúng ta sự hiểu biết, cũng tức là sự phản ánh ngày càng đúng đắn hơn về mâu thuẫn. Nhiệm vụ của nhận thức chính là ở chỗ mâu thuẫn thế nào thì phải cố gắng phản ánh đúng như thế, như nó vốn có, bất chấp kết quả nhận thức ấy có phù hợp với ý muốn của chúng ta hay không. Trong những năm gần đây, chúng ta đã có những chủ trương hành động sai lầm khi xử lý mâu thuẫn cơ bản trong suốt thời kì quá độ như đã vội xoá những cái chưa nên xoá và cũng chưa thể xoá, đã xây nhiều cái chưa nên xây... Những sai lầm này bắt đầu chủ yếu không phải vì chúng ta đã xây dựng sai mâu thuẫn cơ bản của thời kì quá độ mà chủ yếu bắt nguồn từ những quan điểm sai lầm về phương pháp giải quyết mâu thuẫn.
Trong di sản lí luận của Mac, Ăngghen và Lênin, việc thủ tiêu một trong hai mặt đối lập chỉ được coi là phương thức chứ không bao giờ là phương thức duy nhất để giải quyết mâu thuẫn cả. Có những trường hợp, cuộc đấu tranh giữa hai mặt đối lập ở đây không hề dẫn đến sự thủ tiêu một trong số chúng, mà ngược lại dẫn đến kích thích lẫn nhau,cái nọ gây ra sự biến đổi ở cái kia và ngược lại. Kết quả là cả hai cùng vận động và phát triển, làm cho sự vật chứa đựng mâu thuẫn ấy cũng vận động và phát triển theo. Ngoài ra còn có trường hợp nữa là do kết quả đấu tranh giữa các mặt đối lập mà cuối cùng cả hai cùng bị biến đổi theo hướng hoà nhập vào nhau, làm nảy sinh cái thứ ba- cái mới về chất so với sự vật cũ chư không phải cả hai mặt đối lập cùnh tồn tại hoặc một trong hai mặt đối lập bị thủ tiêu.
Mac từng nói:” Sự cùng tồn tại của hai mặt mâu thuẫn nhau, sự đấu tranh giữa chúng và sự hoà nhập của chúng tạo thành một phạm trù mới tạo nên bản chất của sự vận động và phát triển”.
Lênin:”Có thể kết hợp các khái niệm đối lập ấy lại với nhau tạo thành một điệu nhạc chối tai, mà cũng có thể kết hợp chúng lại thành một điệu nhạc êm tai”.
Có thể nói rằng chính cách kết hợp các mặt đối lập thành một điệu nhạc “êm tai” này đã bị chúng ta lãng quên hay ít nhất không chú ý tới, trong khi đó lại tuyệt đối hoá phương thức giải quyết mâu thuẫn bằng cách loại trừ một trong hai mặt đối lập. Nếu chúng ta sớm nhận ra “ sự sai sót” về mặt lí luận này thì chắc chắn chúng ta đã tránh được nhiều những chủ trương sai lầm trong hoạt động thực tiễn trước đây.
b. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Sự phát triển các nhu cầu vật chất và văn hoá của nhân dân đòi hỏi sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Nhưng lực lượng sản xuất sẽ không thể phát triển mạnh mẽ được nếu không có sự trao đổi ngày càng rộng rãi. Nói cách khác sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất một cách tự phát sẽ diễn ra theo hướng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hoá. Nhưng thời kì quá độ ở nước ta theo ý chúng ta mong muốn sẽ không phải là thời kì quá độ từ cá quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa sang các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vậy mà theo logic phát triển khách quan của sự vật, sau khi phá vỡ kết cấu kinh tế-xã hội cũ, nền kinh tế hàng hoá sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và một cách tự phát nó sẽ phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa ấy sẽ đưa đến chỗ tạo ra một trạng thái xã hội cao hơn hẳn cả về số lượng lẫn chất lượng so với nền sản xuất tiền tư bản, đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn các nhu cầu vật chất của con người. Nhưng đồng thời nó cũng kéo theo những hậu quả tiêu cực bất hạnh gắn liền với tình trạng người bóc lột người mà chúng ta muốn tránh. Chính vì muốn tránh những tiêu cực, những bất hạnh ấy mà chúng ta muốn tìm ra một con đường khác, sao cho vừa đảm bảo sản xuất ngày càng phát triển, nhờ đó xã hội ngày càng giàu mạnh, con ngưòi ngày càng được đáp ứng đầy đủ hơn các nhu cầu vật chất và văn hoá. Nhưng mặt khác cũng phải nhanh chóng thủ tiêu được sự bóc lột và bất công trong xã hội.
