Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện qua đại hôi XII - X

MỤC LỤC Lời mở đầu 3 1. Mô hình XHCN tại Đại hội VII 4 1.1 Bối cảnh lịch sử diễn ra Đại hội VII: 4 1.1.1 Bối cảnh thế giới: . 4 1.1.2 Bối cảnh trong nước . 6 1.2 Mô hình xây dựng XHCN được đưa ra tại Đại hội VII : . 7 2 Những điều chỉnh, bổ sung cho Mô hình XHCN ở các ĐH VII-IX-X . 11 3. Cơ sở của Đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra: 14 3.1 Cơ sở lý luận . 14 3.1.1 Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, đổi mới tư duy, nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội.14 3.1.2. Dựa trên những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội . 18 3.2 Cơ sở thực tiễn: . 19 3.2.1 Trong nước:19 3.2.2 Quốc tế . 20 4. Đánh giá 20 4.1 Đánh giá về mặt lý luận: 20 4.2 Đánh giá về thực tiễn thực hiện đường lối 22 4.2.1Thành tựu: 23 4.2.2 Hạn chế: 26 5. So sánh với các mô hình XHCN trước: 26 6. Bài học kinh nghiệm . 30 7. Các tư liệu tham khảo 34

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9764 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện qua đại hôi XII - X, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước lạc hậu về kinh tế.  Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng, do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. ở một số nước, đảng cộng sản và công nhân không còn nắm vai trò lãnh đạo; chế độ xã hội đã thay đổi. Các thế lực đế quốc lợi dụng những sai lầm và khó khăn đó đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra gay gắt. Trung Quốc cải cách mở cửa từ 1978 và đã đạt được những thắng lợi to lớn,đưa đất nước Trung Quốc dần thoát khỏi khủng hoảng và phát triển với tốc độ nhanh chóng,để lại nhiều bài học cho nước ta trong quá trình đổi mới đất nước. Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản. Các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp, chống nghèo nàn và lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Nhân dân các nước đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo. Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các dân tộc. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử. 1.1.2 Bối cảnh trong nước Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. Nhưng chúng ta cũng có những thuận lợi: chính quyền thuộc về nhân dân, nước nhà đi vào giai đoạn hoà bình xây dựng. Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt. Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao động và sáng tạo. Chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất ban đầu. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ để phát triển. Sau khi tiến hành đổi mới từ năm 1986 chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: + Tình hình chính trị của đất nước ổn định. Nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực:đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế,bước đầu hình thành nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần,vận động theo cơ chế thị trường,có sự quản lí của Nhà nước,nguồn lực sản xuất của nhà nước đựợc huy động tốt hơn,tốc độ lạm phát được kìm chế bớt,đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân có phần được cải thiện. + Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy. + Quốc phòng được giữ vững,an ninh quốc gia được đảm bảo. từng bước phá thế bị bao vây cấm vận về kinh tế,chính trị,mở rộng mối quan hệ quốc tế,tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Những điểm nêu trên chứng tở đường lối đổi mới của Đại hội VI đề ra là đúng,đó là cơ sở để chúng ta tiếp tục tiến lên trong những năm tiếp theo. Bên cạnh thành tựu bước đầu đạt được,đất nước còn nhiều yếu kém và khó khăn,nhiều vấn đề về kinh tế_xã hội vẫn chưa được giải quyết,công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế. 1.2 Mô hình xây dựng XHCN được đưa ra tại Đại hội VII : Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991. Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho 2.155.022 đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau từ mọi miền của đất nước hoặc đang công tác ở nước ngoài về dự Đại hội Đồng chí Võ Chí Công đọc Diễn văn khai mạc. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội VII. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Nguyễn Văn Linh đọc tại Đại hội đã đánh giá việc thực hiện hơn 4 năm đổi mới trên các lĩnh vực đời sống xã hội, đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm (1991-1995). Nhiệm vụ của ĐH là phải định hướng đúng đắn, vạch ra đường lối để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. ĐH thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Báo cáo chính trị, Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều Lệ Đảng, kiểm điểm sự lãnh đạo của BCH TƯ VI. Cương lĩnh chỉ ra 6 đặc trưng của CNXH: - Một là, XH XHCN là XH do nhân dân lao động làm chủ - Hai là, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất - Ba là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - Bốn là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công; làm theo năng lực, hưởng theo lao động; có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển cá nhân toàn diện - Năm là, các dân tộc trong nước cùng bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ - Sáu là, có quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với các nước trên thế giới. Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững 7 phương hướng cơ bản sau: Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân. Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cait thiện đời sống nhân dân. Ba là, phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Bốn là, trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp cảu tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước. Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ. - Những quan điểm và nguyên tắc được Đại hội VII khẳng định: + Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội VII xác định vai trò của Đảng gắn liền với việc xây dựng và thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, Chiến lược và công cuộc đổi mới. Đồng thời gắn vai trò của Đảng với hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đặc biệt trong bối cảnh quốc tế, trong nước và tình hình Đảng ta hiện nay việc xác định đúng và phát huy vai trò của Đảng càng có ý nghĩa đặc biệt. Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, Chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đại hội VII khẳng định tăng cường sở lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu vì trong điều kiện nước ta Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo. + Về bản chất giai cấp của Đảng, Đại hội VII khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. + Về nền tảng tư tưởng của Đảng, Đại hội VII khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. + Về mục đích của Đảng, Đại hội VII xác định Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. + Đại hội VII khẳng định tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Đại hội VII coi việc tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, là công việc thường xuyên bảo đảm cho Đảng ta luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. Công tác xây dựng Đảng rất quan trọng nên việc đổi mới ,chỉnh đốn Đảng phải được chỉ đạo một cách kiên quyết, có bước đi vững chắc làm từ Trung ương đến cơ sở, bằng nhiều biện pháp đồng bộ, gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường hệ thống chính trị, cải cách bộ máy Nhà nước, dựa vào nhân dân, thông qu phong trào cách mạng của nhân dân để đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Ðại hội VII, năm 1991 đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang từng bước xây dựng và xác định những phương hướng chủ yếu đưa nước ta từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội. Cũng có thể xem đó là con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, là mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính là nhờ những nhận thức lý luận mới được hình thành và phát triển trong thực tiễn và tổng kết thực tiễn mà, giờ đây chúng ta có thể nói: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng là một xã hội nhằm đi tới ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''. Có thể xem đây là hình dung tổng quát về bản chất, mục tiêu, bao hàm trong đó cả hệ thống giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc, cả động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội. 2. Những điểm được điều chỉnh, bổ sung và phát triển về mô hình CNXH ở các Đại hội VIII – IX - X : Đến Đại hội VIII ((28/6-1/7/1996) và Đại hội IX ((19/4-22/4/2001, Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định: 6 đặc trưng của CNXH. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ((18/4-25/4/2006), Đảng ta bổ sung đặc trưng mô hình CNXH thêm 2 đặc trưng như sau: + Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh + Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Những điểu chỉnh,bổ sung cụ thể: Một là, Đại hội X điều chỉnh: “Do nhân dân làm chủ” (Đại hội VII nêu “Do nhân dân lao động làm chủ”. Lợi ích của sự điều chỉnh này là: - Quy tụ được sức mạnh của dân tộc để thực hiện mục tiêu. - Đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh hơn: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Hai là, “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” (Đại hội VII: “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó được thể hiện từ: - Đại hội VIII khi xác định mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đã xác định: “Quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Đại hội IX: Khi nói về mục đích của kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta cũng xác định “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối”. Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng CNXH do đó, chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu vẫn cũn tồn tại trong suốt thời kỳ quỏ độ, đó là sự kế thừa, bổ sung, phát triển và làm sáng tỏ hơn, phù hợp với thực tế hơn. Ba là, “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”. (Đại hội VII nêu: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân). So với Đại hội VII, Đại hội X khát quát lại đặc trưng này ngắn gọn hơn súc tích hơn, rừ ràng hơn và có một sự điều chỉnh, không sử dụng từ “bóc lột” trong đặc trưng này, vì: - Mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta trước hết không chấp nhận chế độ người bóc lột người. - Thừa nhận trên thực tế trước mắt còn có hiện tượng bóc lột, có sự phân hoá giàu nghèo, nhưng không dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập. - Thừa nhận sự tồn tại lâu dài các hình thức thucs mướn lao động, nhưng trong khuôn khổ nhất định, vì trong CNXH ta chấp nhận nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Bốn là: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam, bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ” Đại hội VII nêu: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Cái mới ở đặc trưng này so với Đại hội VII là: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam (chứ không phải chỉ có các dân tộc trong nước). - Quan điểm này thể hiện từ cách mạng là sự nghiệp của toàn thể dân tộc Việt Nam - đó cũng là diểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. - Sức mạnh của dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn của mọi thắng lợi, là động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, của công cuộc đổi mới đất nước - là nguồn nội sinh của cách mạng. Đến đại hội IX Đảng ta nêu từ hơn: “Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc” trong khi Đại hội VIII chỉ nói “phát huy sức mạnh của cả cộng đồng” . - Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam (gồm toàn thể người dân Việt Nam ở trong nước và cả bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài) - Đó là nguồn lực của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, cần phải phát huy để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Năm là, “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” - Đây là đặc trưng mới được bổ sung, rút ra từ tổng kết thực tiễn về xây dựng CNXH ở nước ta, từ sự đóng góp lý luận của Chương trình KX 01. - Tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đó chính thức được các Đại hội VIII và IX nêu ra. - Đại hội X tiếp tục kế thừa và đưa vào một trong các đặc trưng của mô hình CNXH mà nhân dân ta cần xây dựng. Sáu là, đặc trưng có tính bao trùm nhất và có thể coi như là mô hình tổng quát về chế độ kinh tế, chính trị – xã hội của nước ta (khác về chất với các chế độ xã hội khác) là: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đây chính là điểm tương đồng để kết nối cộng đồng dân tộc Việt nam theo tinh thần khép lại quá khứ, cùng nhau hướng về tương lai một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh”, “dân cường, nước thịnh” theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh. 3. Cơ sở của Đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra: 3.1 Cơ sở lý luận Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 xác định: Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-LeNin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Lần đầu tiên trong các văn kiện của Đảng nêu lên tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm chủa sự kết hợp chủ nghĩa Mac-Lê Nin với thực tiễn cách mạng Việt Nam, kết tinh giá trị văn hoá của dân tộc và của nhân loại. 3.1.1 Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, đổi mới tư duy, nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội. * Về thời gian: Từ thực tiễn phong phú và sôi động của những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta càng nhận thức sâu sắc hơn những tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-LêNin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua các giai đoạn đổi mới chúng ta đều dễ nhận thấy có những trùng hợp không chỉ về những vấn đề đặt ra và cách thức giải quyết giữa chính sách kinh tế mới ở Nga và công cuộc đổi mới những năm qua ở nước ta. Trùng hợp không chỉ về các giải pháp tiến hành để vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế mà còn trùng hợp trên những nguyên tắc và nội dung chủ yếu của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Song so với những vấn đề của nước Nga 1921-1923 thì những vấn đề được đặt ra cho nước ta hôm nay còn có nhiều điều mới mẻ, phức tạp và phong phú hơn rất nhiều, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đắn hơn , đầy đủ hơn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- LeNin vào thực tiễn Việt Nam Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá trình lịch sử rất dài, phải trải qua nhiều thời kì, nhiều chặng đường, nhiều bước nối tiếp trong sự phát triển đó là sự quá đọ đặc thù, quá độ gián