Thứ tư, các trường cần chú trọng việc liên kết xây dựng và phổ biến, chuyển
giao các công nghệ điều hành đào tạo theo học chế tín chỉ đặc biệt là mô hình hợp tác
giữa trường Đại học, Viện nghiên cứu và doanh nghiệp cũng rất quan trọng, mô hình
U- I- C sẽ giúp các trường có nhiều kinh phí hơn để đào tạo và phát huy khả năng
nghiên cứu, sáng tạo cho sinh viên, giúp sinh viên có một phong thái làm việc hiệu quả
vận dụng ngay trong quá trình học tập đồng thời đáp ứng đầu ra sau công tác đào tạo.
Ngoài ra các trường cần mở rộng quan hệ với các trường đại học và các tổ chức điều
phối giáo dục đại học trong khu vực và trên thế giới để thỏa thuận về việc công nhận
văn bằng và tín chỉ của nhau đồng thời liên kết đào tạo gửi các học viên du học,nghiên
cứu sinh ở các nước để học tập lẫn nhau không chỉ là trong phương pháp giáo dục mà
còn học hỏi, tiếp thu các giá trị văn hóa xã hội quay về phục vụ cho nền giáo dục nước
nhà giúp mở rộng lĩnh hội tri thức thế giới.
56 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2523 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mô hình đào tạo tín chỉ tại các trường đại học Hoa Kì hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là các nguyên tắc:
1) “Tăng cường sự tiếp xúc giữa Giảng viên và Sinh viên
2) Khuyến khích các hoạt động hợp tác giữa sinh viên
3) Khuyến khích các phương pháp học tập tích cực
4) Cung cấp thông tin phản hồi kịp thời
5) Xem trọng yếu tố thời gian
6) Kì vọng nhiều vào sinh viên
7) Tôn trọng sự khác biệt về năng khiếu”
Như vậy phương pháp dạy được xây dựng nhằm để phát huy hết được khả năng,
tinh thần, trách nhiệm của sinh viên. Giảng viên chỉ là diễn viên quần chúng để góp ý,
hướng dẫn cho Sinh viên. Nhân vật trung tâm là sinh viên. Hay nói cách khác quá trình
tương tác trong lớp học là quá trình hai chiều có sự qua lại giữa người dạy với người
học. Sinh viên được tự do, thoải mái nói lên quan điểm cá nhân, điều đó khác hẳn với
Đại học ở Việt Nam, đa số khi giảng viên đưa ra chủ đề thảo luận sinh viên thường
ngồi im mà không có ý kiến.
“Giáo sư đóng vai trò là người hướng dẫn, sinh viên là người trực tiếp khai thác,
nghiên cứu và lĩnh hội thông tin…Sinh viên Mỹ sẽ không ngại ngùng giơ tay phát biểu
và bảo giáo sư “Thưa thầy, thầy sai rồi ạ.” Giáo viên ở Việt Nam cũng nên đặt triết lí
Nho giáo truyền thống xuống thấp hơn và cởi mở đón nhận ý kiến của sinh viên để
phát triển năng lực của bản thân.”
…
“Cũng với một nội dung thông tin như nhau, cách truyền giải kiến thức ở Việt Nam
khác nhiều so với ở Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ, sinh viên sẽ không bao giờ được cho một
logic kiến thức để ghi nhớ, tính toán, mà được gợi ý để nắm bắt cái cốt lõi, cơ bản nhất
của hiện tượng, lí thuyết bằng nhiều ví dụ trực quan và thực tế. Vì thế, workload ở
Việt Nam sẽ nhiều hơn hẳn so với Hoa Kỳ, tuy nhiên đến cuối chặng được, kiến thức
32
tích lũy được sẽ không nhiều và không chắc vì không được xây dựng từ nhu cầu của
bản thân.”
PVS: T.V.B sinh viên năm thứ nhất Clark University, Massachusetts, Hoa Kỳ
Phương pháp học của sinh viên có thể gói gọn trong ba từ: chủ động, tích cực,
sáng tạo. Sinh viên chủ động ở đây là chủ động tìm tòi các tri thức, phương pháp học
tập, chủ động sắp xếp thời gian hợp lí. Tích cực ở đây là sự chăm chỉ làm bài tập về
nhà, tích cực đưa ra các ý kiến, quan điểm cá nhân ở trên lớp và tần suất lên thư viện
khá cao. Ở các trường như State University of New York at Stony Brook, University,
Massachusetts, University of California, Berkeley, đặc biệt là trường Berkeley, người
ta đánh giá sinh viên còn qua việc sinh viên lên thư viện bao nhiêu lần, bao nhiêu giờ,
số sách mà sinh viên đã tham khảo. Sáng tạo ở đây, đòi hỏi sinh viên phải áp dụng
kiến thức được học ở giảng đường vào thực tiễn.
“Hệ thống đào tạo Đại học ở Hoa Kỳ áp dụng hình thức tín chỉ cho toàn bộ các trường
đại học. Phương pháp học nói chung là phát huy tính chủ động, sáng tạo đồng thời
phát hiện và phát triển triển kĩ năng xử lí tình huống, kĩ năng làm việc nhóm, khả năng
ngôn ngữ của sinh viên.”
PVS: T.V.B sinh viên năm thứ nhất Clark University, Massachusetts, Hoa Kỳ
2.1.3 Cách thức tính điểm- hành trình ghi nhận trí tuệ của sinh viên trong
mô hình đào tạo tín chỉ Bậc Đại học của Hoa Kỳ.
Cách thức tính điểm gồm 3 đầu điểm chính: Participation ( sự chuẩn bị),
midterm ( bài kiểm tra giữa kỳ), finalterm ( bài kiểm tra cuối kỳ). Tuỳ thuộc vào các
trường, các nghành, các giảng viên khác nhau để đưa ra kết quả điểm chứ không theo
một khuôn mẫu gò bó nào ép buộc cách thức cho ba đầu điểm đó. Nhưng xét cho cùng
thì cách thức tính điểm vẫn có những điểm chung nhất định.
Tại State University of New York at Stony Brook cách thức tính điểm gồm 3 đầu
điểm chính: participation, midterm, finalterm. Participation có thể là điểm chuyên cần
33
do điểm danh một buổi bất chợt nào đó hoặc là việc chuẩn bị cho bài mới, hoặc là
homework. Nhưng về cơ bản có nhiều bài tập về nhà sau mỗi buổi, sau đó giảng viên
thu lại chấm lấy điểm bài tập. Các giảng viên rất chú trọng trong việc cải thiện nâng
cao kỹ năng tư duy, biện luận cho sinh viên do vậy thỉnh thoảng giảng viên sẽ cho
kiểm tra nhỏ, phần lớn là tự luận chứ không phải trắc nghiệm. Midterm là bài kiểm tra
giữa kì do giảng viên của từng lớp ra, được làm tại lớp. Còn finalterm là bài thi cuối
kì, học sinh tập trung thi theo số báo danh. Sau đó tổng trung bình tất cả các điểm để
lấy điểm cho môn học.
“Lớp nhiều nhưng bài về nhà tổng số lượng ít, biết sắp xếp thời gian thì làm đơn giản,
nhưng có vẻ bài tập vẫn nhiều hơn ở Việt Nam một chút, bài về nhà nào cũng chấm
điểm, tính điểm, gần như buổi nào cũng có bài nên nó hơi tạo thành áp lực (chủ yếu
tâm lý), bài kiểm tra cuối kì thì cũng kiểm tra bình thường như bên mình thôi, thi
thoảng có kiểm tra nhỏ, phần lớn là tự luận chứ không phải trắc nghiệm. Việc điểm
danh thì cũng tuỳ lớp, attendance 1 số lớp như lớp lecture thì gần như không tính, vd
như toán, Computer Science, đa số cứ đi học đầy đủ, lấy điểm danh làm điểm chuyên
cần
PVS P.Đ.H sinh viên năm nhất chuyên ngành Toán và Computer Science, trường State
University of New York at Stony Brook.
Tại University of California, Berkeley và University, Massachusetts, Hoa Kỳ
thì cũng tương tự như vậy. Tuy nhiên midterm ở đây không chỉ có một bài mà được
chia thành nhiều bài. Và việc điểm danh cũng trở nên đặc biệt hơn khi gắn với các
thiết bị công nghệ.