Do đó cần phải tận dụng nền kinh tế thị trường phát triển của tư bản chủ nghĩa nhưng phải có định hướng xã hội chủ nghĩa, hay phát triển nền kinh tế nhiều thành phần (trong đó có cả thành phần kinh tế tư nhân) nhưng kinh tế nhà nước luôn nắm vai trò chủ đạo.
Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một xã hội không còn sự bóc lột người, một xã hội trong đó mọi người hoàn toàn bình đẳng. Nhưng trong quá trình xây dựng xã hội ấy liệu có thể chấp nhận sự bất bình đẳng ở những mức độ nhất định hay không. Trước đây xuất phát từ những quan niệm sai lầm về thời kì quá độ xem thời kì quá độ như một giai đoạn ngắn ngủi có thể hoàn thành trong thời một hai chục năm, chúng ta đã bằng mọi cách thủ tiêu mọi sự bóc lột dưới bất kì hình thức nào của nó. Cách làm ấy hiện nay cho thấy là kém hiệu quả vì khi thực hiện những chủ trương đó chúng ta đã không hiểu rằng thời kì quá độ không phải là một quãng thời gian ngắn ngủi. Ngược lại, thực tế cho ta thấy đó là một quá trình rất lâu dài, phải qua nhiều bước trung gian, qua đó mà chúng ta không thể vượt qua bằng một bước nhảy vọt . Tình hình khách quan này buộc chúng ta không thể xoá bỏ sự bóc lột ngay lập tức mà phải xoá bỏ dần dần. Điều đó có nghĩa là trên con đường đi tới chỗ xoá bỏ bóc lột hoàn toàn chúng ta buộc phải chấp nhận sự bóc lột ở những mức độ nhất định. Tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, khi những quan hệ sản xuất trong đó có sự bóc lột vẫn còn tác dụng tích cực tới sự phát triển của lực lượng sản xuất nhiều hơn là trong trường hợp thủ tiêu chúng. Do đó tồn tại thành phần kinh tế tư nhân là điều cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta cần lợi dụng nó (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền sản xuất nhỏ và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện con đường, phương thức để phát triển lực lượng sản xuất như Lênin đã chỉ dẫn.
Nhận thức được điều này, Đại hội Đảng VI(1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Nội dung của đường lối đổi mới này là đưa ra quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, quan niệm mới về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ, về cơ cấu các thành phần kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường. Đặc biệt phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và khẳng định cần phải chuyển hẳn sang chế độ hạch toán kinh doanh.
Trong cương lĩnh phát triển đất nước năm 1991 và các Đại hội Đảng tiếp theo đều nhất quán khẳng định “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
II-Cơ sở thực tiễn.
1- Thế giới.
Mô hình chủ nghĩa xã hội cổ điển hay chủ nghĩa xã hội Xô viết, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế và nhược điểm, rốt cuộc đã tỏ ra không có sức sống và sự tự phát triển nội sinh về mặt kinh tế bị va vấp nặng nề trong thực tiễn và đi đến sụp đổ. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa kinh tế thị trường phục vụ cho mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc tạo ra động cơ lợi ích và cạnh tranh mạnh mẽ, thúc đẩy các tiềm năng kinh doanh, phát triển các lực lượng sản xuất và xã hội hoá nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, chủ nghĩa tư bản đã sử dụng các thành tựu Khoa học công nghệ hiện đại và vai trò nhà nước như một chủ thể xã hội hùng mạnh để can thiệp- quản lí các quá trình kinh tế vĩ mô, nhằm khắc phục hậu quả của chu trình kinh tế, hạn chế những khuyết tật và thất bại của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế hiện đại và mở rộng quan hệ thị trường trên qui mô toàn cầu.
Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực ấy, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Những mâu thuẫn mới của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã được chính các nhà kinh tế học tư sản nhận thức một cách sâu sắc:”kinh tế thị trường toàn cầu là do một số nhỏ những nước có ảnh hưởng đến sự phát triển bên trong các nước khác, điều tiết bằng việc thực hiện các chương trình sửa đổi được thảo ra trên cùng một mô hình, dưới sự hướng dẫn của các tổ chức hàng đầu (...). Chủ nghĩa tư bản toàn cầu vẫn chưa an ninh và đầy mâu thuẫn. Nó tràn ngập những tội phạm kinh tế, dễ tổn thương về mặt tài chính, ô nhiễm môi trường và những đe doạ về xã hội như tăng trưởng chậm làm tăng thất nghiệp và nghèo đói(...).
Do đó phát triển theo mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là duy nhất đúng, bởi luôn ẩn chứa trong nó những cạm bẫy, rủi ro. Càng không thể phủ nhận những hạn chế và mâu thuẫn cố hữu của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngay tại quê hương phát triển rực rỡ của nó ở phương Tây, mà việc khắc phục những mâu thuẫn này cho tới nay vẫn là một vấn đề cực kì nan giải. Trong khi đó một số nước Tây Âu và Bắc Âu với mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ và nền kinh tế thị trường xã hội đang thể hiện mong muốn tìm con đường riêng nhằm khắc phục hạn chế của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
2-Việt Nam
Đặt trong bối cảnh thế giới toàn cầu hoá và bước quá độ của nền kinh tế nước ta từ hệ thống kế hoạch hoá tập trung và từ nền kinh tế còn mang đậm nét nông nghiệp lạc hậu sang hệ thống kinh tế thị trường với những yêu cầu – áp lực phát triển rút ngắn và hội nhập vô cùng bức bách. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, có kinh nghiệm Trung Quốc về phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và đặc biệt từ tổng kết mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và gần hai mươi năm đổi mới của Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam là kinh tế sản xuất nhỏ, nguồn lao động dồi dào bao gồm nhiều tầng lớp, trong khi trình độ còn ở nhiều mức độ khác nhau thì việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế là tất yếu để vận dụng tối đa nguồn nhân lực phát triển kinh tế.
Từ đây, Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động, trong điều kiện cầm quyền, không thể không lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng đây là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng tiến hoá khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống Việt Nam và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa qui luật khách quan và mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với logic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương xây dựnh hình thái kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đạt được sự phồn vinh hạnh phúc chung của toàn xã hội. Nó cũng là con đường thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để có thể giảm thiểu đau khổ, thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
B-Thực trạng vấn đề.
I - Mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.
1. Mặt thống nhất.
Nước ta đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa từ nền sản xuất nhỏ với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Mỗi hình thức sở hữu dược biểu hiện thành một thành phần kinh tế.Trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là cơ chế thị trường. Do đó các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập. Mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Sự phát triển của mỗi thành phần kinh tế góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có sự độc lập tương đối và có bản chất riêng,nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh trong một môi trường chung, cùng chịu sự tác động của các nhân tố, các qui luật thịtrường. Đông thời các thành phần kinh tế tác động lẫn nhau cả tích cực cả tiêu cực. Sự biến đổi của các thành phần kinh tế này sẽ làm ảnh hưởng đến các thành phần kinh tế khác. Hơn thế nữa, các thành phần kinh tế có thể liên kết với nhau trong sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do nhà nước hướng dẫn, điều tiết, các chủ sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ xung cho nhau, bình đẳng trước pháp luật
Các thành phần kinh tế nước ta có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất. Chúng đều là bộ phận cấu thành của hệ thống phân công lao động xã hội thống nhất và mục tiêu duy nhất và chung nhất của chúng ta là đáp ứng yêu cầu ủa xã hội và cư dân trên hị trường để hướng tới mục đích cuối cùng là phát triển kinh tế, đưa nước ta trở thành một nước có nền công nghiệp phát triển. Nền kinh tế nhiều thành phần nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng đều chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế khách quan đang tác động trong thời kì quá độ khi hoàn cảnh quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc. Các hình thức sở hữu kết hợp và đan xen vào nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các thành phần kinh tế đã khơi dậy nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm cho xã hội, thúc đẩy hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường. Sự phát triển của các thành phần kinh tế là quá trình thực hiện sự kết hợp về lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và người lao động ngày càng cao hơn.
