Mô hình kim cương đôi

Ngành công nghiệp thời trang Nhật Bản là một nước tiên tiến dẫn đầu xuất khẩu hàng dệt và các sản phẩm may mặc từ năm 1960 sau Mỹ và châu Âu. Mặt khác, ngành công nghiệp thời trang của Hàn Quốc là đứng đầu trong các nước công nghiệp mới (NIC), xuất khẩu toàn cầu các mặt hàng dệt may và các sản phẩm may mặc từ những năm 1980 giữa các nước Đông Á, chỉ đứng sau Nhật Bản. Ngoài ra, Nhật Bản là một quốc gia tiên tiến, trong đó ngành công nghiệp thời trang trong nước là định hướng thị trường, trong khi Hàn Quốc là một nền kinh tế mở nhỏ tập trung nhiều hơn vào các thị trường nước ngoài. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy tình trạng của ngành công nghiệp thời trang của hai nước đang đứng lại. Trong số 31 biến, ngành công nghiệp thời trang của Hàn Quốc cho thấy sự đo lường liên quan đến sản xuất và xuất khẩu cao hơn Nhật Bản, nhưng ngành công nghiệp thời trang của Nhật Bản báo cáo sự đo lường cao hơn so với Hàn Quốc trong lĩnh vực R&D, thiết kế và sức mạnh thương hiệu, tỷ lệ giá trị gia tăng và hiệu quả của các công ty và toàn cầu hóa.

doc22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2589 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mô hình kim cương đôi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm Tắt Toàn cầu hóa là một vấn đề rất quan trọng đối với những nền kinh tế nhỏ như Hàn Quốc, Singapore. Mô hình kim cương của Porter đề xuất năm 1990 trong quyển “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia” cho thấy một số yếu tố quan trọng đối với khả năng cạnh tranh toàn cầu của một quốc gia. Tuy nhiên, mô hình này chưa thật hoàn chỉnh, điều chủ yếu là vì mô hình không kết hợp các hoạt động đa quốc gia. Bằng một cách tiếp cận mới, mô hình kim cương đôi tổng quát (Moon và cộng sự năm 1995, trong nghiên cứu về chiến lược quản lý toàn cầu: Phần 5: Vượt ra bên ngoài mô hình kim cương) đưa ra một số phần mở rộng quan trọng so với mô hình ban đầu của Porter. Mô hình kim cương hay mô hình kim cương đôi ? Trong quyển sách “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” nổi tiếng của mình, Porter (1990) đã nghiên cứu 8 nước phát triển và 2 nước công nghiệp mới (NIC). Porter (1990, trang 1) đã đặt ra câu hỏi cơ bản về khả năng cạnh tranh quốc tế: “Tại sao một số quốc gia thành công và một số khác lại thất bại trong môi trường cạnh tranh quốc tế ?”. Như tiêu đề cho thấy, cuốn sách có giá trị tương đương với tác phẩm cùng thời “Sự giàu có của các quốc gia” một phiên bản mới được tôi luyện của Adam Smith. Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4 nhóm yếu tố, mối liên kết của 4 nhóm này tạo thành mô hình kim cương. Các nhóm yếu tố đó bao gồm: (1) Điều kiện các yếu tố sản xuất, (2) Điều kiện về nhu cầu, (3) Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan, (4) Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh của công ty. Các yếu tố này tương tác qua lại lẫn nhau tạo điều kiện đổi mới và cải thiện khả năng cạnh tranh xảy ra. Ngoài ra, còn có 2 yếu tố ngoại sinh khác là chính sách của Chính phủ và Cơ hội. Hình 1: Mô hình Kim cương của M. Porter Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh của Cty Điều kiện về nhu cầu Điều kiện các yếu tố sản xuất. Các ngành công nghiệp hỗ trợ vàcó liên quan. Cơ hội, may rủi (Chance) Chính phủ Mô hình này khéo léo tích hợp các biến số quan trọng quyết định tính cạnh tranh của một quốc gia thành một mô hình. Hầu hết các mô hình khác được thiết kế cho mục đích này đều tượng trưng cho tập hợp con của mô hình toàn diện của Porter. Tuy nhiên, vẫn còn sự mơ hồ liên quan đến các biểu hiện