“Mùa fall thì 5/9 đến 20/12, mùa spring thì 20/1 đến giữa tháng 5; 1 tín chỉ thì tương
đương 50', tính điểm thì có mấy bài midterm và 1 bài final, 1 số lớp thì tính điểm
participation, homework, project, presentation. Không có sự thông nhất trong tính
điểm mà lại phụ thuộc vào thầy cô giáo. Mỗi 1 kỳ có khoảng 2 - 3 - 4 midterm, mỗi
midterm chiếm khoảng 20%, phần còn lại là final, có vài lớp thì homework chiếm
10%, participation khoảng 5%, participation bao gồm attendance + trả lời câu hỏi
trong lớp, có mấy lớp xài clicker, ông thầy cho 1 câu trắc nghiệm trên powerpoint
34
slide, mọi người xài clicker để trả lời, đúng thì 2 điểm, sai thì 1 điểm, ko trả lời thì 0
điểm. Đi finalterm thì có U card, khi nộp bài thì phải cầm theo U card, còn midterm,
thì làm trên lớp học của mình, nếu lớp đông thì chia phòng từ A tới L 1 phòng, phần
còn lại 1 phòng”
PVS: N.H.L sinh viên năm nhất University of California, Berkeley, Ngành Materials
Science and Engineering
Như vậy, cách tích điểm của các trường Đại học của Hoa Kì thường là sự tổng
hợp nhiều bài tập để đánh giá một cách khách quan nhất về trình độ, năng lực của sinh
viên, và hơn nữa đó là một quá trình học tập lâu dài, chứ không phải một ngày, hai
ngày. Kiến thức tích luỹ cũng được tôi luyện theo thời gian. Tất cả những yêu cầu đó
làm sinh viên tự biết có trách nhiệm với bản thân mình hơn mà sắp đặt thời gian tự học
một cách nghiêm túc, chứ không có thái độ lười biếng, ỷ lại và thực hiện hành vi gian
lận trong thi cử.
“Hệ thống tính điểm bao quát được mức độ tiến bộ của sinh viên sau cả quá trình,
không chỉ dừng lại ở đánh giá qua điểm số, mà cả thái độ, sự chăm chỉ và tính trung
thực của sinh viên. Sinh viên ở Mỹ thường không bao giờ gian lận trong các kì thi,
dù là bài tập về nhà hay kì thi cuối kì”
PVS: T.V.B sinh viên năm thứ nhất Clark University, Massachusetts, Hoa Kỳ.
Ở Việt Nam, cách thức tính điểm này cũng được áp dụng. Tuy nhiên xét về
điểm chuyên cần, điểm mà Hoa Kỳ gọi là Paticipation thì ở nước chúng ta do điều kiện
vật chất hạn hữu nên việc xem xét sinh viên có đi học thì thường dùng hình thức gọi
tên, nó hơi gây sự lãng phí về thời gian. Tuy nhiên có một số giảng viên sáng tạo bằng
cách cho sinh viên viết tên vào tờ giấy hay làm một bài tập nhỏ. Song điều đó lại gây
mất thời gian cho giảng viên trong việc kiểm tra số lượng sinh viên đi học để đánh giá.
Các bài tập nhỏ của Đại học ở Việt Nam thường ít hơn và thường chỉ có 1 bài midterm
chiếm tỉ trọng 30%, còn finalterm chiếm 60%. Điều đó chứng tỏ cường độ làm việc
35
của sinh viên Việt Nam là ít hẳn so với sinh viên tại Hoa Kì. Ngoài ra cách thức tính
điểm của họ, kể cả major hay ngoài major (được áp dụng tất cả các môn, kể cả môn
học tự chọn hay môn học kích thích tinh thần học tập). Điều này để nói rằng các môn
học đều bình đẳng, ngang hàng và có vị trí quan trọng như nhau trong hệ thống
chương trình đào tạo. Trong khi đó ở Việt Nam các môn học về Giáo dục thể chất hay
Giáo dục quốc phòng không tính vào điểm tích luỹ chung điều đó dẫn tới thái độ học
tập ở các môn này cũng trở nên đối phó hơn. Và có vẻ không chủ quan khi nhận định
cách thức đào tạo của Hoa Kỳ chặt chẽ và toàn diện hơn, và áp lực học tập dành cho
sinh viên lớn hơn, bắt buộc sinh viên phải thực sự chủ động để sắp xếp thời gian đầu
tư cho học hành.
“ban đầu tưởng thích, tớ học nhạc 1 thời gian mới biết đây là môn khoai sọ nhất trong
số các môn t học kỳ này, (im not made to learn this thing ), lại còn tính vào điểm tích
luỹ chung nữa cơ chứ ”
PVS P.Đ.H sinh viên năm nhất chuyên ngành Toán và Computer Science.Trường State
University of New York at Stony Brook
2.1.4 Kết quả và phần thưởng.
Ở cả ba trường Đại học mà chúng tôi tìm hiểu thì kết quả xếp loại học tập của
sinh viên không xếp loại theo từng kì. Kết thúc tổng số tín chỉ để tốt nghiệp thì sinh
viên được ra trường. Kết quả tốt nghiệp được đưa ra bằng điểm số trung bình chung
chứ không xếp loại: Xuất sắc, giỏi, khá, trung bình như ở Việt Nam. Bởi theo quan
niệm của họ điểm tuy là học thật nhưng nó chưa thể đánh giá một con người thực thụ
là giỏi hay không, hay nói cách khác điểm được để dưới dạng “mở”. Việc làm khoá
luận hay niên luận cũng tuỳ thuộc vào đối tượng, thường là đối tượng tài năng mới
được làm. Trong khi đó ở Việt Nam thì thường 2.8/4 là điều kiện đủ, còn điều kiện cần
là vị trí xếp hạng, bởi nhà trường, khoa sẽ lấy từ trên lấy xuống, nếu đủ chỉ tiêu họ sẽ
dừng lại, nhưng trong một chừng mực nhất định thì có vẻ như sinh viên có thể làm
luận văn tốt nghiệp không khó và thách thức nhiều như ở Hoa Kỳ. Và phần thưởng
dành cho sinh viên là học bổng. Học bổng được công khai hoá trên mạng lưới thông
36
tin, trên website của nhà trường, không giống ở Việt Nam, học bổng thường do các
cấp trên đưa xuống, lựa chọn cho sinh viên. Tất cả sinh viên tại Hoa Kì nếu thấy mình
có đủ điều kiện thì chủ động làm hồ sơ gửi lên nhà trường, nhà trường sẽ dựa trên các
tiêu chí và xét duyệt. Điều này tạo tính công bằng gần như là tuyệt đối cho các sinh
viên. Đơn giản là bạn có năng lực, trí tuệ như thế nào thì phần thưởng bạn sẽ nhận
được như thế đó.
“Tuy nhiên lại không có môn thực tập hay khoá luận như bên Việt Nam, cứ đủ credit,
đủ GPA thì tốt nghiệp, chỉ có honors students (kiểu cử nhân tài năng )mới phải làm
thesis, tốt nghiệp thì không phân loại: trung bình, khá, giỏi, xuất sắc nhưng nếu GPA
được 3.5, nếu ngon nữa thì 3.8 thì sẽ được mọi người hâm mộ và dĩ nhiên là người ta
có đính kèm GPA trên bằng và trong transcript của mình. Hằng kì cũng không có xếp
loại theo điểm, nếu GPA cao thì sẽ được vô dean's list, nếu có extra activities
meaningful thì sẽ dễ kiếm học bổng”
PVS: N.H.L sinh viên năm nhất University of California, Berkeley. Ngành Materials
Science and Engineering.