tiếp với nước chậm phát triển chưa qua chế độ tư bản chủ nghĩa như nước ta. Như vậy chủ nghĩa xã hội chưa thể hoàn thiện ngay một lúc mà phải qua một quá trình xây dựng lâu dài chia nhiều giai đoạn với những nhiệm vụ khác nhau. Trong quá trình đó, nó sẽ đạt được những chất lượng mới và chỉ hoàn chỉnh trên cơ sở của chính nó. Khi kết thúc thời kì quá độ cũng là lúc chủ nghĩa xã hội được hoàn thiện và phát triển. * Về kinh tế: Trong thời quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đan xen, cạnh tranh nhau phát triển. Đây là thời kì lich sử đặc biệt, trong đó kết cấu kinh tế, xã hội đều tồn tại những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa hình thành những yếu tố của xã hội mới đang lớn lên từng bước nhưng chưa giành thắng lợi. Điều đó nghĩa là nó mang tính chất quá độ. Lê Nin chỉ ra rằng ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, lúc đầu phổ biến là có ba thành phần kinh tế cơ bản: KTCNXH, KTTBCN, KTSX Hàng hoá nhỏ. Người kết luận:“Không nên nôn nóng xoá bỏ các thành phần kinh tế trực tiếp đẻ chuyển ngay sang nền kinh tế XHCN, mà phải trải qua một thời kì quá độ tương ứng với nó là nền kt quá độ có nhiều thành phần kinh tế” Trước hết cần phải hướng vào giải quyết những vấn đề cấp thiết nhất, mấu chốt nhất là phục hồi ngay các lực lượng sản xuất mà trọng tâm là kinh tế nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng, cần hạn chế lạm phát và ổn định giá cả. Theo Lê Nin, bắt đàu từ nông nghiệp, nông dân trở lại với quan hệ hàng hoá tiên tệ ; thương nghiệp được tự do buôn bán; thừa nhận nhiều thành phần kinh tế, quan tâm tới lợi ích cá nhân… Làm như thế là trở về đúng điểm xuất phát để từ đó tiến lên một cách hợp quy luật, để tạo lập một mối liên kết chặt chẽ giữa công nhân và nông dân. Trong thời kì quá độ, tất yếu còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau không nên chỉ hạn chế ở chỗ đem CNTB đối lập một cách chung chung trừu tượng với CNXH, mà không chịu đi sâu nghiên cứu vận dụng các hình thức kinh tế quá độ trung gian cần thiết và các giai đoạn của sự quá độ ấy. Điều kiện đảm bảo cho nền kinh tế đi xuyên qua CNTB Nhà nước mà không chệch quỹ đạo XHCN là sự lãnh đạo của DDCS, sự quản ký của chính quyền công nông và Nhà nước nắm trong tay các vị trí quan trọng, chỉ huy nền kinh tế, mở rộng quan hệ làm ăn với tư bản nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. * Về xã hội: chủ nghĩa Mác- Lê Nin cho rằng, sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền, cuộc đấu trnah giai cấp chưa phải đã chấm dứt. Các giai cấp bóc lột không nhanh chóng mất đi mà cùng với giai cấp tàn dư của xã hội cũ, các lực lượng phản động trong và ngoài nước hình thành một thế lực thù địch với chế độ XH mới. Nhiệm vụ của cuộc đấu tranh giai cấp chưa hoàn thành, giành chính quyền mới chỉ là giành được phương tiện giải quyết mục tiêu cuối cùng chứ chưa phải là mục tiêu cuối cùng. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chỉ thực sự thành công khi nào giai cấp vô sản tạo nên được một xã hội mới hơn hẳn CNTB về chất. Có thể nói đây là nhiệm vụ trọng đại khó khăn và lâu dài, đồng thời có ý nghiã quyết định. Trong điều kiện mới, cuộc đấu tranh giai cấp sẽ diễn ra dưới nhiều hình thức mới, có đổ máu hoặc không đỏ máu bạo lực hoặc không bạo lực, chính trj hoặc kinh tế. Đồng thời nhận thấy tuỳ tưng giai cấp tầng lớp trong xã hội có những lợi ích cụ thể trước mắt khác nhau nhưng với mỗi nội dung, tính chất cơ bản của CNXH không phải xa lạ với lợi ích của họ. * Về chính trị: Thời kì quá độ lên CNXH về bản chất đó là chuyên chính vô sản. Chủ nghĩa Mác không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động, trung thành với những nguyên lý của C.Mác và Ph. Ăngghen về xây dựng xã hội cộng sản, song xuất phát từ điều kiện cụ thể của nước Nga và thế giới đàu thế kỉ 20, ngay sau CM tháng 10, V.I.LeNin đã suy nghĩ vấn đề quá độ lên CNXH không qua CNTB Nhà nước. Đó là vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng của CNTB hiện nay, không thể tìm giải pháp trong bản chất của CNTB và bằng cách quay lại con đường TBCN, mà phải trở lại với bản chất cách mạng và khoa học của thuyết Mác – LêNin. Muốn làm được điều đó những người CS chân chính phải có dũng khí cách mạng với phương pháp nhận thức và hành động đúng đắn dám nhìn thẳng vào sự thật rút ra những bài học lịch sử trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng vừa qua để không bị lúng túng mất phương hướng từ đó từng bước tìm ra giải pháp thích hợp cho những vấn đề mới đặt ra ở mỗi nước và trên thế giới 3.1.2. Dựa trên những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những nhận thức đúng đắn về lí tưởng, về con đường XHCN nhưng chưa có điều kiện để phác thảo cụ thể về mô hình XHCN Việt Nam. Tuy nhiên trên thực tế người đã phác hoạ một số nét cơ bản về XH tương lai ở Việt Nam và CNXH làm sao cho dân giàu nước mạnh. Dân có giàu nước mới mạnh. Quan điểm xây dựng CNXH “ dân giàu, nước mạnh”là quan điêm nhất quán trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người. Nói một cách cụ thể, CNXH như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định là xã hội xóa bỏ mọi áp bức bóc lột làm cho người dân ấm no. tự do, hạnh phúc và học hành tiến bộ, mọi người mọi nhà mọi dân tộc sống với nhau bình đẳng và đoàn kết. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình gian nan, khó khăn và lâu dài. Để đạt được mục tiêu đó không được nôn nóng, chủ quan duy ý chí, mà phải tuân theo quy luật với nhiều giai đoạn, thời kì cao thấp khác nhau với những giải pháp khác nhau. Phải đề ra những biện pháp cụ thể để từng bước xác lập CNXH trên nước ta với tinh thần độc lập tự chủ tự lập tự cường. Bác luôn nhắc nhở phải học tập có chọn lọc kinh nghiệm của các nước anh em nhưng trước hết phải ra sức tìm tòi con đường và bước đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Người cho rằng con đường đi lên CNXH ở Việt Nam không thể làm vội vàng mà phải từng bước thận trọng, vững chắc. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện có tầm vóc to lớn và gắn bó gâng gũi với mỗi người dân vì chính nó đã trở về với nguồn cội, trở về với quan điểm tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH và đã khơi dậy tiềm năng sáng tạo cho mỗi người dân. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người không đưa ra một mô hình CNXH cụ thể nhưng những quan điểm tư tưởng của Người sẽ mãi soi đường cho sự nghiệp xây dựng CNXH của Đảng ta và nhân dân ta. 3.2 Cơ sở thực tiễn: Cơ sở thực tiễn được thể hiện qua hơn ba thập kỉ xây dựng CNXH 3.2.1 Trong nước: - Năm 1954 miền Bắc được giải phóng bắt đàu đi lên xây dựng CNXH đã đạt được những thành tựu về kinh tế xã hội ngày càng vững mạnh, làm tròn nhiệm vụ hậu phương với tiền tuyến lớn miền Nam, song mặt khác cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình cũ. - Năm 1975 cả nước tiến lên xây dựng CNXH trong hoàn cảnh chính trị kinh tế xã hội hết sức đặc biệt: Tiếng súng ở miền Nam vừa kết thúc, chiến tranh lại diễn ra ở biên giới Tây Nam và phía Bắc - Nước ta bị Mỹ và các nước Tư Bản bao vây cấm vận cô lập đẩy nước ta vào thế bao vây về kinh tế. Chủ yếu nước ta chỉ quan hệ với các nước Đông Âu và Liên Xô. - Trong khi đó nước ta xây dựng CNXH với xuất phát điểm thấp, từ một nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ với nông nghiệp là chủ yếu, hậu quả chiến tranh nặng nề trên phạm vi cả nước. - Lúc đó ta đã mắc sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: bố trí cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, cơ chế quản lý tập trung quan liên bao cấp, nóng vội trong cải tạo XHCN, xóa bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN chỉ chú trọng công hữu tư liệu SX. à Dẫn đến người lao động bị kìm hãm tài năng, sáng tạo, sức lao động không phát triển được. Kinh tế phát triển chậm, sản xuất trì trệ, nhiều ngành bế tắc cung không đủ cầu. Nền kinh tế quốc dân không dự trữ, khủng hoảng trầm trọng nạn thất nghiệp tràn lan, phải nhập khẩu gạo trong khi nhiều ruộng đất bỏ hoang, người dân thiếu ăn, phân phối, lưu thông ách tắc. 3.2.2 Quốc tế - Bên cạnh những khó khăn trong nước, tình hình quốc tế diễn biến cũng hết sức phức tạp, khủng hoảng dẫn tới sự tan rã của một số nước Đông Âu và Liên Xô. Từ đó, cho Đảng ta thấy mô hình CNXH kiểu cũ không còn phù hợp. Mô hình đó cần thay đổi cho phù hợp với nhu cầu khách quan, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Hơn nữa, sự đổ vỡ, tan rã này làm cho nước ta mất thị trường lớn, mất nguồn vốn vay, đòi hỏi phải tìm một giải pháp mới, khắc phục khó khăn, ách tắc cho sự phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. - Cuộc khủng hoảng kinh tế đã dẫn đến sự tan rã của các nước XHCN đàn anh, song Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên định đi theo con đường CNXH. Trong hệ thống các nước XHCN lúc bấy giờ vẫn còn “đàn chị Trung Quốc” cũng đã tiến hành cải cách thay đổi mô hình CNXH cũ, đưa Trung Quốc vượt qua khủng hoảng và ngày càng phát triển. Đây cũng là một tấm gương, một điểm tựa để nước ta thực hiện đổi mới.Đổi mới, mở rộng để phát triển kinh tế xã hội, hội nhập với các nước trong khu vục và thế giới nhưng không đổi hướng đổi đường. à Điều này thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng kiên định của Đảng ta. Đảng không bối rối trước khó khăn mà bình tĩnh tiến hành đổi mới dựa trên cơ sở lý luận thực tiễn đã phân tích ở trên, khắc phục sai lầm yếu kém do mô hình và cơ chế cũ để lại nhằm thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, từng bước ra khỏi khó khăn khủng hoảng 4. Đánh giá 4.1 Đánh giá về mặt lý luận: Nước ta đã và đang xây đựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,nhìn lại 20 năm đổi mới chúng ta nhất trí rằng chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về mặt lý luận. Đổi mới và sáng tạo là đặc tính của cách mạng, là bản chất sâu xa của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tường Hồ Chí Minh, là xu thế tất yếu của thời đại.Gần 20 năm qua chúng ta đã thu được những hiểu biết và kinh nghiệm quý báu cả thành công và chưa thành công trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết, phải nói đến thái độ của Đảng ta trong tổng kết. Khi bắt đầu bước vào công cuộc đổi mới để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đảng đã khẳng định trước hết phải đổi mới tư duy,mà bài học quý nhất được rút ra là :”nhìn thẳng vào sự thật,đánh giá đúng sự thật,nói rõ sự thật.”