của mối quan hệ và năng lực dự báo của mô hình (Grant, 1991). Điều này chủ yếu là do Porter không kết hợp ảnh hưởng của các hoạt động đa quốc gia trong mô hình của mình. Để giải quyết vấn đề này, Dunning (1992) đã xử lý hoạt động đa quốc gia như là một biến ngoại sinh thứ ba nên được thêm vào mô hình của Porter. Tuy nhiên, trong kinh doanh toàn cầu hiện nay, hoạt động đa quốc gia biểu hiện còn hơn cả chỉ là một biến ngoại sinh. Vì vậy, mô hình kim cương ban đầu của Porter được mở rộng bằng mô hình kim cương đôi tổng quát (Moon và cộng sự, 1995), theo đó hoạt động đa quốc gia được chính thức đưa vào mô hình. Hình 2. Mô hình kim cương đôi tổng quát Mục tiêu các nguồn lực và mục tiêu thị trường của các công ty từ các nước nhỏ như Hàn Quốc, Singapore không chỉ là phạm vi trong nước mà còn là phạm vi toàn cầu. Do đó, năng lực cạnh tranh của một quốc gia một phần phụ thuộc vào viên kim cương trong nước và một phần vào viên kim cương “quốc tế” có liên quan đến công ty của mình. Hình 2 cho thấy mô hình kim cương đôi với đường bên ngoài là đại diện cho một viên kim cương toàn cầu và đường bên trong đại diện cho viên kim cương trong nước. Kích thước của viên kim cương toàn cầu được cố định trong một khoảng thời gian dự đoán, nhưng kích thước của viên kim cương trong nước thay đổi tùy theo kích thước quốc gia và khả năng cạnh tranh của mình. Viên kim cương đường chấm chấm giữa hai viên kim cương này là một viên kim cương quốc tế đại diện cho năng lực cạnh tranh của quốc gia được xác định bởi cả hai thông số trong nước và quốc tế. Sự khác biệt giữa viên kim cương quốc tế và viên kim cương trong nước do đại diện cho các hoạt động quốc tế hoặc đa quốc gia. Các hoạt động đa quốc gia bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài FDI cả trong và ngoài nước. Trong mô hình kim cương đôi, khả năng cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là khả năng của các công ty tham gia vào những hoạt động tạo giá trị gia tăng trong một ngành công nghiệp cụ thể của một quốc gia cụ thể để duy trì giá trị gia tăng trong một thời gian dài cho dù có sự cạnh tranh quốc tế. Về mặt lý thuyết, sự khác nhau giữa hai phương pháp này rất quan trọng. Đầu tiên, giá trị gia tăng bền vững trong một quốc gia cụ thể có thể có được từ cả trong nước lẫn các công ty sở hữu nước ngoài. Tuy nhiên Porter, không kết hợp các hoạt động nước ngoài vào mô hình. Thứ hai, các giá trị bền vững này có thể đòi hỏi một cơ cấu trải dài nhiều nước về mặt địa lý của các công ty cụ thể và lợi thế vị trí hiện tại của một số quốc gia có thể bổ xung cho nhau. Ngược lại, Porter (1986, 1990) lập luận rằng chiến lược toàn cầu hiệu quả nhất là tập trung càng nhiều các hoạt động trong một quốc gia thì càng tốt để phục vụ cho thế giới từ sân nhà. Công ty toàn cầu của Porter chỉ là một công ty xuất khẩu và phương pháp của ông không đưa vào tính toán sự phức tạp thực sự của các công ty đa quốc gia (Moon, 1994). Tầm nhìn hẹp của Porter đã khiến ông đánh giá thấp về tiềm năng của nền kinh tế Singapore. Porter (1990, trang 566) lập luận rằng phần lớn cơ sở sản xuất của Singapore là dựa vào các công ty nước ngoài, họ bị thu hút bởi chi phí tương đối thấp của Singapore, lực lượng lao động được đào tạo tốt và cơ sở hạ tầng hiệu quả, bao gồm cả đường giao thông, cảng, sân bay và viễn thông. Theo ông, các nguồn chính lợi thế cạnh tranh của Singapore là những yếu tố đầu vào cơ bản như địa điểm và lao động không có tay nghề hay lao động bán lành nghề, điều này không quan trọng trong lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Trong thực tế, Singapore đã trở thành