Như vậy mô hình đào tạo theo tín chỉ là một mô hình lý tưởng cho đến giai đoạn
hiện nay, nơi đó các cá nhân bao gồm người dạy, người học đưa ra các hành động hợp
lí của mình để đạt được những kết quả, những yêu cầu của hệ thống. Các lựa chọn đó
gắn chặt với các chủ thể, nó đem lại cảm giác tự do, thoải mái để các cá nhân phát huy
hết được năng lực, khả năng của bản thân. Các định đề của thuyết lựa chon hợp lí của
Homans đã minh chứng rõ ràng cho các vấn đề đó. Định đề phần thưởng thể hiện ở
việc: mọi hàng động nỗ lực, cố gắng của sinh viên mà đạt kết quả tốt sẽ nhận được
phần thưởng là học bổng và các danh hiệu khác để tôn vinh; Định đề kích thích thể
hiện rõ ở việc Giảng viên luôn kích thích tinh thần sáng tạo, chủ động trong học tập
của sinh viên; Định đề giá trị biểu hiện ở ở tinh thần, xu hướng ý thức cao về bản thân
của sinh viên. Càng ở trong môi trường nâng đỡ cho sự sáng tạo sinh viên càng dễ phát
triển, bộc lộ được tài năng của mình; Định đề duy lý biểu hiện ngay chính việc các cá
nhân sinh viên tự lựa chọn môn học chuyên nghành của mình sao cho phù hợp nhất
37
với khả năng với thời gian biểu cho việc tham gia các hoạt động khác bên lề xã hội
ngoài việc học.
Ngày nay hệ thống tín chỉ được áp dụng với tất cả các trường Đại học của Hoa Kì,
nó được xem là mô hình lí tưởng nhất cho giáo dục bậc Đại học của Mỹ, tạo ra chất
lượng đào tạo tối ưu với chi phí tối thiểu. Mô hình này được lan toả và áp dụng tại
nhiều quốc gia khác trên thế giới. Thành công nhất phải kể đến các nước: Ôxtraylia,
Singapo, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… Mô hình tín chỉ đã được đưa vào các trường
Đại học ở Việt Nam trong những năm gần đây song mới chỉ thành công ở một mức độ
nhất định, còn có nhiều điểm cần khắc phục.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới mô hình đào tạo tín chỉ tại các Trường Đại học
Hoa Kì.
John Elster một đại diện cho thuyết lựa chọn duy lí cho rằng: “khi đối diện với một
số cách hành động, mọi người thường làm cái mà họ tin là có khả năng đạt được kết
quả cuối cùng tốt nhất”. Mô hình đào tạo theo tín chỉ bậc Đại học mà mô hình mà
trong đó các cá nhân học tập, làm việc một cách chủ động, sáng tạo sao cho đạt kết
quả tốt nhất, và nó cũng chịu sự tác động của nhiều nhân tố
“H: vậy theo cậu mô hình đào tạo tín chỉ bậc Đại hoc ở Hoa Kì thì thường chịu
ảnh hưởng của các yếu tố nào?
Đ: Ở bên này yếu tố ảnh hưởng nhiều chắc là tiền: trường mình cái gì cũng quy
ra tiền, đồ ăn trong ký túc xá so với đồ ăn bên ngoài đắt hơn đến vài lần, có rất nhiều
khoản nhỏ trong hóa đơn tiền mỗi kỳ, vv
Một yếu tố cũng ảnh hưởng nhiều đó là tôn giáo, nhất là đạo Cơ Đốc: Nhiều
trường công giáo nội dung của các chương trình học đều chứa yếu tố có lợi cho công
giáo.
Chính trị không ảnh hưởng nhiều lắm, nhưng cũng không phải không có: trong
nhiều trường có những hội hay câu lạc bộ, thường đi theo với alpha pi sigma gì đó, bề
ngoài là hội “anh chị em” tương trợ nhau, nhưng thực tế là tụ hội của những thế hệ trẻ
của các gia đình có địa vị và tiếng nói nhất định, tạo thành 1 mạng lưới quan hệ (cái
38
này là mình nghe bạn mình nói chứ k thể biết chắc chắn được)”
PVS P.Đ.H sinh viên năm nhất chuyên ngành Toán và Computer Science.Trường State
University of New York at Stony Brook.
Qua phỏng vấn sâu các du học sinh Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ chúng tôi
khái quát và chia cụ thể thành các nhân tố sau:
Nhân tố đầu tiên phải kể đến là kinh tế. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng của
Các Mác thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Kinh tế là một phạm trù
của cơ sở hạ tầng. Nếu không có sự đầu tư về tài chính mạnh mẽ của quỹ Canergie cho
các trường Đại học thì chưa chắc mô hình đào tạo theo tín chỉ đã được áp dụng tại Hoa
Kì. Khác với Việt Nam, mô hình quản lí của họ dựa vào nhà trường, các trường không
chịu sự phụ thuộc sâu vào một tổ chức như Bộ Giáo dục ở Việt Nam. Chính quyền
Tiểu bang chỉ góp phần vào việc phối hợp cùng trường Đại học xây dựng hệ thống
kiến thức, còn về nguồn lực tài chính thì các trường hoàn toàn tự chủ. Có nghĩa là họ
phải xác định nguồn cấp rất hạn hẹp, đòi hỏi họ phải tìm nguồn tài trợ từ bên ngoài.
Rất may mắn là kinh tế Hoa Kỳ là nền kinh tế hàng đầu của thế giới, các nguồn tài trợ
cũng trở nên đa dạng hơn, dễ dàng tiếp cận hơn.
“Nói chung giáo dục chịu nhiều ảnh hưởng từ kinh tế, ở Mỹ, giáo dục đã được thương
mại hóa”
PVS: P.T.T nghiên cứu sinh tiến sĩ năm 1, University of California, Berkeley. Ngành
Materials Science and Engineering
Ngoài ra thì Ở State University of New York at Stony Brook, University,
Massachusetts, University of California, Berkeley nói riêng và các trường Đai của Hoa
Kì nói chung có chương trình liên kết U- I- C ( University- Reasearch institute-
Company). Đó là sự hợp tác giữa trường Đại học, Viện nghiên cứu và doanh nghiệp.
Trường Đại học và Viện nghiên cứu cũng cấp nhân lực nghiên cứu tạo ra sản phẩm,
còn doanh nghiệp cung cấp chi phí nghiên cứu. Các trường có nhiều kinh phí hơn để
39
đào tạo và phát huy khả năng nghiên cứu, sáng tạo cho sinh viên. Điều đó giải thích tại
sao ở Hoa Kỳ chẳng có mộ Bộ nào như Bộ Giáo dục- đào tạo ở Việt Nam cung cấp
cho kinh phí mà họ vẫn hoạt động hiệu quả, giải thích tại sao mà sinh viên họ năng
động hơn, sáng tạo hơn khi mà các viện nghiên cứu được đặt ngay trong trường Đại
học.
“Mình có một thời gian ngắn học Đại học ở Việt Nam, thế mà mình chẳng biết cái
viện nghiên cứu dành cho sinh viên nó ở đâu, khuôn viên trường nó bé tí, ánh sáng
trường còn không đầy đủ nữa là. Muốn thực nghiệm cũng khó, thế thì làm sao mà sinh
viên trở nên năng động hơn, sáng tạo hơn.
PVS: N.H.L sinh viên năm nhất University of California, Berkeley. Ngành Materials
Science and Engineering
Nhân tố thứ hai phải kể đến là tư tưởng, tính cách của người Mỹ, hay nói cách khác
là đặc tính xã hội con người. Người phương Tây nói chung và người Mỹ nói riêng, họ
đề cao cái bản ngã, năng lực và tài năng cá nhân, họ rất năng động, cởi mở trong việc
tiếp thu những tri thức, giá trị mới và quá trình hoà nhập của họ cũng được diễn ra
nhanh chóng. Vậy nên khi mô hình đào tạo theo tín chỉ được áp dụng tại các trường
Đại học, sinh viên, giảng viên, các nhà quả lí không khó khăn để áp dụng nó. Trong
khi đó ở Việt Nam thì quá trình này lại vô cùng khó khăn, cần thời gian dài để thích
nghi.
“Yếu tố tác động á, chắc là do sinh viên bên này cởi mở hơn nên việc tiếp nhận mô
hình này cũng dễ dàng hơn bên sv bên mình, nói chung không ai cảm thấy ức chế gì
cả, cũng có vài trường hợp đặc biệt, nhưng nhìn chung cách hoạt động tốt; hệ thống
mạng tốt hơn, phù hợp cho sự đăng kí, lựa chọn môn học; kinh tế, chính trị mở, con
người sông luôn tiếp nhận cái mới, nên có sự thay đổi j họ cũng dễ dàng chấp nhận.”