Nền kinh tế nhiều thành phần là cơ sở tồn tại của các giai cấp hoặc các tầng lớp khác nhau mà tổng hợp toàn bộ các giai cấp hoặc tầng lớp xã hội đó tạo thành cơ cấu xã hội- giai cấp. Trong cơ cấu xã hội giai cấp ấy, mỗi giai cấp mỗi tầng lớp xã hội, các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đều có những lợi ích kinh tế riêng, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
2. Mặt mâu thuẫn.
Bên cạnh mặt thống nhất, các thành phần kinh tế còn có sự mâu thuẫn với nhau vì mỗi thành phần kinh tế có đặc điểm riêng về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Trên cơ sở đó, ở mỗi thành phần kinh tế ngoài các qui luật kinh tế chung còn có các qui luật kinh tế đặc thù hoạt động, chi phối mỗi thành phần. Như vậy, mỗi thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu. Cạnh tranh là động lực quan trọng để cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi cho cạnh tranh. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là mâu thuẫn giữa một bên là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nước với một bên là tính tự phát tư sản và tiểu tư sản của kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể là mâu thuẫn không thể điều hoà. Giải quyết mâu thuẫn theo hướng các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ngày càng chiếm ưu thế là nhiệm vụ căn bản của thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào là việc không đơn giản. Những mâu thuẫn này không thể giải quyết bằng biện pháp hành chính đơn thuần, bằng ý chí chủ quan, bằng bạo lực... mà phải bằng cách tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ấy phát triển mạnh mẽ có lợi cho quốc kế dân sinh, hướng các thành phần kinh tế tư nhân đi vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước thông qua nhiều hình thức và mức độ khác nhau: hiệp tác, liên kết, liên doanh; bằng việc nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể...
Tóm lại, trong nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa chúng là khách quan. Sự thống nhất và mâu thuẫn làm các thành phần kinh tế vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá đều đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế và cần có sự quản lí của nhà nước nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, đem lại thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế cần được thừa nhận và tạo điều kiện để chúng tồn tại và phát triển. Đồng thời các thành phần kinh tế cần được bình đẳng trên nọi phương diện.
II - Thành tựu
1. Biểu hiện.
Tổng kết 10 năm thực hiện “ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” Đại hội Đảng IX đã khẳng định:
Đến năm 2000, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tổng sản phẩm trong nước(GDP) sau mười năm tăng 2,07 lần so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng khan hiếm đã chuyển sang sản xuất đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ chỗ chủ yếu có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vượt qua cơn chấn động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu gây ra.
Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỉ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống còn 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% lên 39,1%. Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế mới, hình thành nhiều tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Kinh tế tập thể có bước chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới. Kinh tế hộ phát huy tác dụng rất lớn trong nông nghiệp, kinh tế cá thể tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Cơ chế quản lí, phân phối có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
Từ chỗ bao vây cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp 3 nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và quản lí tiên tiến.
Như vậy phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong “ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000” đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ, thế và lực của đất nước đã hơn hẳn 10 năm về trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên tạo thêm điều kiện đẩy mạnh Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường nước ta bao gồm 6 thành phần kinh tế.Đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tiểu thủ cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Biểu hiện cụ thể của một số thành phần kinh tế như sau:
Kinh tế nhà nước
Kể từ khi đổi mới nền kinh tế, vị trí và vai trò của kinh tế nhà nước có nhièu thay đổi, và những đổi thay này mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực cho sự phat triển kinh tế Việt Nam. Mặc dù thay đổi, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước vẫn luôn đước khẳng định cả trên bình diện lí luận và thực tiễn. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định:Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ dể Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Doanh nghiệp nhà nước cũng giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật
Trên thực tế, thương mại nhà nước tuy chỉ còn chiếm tỉ trọng 17,2% năm 2002, nhưng vẫn giữ được vai trò chủ đạo và kiểm soát thị trường. Trong lĩnh vực bán buôn, thương mại nhà nước vắm giữ từ 70% đến 100%thị phần trên thị trường bán buôn cả nước. Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, vai trò của thương mại nhà nước càng trở nên quan trọng, cùng với các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò đầu tàu trong hoạt động xuất nhập khẩu và góp phần quyết định vào tăng trưởng xuất nhập khẩu tương đối nhanh và ổn định thời gian qua. Kể từ khi đổi mới nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước đã từng bước chuyển đổi tổ chức và phương thức kinh doanh để thích ứng với môi trường kinh doanh mới của thị trường. Không những tự vươn lên, chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường, các doanh nghiệp nhà nước còn xuất hiện các hạt nhân, làm đầu mối đáng tin cậy để các thành phần kinh tế khác uỷ thác hoạt động. Chính ở vị thế này, có thể nói các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong hoạt động kinh tế, khuyến khích và giúp đỡ các doanh nghiệp mới thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển.