nền kinh tế thành công nhất trong số các quốc gia mới phát triển (NIC). Thành công của Singapore chủ yếu là do FDI trong nước từ các công ty đa quốc gia nước ngoài ở Singapore, cũng như nguồn FDI bên ngoài của các công ty Singapore ở nước ngoài. Nguồn FDI trong nước mang lại vốn và công nghệ của nước ngoài, trong khi đó FDI bên ngoài cho phép Singapore tiếp cận nguồn lao động rẻ và những nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đó là sự kết hợp của các yếu tố của viên kim cương trong nước và quốc tế đem lại một lợi thế cạnh tranh bền vững trong nhiều ngành công nghiệp của Singapore. Porter cũng đưa ra kết luận trái ngược nhau về khả năng cạnh tranh của Hàn Quốc và Singapore. Ông lập luận trong cuốn sách của ông vào năm 1990 rằng Hàn Quốc có tính cạnh tranh hơn Singapore. Tuy nhiên, khi sử dụng mô hình kim cương đôi, kết quả là khác nhau. Mặc dù Hàn Quốc có mô hình kim cương trong nước lớn hơn so với Singapore, Singapore có một viên kim cương quốc tế lớn hơn nhiều so với không Hàn Quốc. Như kết quả, Hàn Quốc dường như ít cạnh tranh quốc tế hơn Singapore. Tóm lại, hoạt động đa quốc gia rất là quan trọng khi phân tích khả năng cạnh tranh toàn cầu. Trong thực tế, sự khác biệt quan trọng nhất giữa mô hình kim cương của Porter và mô hình kim cương đôi là sự kết hợp thành công của các hoạt động đa quốc gia sau này. Trong phân tiếp theo, chúng tôi sẽ sử dụng mô hình kim cương đôi trong trường hợp của Hàn Quốc và Nhật Bản. Ứng dụng của mô hình kim cương đôi: Xác định biến và dữ liệu mô tả: Áp dụng mô hình kim cương đôi tổng quát để so sánh khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp thời trang Hàn Quốc và Nhật Bản, 31 biến phụ đã được chọn làm yếu tố quyết định của mô hình. Có nghĩa là 31 biến phụ này rút ra từ nghiên cứu lý thuyết (2004 Jin Jin và Moon năm 2006, Kim và cộng sự 2006, Liu và Hsu 2009, Moon và Kim 2010, Moon và Lee 2004, Shafaei 2009, Son và cộng sự 2007) để phân tích khả năng cạnh tranh quốc gia của các ngành công nghiệp thời trang. Để đo lường 31 biến phụ này, các dữ liệu thứ cấp có liên quan được thu thập từ các nguồn khác nhau của Hàn Quốc và Nhật Bản . Như trong theo mô hình, bốn yếu tố quyết định là: các yếu tố điều kiện; điều kiện nhu cầu; các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan; chiến lược, cấu trúc và sự cạnh tranh của công ty. Mỗi điều kiện được chia thành các biến trong nước và quốc tế. Mỗi biến phụ của từng yếu tố quyết định này được thu thập theo những cơ sở sau đây: Các yếu tố điều kiện Yếu tố điều kiện đề cập đến các yếu tố sản xuất trong vị thế của quốc gia, điều này là cần thiết để cạnh tranh trong một ngành công nghiệp nhất định, và được phân thành các yếu tố cơ bản và các yếu tố tiên tiến. Các yếu tố cơ bản là tài nguyên thiên nhiên, vị trí, lao động phổ thông, vốn vay. Các yếu tố tiên tiến gồm cơ sở hạ tầng hiện đại của xã hội và các chuyên gia có trình độ cao (Porter 1990; 71 Moon và Kim năm 2010; 80-81). Porter (1990 ,77) lập luận rằng yếu tố tiên tiến là những yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất cho lợi thế cạnh tranh hiện nay, và các tổ chức lớn đòi hỏi phải tạo ra những yếu tố tiên tiến thật sự (như các chương trình giáo dục), nguồn nhân lực tinh vi hoặc công nghệ cho bản thân họ. Liu & Hsu (2009; 165) cũng kết luận rằng quy mô và kết quả của việc đầu tư R&D là những yếu tố cơ bản nhất để quyết định sự đổi mới. Các yếu tố tiên tiến hoặc chuyên dụng là cần thiết để có nhiều hình thức lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn trong ngành công nghiệp thời trang. Các yếu tố điều kiện cạnh tranh mới