PVS: N.H.L sinh viên năm nhất University of California, Berkeley. Ngành Materials
Science and Engineering.
40
Nhân tố thứ ba phải kể đến là khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng phục vụ cho học
tập và nghiên cứu của sinh viên luôn luôn được đáp ứng. University of California,
Berkeley là trường có chất lượng đào tạo và chất lượng công nghệ đứng ngang hàng
Đại học Harvard, còn State University of New York at Stony Brook, University,
Massachusetts cũng được đánh giá là có sơ sở vật chất đầy đủ cho sinh viên học tập,
nghiên cứu.
“Nếu như sinh viên VN thường vật vã khi Đăng kí môn học thì đăng kí môn học bên
này khá nhàn, nó không bị lỗi mạng, chất lượng đường truyền thì pro rồi, chả phải
chen chúc nhau thức đêm thức hôm”(PVS P.Đ.H sinh viên năm nhất chuyên ngành
Toán và Computer Science.Trường State University of New York at Stony Brook.)
“Cơ sở hạ tầng học thuật tốt, bao gồm thư viện cập nhật, phòng máy tính 24/7, máy in,
máy trình chiếu và các phòng học đa năng... Tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên
trong việc khai thác tìm tòi.” (PVS: T.V.B, sinh viên năm thứ nhất Clark University,
Massachusetts, Hoa Kỳ)
Nhân tố thứ tư chính là phương thức quản lý. Mô hình đào tạo theo tín chỉ Hoa Kì
không có những tiêu chuẩn giáo dục được quy định từ Nhà nước, Trung ương. Hiến
pháp Liên Bang trao cho các Tiểu bang quyền xác định nội dung cần giảng dạy ở Bậc
Đại học. Không có bộ Giáo dục để quy định nội dung chương trình hay quản lí việc thi
cử ở phạm vi quốc gia, vì vậy mỗi tiểu bang được xây dựng một chương trình phù hợp
với điều kiện tâm lí, tôn giáo, đặc trưng vùng miền, nhu cầu việc làm ở đó. Vì thế tỷ lệ
sinh viên ra trường của Hoa Kì có việc làm lớn hơn sinh viên Việt Nam, bởi ngay từ
đầu họ đã xác định đào tạo cái gì và đào tạo ra để làm gì. Và trong quá trình học thì họ
có thể lựa chọn được những môn mình đam mê, xem đó là cơ sở để phát huy khả năng.
Bên cạnh đó, cách thức quản lí ở các trường Đại học cũng theo hướng mở. Không
gò bó sinh viên theo một khuôn khổ nào. Cơ chế gọn nhẹ, không nhiều thủ tục với các
công đoạn phức tạp.
41
“Cách thức quản lí rất gọn nhẹ, tất cả đều được làm việc qua internet, các khoản thanh
toán thì đều được dùng qua credit card, kiểu như chứng minh thư bên mình đó em, nó
được phát một lần trong đời, và kết nối với tất cả mọi thứ thanh toán, rất thuận lợi và
tiện dụng”
(PVS: P.T.T nghiên cứu sinh tiến sĩ năm 1, University of California, Berkeley. Ngành
Materials Science and Engineering)
Các thông tin được hỗ trợ kịp thời, chính xác thông qua một cơ quan, phòng
ban riêng trực tiếp cho sinh viên mà không qua bất kì một cơ quan trung gian nào để
thông tin được chính xác tuyệt đối.
“Ở đây không có lớp trưởng. Trong ký túc xá thì có resident assistant, hall director, về
học tập thì có advisor, là những người khi mình có vấn đề thì đến hỏi người ta cách
giải quyết
Nhưg mà không có ai hô hào, cậu làm gì làm gì, người ta khuyến khích tính tự lập tự
hành động. Bên này không có cái gọi là phòng đào tạo, phòng chính trị- công tác sinh
viên…nhưng kỳ thực có cậu ạ, chả qua tên nó không như thế thôi, chứ phòng các loại
thì nhiều hơn mình nhiều ....nội dung công việc mỗi phòng cũng rõ ràng hơn mình, bên
mình thì quản lý đào tạo với chính trị công tác làm hết mọi thứ. mỗi mảng lớn có 1 tòa
nhà của riêng mình, vd như tòa nhà toán, computer science, hóa, lý, nhân văn, tòa nhà
trung tâm giảng dạy (có những phòng rất lớn để giúp cho những buổi lecture nhiều
người), nhà thư viện, nhà administration.... mỗi giáo sư có phòng của riêng mình trong
tòa nhà ngành của mình. Mỗi tòa nhà có vài phòng là chỗ cho học sinh làm thủ tục,
giải đáp thắc mắc, học tập trên máy tính, hỏi bài.... của ngành đó. Các phòng ban
chung của trường thì ở trường tớ tập trung ở tòa nhà thư viện và administration, thì có
phòng hành chính, phòng quản lý học sinh, phòng thu chi (k bít gọi là gì), phòng quản
lý học sinh bậc đại học(có thể đến đấy thắc mắc, hoặc đăng ký cái j đó.... t cũng k biết
hết) ; bậc sau đại học; phòng visa và di cư cho học sinh quốc tế…………… nhiều lắm
cậu ạ”
42
PVS P.Đ.H sinh viên năm nhất chuyên ngành Toán và Computer Science.Trường State
University of New York at Stony Brook.
2.3 Mô hình đào tạo theo tín chỉ đã mang lại chất lượng cao cho giáo dục
bậc Đại học Hoa Kì.
Khi một mô hình được xây dựng dựa trên cơ sở phát huy hết được năng lực của
cá nhân trong mô hình đó, để cá nhân có những hành động lực chọn hợp lí với bản
thân và hệ thống để thực hiện nó thì mô hình đó ắt thành công. Mô hình đào tạo theo
tín chỉ bậc Đại học của Hoa Kì đã thực sự phát huy hết vai trò của nó để trở thành mô
hình lý tưởng nhất trong thời điểm hiện tại. Điều đó thể hiện ở kết quả giáo dục của
các trường Đại học của Hoa Kì. Theo nguồn
dai-hoc-hang-dau-the-gioi-nam-2012--2013/107/9686516.epi chúng ta thấy rằng Top
10 trường đại học hàng đầu thế giới năm 2011 – 2012 thì Hoa Kì có 7 trường: Viện
công nghệ California ( đứng thứ nhất), Đại học Stanford (đứng thứ 2), Đại học
Harvard ( Đứng thứ 3), Học viện công nghệ Massachusetts ( Đứng thứ 5), Đại học
Princeton ( Đứng thứ 6), Đại học California, Berkeley ( Đứng thứ 9), Đại học Chicago
( Đứng thứ 10). Cụ thể như sau:
2.3.1. Chất lượng giáo dục tổng quan của các trường Đại học Hoa Kì.
Ở Mỹ thì Chính phủ Mỹ không trực tiếp công nhận hoặc chấp thuận các trường đại
học như bộ GD-ĐT của Việt Nam vẫn làm. Thay vào đó, Bộ Giáo dục Mỹ chỉ là cơ
quan xem xét và công nhận “các tổ chức đánh giá” là các tổ chức sẽ đảm bảo chất
lượng của các cơ sở đào tạo và chương trình giáo dục. Theo TS Mark A.Ashwill -
nguyên giám đốc Viện Giáo dục quốc tế Mỹ (IIE): “có sự khác biệt lớn giữa phê duyệt
và công nhận. Trong đó, được phê duyệt (approved) đơn giản chỉ là cho phép đơn vị
đó hoạt động - việc này hoàn toàn do tiểu bang xem xét. Còn được công nhận
(accredited) có nghĩa là cơ sở giáo dục được một cơ quan thuộc Bộ Giáo dục Mỹ công
nhận. Đây mới là một quy trình đánh giá toàn diện, nghiêm ngặt. Các đơn vị đào tạo
sẽ được kiểm tra về mọi mặt để xác nhận sự hoạt động của nó là có giá trị, cho ra
những văn bằng có chất lượng. Ở Mỹ có 2 cơ quan công nhận (accrediting agencies)
các tổ chức kiểm định là Bộ Giáo dục liên bang (USDE) và Hội đồng kiểm định GD
43
đại học Mỹ (CHEA), trong đó USDE là cơ quan nhà nước và CHEA là cơ quan độc
lập được các trường và các tổ chức kiểm định thừa nhận. Như vậy hai cơ quan này
không trực tiếp kiểm định các trường mà các trường kiểm định thông qua các tổ chức
kiểm định. Uy tín nhất là 8 tổ chức kiểm định ở sáu vùng địa lý như vùng đông bắc,
vùng phía nam, vùng phía tây; rồi đến 11 tổ chức cấp quốc gia như Hội đồng (HĐ)
kiểm định giáo dục và đào tạo từ xa, HĐ kiểm định các trường cao đẳng và trung học
dạy nghề; và 66 tổ chức chuyên môn nghề nghiệp như: HĐ kiểm định về điều dưỡng
đại học, HĐ kiểm định về đào tạo giáo viên, Ủy ban Kiểm định nha khoa Mỹ. Các tổ
chức này được hoặc USDE, CHEA hay cả 2 cơ quan này đồng công nhận. Cấp tiểu
bang không ủy quyền hay cấp phép cho các tổ chức kiểm định. Tính đến thời điểm này,
cả USDE và CHEA đều có cơ sở dữ liệu về các trường sau bậc trung học được kiểm
định, với khoảng 7.700 trường và 18.700 chương trình đào tạo. Có những trường
được cả 2 cơ quan này công nhận”
(
Điều đó nói lên rằng tuy mô hình tín chỉ là mô hình mở, không có sự quản lí gắt
gao nào cho các trường nhưng quá trình đánh giá thì thật sự là nghiêm ngặt, nó đòi hỏi
các trường phải dạy thật, học thật để đạt kết quả cao, đề được công nhận. Môi trường
Đại học cũng cạnh tranh khắc nghiệt hơn. Đó là sự cạnh tranh công bằng về tài năng,
về chất xám, là động lực thúc đẩy cho sự phát triển vươn lên tầm cao. Hiện nay, “Hoa
Kỳ có hệ thống trường Đại học tốt nhất trên thế giới, với các chương trình đào tạo xuất
sắc hầu như trong mọi lĩnh vực. Ở bậc Đại học, các môn học truyền thống cũng như
các lĩnh vực chuyên ngành đều có các chương trình đào tạo tốt nhất. Ở bậc sau đại học,
sinh viên thường có cơ hội làm việc trực tiếp với một số những học giả nổi tiếng nhất
trên thế giới. Bằng cấp của Hoa Kỳ được công nhận trên toàn thế giới vì chất lượng
đào tạo tuyệt vời.
Nước Mỹ có một hệ thống giáo dục đại học tốt nhất trên thế giới. Theo bảng
xếp hạng đáng tin cậy từ: http/pdt.hcmuaf.edu.vn thì 17 /20 trường đại học tốt nhất
thế giới là Đại học Hoa Kỳ, trên bảng xếp hạng 50 trường hàng đầu thế giới thì nước
Mỹ có 35trường. Các trường đại học này đang sử dụng 70% những người đoạt giải
Nobel, những người này chiếm 30% số lượng các bài nghiên cứu khoa học trong khoa
học và kỹ thuật trên thế giới, và là tác giả của 44% những trích dẫn phổ biến nhất trên
44
các bài nghiên cứu khoa học trên toàn thế giới. Và đặc điểm ấn tượng nhất của giáo
dục đại học Mỹ là họ đã duy trì được chất lượng xuất sắc như vậy với một số lượng
sinh viên lớn hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Theo nguồn tà liệu từ
dau-the-gioi-nam-2012--2013/107/9686516.epi chúng tôi biết được rằng: Berkeley là
trường Đại học đứng vị trí thứ 9 trên thế giới về chất lượng đào tạo 2011-2012, ở đây
có hệ thống giáo dục bậc cử nhân rất đa dạng và được xem là trung tâm nghiên cứu
của rất nhiều ngành học. Viện đại học đạt nhiều thành tích về vật lý, hóa học và các
ngành sinh học trong thế kỷ 20, như sáng chế ra máy cyclotron, cách ly thành công vi
khuẩn bại liệt ở người, phát triển khái niệm tia laser, giải thích nguyên lý của quang
hợp, thiết kế thí nghiệm chứng minh định lý Bell, tạo ra hệ điều hành BSD Unix, và
phát hiện ra 17 nguyên tố hóa học, trong đó có Plutonium, Berkelium và Californium.
Viện đại học cũng đạt được nhiều giải thưởng về Toán, giải Nobel Kinh tế và giải
Nobel Văn học. Các nhà vật lý của Berkeley nằm trong nhóm khoa học gia phát triển
Dự án Manhatttan chế tạo bom nguyên tử trong Thế chiến thứ nhất và bom hiđrô
không lâu sau đó.
“ Chất lượng giáo dục trường mình đang học á, phải nói là tuyệt vời trên cả tuyệt vời,
khi bạn học tập tại đây bạn thực sự thấy mình là hạt cát trong sa mạc mênh mông, điều
đó có nghĩa là mình phải hết sức nỗ lực”
N.H.L sinh viên nhăm nhất University of California, Berkeley. Ngành Materials
Science and Engineering
University, Massachusetts tuy chưa chiếm giữa một vị trí chủ chốt trong hệ
thống giáo dục Hoa Kỳ do lịch sử phát triển muộn hơn tuy nhiên đây là một phá môi
trường được trang bị bởi các thiết bị công nghệ hiện đại, có nhiều giáo sư giỏi giảng
dạy và chất lượng ngày càng được nâng cao: “Học tập xuất sắc của UMass Boston
được phản ánh qua số lượng sinh viên ngày càng tăng gần 16.000 sinh viên đại học và
sau đại học. Trường cung cấp hơn 100 chương trình chuyên nghành trong đại học và
50 chương trình sau đại học. Ngoài ra còn có chương trình phục vụ 300 sinh viên tài
năng thử thách trí tuệ. Có sự phong phú về các khóa học nhằm thăm dò sâu hơn vào
45
lý thuyết hoặc liên sâu hơn vào ứng dụng.” (Tài liệu nhóm tự dịch từ website chính
của trường )
“University, Massachusetts là môi trường khiến tớ cảm thấy ấn tượng, so với các
trường Đại học ở Việt Nam thì có thể nói chất lượng nó hơn hẳn, mọi sự so sánh đều là
khập khiễng nhưng sự thật nó như vậy. Nói chung là tớ thấy chất lượng tốt”
PVS. L.V. T sinh viên năm nhất University, Massachusetts.
State University of New York at Stony Brook là một môi trường đào tạo thực
sự chuyên nghiệp, nó là: “Một thành viên của Hiệp hội có uy tín của các trường đại
học Mỹ (AAU), Stony Brook là một trường đại học nghiên cứu hàng đầu công cộng ở
Hoa Đông Bắc Kỳ. Với trên 1000 các nhà nghiên cứu, 1600 dự án hoạt động tài trợ và
đầu tư phát triển R & D, SBU nhằm mục đích hợp tác và tham gia vào quan hệ đối tác
công / tư đổi mới trong tất cả các lĩnh vực nghiên cứu và hoạt động học thuật.” (Tài
liệu nhóm tự dịch từ website chính của trường
“Theo mình mô hình giáo dục như của trường mình nói riêng và của các trường Đại
học Hoa Kỳ nói chung là một mô hình tiên tiến trên thế giới, có chất lượng đào tạo tốt,
học thật và kết quả thật chứ không phải là việc chạy đua thành tích ảnh hưởng đến
người học thì như mình nói bên trên, nó khiến học sinh tự lập, năng động, có được
những kỹ năng mềm nhất định, và vững kiến thức và cả kinh nghiệm thực tiễn (từ các
chương trình internship hay apprenticeship rât phổ biến) ngay sau khi ra trường.”
PVS P.Đ.H sinh viên năm nhất chuyên ngành Toán và Computer Science.Trường State
University of New York at Stony Brook.
2.3.2. Chất lượng cụ thể trong dạy và học tại các trường Đại học của Hoa Kỳ.
Chất lượng dạy học phải khẳng định là tốt. Với sự hỗ trợ của các thiết bị giảng
dạy, giảng viên dễ giới thiệu các tri thức đến sinh viên một cách toàn diện. 7 nguyên
tắc dạy học (đã được nêu ở trên) đã phát huy hết khả năng, tinh thần sáng tạo của sinh
46
viên. Công việc giảng dạy của giảng viên trở nên nhẹ nhàng hơn, họ có nhiều thời gian
phục vụ cho nghiên cứu, cống hiến cho Khoa học nước nhà.