Kinh tế tập thể
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước trong thời kì đổi mới, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể (Nghị quyết Đại hội Đảng IX, Nghị quyết 13 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá IX) và luật Hợp tác xã), trong những năm gần đây, khu vục kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã đã có những buớc chuyển biến sâu rộng và toàn diện từ mô hình hợp tác xã kiểu cũ sang mô hình hợp tác xã kiểu mới, đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, đời sống cộng đồng, khẳng định xu thế khách quan và từng bước nâng cao vai trò, vị thế kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, vai trò của các hợp tác xã tuy còn khiêm tốn, nhưng sự tham gia của các hợp tác xã vào lĩnh vực hoạt động này cũng rất có ý nghĩa. Tính đến ngày 31\12\2002 cả nước có 387 hợp tác xã thương mại. Các hợp tác xã này đảm bảo khoảng 1% tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ ở thị trường trong nước. Nhiều hợp tác xã còn tham gia thị trường quốc tế thành công. Các hợp tác xã thương mại- dịch vụ ở nông thôn cũng phát triển khá ổn định, nhất là các mô hình hợp tác xã kinh doanh tổng hợp, kết hợp giữa kinh doanh thương mại với chế biến và dịch vụ.
Kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam được chính thức công nhận tồn tại lâu dài tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986). Kinh tế tư nhân được phát triển mạnh từ khi nhà nước ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (1990), Nghị định số 66/HĐBT (1992) và đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực (1\1\2000).
Trong vòng 3 năm kể từ khi Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực, đã có 72000 doanh nghiệp mới ra đời, tham gia hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sông xã hội. Trong đó, các doanh nghiệp tư nhân tham gia hoạt động thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong số các doanh nghiệp nêu trên. Sự tham gia của kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp công ty, các hộ gia đình, thương lái,chủ vựa...vào mạng lưới thương mại quốc gia đã góp phần quan trọng kích hoạt sự phát triển sản xuất hàng hoá, tạo ra sức mua hơn cho thị trường, đóng góp vốn và cơ sở vật chất kĩ thuật thương mại chung...
Vai trò của kinh tế tư nhân là rất quan trọng, không những góp phần hạn chế độc quyền của các công ty nhà nước, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, làm năng động hoá toàn bộ hệ thống thương mại cả nước và hoạt động xuất nhập khẩu mà còn tạo thêm nguồn lực về vốn, trình độ quản lí, trình độ chuyên môn, trang thiết bị kĩ thuật và công nghệ... cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân thể hiện ở số lượng doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng số doanh nghiệp thương mại hiện nay (trên 90%). Kinh tế tư nhân hiện đảm nhiệm hơn 80% tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ trong cả nước, tham gia tích cực vào hoạt động bán buôn và hoạt động xuất nhập khẩu. Từ chỗ chỉ chiếm chưa đầy 5% trị giá xuất khẩu vào cuối những năm 90, đến nay kinh tế tư nhân đã vươn lên chiếm khoảng 18% tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngay từ khi bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, Nhà nước đã đặc biệt chú trọngkhuyến khích FDI bằng việc thông qua Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Trong quá trình thực hiện Luật này đã được chỉnh sửa và bổ xung ba lần vào các năm 1992, 1996, 2000. Sau 16 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành, đã có hơn 4000 dự án với số vốn đăng kí khoảng 45 tỷ USD, với 25 tỷ USD vốn thực hiện, đóng góp 14%GDP, 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm trực tiếp cho khoảng 40 triệu lao động...