trong ngành công nghiệp may mặc nằm ở yếu tố tiên tiến hoặc chuyên dụng, chẳng hạn như các nguồn nhân lực lành nghề (ví dụ như các nhà thiết kế sáng tạo), sản xuất và quy trình công nghệ. Những nguồn yếu tố cạnh tranh mới này có thể dễ dàng quan sát thấy ở các quốc gia thời trang tiên tiến nhất như Pháp, Ý và Hoa Kỳ (Jin và Moon năm 2006; 197). Đối với các yếu tố điều kiện quốc tế, Hàn Quốc đã chuyển hầu hết các hoạt động sản xuất thâm dụng lao động sang các nước Đông Nam Á và Trung Quốc vì tiền lương đã tăng lên nhanh chóng ở Hàn Quốc. Tuy nhiên Hàn Quốc vẫn cần thu hút đầu tư từ các công ty đa quốc gia của các nước tiên tiến, có được công nghệ hiện đại từ các nước này và cuối cùng là cải thiện điều kiện yếu tố trong nước thông qua R&D, hợp tác với những công ty này. Do đó, dòng vốn FDI vào-ra là chiến lược quốc tế quan trọng để cải thiện lợi thế cạnh tranh quốc gia (Liu và Hsu năm 2009; 165 Moon và Kim năm 2010; 81). Các điều kiện nhu cầu: Điều kiện nhu cầu đề cập đến bản chất của nhu cầu thị trường nội địa cho sản phẩm của một ngành công nghiệp hoặc dịch vụ (Porter 1990; 71), phân biệt kích thước và sự tinh tế của nhu cầu. Kích thước của nhu cầu nội địa trong ngành công nghiệp thời trang có thể là quan trọng đối với lợi thế của quốc gia từ quan điểm của quy mô kinh tế và tốc độ học tập, nhưng sự tinh tế trong nhu cầu người mua là quan trọng hơn trong ngành công nghiệp thời trang, khi người tiêu dùng trong nước đòi hỏi nhu cầu về thiết kế sáng tạo, dịch vụ, hoặc thương hiệu có tính cạnh tranh quốc gia mạnh mẽ. Sự tinh tế và nhu cầu của những khách hàng cũng có liên quan đến hành vi mua sắm thời trang như chi tiêu và tần suất mua. Xây dựng thương hiệu trong ngành công nghiệp may mặc thậm chí còn quan trọng hơn, vì sự khác biệt và định giá của các mặt hàng thường phụ thuộc vào thương hiệu của các mặt hàng đó (Jin và Moon năm 2006; 198 Kim và cộng sự năm 2006; 1357 Son và cộng sự năm 2007; 512). Nền kinh tế mở nhỏ như Hàn Quốc có thị trường trong nước tương đối nhỏ, và cần tìm kiếm các thị trường nước ngoài để bảo đảm quy mô kinh tế. Những công ty từ các nền kinh tế này không thể giới hạn phạm vi kinh doanh của họ với thị trường trong nước, họ phải cố gắng để xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài. Do đó, quy mô thị trường nước ngoài cũng như ưu tiên cho thương hiệu địa phương ở thị trường nước ngoài là quan trọng do sự phức tạp của nhu cầu quốc tế (Liu và Hsu năm 2009; 166). Các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan: Các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan là sự hiện diện hay vắng mặt của các ngành cung ứng hay các ngành có liên quan của quốc gia đó để mang lại lợi thế cạnh tranh quốc tế (Porter 1990; 71). Các ngành công nghiệp này bao gồm các công ty trong các ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn liên quan đến ngành và các ngành công nghiệp hỗ trợ khác. Ngoài ra, các ngành công nghiệp này không chỉ bao gồm cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải và thông tin liên lạc (Moon và Kim năm 2010; 82), mà còn các ngành công nghiệp hỗ trợ và xúc tiến các ngành công nghiệp khác trong nền kinh tế bằng cách cung cấp lợi ích như đổi mới, nâng cấp, dòng chảy thông tin và chia sẻ phát triển công nghệ đó tạo ra lợi thế trong các ngành công nghiệp hạ nguồn (Shafaei 2009; 23 Ozgen 2011; 68). Môi trường may mặc toàn cầu hiện nay yêu cầu thị trường toàn cầu, nguồn cung ứng và chuỗi cung ứng toàn cầu, những chiến lược giao thông vận tải hiệu quả và nguồn thông tin liên lạc là điều cần thiết. Vì thế, quản lý dây chuyền và công nghệ thông tin toàn cầu quan trọng hơn nguồn cung cấp chẳng hạn như nguyên liệu thô. Ví dụ, Liz Claiborne Inc nguồn từ nhiều như 31 quốc gia khác nhau sử dụng 240 nhà máy. Vì vậy, điều phối sản xuất và thông tin liên lạc hiệu quả với các nhà cung cấp đã trở nên quan trọng (Jin và Moon, 2006: 198-199). Ngoài ra, các ngành công nghiệp liên quan đến thời trang, bao gồm các ngành công nghiệp dệt may và ngành công nghiệp giáo dục và kiến thức cũng rất quan trọng để xây dựng một lợi thế cạnh tranh (Kim và cộng sự năm 2006; . . 