Sinh viên của các trường Đại học của Hoa Kỳ cảm nhận được rằng họ học tập một
cách nghiêm túc, có hiệu quả, có chất lượng và kết quả phản ánh đúng những gì họ đã
đầu tư. Mô hình đào tạo tín chỉ đã hình thành nên con người của họ một cách toàn diện
hơn. Hay nói cách khác, giáo dục Đại học đóng phát huy được vai trò của nó như là
một thiết chế nhằm xã hội hoá các cá nhân. Sinh viên học được cách học tập đúng
phương pháp, đúng yêu cầu thực tiễn đặt ra, học được cách nhìn nhận đánh giá bản
thân và xã hội. Sinh viên cảm nhận việc học như một công việc đam mê, yêu thích,
thực hiện một điều mà mình mong muốn chứ không phải là một sự nhồi nhét, bắt
buộc, hay là một sự nhàm chán lặp lại.
“Mô hình đào tạo tín chỉ cho phép sự phát huy hết năng lực, khả năng của cá
nhân…Nghĩa là, Đại học đóng vai trò là nơi đế sinh viên trải nghiệm, thử thách bản
thân ở tất cả các lĩnh vực; từ đấy mới tìm ra điểm mạnh và yếu của bản thân để tiếp tục
học lên sau đại học. Khóa học của Liberal Arts Colleges nói chung sẽ yêu cầu sinh
viên tham gia một số lượng đa dạng khóa học để phát triển toàn diện về tầm nhìn, bao
gồm Global Perspective (Tầm nhìn toàn cầu), Aesthetic Perspective (Khả năng cảm
thụ nghệ thuật), Historical Perspective (Hiểu biết lịch sử), Language and Culture
Perspective (Khả năng ngôn ngữ, tất nhiên ngoài English), Natural Scientific
Perspective (Cách nhìn khoa học hóa), Values Perspective (Nhận biết về giá trị chung
của xã hội). Không có khóa học nào xuất hiện với tên gọi 6 Perspectives trên. Ví dụ
mình có thể học Psychology hoặc Philosophy để “fullfill” (xin lỗi vì mình không dịch
được từ này) Values Perspective…”
PVS: T.V.B sinh viên năm thứ nhất Clark University, Massachusetts, Hoa Kỳ.
Chất lượng của việc học tập tại Hoa Kỳ không chỉ được đo bằng tri thức mà
sinh viên thu thập được và ứng dụng và thực tiễn mà thêm vào đó là những nhận thức
đúng đắn, thiết thực về những bài học “phát huy đạo đức của sinh viên”. Họ được dạy
đức tính trung thực, cách tôn trọng tri thức, trí tuệ của người khác, nếu sinh viên bị
phát hiện gian lận hay lấy nguồn thông tin trên mạng mà không chỉ rõ nguồn, thì sinh
47
viên đó sẽ phải trải qua một khóa học về trung thực trong học tập và sẽ bị một vết đen
trong học bạ. Và nếu sinh viên đó không thay đổi, tiếp tục tái phạm thì có khả năng bị
đuổi ra khỏi trường không được tốt nghiệp.
“Bên này rất quan trọng về trung thực trong học tập- nếu bạn bị phát hiện gian lận hay
lấy nguồn thông tin trên mạng mà không chỉ rõ nguồn, bạn sẽ phải trải qua 1 khóa học
về trung thực trong học tập và sẽ bị 1 vết đen trong học bạ. Còn nếu như sau đó bạn tái
phạm thì xin chúc mừng, bạn rất có khả năng bị đuổi ra khỏi trường không được tốt
nghiệp”
PVS P.Đ.H sinh viên năm nhất chuyên ngành Toán và Computer Science.Trường State
University of New York at Stony Brook.
Thạc sỹ Nguyễn Văn Đáng- nghiên cứu sinh Việt Nam đang học tập tại trường
Đại học Portland, Oregon cũng đã có những trăn trở, tâm sự: “Bên này họ gọi tuần
cuối cùng của học kỳ là "Dead week" vì mọi thứ đều được đẩy đến giới hạn cuối cùng:
thư viện mở xuyên đêm, đương nhiên sinh viên cũng thức xuyên đêm để hoàn thành bài
vở; phòng GS lúc nào cũng có người đợi để hỏi bài. Không cần những câu khẩu hiệu
hay ngày lễ hào nhoáng, mọi người đến trường đều với một tinh thần học hỏi nghiêm
túc chứ không phải sự săn lùng bằng cấp đầy thiển cận, nông cạn. Tuần vừa rồi đọc
báo thấy có 2 sinh viên Việt Nam ở đại học Virginia bị đuổi học vì can tội quay cóp
bài nhưng không nhận, cãi chầy cãi cối khiến trường phải mở phiên xử với đầy đủ
nhân chứng. Ở nhà chắc chỉ thích tin dân mình học giỏi, quốc tế ngưỡng mộ chứ
không thích mấy cái tin kiểu này nhỉ”. (
Quả thực ở Việt Nam, vấn đề sao chép các công trình nghiên cứu đi trước mà không
có sự trích dẫn hay là gian lận trong thi cử vẫn chưa thể giải quyết được triệt để. Cho
dù nền giáo dục nước nhà đã từng bước “thay da đổi thịt” tuy nhiên bởi nhiều yếu tố
khách và chủ quan nên chúng ta vẫn chưa thể ngăn chặn triệt để hiện trạng đáng buồn
này.
2.4 Mô hình đào tạo Đại học theo tín chỉ của Hoa kỳ có ảnh hưởng lớn đến
nền giáo dục của các quốc gia khác trên thế giới trong đó có Việt Nam.
48
Mô hình giáo dục hiện đại của Hoa Kì đã ảnh hưởng không nhỏ đối với các
quốc gia lớn nhỏ trên thế giới như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,Việt Nam... “Đến đầu
thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ (TC) được áp dụng rộng rãi hầu như trong mọi trường đại
học Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước lần lượt áp dụng hệ thống TC trong toàn bộ
hoặc một bộ phận của trường đại học của mình: các nước Bắc Mỹ, Nhật Bản,
Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Ấn Độ, Senegal,
Mozambic, Nigeria, Uganda, Camơrun… Tại Trung Quốc từ cuối thập niên 80 đến
nay hệ thống TC cũng lần lượt được áp dụng ở nhiều trường đại học. Vào năm 1999,
29 bộ trưởng đặc trách giáo dục đại học ở các nước trong Liên minh châu Âu đã ký
Tuyên ngôn Boglona nhằm hình thành Không gian Giáo dục đại học Châu Âu
(European Higher Education Area) thống nhất vào năm 2010, một trong các nội dung
quan trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế TC (European Credit
Transfer System –ECTS) trong toàn hệ thống GDĐH để tạo thuận lợi cho việc cơ
động hóa, liên thông hoạt động học tập của SV trong khu vực châu Âu và trên thế
giới” ( Tuy chưa có một con
số nào thống kê cụ thể có bao nhiều trường Đại học áp dụng mô hình đào tạo tín chỉ,
nhưng nhìn chung đây là một con số lớn và các nước đang cố gắng học tập mô hình
cũng như cách thức đào tạo tín chỉ mới mẻ của Hoa kì để nâng cao nền giáo dục nước
mình cho phù hợp, sánh kịp với các nước phát triển trên thế giới. Thể hiện ở việc họ
đang dần dần thay đổi các quan niệm truyền thống về giáo dục, giúp sinh viên chủ
động trong việc học tập cũng như có thể sắp xếp lịch để làm thêm; lên lớp ít, tự học, tự
tìm hiểu, tư duy nhiều để cho sinh viên biến các kiến thức học được trên lớp thực sự
thành kiến thức của mình. Ngoài ra không chỉ là lý thuyết suông, các giảng viên
thường cố gắng áp dụng việc "Học" vào thực tế, điều này giúp sinh viên hiểu sâu và
nhớ lâu, sinh viên được học cách hiểu các khái niệm, thảo luận theo phương pháp định
sẵn, loại bỏ những hướng đi không đúng, tìm ra câu trả lời đúng nhất. Tư duy sáng tạo
tập trung vào khám phá các ý tưởng, phát triển.
