Công nghệ ngân hàng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh 
của một NHTM. SGD luôn là đơn vị đi đầu trong hệ thống BIDV cũng như 
các NHTM trong nước về hiện đại hóa công nghệ NH. Công nghệ tin học của 
thế giới ngày nay đang mở ra những cơ hội thuận lợi cho SGD trong chiến 
lược hiện đại hoá ngân hàng. Tuy nhiên, công nghệ NH thường xuyên thay 
đổi và hiện tại công nghệ NH ở Việt Nam vẫn còn kém xa so với công nghệ 
NH thế giới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 73 trang
73 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2691 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phân loại của SGD chỉ bao gồm các hình thức cho vay XNK ngắn hạn. SGD 
đang triển khai các hình thức cho vay XNK sau: 
- Cho vay đối với nhà nhập khẩu: 
Cho vay đảm bảo bằng lô hàng nhập khẩu: loại vay này được dùng để tài 
trợ cho việc nhập khẩu nguyên liệu thô và các hàng hóa khác. Các khoản cho 
vay thế chấp lô hàng đòi hỏi hàng hóa phải được đặt dưới sự quản lý của 
SGD. SGD được quyền quyết định đối với hàng hóa trong trường hợp khách 
hàng không trả được nợ. Loại cho vay thế chấp bằng lô hàng này chỉ được áp 
dụng đối với những hàng hóa dễ tiêu thụ hoặc được chính BIDV sử dụng. 
- Cho vay đối với nhà xuất khẩu: 
Cho vay trước khi giao hàng (cho vay chuẩn bị hàng xuất khẩu): loại 
hình này dùng để tài trợ cho nhà xuất khẩu trước khi giao hàng, để nhà xuất 
 36
khẩu mua hàng hóa trong nước hoặc nhập khẩu nguyên liệu chế biến hàng 
xuất. Lô hàng cần được đảm bảo chắc chắn sẽ được thanh toán từ vốn của 
doanh nghiệp hoặc được khách hàng khác hay cơ quan khác cho vay. 
Cho vay sau khi giao hàng (ứng trước tiền hàng): ngân hàng thực hiện 
ứng trước tiền hàng cho nhà xuất khẩu thông qua chiết khấu bộ chứng từ hàng 
xuất. Các hình thức chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất: chiết khấu có thời hạn 
và chiết khấu vô thời hạn. 
2.2.2. Thực trạng hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại SGD 
Trong những năm vừa qua, cùng với hệ thống BIDV nói chung, SGD đã 
có nhiều thành công tích cực trong hoạt động kinh doanh, tiếp tục khẳng định 
vị trí của mình trong quá trình phát huy các nguồn nội lực, thu hút nguồn 
ngoại lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Thủ đô Hà 
Nội. Dù trong thời gian qua tình hình thị trường trong nước và thế giới biến 
động phức tạp, nhưng nhờ sự nỗ lực hết sức của cán bộ nhân viên, SGD đã 
duy trì được kết quả tốt trong hoạt động cho vay XNK trong những năm vừa 
qua, được thể hiện thông qua một số chỉ tiêu sau: 
2.2.2.1. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu 
Với thế mạnh là một NHTM nhà nước có uy tín lớn trên thị trường trong 
nước và quốc tế, BIDV nói chung và SGD nói riêng đã phát triển mạnh hoạt 
động cho vay tài trợ XNK. Đặc biệt trong những năm gần đây, nhờ có những 
biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng các dịch vụ đã tạo điều kiện cho SGD 
thu hút thêm khách hàng, mở rộng hoạt động cho vay XNK. Điều này được 
thể hiện rất rõ qua doanh số cho vay XNK của SGD trong ba năm gần đây: 
 37
Bảng 2.6: Doanh số cho vay XNK 
Đơn vị: Tỷ đồng 
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
Biểu đồ 2.1: Doanh số cho vay XNK 
 Đơn vị: Tỷ đồng 
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
Doanh số cho vay XNK 1187.697 1472.429 1895.129
Doanh số cho vay chung 4750.715 5354.287 6213.538
2006 2007 2008
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
Dựa vào bảng số liệu và biểu đồ trên, ta có thế thấy rõ xu hướng tăng lên 
trong doanh số cho vay XNK nói riêng cũng như doanh số cho vay chung tại 
SGD nói chung. Năm 2008, doanh số cho vay XNK đã đạt 1895,129 tỷ đồng, 
tăng trưởng so với năm 2007 là 422,7 tỷ đồng (29%). Nếu so với năm 2006, 
năm 2007 tăng trưởng ở mức 24%. Có thể nói đây là con số khá là ấn tượng, 
cho thấy mức tăng trưởng cao và ổn định đối với hoạt động cho vay XNK tại 
SGD trong ba năm qua. 
 Năm 
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 
Tỷ lệ tăng trưởng(%) 
2007/2006 2008/2007 
Doanh số cho vay XNK 1187,697 1472,429 1895,129 24% 29% 
Doanh số cho vay chung 4750,715 5354,287 6213,538 13% 16% 
Tỷ trọng 25% 27,5% 30,5% 
 38
Có được kết quả như trên là do nhu cầu vay vốn phục vụ cho hoạt động 
XNK của các doanh nghiệp ngày càng tăng. Theo số liệu đã thống kê, trong 
năm 2008, tổng kim ngạch XNK đã đạt hơn 140 tỷ USD, tăng 28,9% so với 
năm 2007, kéo theo mức tăng trưởng tương ứng trong hoạt động cho vay 
XNK tại SGD. Đáng nói ở đây là vào những tháng cuối năm 2008, hoạt động 
XNK bắt đầu chịu tác động của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn 
cầu, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, nếu không đã có thể có mức tăng trưởng 
ấn tượng hơn. Năm 2006 ghi nhận sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ 
chức thương mại thế giới WTO, kéo theo những kết quả khả quan trong XNK 
ở năm 2007 và 2008. Năm 2008 chứng kiến một tần suất hiếm thấy trong điều 
chỉnh thuế xuất nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng như: nông sản, đồ gỗ, xăng 
dầu, gas, ô tô…Xuất khẩu có những chuyển động mới trong mở rộng thị 
trường, trước khó khăn của những thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật 
Bản…, hoạt động xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp đã chủ động đẩy mạnh 
sang khai thác và mở rộng những thị trường mới, hoặc đã thâm nhập trước đó. 