1357 Sơn và cộng sự năm 2007; 513). Đối với các nền kinh tế nhỏ mở phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt, chẳng hạn như Hàn Quốc, dự phòng từ các ngành hỗ trợ liên đơn giản là không đủ, việc thêm sức mạnh tổng hợp và mở rộng vào các ngành có liên quan và hỗ trợ quốc tế là rất cần thiết (Liu và Hsu năm 2009; 167). Cơ sở hạ tầng môi trường toàn cầu hiện nay cho vận tải quốc tế và truyền thông cho doanh nghiệp quốc tế là rất quan trọng (Moon và cộng sự năm 1998; 143) và thực sự nó là cần thiết đối với những quốc gia nhập vào thị trường toàn cầu (Yeu et al 2013; 263 Lee và cộng sự năm 2010; 96) Chiến lược, cơ cấu, sự cạnh tranh của công ty: Chiến lược, cơ cấu, sự cạnh tranh của công ty đề cập đến lợi thế cạnh tranh nên được bổ sung với những dự án chất lượng cao như thế nào trong các điều kiện trong nước (Porter 1990; 71). Ngành công nghiệp thời trang đặc trưng bởi sự phong phú và đa dạng do nhu cầu biến động không chắc chắn, thay đổi theo mùa, và sự thay đổi trong phong cách ưa thích. Để đáp ứng với bất ổn thị trường, các công ty may mặc phải phản ứng nhanh chóng, do đó “tính nhanh nhẹn” đã trở thành một điều có ý nghĩa để đạt lợi thế cạnh tranh. Trong trường hợp của Zara, mất chưa đầy hai tuần để các sản phẩm theo mùa tạo ra từ phòng thiết kế đến các cửa hàng. Từ thiết kế đến giao hàng nhanh 12 lần giúp Zara nhanh hơn so với đối thủ cạnh tranh của mình. (Jin 2004; 240 Jin và mặt trăng năm 2006; 199) . Ngành công nghiệp thời trang có tính năng rõ nét nhất định, chẳng hạn như chuỗi hàng hóa toàn cầu lâu dài, trong đó bao gồm nhiều đại lý toàn cầu như sợi, dệt, vải và các nhà cung cấp nguyên liệu, cắt, may và quy trình hoàn thiện, thiết kế, mua, tiếp thị thương hiệu, các nhà thương mại và các nhà bán lẻ; giao thông vận tải và kho hàng. Các hãng đại lý kinh tế đang phổ biến trên toàn thế giới. Vì vậy, duy trì mạng lưới toàn cầu hiệu quả của cả hai nguồn trong và ngoài nước và liên tục nâng cấp khả năng nội bộ là rất quan trọng để thành công trong ngành công nghiệp thời trang toàn cầu (Jin 2004; 241 Kim và cộng sự năm 2006;. 1358 Shafaei 2009; 27). Kết quả Tính điểm và vẽ mô hình kim cương Để tính toán chỉ số năng lực cạnh tranh, chúng ta dùng ba bước trong lý thuyết các nghiên cứu trước đây (Moon và các cộng sự. 1998, Moon và Lee 2004, Liu và Hsu 2009, Sardy và Fetscherin 2009, Moon và Kim 2010). Trước khi mô tả các bước, cấu trúc của các chỉ số năng lực cạnh tranh phải được vạch ra. Chỉ số năng lực cạnh tranh là kết quả của việc tính toán các dữ liệu của các biến trong nước và quốc tế cho bốn điều kiện. Mỗi điều kiện được đo bằng một số biến phụ (biến ủy nhiệm). Đầu tiên, cho mỗi biến ủy nhiệm số điểm tối đa "100" cho nước có giá trị cao hơn, và một tỷ lệ tương đối về tỷ lệ phần trăm cho các quốc gia có giá trị thấp hơn. Có nghĩa là, số điểm của của nước với giá trị cao hơn là "100" , và số điểm của của nước với giá trị thấp hơn được tính bằng cách chia giá trị thấp hơn giá trị cao hơn. Ví dụ, liên quan đến "tỷ lệ gia tăng xuất khẩu”, là một trong những biến ủy nhiệm của điều kiện