“Và theo như thời buổi hôi nhập toàn cầu như hiện nay thì giữa các nước luôn có sự
học hỏi và cạnh tranh, do đó giáo dục Hoa Kỳ tiên tiến dần dần sẽ khiến cho nền giáo
49
dục của cả thế giới đi lên (ít nhất theo lý thuyết là thế). Hiện tại có rất nhiều nước đang
học hỏi mô hình giáo dục của Mỹ và các nước có nền giáo dục nổi tiếng khác, đó là ví
dụ”
PVS P.Đ.H sinh viên năm nhất chuyên ngành Toán và Computer Science.Trường State
University of New York at Stony Brook.
Ở Việt Nam, trước năm 1975 một số trường Đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại
Miền Nam Việt Nam đã áp dụng học chế Tín chỉ: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại
học Thủ Đức… Trong quá trình "Đổi mới", giáo dục Đại học ở nước ta cũng có nhiều
thay đổi. Sau mùa xuân 1975, đất nước được thống nhất, giáo dục cũng có sự thay đổi
nhất định. Hội nghị Hiệu trưởng Đại học tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ
trương đổi mới, học chế "học phần" đã ra đời và được triển khai trong toàn bộ hệ
thống các trường Đại học và Cao đẳng nước ta từ năm 1988 đến nay. Học chế học
phần được xây dựng trên tinh thần tích lũy dần kiến thức theo các môđun trong quá
trình học tập, tức là cùng theo ý tưởng của học chế tín chỉ xuất phát từ Mỹ. Tuy nhiên,
về một số phương diện, học chế học phần chưa thật sự mềm dẻo như học chế tín chỉ
của Mỹ nó được xem là "sự kết hợp niên chế với Tín chỉ", các nhà lãnh đạo trong
nghành giáo dục đã nhận ra được những hạn chế của mô hình này tuy nhiên điều kiện
kinh tế- xã hội lúc đó chưa cho phép đặt vấn đề thực hiện học chế môđun hóa triệt để.
Năm1993, khi những khó khăn chung của đất nước và của các trường đại học dịu bớt,
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tiến thêm một bước, thực hiện học chế học phần
triệt để hơn, theo mô hình học chế tín chỉ của Mỹ. Trường Đại học Bách Khoa Hồ Chí
Minh là nơi đầu tiên áp dụng học chế Tín chỉ từ năm 1993, rồi các trường Đại học Đà
Lạt, Đại học Cần Thơ, Đại học Thủy sản Nha Trang ... và một số trường đại học khác
áp dụng từ năm 1994 và các năm sau đó. Tính đến năm 2009 có khoảng 10 trường
trong cả nước áp dụng học chế Tín chỉ với các sắc thái và mức độ khác nhau (số liệu
được lấy từ
Nhiều người cho rằng mô hình đào tạo theo niên chế lạc hậu, nó gây lãng phí
thời gian cho người dạy và người học, khiến người học không chủ động, tuy nhiên mô
hình này là cần thiết cho sự chuyển đổi sang mô hình đào tạo theo tín chỉ, về cơ bản nó
50
cũng không có quá nhiều sự khác biệt nên nó tạo bước đệm cho mô hình tín chỉ có thể
áp dụng mà không tạo một sự thay đổi quá lớn, gây sự đột ngột cho người dạy, người
học và các nhà quản lí.
Ngày nay phần lớn các trường Đại học của Việt Nam đã và đang chuyển sang
mô hình đào tạo theo tín chỉ. Hà Nội là thành phố đi đầu có nhiều trường Đại học áp
dụng mô hình này nhất, tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mô hình đào
tạo theo tín chỉ ở Việt Nam vẫn có nhiều nét khác biệt so với nguyên bản từ mô hình
của Hoa Kì. Có sự khác biệt đó là do sự khác biệt về điều kiện văn hoá- xã hội, sự hạn
chế về nhân vật lực, sự chi phối của các yếu tố kinh tế- xã hội.
KẾT LUẬN
Mô hình đào tạo theo tín chỉ bậc Đại học của Hoa Kỳ là một mô hình hiện đại,
chất lượng. Nó đem lại kết quả tối ưu với chi phí tối thiểu, việc áp dụng nó vào giảng
dạy tại các trường Đại học ở Việt Nam là rất cần thiết. Tuy còn gặp không ít khó khăn
nhưng nhìn chung mô hình đào tạo theo tín chỉ tại Việt Nam đang dần dần được thay
đổi theo chiều hướng tích cực rõ nét. Để mô hình này thực sự được áp dụng hiệu quả
thì các trường Đại học cần khắc phục những yếu kém và đưa ra phương hướng giải
quyết khó khăn đó cũng như việc xây dựng các chiến lược phát triển. Qua tham khảo
nhiều nguồn tài liệu từ các bài nghiên cứu, qua sách báo và đặc biệt là phỏng vấn sâu
chúng tôi đưa ra các khuyến nghị sau:
Đối với nhà trường.
Thứ nhất, các trường Đại học cần chú trọng việc xây dựng hệ thống tín chỉ. Đa
số mọi người đều có cách nhìn nhận rằng: Đại học ở Việt Nam cũng mang tên gọi tín
chỉ, nhưng chưa phát huy tinh thần tự do sáng tạo của cách học. Hay nói cách khác
sinh viên ở Việt Nam chưa phải là người được nắm thế chủ động trong việc thiết lập
kế hoạch học, chương trình học cho bản thân cũng như lĩnh hội kiến thức. Các môn
học tự chọn chưa thực sự phong phú để sinh viên có thể theo đuổi và tìm thấy được thế
mạnh bản thân của mình ở đâu, xác định được mình là ai trong xã hội.Vậy nên cần xây
dựng hệ thống môn học bao gồm nhiều môn học tự chọn hơn để sinh viên cảm thấy
51
mình thực sự đang học tập trong mô hình đào tạo tín chỉ, có quyền quyết định mình sẽ
học cái gì? Có quyền lựa chọn môn học mình đam mê và phát huy hết khả năng về
lĩnh vực mà mình đam mê; các trường cần tổ chức thiết kế lại hoặc rà soát lại chương
trình đào tạo các ngành học, phân chia và xây dựng lại chương trình chi tiết các học
phần theo tinh thần học chế tín chỉ và kiến thức cập nhật, hiện đại, có tính ứng dụng
cao. Bên cạnh môn học tự chọn thì hệ thống các môn học chuyên nghành cũng cần đa
dạng hơn, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn để tránh tình trạng sinh viên mơ hồ về
nghành học của mình khi không biết học để làm gì.
Thứ hai là về phương thức quản lý và liên kết đào tạo của các trường Đại học:
các quy trình quản lí cần gọn nhẹ hơn, để tạo nên sự năng động cho mô hình. Hệ thống
cố vấn học tập ở Việt Nam chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình, thông thường
sinh viên không rõ cố vấn học tập lớp mình là ai, thậm chí còn chưa một lần được gặp
mặt cố vấn học tập. Ở State University of New York at Stony Brook; University,
Massachusetts; University of California, Berkeley người ta xây dựng một trung tâm
riêng dành cho việc hỗ trợ các thông tin học tập, và cố vấn học tập của họ chuyên làm
công việc tư vấn, họ được gọi là các adviser. Họ làm việc thường xuyên, có sự giám
sát chặt chẽ của camera. Bên cạnh trung tâm tư vấn học tập còn có các trung tâm tư
vấn khác về đời sống, thủ tục, học bổng…Tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn-
Đại học Quốc Gia Hà Nội hiện nay cũng đang dần dần chuyển sang phương thức cố
vấn này, trung tâm hỗ trợ thông tin học tập cho sinh viên: Casa vừa được ra đời vào
đầu tháng 9/2012 và đang áp dụng hình thức làm thẻ ngân hàng ViettinBank để tạo sự
thuận lợi cho sinh viên trong các giao dịch về tài chính ngoài cuộc sống cũng như
trong trường học.