Trong lĩnh vực thương mại, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu và hiện là thành phần kinh tế đóng góp nhiều nhất cho xuất khẩu và tăng trưởng xuất khẩu của đất nước. Các doanh nghiệp FDI chiếm phần quan trọng, thậm chí quyết định trong cơ cấu xuất khẩu các sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến và chế tạo như dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện vi tính...
Hiện nay, xuất khẩu của khu vực FDI hằng năm chiếm khoảng 47% đến 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và 80-90% kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI là hàng chế biến, chế tạo.
2. Nguyên nhân.
Có được những thành tựu trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, sự điều hành năng động của Chính phủ, và sự cố gắng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đó còn là do tác động tích cực của những cơ chế chính sách đã được ban hành, do kết quả đầu tư trong nhiều năm qua đã làm cho năng lực sản xuất của nhiều ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng khá.
Về đường lối và chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế: Đảng và Nhà nước ta đã phát huy cao độ trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tham gia vào đường lối xây dựng phát triển của đất nước, thể hiện qua việc lấy ý kiến của toàn Đảng, toàn dân về Dự thảo văn kiện Đại hội của Đảng và pháp luật Nhà nước. Trên cơ sở đó Đảng và nhà nước ta đã đề ra được chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế- xh trong từng giai đoạn cụ thể.
Việc xây dựng thể chế kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã tạo lập hệ thống pháp luật kinh tế, hệ thống chính sách kinh tế và đảm bảo hệ thống này có hiệu lực trong thực tế, nâng cao hiệu lực quản lí kinh tế của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống pháp luật đã tạo môi trường pháp lí cho các chủ thể kinh tế thuộc 6 thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả, gắn tăng trưởng kinh tế với đảm bảo về mặt xã hội. Trong đó các điều kiện và môi trường pháp lý cho thành phần kinh tế nhà nước được chú trọng, tạo điều kiện để thành phần kinh tế này vươn lên giữ vai trò chủ đạo, đủ sức hỗ trợ và giúp đỡ các thành phần kinh tế khác đi theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó đã tạo nội lực tổng hợp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, sự cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lí của Nhà nước đã phát huy nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân ta.
III - Hạn chế.
1. Biểu hiện.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng Xã hội chủ nghĩa của nước ta còn có những hạn chế sau:
Nền kinh tế kém hiệu quả, sức cạnh tranh còn yếu. Tích luỹ nội bộ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá gắn sản xuất với thị trường, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và bao hộ còn nặng. Qui mô nền kinh tế còn nhỏ. Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế chưa thật vững chắc, dễ bị ảnh hưởng bởi biến động từ bên ngoài. Trình độ khoa học công nghệ, năng suất lao động còn thấp; giá thành nhiều sản phẩm cao hơn so với khu vực và thế giới. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát, lãng phí. Một số công trình xây dựng lớn quan trọng của quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng. Môi trường sinh thái ở nhiều nơiô nhiễm nặng. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhìn chung chưa hợp lý. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Tăng trưởng kinh tế nhiều năm gần đây giảm sút.
Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động chưa qua đào tạo vẫn là phổ biến, lao động nông nghiệp còn chiếm tỉ lệ cao. Kinh tế đối ngoại chưa phát huy đầy đủ khả năng; doanh nghiệp trong nước chưa đủ sức vượt qua những khó khăn về cạnh tranh và thị trường. Chưa có chuyển biến đáng kể trong đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể chậm phát triển, việc chuyển đổi các hợp tác xã theo luật ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết nội lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển, chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh. Việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển và vận hành theo cơ chế thị trường chưa đồng bộ; một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm; tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt để.
Trong quan niệm về thành phần kinh tế nhà nước chưa có sự mạch lạc, không theo đúng lý luận kinh điển về quan hệ sản xuất. Trong cách phân loại thành phầnkinh tế hiện hành, khu vực kinh tế tư nhân lại được chia thành các thành phần:kinh tế cá thể, tiểu chủ: kinh tế tư bản tư nhân;kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng xác định những hình thức cụ thể của chúng được biểu hiện như thế nào thì chưa rõ. Hơn thế nữa, các thành phần kinh tế này cũng đan xen vào nhau rất khó định hình rõ nét. Ta có thể phân biệt kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với kinh tế có vốn đầu tư trong nước, chứ hoàn toàn không thể phân biệt được kinh tế tư bản nhà nước với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
2. Nguyên nhân
Có những khuyết điểm đó là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan sau:
Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thông nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành, như các vấn đề: sở hữu và thành phần kinh tế; cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp cổ phần; hướng đầu tư xây dựng cơ bản; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; đổi mới chính sách kinh tế, ...
Chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt. Ba lĩnh vực được coi là ba khâu đột phá (xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ chế chính sách; tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực; đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị mà trọng tâm là cải cách hành chính) chưa được chỉ đạo tập trung, thực hiện thiếu tinh thần trách nhiệm. Tình trạng nói nhiêu làm ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc không làm còn diễn ra ở nhiều nơi. Hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp đối với một số lĩnh vực như: quy hoạch, giá cả, tài chính, ngân hàng, tài nguyên quốc gia, an toàn giao thông...
C- Một số giải pháp cơ hội và thách thức khi việt nam hội nhập quốc tế
Việt Nam là quan sát viên của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại) và chính thức nộp đơn gia nhập WTO ngày 4/1/1995. Ngày 22/8/1996, Việt Nam đã gửi Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam tới WTO. Tháng 7/1998, Việt Nam tiến hành phiên họp đa phương đầu tiên tới Nhóm công tác về minh bạch hóa các chính sách kinh tế thương mại. Cho tới nay, Việt Nam đã thực sự hoàn tất về cơ bản giai đoạn minh bạch hóa chính sách và đang ở giai đoạn đàm phán rất quan trọng về mở cửa thị trường một cách toàn diện. Gia nhập WTO đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, điều này được thể hiện ở các điểm sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại cho Việt Nam các lợi ích như: Đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO.
Thứ hai, gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Việc bãi bỏ Hiệp định đa biên (MFA) về hàng dệt sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Các nhà xuất khẩu Dệt -May Việt Nam sẽ được đảm bảo trong vòng 10 năm sau khi trở thành thành viên của WTO, đồng thời, các nước nhập khẩu sẽ không có các hạn chế MFA đối với hàng dệt may của Việt Nam. Đối với các mặt hàng nông sản, là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu mặt hàng này hơn vì hạn ngạch nhập khẩu gạo và các nông sản khác sẽ được thay thế bằng thuế và thuế sẽ phải được cắt giảm theo Lộ trình quy định của WTO. Việt Nam có lợi nhiều khi các thị trường gạo mở cửa, đặc biệt là các thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. So với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các Hiệp định của Vòng Uruguay vì theo quy định của WTO, hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế, sẽ rất có lợi từ quy định này.
Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận dụng được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới.
Thứ ba, Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt như được miễn trừ sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hóa thuộc loại cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm.
Thứ tư, Việt Nam sẽ có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần những bất hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Thứ năm, Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới… của nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng…
Sáu là, nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tự do hóa thương mại của WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong việc tạo sản phẩm mới, cải tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm…
Bên cạnh những cơ hội đó, Việt Nam đồng thời cũng phải đương đầu với các thách thức sau khi gia nhập WTO. Bởi lẽ, so với thế giới, Việt Nam còn là một trong những nước nghèo với mức GDP đạt 372 USD/người/năm, hệ thống chính sách kinh tế-xã hội đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý… có sự chênh lệch lớn so với các nước phát triển.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn phải thực thi đầy đủ các cam kết của mình, đặc biệt là các cam kết trong một số lĩnh vực như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các biện pháp đảm bảo thương mại công bằng, an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ, kiểm dịch động thực vật và hàng rào kỹ thuật thương mại…, nên việc thực thi sẽ rất khó khăn. Điều này không chỉ yêu cầu Việt Nam phải thông qua các luật lệ, quy định phù hợp với WTO và nền kinh tế thị trường, mà còn đòi hỏi tình hình thực tiễn phải đáp ứng được các yêu cầu của WTO. Cụ thể, Việt Nam phải nâng cao đáng kể năng lực cho các cơ quan có liên quan cũng như thay đổi cơ bản về quản lý và tổ chức, đầu tư đáng kể cho nguồn nhân lực, hợp lý hóa công tác tổ chức thương mại và phân bổ ngân sách. Nếu không, sẽ phát sinh hai vấn đề: Thứ nhất, Việt Nam không thể thực hiện các nghĩa vụ WTO của mình và thứ hai là Việt Nam không thể tận dụng được hết các cơ hội khi gia nhập WTO, từ đó sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng, có thể gây tổn hại cho nền kinh tế.