yếu tố quốc tế, các giá trị của Hàn Quốc và Nhật Bản là 144 và 133. Số điểm tối đa (100) được trao cho Hàn Quốc, điểm số của Nhật Bản là 92,36 (= 133/144 * 100) . Thứ hai, cho mỗi biến trong nước (hoặc quốc tế) của một điều kiện có nhiều hơn một biến phụ, chia đều tỷ trọng cho các biến phụ. Ví dụ, cho biến quốc tế của điều kiện yếu tố, trong đó có ba phụ biến (tăng tỷ lệ xuất khẩu, ngoài FDI, FDI vào), số điểm của tình trạng yếu tố quốc tế của Hàn Quốc là 82,41 (= 100/3 + 95,32/3 + 51,90/3). Thứ ba, một viên kim cương toàn cầu được xây dựng bằng cách bổ sung chỉ số năng lực cạnh tranh quốc tế vào chỉ số năng lực cạnh tranh trong nước cho mỗi điều kiện. Ví dụ, điều kiện yếu tố nội địa Hàn Quốc là 69,08, bằng cách thêm các chỉ số năng lực cạnh tranh quốc tế là 82,41 vào điểm số này sau đó chỉ cần lấy tổng trung bình, viên kim cương toàn cầu Hàn Quốc cho yếu tố điều kiện được xác định là 75,74 . Chỉ số năng lực cạnh tranh trong là kết quả của việc tính toán dữ liệu mô tả các điều kiện yếu tố , điều kiện nhu cầu , điều kiện RSI , và điều kiện SSR , sử dụng các bước của tính toán ở trên. Các biến trong nước của mô hình kim cương cho thấy kết quả thực nghiệm của viên kim cương trong nước. Theo kim cương trong nước, ngành công nghiệp thời trang Nhật Bản vượt qua ngành công nghiệp thời trang Hàn Quốc trong tất cả các yếu tố ngoại trừ yếu tố ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan. Điều này có nghĩa rằng ngoại trừ yếu tố quyết định RSI, ngành công nghiệp thời trang Nhật Bản là cạnh tranh hơn trong tất cả các yếu tố quyết định trong nước. Chúng ta có thể tìm thấy một số ý nghĩa quan trọng khi các đo lường các biến ủy nhiệm có liên quan chặt chẽ với nhau. Trước hết, những viên kim cương trong nước của Nhật Bản và Hàn Quốc chứng minh rằng ngành công nghiệp thời trang của Nhật Bản đã bão hòa, đây là đặc điểm của các nước phát triển trong khi Hàn Quốc cho thấy đặc điểm ngành công nghiệp thời trang của các nước NIC. Hơn nữa, khi xem xét các kết quả nghiên cứu so sánh về khả năng cạnh tranh của Hàn Quốc và Trung Quốc các ngành công nghiệp thời trang theo cùng một phương pháp (Kim và cộng sự năm 2006; 29 Son và cộng sự năm 2007; 20), Hàn Quốc yếu tố sản xuất quyết định tính cạnh tranh hơn so với Trung Quốc , ngoại trừ các yếu tố điều kiện. Nói cách khác, kết quả kim cương trong nước của Nhật Bản - Hàn Quốc và Hàn Quốc - Trung Quốc cho thấy rõ sự khác biệt cơ bản giữa các quốc gia tiên tiến và NICS, đó là sự khác biệt về mức độ công nghiệp hóa của ngành công nghiệp thời trang. Thứ hai, Hàn Quốc báo cáo mức đo lường cao hơn đối với sản xuất và xuất khẩu, nhưng Nhật Bản vượt trội Hàn Quốc trong R&D, công nghệ và khả năng thiết kế, tỷ lệ giá trị gia tăng và hiệu quả của công ty. Vì thế, ngành công nghiệp thời trang của Nhật Bản đã thay đổi tập trung vốn vào ngành công nghiệp chuyên sâu và công nghệ cao trong khi ngành công nghiệp thời trang của Hàn Quốc đang cố gắng theo ngành công nghiệp thời trang các nước tiên tiến. Điều cuối cùng, dù thế một điều đáng chú ý liên quan đến cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của Hàn Quốc: Nhật Bản cho thấy một mức đo lường thấp hơn so với Hàn Quốc về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đã trở thành nền tảng của sự phát triển cho hầu hết các lĩnh vực của ngành công nghiệp trong thế kỷ 21, triển vọng của ngành công nghiệp thời trang Hàn Quốc dường như tươi sáng như Jin đã đề cập (2006;202), với sức mạnh ngày càng tăng của thiết kế và sức mạnh của làn sóng văn hóa Hàn Quốc gần đây, chúng tôi tin rằng Hàn Quốc sẽ phát triển để trở thành nước dẫn