Đây chính là thái độ chân chính,hiện thân cho trí tuệ,danh dự và lương tâm của dân tộc và thời đại;một Đảng cầm quyền vì dân;thái độ của những người cộng sản luôn vì giai cấp và dân tộc,ngoài ra không có lợi ích nào khác. Gần 20 năm đổi mới, bốn kỳ đại hội, mấy chục nghị quyết Trung ương, cho thấy nghị quyết của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước đã kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tác.Chẳng hạn đó là mục tiên ,lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,nền tảng tư tường là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ;Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo của cách mạng.... Những nội dung đó phản ánh được tính cách mạng và khoa học trong đường lối của Đảng, cho thấy Đảng đã quán triệt và vận dụng sang tạo lý luận Mác-Lênin về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa.Đồng thời cũng thể hiện sự vận dụng sang tạo tư tưởng và phương pháp “dĩ bất biến ứng vạn biến” của chủ tịch Hồ chí Minh. Bởi vì từ đầu sự ngiệp đổi mới đến nay,tình hình thế giớ luôn biến động khôn lường đặc biệt là sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu. Trong nước,có những giai đoạn khó khăn, lâm vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng, khiến một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên phai nhạt lý tưởng,sa sút về phẩm chất đạo đức ,lối sống, một số không ít người cơ hội chính trị…Nhưng Đảng ta vẫn kiên quyết khẳng định con đường duy nhất của nước ta là đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã không một chút xa rời thực tế, lý tưởng cách mạng; không một giay xao động,mất niềm tin, đứng vững trên nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, để từ đó vận dụng một cách sang tạo chứ không dập khuôn máy móc. Không ngừng đổi mới tư duy.Với tinh thần và thái độ tiếp tục đổi mới,đổi mới nhiều hơn nữa,mạnh hơn nữa với một tư duy và lý luận mở,lý luận phát triển,đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh,gắn chặt với thực tiễn Việt Nam,đem lại những thành công đáng khích lệ trên con đường đổi mới của Đảng và dân tộc. Bên cạnh những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước thì chúng ta cũng còn nhiều khuyết điểm và yếu kém; không ít vấn đề về nhận thức còn chưa đủ rõ.Chẳng hạn như nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, liên quan tới cơ cấu kinh tế, chế độ sở hữu, cơ chế quản lý... cũng như lý luận về chính trị, về Ðảng Cộng sản cầm quyền, nhà nước pháp quyền, hệ thống chính trị, xã hội dân sự... chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ. Ngoài ra ,hiện nay một số cán bộ Đảng viên có sự phai nhạt về lý tưởng sa sút về phẩm chất,lối sống, có nhận thức không đúng về Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta nên có những hành động phản đối,chống phá Đảng cũng như sự phát triển của đất nước. 4.2 Đánh giá về thực tiễn thực hiện đường lối 4.2.1 Thành tựu: * Thành tựu trên lĩnh vực Kinh tế: - Chúng ta đã có những đổi mới quan trọng trong nhận thức về Mô hình Kinh tế thời kỳ quá độ, về quan hệ giữa LLSX và QHSX, về cơ cấu Kinh tế, cơ chế quản lý, về CNH-HĐH, về quan hệ giữa xây dựng nền Kinh tế độc lập tự chủ với Hội nhập Kinh tế Quốc tế, về chế độ sở hữu và các thành phần Kinh tế - Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần Kinh tế: Kinh tế Nhà Nước; Kinh tế Tập thể; Kinh tế cá thể tiểu chủ, Kinh tế TB Tư nhân; Kinh tế TB Nhà nước; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - Với tư duy và đường lối phát triển Kinh tế nêu trên, chúng ta đã từng bước làm cho nền kinh tế sống động, sức phát triển khá nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tốc độ GDP bình quân đạt 7.5%/năm. Cơ cấu Kinh tế Ngành,Vùng có sự dịch chuyển tích cực theo hướng CNH-HĐH. Hàng hoá phong phú, thị trường cả nước nhộn nhịp, nhiều ngành Kinh tế như BCVT, Điện tử, Tin học, Hàng không... đã bắt kịp nhịp đi của thế giới. * Thành tựu trên Lĩnh vực Văn hoá -Xã hội - Con người: - Chúng ta đã có nhận thức đúng hơn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiên bộ và công bằng Xã hội; qua phát triển GD-ĐT cùng với KH-CN là quốc sách hàng đầu, Văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển Kinh tế Xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội; Khẳng định con người là vốn quý nhất, sựu phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển Kinh tế xã hội. Trên thực tế, chúng ta đã giải quyết tương đối tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tê với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng Xã hội. Chỉ số phát triển con người HDI từ mức dưới trung bình (0.590) năm 1985 tăng lên mức trung bình (0.711) năm 2000. Đến năm 2005, Việt Nam được xếp thứ 105/177 nước. * Thành tựu trên lĩnh vực Chính trị: - Trong những năm qua, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta đã có nhiều biến đổi mới theo hướng ngày càng dân chủ hơn, năng động hơn. Quốc hội có bước đổi mới quan trọng từ khâu bầu cử Đại biểu, hoàn thiện tổ chức Bộ máy đến cải tiến phương thức hoạt động. Hoạt động của QH thường xuyên hơn, ngày càng Dân chủ hơn, mở rộng chất vấn, tăng cường lắng nghe, tiếp xúc cử tri. Bộ máy chính quyền các địa phương từng bước được kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động. - Chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của cơ quan tư pháp cũng ngày càng được phân định rõ. MTTQ và các đoàn thể nhân dân ngày càng phát huy được vai trò của mình trong việc tập hợp, đoàn kết, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào cách mạng, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và nâng cao tính tự quản của các cộng đồng dân cư * Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại: - Chúng ta đã có nhiều đổi mới nhận thức về nội dung, tính chất thời đại về đường lối, chính sách đối ngoại. Thực tế, chúng ta đã phá được thế bị bao vây, cấm vận; mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia; xác lập được quan hệ ổn định với tất cả các nước lớn. Giải quyết hoà bình các vấn đề về biên giới, lãnh thổ, biển, hải đảo với các nước liên quan, giữ vững môi trưởng hoà bình; tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập Kinh tế quốc tê và khu vực, tranh thủ được nguồn vốn và tiến bộ khoa học kỹ thuật; và kinh nghiệm quản lý của các nước để phát triển đất nước. - Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ với 167/200 nước trên thế giới, đã tham gia vào hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), AFTA, APEC, WTO, WHO ... *Thành tựu trên lĩnh vực Quốc phòng, An ninh: - Độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN được giữ vững; An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường. LLVT được xây dựng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thực hiện có hiệu quả bước điều chỉnh chiến lược về bố trí thế trận, tổ chức biên chế LLVT trong thời bình; gắn chặt nhiệm vụ QP với nhiệm vụ An ninh, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Kịp thời ngăn chặn, dập tắt các vụ gây rối, bạo loạn chính trị, vô hiệu hoá hoạt động của các đối tượng hoạt động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề về tôn giáo, dân tộc, dân chủ... để gây mất ổn định. * Thành tựu trên lĩnh vực Xây dựng Đảng: - Mặc dù bố cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, Đảng ta vẫn vững vàng, thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu to lớn, quan trọng; đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục đi lên. Công tác tư tưởng chính trị của Đảng có nhiều đổi mới, góp phần vào việc nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư tưởng trên nhưungx vấn để cơ bản của công cuộc đổi mới; đấu tranh bảo vệ quan điểm; đường lối đúng đắn của Đảng, phê phán các quan điểm sai lầm... - Công tác củng cố tổ chức cơ sở Đảng và xây dựng đội ngũ Đảng viên có nhiều cố gắng; Đã có đổi mới trong việc ra Nghị quyết, tổ chức thực hiện Nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo cụ thể hoá, thể chế hoá Nghị quyết lãnh đạo xây dựng Luật và Phấp lệnh để toàn dân thực hiện 4.2.2 Hạn chế: -Kinh tế phát triển chưa tương xứng với khả năng và yêu cầu;sức cạnh tranh còn yếu và vẫn tồn tại nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. -Nhiều vấn đề văn hoá xã hội bức xúc chưa được giải quyết. -Nạn quan liêu,tham nhũng,suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức,lối sống của không ít cán bộ đảng viên vẫn nghiêm trọng. -Tệ nạn xã hội còn tồn tại. -Đời sống nhân dân nhất là vùng miền núi,vúng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn. -Hoạt động của hệ thống chính trị,phương thức lãnh đạo của Đảng chậm được đổi mới,hiệu lực quản lí của Nhà nước chưa cao. Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân có mặt giảm sút. Đan chủ trong Đảng và trong Xã hội chưa được phát huy đầy đủ. 5. So sánh với các mô hình XHCN trước: Các mô hình trước đổi mới ở nước ta có thể chia thành hai mô hình nhỏ: + Mô hình XHCN thời kỳ 1954-1975 + Mô hình XHCN thời kỳ 1975-1986 Từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, nước ta luôn kiên định nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ khi giành chình quyền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân xây dựng Đất nước theo con đường XHCN, tuy trong mỗi giai đoạn có sự khác nhau nhưng mô hình XHCN ở nước ta vẫn luôn lấy chủ nghĩa Mác_Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ Nam, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, hướng tới một xã hội công bằng, tốt đẹp với kinh tế phát triển cao, với nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, đoàn kết các dân tộc trong nước và các quốc gia trên thế giới… Nhưng trong mỗi thời kì lại có những sự khác nhau rõ rệt,những đặc trưng trong mô hình sau là sự tiếp thu, sửa đổi cho mô hình trước để thực hiện đến đích mục tiêu xây dựng XH XHCN. Mô hình XHCN 1954-1975 Mô hình XHCN 1975-1986 Mô hình XHCN 1986-Nay Hoàn cảnh xây dựng mô hình CNXH đã trở thành hệ thống trên toàn thế giới. Hoà bình được lặp lại , miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhưng miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm chia cắt làm hai miền. Khủng hoảng toàn thế giới,các nước XHCN cũng lâm vào khủng hoảng, yêu cầu đổi mới ngày càng bức thiết. Đất nước thống nhất, XHCN được xây dựng trên cả nước. vừa khắc phục hậu quả chiến tranh vừa xây dựng Đất nước. Hệ thống XHCN đứng trước nguy cơ sụp đổ và đã thực sự tan rã(1991). Nước ta đứng trước nguy cơ khủng hoảng ngày càng lớn, yêu cầu phải đổi mới đường lối xây dựng Đất nước. 1986 bước đầu quá trình đổi mới, 1991 đề ra Cương lĩnh xây dựng mô hình CHXN. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng, từng bước phát triển. Nội dung mô hình Đại hội III của Đảng (năm 1960) đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng: vạch ra con đường tiến lên CNXH ở miền Bắc và con đường giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở miền Bắc: Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước XHCN anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường sức mạnh khối XHCN, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới… Đại hội IV của Đảng (năm 1976), với khí thế của người chiến thắng, Đảng ta đã đề ra đường lối đẩy nhanh quá trình đi lên CNXH trên phạm vi cả nước. Đại hội IV cũng xác định đường lối chung cách mạng XHCN ở nước ta là: nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu…; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và XHCN; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Đại hôi VI bước đầu điều chỉnh, đổi mới mô hình xây dựng XHCN. Đến Đại hội VII, đã thông qua Cương lĩnh chỉ ra 6 đặc trưng của CNXH: - XH XHCN là XH do nhân dân lao động làm chủ - Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công; làm theo năng lực, hưởng theo lao động; có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển cá nhân toàn diện - Các dân tộc trong nước cùng bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ - Có quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với các nước trên thế giới. Đến Đại hội X bổ sung thêm hai đặc trưng nữa cho mô hình, đó là: - Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh - Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân và vì nhân dân. Tuy nhiên Đại hội VI đã chỉ rõ chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện Về mặt lý luận, đó là sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên . Chúng ta đã có thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó không chú ý vận dụng chúng vào việc định chế các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em. 6. Bài học kinh nghiệm Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 20 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những bài học đổi mới của Đảng nêu lên đến nay vốn còn giá trị lớn, nhất là những bài học chủ yếu sau đây: Một là, trong quá trình đổi mới kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đó đạt được, giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phự hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống cuả xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chộp bất cứ mô hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phự hợp. Có những điều chỉnh bổ xung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, làm chuyển biến tình hình. Nhân dân tích cực thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực, tạo ra nhiều điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay và nhân tố mới, từ đó Đảng có cơ sở để tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Công cuộc đổi mới diễn ra vào lúc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển như vũ báo, toàn cầu hóa kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi. Tiến hành đổi mới, nhân dân ta ra sức tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những xu thế nói trên tạo ra. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 7. Các tư liệu tham khảo : Báo điện tử Đảng cộng sản VN Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam Cẩm Nang Nghiệp vụ Công tác Đảng Xu hướng phát triển CNXH ở Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam thể hiện qua đại hôi XII-X.doc
Luận văn liên quan