Để sớm đạt mục tiêu gia nhập WTO nhằm mở rộng thị trường cho hàng hóa, doanh nghiệp Việt Nam được đối xử bình đẳng, thu hút vốn và công nghệ, đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ đồng bộ của tất cả các bộ, các ngành từ khâu chuẩn bị đàm phán và đổi mới cơ chế chính sách cho phù hợp với các cam kết quốc tế, đến sự chuẩn bị cho nền kinh tế sẵn sàng đương đầu với các thách thức, sự vươn lên vượt bậc của các doanh nghiệp với sự hỗ trợ của Nhà nước và sự tranh thủ thái độ thiện chí của các nước thành viên WTO để đưa ra những yêu cầu hợp lý phù hợp với điều kiện Việt Nam. Với cơ hội và thách thức đó một số giải pháp được nhà nước đưa ra phát triển thành công mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được nêu rõ :
1- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là:
Thực hiện mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn nội lực và ngoại lực, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
2- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước
Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng:
Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch,kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của thi trường. Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự kỉ cương. Tác động đến thị trường chủ tếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế; đồng thời sử dụng kịp thời có hiệu quả một số biện pháp cần thiết khi thị trường trong nước hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường khu vực và thế giới có biến động lớn...
3- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các thị trường cơ bản, theo cơ chế cạnh tranh
4- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.
Ngoài những biện pháp lớn nói trên, chúng ta có thể thực hiện một số biện pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế theo con đường của Đảng. Đó là:
Giải quyết đúng đắn và hợp lý mối quan hệ giữa Nhà nước và nông dân trong bối cảnh của nền sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn còn là sản xuất nhỏ lạc hậu. Từ bỏ phương pháp lãnh đạo và quản lý theo lối mệnh lệnh, hành chính, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để chuyển sang phương pháp kinh tế là chủ yếu, lấy hiệu quả kinh tế làm chính trên cơ sở kết hợp giải quyết một cách có căn cứ lý luận và thực tiễn những vấn đề cấp bách với những vấn đề mang tính chiến lược lâu dài. Hình thành và phát triển các hình thức kinh tế tư bản nhà nước trên cơ sở mối liên kết, tổ chức đan xen giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân được tạo ra bởi sự bởi sự liên doanh dưới hình thức vốn và đóng góp cổ phần. Vẫn phải tiếp tục quan tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông nghiệp, đến trang trại nhỏ và vừa, kinh tế hộ gia đình. Phải lưu ý giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có mối quan hệ biện chứng. Nó là điều kiện và tiền đề cho nhau. Do vậy ngay từ đầu giữa chúng phải có sự kết hợp chặt chẽ, trong đó đổi mới kinh tế phải được coi là trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới về chính trị.
KẾT LUẬN
Như vậy, Việt Nam đang trên đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế . Và để thực hiện thành công mục tiêu đó việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng Xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ấy, mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế cũng phù hợp với những qui luật khách quan. Nó tạo ra cạnh tranh và là động lực cho kinh tế phát triển. Nhận thức được những mâu thuẫn ấy và có những biện pháp tích cực sẽ góp phần đẩy nhanh thời kì quá độ của đất nước, tạo điều kiện hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhanh chóng hơn.
Đồng thời, lực lượng thanh niên, sinh viên là lực lượng được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, họ được đào tạo, được giáo dục trên tất cả các mặt, họ là chủ nhân tương lai của đất nước. Nhận thức được điều này, bản thân mỗi thanh niên, sinh viên phải không ngừng học hỏi, tiếp nhận tri thức mới đồng thời tự rèn luyện bản thân để trở thành những con người xã hội chủ nghĩa để đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển chung, vào sự phồn vinh của đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mâu thuẫn biện chứng và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở VN.DOC