đầu, có thể vượt qua Nhật Bản trong ngành công nghiệp thời trang . Các biến quốc tế của kim cương mẫu cho thấy kết quả thực nghiệm của viên kim cương quốc tế. Theo kim cương quốc tế, ngành công nghiệp thời trang Nhật Bản là cạnh tranh hơn trong tất cả các yếu tố quyết định ngoại trừ yếu tố ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan, hệt như viên kim cương trong nước. Khi so sánh các hình dạng kim cương quốc tế của Hàn Quốc và Nhật Bản với hình dạng viên kim cương trong nước, những viên kim cương quốc tế có nhiều điểm tương tự hơn so với trong nước. Có nghĩa là ngành công nghiệp thời trang Hàn Quốc là gần như là cạnh tranh như các ngành công nghiệp thời trang Nhật Bản. Chúng ta có thể tìm thấy một số ý nghĩa quan trọng khi các đo lường các biến ủy nhiệm có liên quan chặt chẽ với nhau. Trước hết, qua kết quả của viên kim cương trong nước, Hàn Quốc cho thấy đặc điểm ngành công nghiệp thời trang của một nước NIC để Hàn Quốc báo cáo mức đo lường liên quan đến sản xuất cao hơn Nhật Bản. Tuy nhiên, Nhật Bản cho thấy đặc điểm ngành công nghiệp thời trang của một quốc gia tiên tiến và báo cáo đo lường cao hơn so với Hàn Quốc trong các luồng vốn FDI vào và ra, sức mạnh thương hiệu trên thị trường nước ngoài và toàn cầu hóa của công ty. Tuy nhiên theo kết quả của viên kim cương trong nước, Nhật Bản lại có chỉ số đo lường thấp hơn so với Hàn Quốc trong các lĩnh vực công nghệ thông tin và giáo dục. Viên kim cương quốc tế có thể được hiểu là chỉ số toàn cầu của ngành công nghiệp thời trang của mỗi quốc gia (Son và cộng sự năm 2007; 17), và trong trường hợp của Hàn Quốc, điều quan trọng cho ngành công nghiệp thời trang Hàn Quốc là tập trung vào nguồn lực toàn cầu và thị trường cũng như mức độ toàn cầu hóa của các công ty cũng như ở quốc gia của mình để phát triển khả năng cạnh tranh của nó, do quy mô của nền kinh tế của Hàn Quốc là tương đối nhỏ (Moon năm 1998; 7). Điều này khuyến khích viên kim cương quốc tế của Hàn Quốc giống như của Nhật Bản, và khả năng cạnh tranh cao hơn của Hàn Quốc trong công nghệ thông tin và giáo dục cho thấy nó có thể làm cho Hàn Quốc cải thiện khả năng cạnh tranh ngành công nghiệp thời trang của mình. 3.4 Chỉ số năng lực cạnh tranh của Kim cương mẫu cho thấy kết quả thực nghiệm của viên kim cương toàn cầu. Điểm cho kim cương toàn cầu được tính là tổng trung bình của các điểm số từ những viên kim cương trong nước và quốc tế. Nhìn vào riêng biệt những viên kim cương trong nước và quốc tế và liên quan đến yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của mỗi quốc gia, khả năng cạnh tranh có thể được hiển thị rõ ràng hơn và giải thích thông qua các kim cương toàn cầu, tổng hợp kim cương trong nước và quốc tế. Ngành công nghiệp thời trang Nhật Bản là cạnh tranh hơn trong tất cả các yếu tố quyết định của kim cương toàn cầu ngoại trừ yếu tố ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan, giống như với những viên kim cương trong nước và quốc tế. So sánh khả năng cạnh tranh quốc gia của Hàn Quốc và Singapore bởi Moon và Kim (2010; 85) cho thấy kết quả tương tự như nghiên cứu này. Có nghĩa là, Hàn Quốc đã đạt được sự tăng trưởng đáng kể trong yếu tố ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan và thành tích này chủ yếu là do sự phát triển của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đẳng cấp thế giới và khu vực giao thông vận tải. Tuy nhiên, Hàn Quốc cần phải được quan tâm hơn đến việc cải thiện các yếu tố điều kiện cũng như điều kiện nhu cầu. Do đó, Hàn Quốc cần phải tập trung vào việc cải thiện điều kiện yếu tố cũng như điều kiện nhu cầu, chiến lược