Thứ ba, các trường cần chú xây dựng các công cụ phổ biến cho sinh viên về
chương trình và quy trình học tập, phục vụ học chế tín chỉ như hệ thống tài liệu học tập
qua mạng liên kết thư viện bao gồm các tài liệu liên quan đã có trong các trường đại
học; Tổ chức liên kết các trường đại học khai thác các nguồn tư liệu mở trên mạng (tổ
chức biên dịch, phổ biến); Tổ chức phối hợp biên soạn các tài liệu phục vụ các học
phần không đủ tài liệu. Để sinh viên tiếp cận đầy đủ các nguồn tài liệu phục vụ cho
52
nhu cầu tìm kiếm tài liệu bổ trợ cho công việc học tập. Thêm vào đó cần giáo dục tư
tưởng cho sinh viên về đức tính trung thực trong học tập và thi cử.
Thứ tư, các trường cần chú trọng việc liên kết xây dựng và phổ biến, chuyển
giao các công nghệ điều hành đào tạo theo học chế tín chỉ đặc biệt là mô hình hợp tác
giữa trường Đại học, Viện nghiên cứu và doanh nghiệp cũng rất quan trọng, mô hình
U- I- C sẽ giúp các trường có nhiều kinh phí hơn để đào tạo và phát huy khả năng
nghiên cứu, sáng tạo cho sinh viên, giúp sinh viên có một phong thái làm việc hiệu quả
vận dụng ngay trong quá trình học tập đồng thời đáp ứng đầu ra sau công tác đào tạo.
Ngoài ra các trường cần mở rộng quan hệ với các trường đại học và các tổ chức điều
phối giáo dục đại học trong khu vực và trên thế giới để thỏa thuận về việc công nhận
văn bằng và tín chỉ của nhau đồng thời liên kết đào tạo gửi các học viên du học,nghiên
cứu sinh ở các nước để học tập lẫn nhau không chỉ là trong phương pháp giáo dục mà
còn học hỏi, tiếp thu các giá trị văn hóa xã hội quay về phục vụ cho nền giáo dục nước
nhà giúp mở rộng lĩnh hội tri thức thế giới.
Đối với giảng viên
Giảng viên phải chủ động hơn nữa để kích thích sự sáng tạo cho sinh viên, cần
áp dụng phương pháp dạy chia nhỏ thành nhiều bài tập cho sinh viên để đánh giá cả
quá trình học tập cho sinh viên chứ không dừng lại ở một vài bài kiểm tra, truyền đạt
kiến thức luôn tuân thủ nguyên tắc “xoay chiều”, các triết lý, lễ nghĩa nho giáo cần
được hạ thấp xuống đề tạo môt trường năng động, cởi mở nhất cho dạy và học.
Đối với sinh viên.
Thứ nhất là về phương pháp học tập. Dù rằng chúng ta đã nêu ra tinh thần học
tập là phải chủ động và sáng tạo, phải có sự tương tác hai chiều, song trên thực tế thì
điều đó chưa diễn ra. Tại các trường Đại học sinh viên Việt Nam gần như ngồi im
không phát biểu, các giảng viên đã sử dụng hình thức kích thích học tập, phát biểu
bằng việc cho điểm nhưng điều đó vô hình chung lại đẩy sinh viên vào việc phát biểu
53
cho có chỉ để lấy điểm chứ chưa thực sự đưa ra quan điểm của mình. Vậy nên trước
tiên, sinh viên phải là người tiên phong thay đổi phương pháp học, và hơn thế nữa họ
cần ý thức về bản thân, xác định cho mình mục tiêu rõ ràng, với tinh thần cầu tiến và
sẵn sàng học hỏi mọi lúc mọi nơi cần phải sống có trách nhiệm với bản thân, tự nỗ lực
rèn luyện học tập, tăng cường khả năng tự học. Thêm vào đó sinh viên Việt Nam cần
chú trọng việc sử dụng đề cương như sinh viên tại các trường Đại học của Hoa Kỳ để
nắm bắt rõ công việc của mình khi học một môn nào đó.
Thứ hai là về vấn đề đạo đức trong học tập và thi cử. Sinh viên phải ý thức
được vấn đề trích dẫn một tác phẩm, một bài báo hay một công trình nghiên cứu một
cách cụ thể vừa thể hiện sự tôn trọng đối với “chất xám” của những người đi trước vừa
để khẳng định sự trung thực, ham học hỏi của bản thân. Thêm vào đó, sinh viên luôn
luôn phải ghi nhớ về sự minh bạch, tuyệt đối không gian lận trong thi cử.
54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Tr 99- 100. NXB
Chính trị Quốc Gia năm 2010
2. GS Lâm Quang Thiệp. 2007“Về học chế tín chỉ và việc áp dụng ở Việt Nam”. Tạp
chí khoa học số 3/2007
3. GS.TS Lê Thạc Cán. “Tổ chức giảng dạy và học tập theo chương trình định sẵn và
học chế tín chỉ”. Trên trang web của Đại học quốc gia,
4. Lê Ngọc Hùng. 2008. Lịch sử và lý thuyết Xã hội học. NXB Khoa học xã hội
5. PGS. TS Cary J.Tresler.2010.“ Hệ thống tín chỉ tại các trường Đại học Hoa Kì:
Lịch sử phát triển, định nghĩa và cơ chế hoạt động”. Tạp chí giáo dục số 229 ( kì 1-
1/2010
6. PGS.TS Hoàng Văn Vân.2010.“Phương thức đào tạo theo tín chỉ: lịch sử, bản chất
và những hàm ý cho phương pháp giảng dạy ở bậc đại học”. Tạp chí khoa học số 3
2010
7. PGS.TS Nguyễn Văn Nhã.2006. “Các giải pháp triển khai phương thức đào tạo
theo tín chỉ ở Đại học Quốc Gia Hà Nội”. “Hội thảo về phương thức đào tạo trong
hệ thống tín chỉ” tại Đà Nẵng.
8. Phạm Thị Thanh Hải.2011.“Một số nội dung của công tác cố vấn học tập trong
đào tạo theo hệ thống tín chỉ của Hoa Kì và kinh nghiệm đối với Việt Nam”. tạp chí
giáo dục số 268/2011
9. Quy chế 31/2001 QĐ BGD&ĐT. “về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và
công nhận tốt nghiệp Đại học, cao đẳng hệ chính qui theo học chế tín chỉ” Bộ
Giáo dục và Đào tạo
10. Th.S Nguyễn Thị Hương Giang. “Tìm hiểu về phương thức đào tạo theo tín chỉ”.
Tạp chí giáo dục số 4/2009
55
11. ThS Phan Thị My.2006.“Tiếp cận hệ thống tín chỉ trong đào tạo không chính quy.
“Hội thảo về phương thức đào tạo trong hệ thống tín chỉ”. Hội thảo về phương
thwucs đà tạo trong hệ thống tín chỉ tại Đà Nẵng.
12. TS Lê Văn Hảo – Trường Đại học Nha Trang đã viết “Tổ chức đào tạo đại theo tín
chỉ: Kinh nghiệm của Malaixia và so sánh với Việt Nam”. “Hội thảo về phương
thức đào tạo trong hệ thống tín chỉ” tại Đà Nẵng.
13. TS Ngô Thu Dung. “Phương pháp dạy học nhóm, một phương pháp tích hợp cần
sử dụng trong giảng dạy và tổ chức một số môn học và hoạt động giáo dụng theo
học chế tín chỉ”. Tạp chí giáo dục số 3/2007
14. TS. Lê Văn Hảo. 2010. “Bảy nguyên tắc dạy tốt bậc Đại học của Hoa Kỳ”. Tạp chí
Giáo dục số 248, kì 2- tháng 10/2010
15. TS.PhanThanh Long.“Bài học kinh nghiêm trong đánh giá chất lượng giáo dục đại
học của Hoa kì”. Tạp chí giáo dục số 238/ 2010
16. Từ điển “Xã hội học”. Tr 161.dịch nguyên bản từ tiếng Đức của Gunter Enruweit
và Gisela Trommsdorff – người dịch Nguyễn Hữu Tâm, Nguyễn Hoài Bảo, NXB
Thế giới
Và một số trang web như:
nhat-the-gioi-11154100.html
on=com_content&view=article
2013/107/9686516.epi
56
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_duc_nhom_10_8521.pdf