công ty, cơ cấu và điều kiện cạnh tranh để đạt được khả năng cạnh tranh toàn cầu trong ngành công nghiệp thời trang . Ý nghĩa: Nghiên cứu này so sánh ngành công nghiệp thời trang Hàn Quốc với ngành công nghiệp thời trang Nhật Bản - một trong những ngành công nghiệp thời trang hàng đầu trên thế giới với nhiều điểm tương đồng về địa lý và văn hóa với Hàn Quốc, bằng cách sử dụng mô hình kim cương đôi tổng quát nhằm mục đích tìm hiểu năng lực cạnh tranh toàn cầu là cần thiết cho Hàn Quốc để trở thành một trong những nước hàng đầu trong ngành công nghiệp thời trang thế giới, cũng như phân tích khả năng cạnh tranh toàn cầu hiện nay ngành công nghiệp thời trang của Hàn Quốc. Ngành công nghiệp thời trang Nhật Bản là một nước tiên tiến dẫn đầu xuất khẩu hàng dệt và các sản phẩm may mặc từ năm 1960 sau Mỹ và châu Âu. Mặt khác, ngành công nghiệp thời trang của Hàn Quốc là đứng đầu trong các nước công nghiệp mới (NIC), xuất khẩu toàn cầu các mặt hàng dệt may và các sản phẩm may mặc từ những năm 1980 giữa các nước Đông Á, chỉ đứng sau Nhật Bản. Ngoài ra, Nhật Bản là một quốc gia tiên tiến, trong đó ngành công nghiệp thời trang trong nước là định hướng thị trường, trong khi Hàn Quốc là một nền kinh tế mở nhỏ tập trung nhiều hơn vào các thị trường nước ngoài. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy tình trạng của ngành công nghiệp thời trang của hai nước đang đứng lại. Trong số 31 biến, ngành công nghiệp thời trang của Hàn Quốc cho thấy sự đo lường liên quan đến sản xuất và xuất khẩu cao hơn Nhật Bản, nhưng ngành công nghiệp thời trang của Nhật Bản báo cáo sự đo lường cao hơn so với Hàn Quốc trong lĩnh vực R&D, thiết kế và sức mạnh thương hiệu, tỷ lệ giá trị gia tăng và hiệu quả của các công ty và toàn cầu hóa. Để cho ngành công nghiệp thời trang của Hàn Quốc đạt được khả năng cạnh tranh trong thị trường toàn cầu, cần theo đuổi định hướng phát triển tiếp theo. Đầu tiên, rất là khó khăn cho Hàn Quốc để theo bước chân của các ngành công nghiệp thời trang như Mỹ và Nhật bản những nước có khả năng tận dụng lợi thế của các nền kinh tế của quy mô, bởi vì Hàn Quốc là một nước nhỏ hơn so với các quốc gia Mỹ và Nhật Bản. Vì vậy, cũng giống như ý kiến được chỉ ra bởi Moon và Kim (2010; 86), trong trường hợp của các nền kinh tế nhỏ như Singapore, tăng cường các hoạt động quốc tế sẽ thiết thực cải thiện yếu tố quyết định trong nước, Hàn Quốc sẽ được cải thiện kim cương trong nước bằng cách tăng cường khả năng cạnh tranh hiện tại của kim cương quốc tế. Nói cách khác, Hàn Quốc cần phải tiếp tục nỗ lực phát triển và mở rộng nguồn lực toàn cầu và thị trường cũng như cải thiện khả năng cạnh tranh về R&D, thiết kế và sức mạnh thương hiệu, tỷ lệ giá trị gia tăng và hiệu quả của công ty. Ngành công nghiệp thời trang Hàn Quốc cho thấy mức độ tương đối tiên tiến của công nghệ thông tin và hệ thống giáo dục thời trang, nó có tiềm năng đáng kể để phát triển. Hàn Quốc dự kiến ​​sẽ có một tiềm năng tăng trưởng rất lớn vì nó có mức độ tương đối cao của công nghệ thông tin, hệ thống giáo dục và các hoạt động thời trang hơn so với Nhật Bản trong cả hai viên kim cương trong nước và kim cương quốc tế. Đặc biệt, môi trường tốt hơn được đặt ra trước Hàn Quốc để đạt được khả năng cạnh tranh trong ngành công nghiệp thời trang do ảnh hưởng ngày càng tăng gần đây của làn sóng Hàn Quốc mà Hàn Quốc dự kiến ​​sẽ phát triển như một nhà lãnh đạo trong thị trường châu Á cũng như trên thị trường toàn cầu cũng như Lee (2003; 362) đã đề cập.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docmo_hinh_kim_cuong_doi_qtcl_9008.doc
Luận văn liên quan