Tất cả những chính sách này đã có tác dụng lớn trong việc phát triển hoạt 
động XNK ở Việt Nam, kéo theo đó là nhu cầu cho vay tài trợ XNK tại SGD 
cũng tăng. 
Xét về tỷ trọng của doanh số cho vay XNK so với doanh số cho vay 
chung, ta thấy tỷ trọng cũng tăng dần qua các năm, từ 25% năm 2006 tới 
30,5% trong năm 2008. Đây là kết quả của sự cố gắng của SGD trong việc 
giảm bớt các khoản cho vay không hiệu quả trong lĩnh vực xây lắp và thực 
hiện đa dạng hóa sản phẩm, đưa ra nhiều hình thức cho vay mới an toàn và 
hiệu quả hơn như cho vay XNK. Mặt khác tỷ trọng cho vay XNK tăng là do 
yêu cầu của nền kinh tế đang hộp nhập, lưu thông giữa các nước nhiều nên 
nhu cầu vay vốn tài trợ cho XNK tăng lên, do đó cho vay XNK trở thành thị 
trường đầy tiềm năng và phát triển. Tuy vậy tỷ trọng cho vay XNK vẫn chưa 
 39
cao do chủ yếu hiện nay đối tượng cho vay của SGD là các doanh nghiệp xây 
lắp, chưa cân xứng với nhu cầu của thị trường. Vì vậy, trong thời gian tới, 
SGD cần phải tiếp tục cố gắng hơn nữa để gia tăng doanh số cho vay XNK 
của SGD, từ đó nâng tỷ trọng của cho vay XNK trong doanh số cho vay 
chung của SGD. 
2.2.2.2. Doanh số thu nợ xuất nhập khẩu 
Doanh số thu nợ phản ánh số nợ mà Ngân hàng thu được từ các khoản 
cho vay trước đó trong khoảng thời gian nhất định, thường là 1 năm. Doanh 
số thu nợ chung và doanh số thu nợ XNK tại SGD được thể hiện qua bảng số 
liệu dưới đây: 
Bảng 2.7: Doanh số thu nợ XNK 
Đơn vị: Tỷ đồng 
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
Doanh số thu nợ chung của SGD trong năm 2008 đạt 6213,538 tỷ đồng, 
trong đó doanh số thu nợ XNK chiếm 24%, đạt 1895,129 tỷ đồng. Thu nợ 
XNK năm 2008 mặc dù có mức tăng so với năm 2007, nhưng so với mức tăng 
của năm 2007 thì lại thấp hơn (13% soi với 37%).Có thể giải thích điều này là 
do trong năm 2007, SGD đã có nhiều biện pháp quản lý, theo dõi tình hình 
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn, dẫn tới khả năng thu hồi 
nợ trong năm này tăng rất cao. Mặt khác, tỷ trọng của thu nợ XNK trong thu 
nợ chung vẫn tăng đều qua các năm, cho thấy hoạt động cho vay XNK an 
 Năm 
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 
Tỷ lệ tăng trưởng(%) 
2007/2006 2008/2007 
Doanh số thu nợ XNK 1026,155 1340,221 1514,099 31% 13% 
Doanh số thu nợ chung 4275,644 5255,768 5505,814 23% 5% 
Tỷ trọng 24% 25,5% 27,5% 
 40
toàn và có chất lượng hơn một số hình thức cho vay khác và đang dần dần 
chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động tín dụng tại SGD. 
Bảng 2.8: Doanh số thu nợ XNK và Doanh số cho vay XNK 
Đơn vị: Tỷ đồng 
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
Tỷ lệ Thu hồi nợ XNK/Doanh số cho vay XNK trong những năm gần đây 
khá là cao, luôn đạt trên 80%. Đây là kết quả của việc SGD đã sàng lọc, chỉ 
cho những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có phương án sản xuất kinh doanh 
tốt vay vốn, do đó khả năng thu hồi nợ rất là cao. 
2.2.2.3. Dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu 
Sự tăng nhanh của doanh số cho vay XNK trong những năm qua đã kéo 
theo sự tăng nhanh của dư nợ cho vay XNK. 
Bảng 2.9: Dư nợ tín dụng XNK 
Đơn vị: Tỷ đồng 
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
 Năm 
Chỉ tiêu 
2006 2007 2008 
Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ 
Doanh số thu nợ XNK 1026,155 86% 1340,221 91% 1514,099 80% 
Doanh số cho vay XNK 1187,679 100% 1472,429 100% 1895,129 100% 
 Năm 
Chỉ tiêu 
2006 2007 2008 
Tăng trưởng 
2007/2006 2008/2007 
Giá trị % Giá trị % 
Dư nợ tín dụng 
XNK 1250,188 1382,396 1763,427 132,208 11% 381,030 28% 
Dư nợ tín dụng 
chung 5000,753 5099,321 5807,045 98,568 2% 707,724 14% 
Tỷ trọng 25% 27% 30% 
 41
Biểu đồ 2.2: Dư nợ tín dụng XNK 
Đơn vị: Tỷ đồng 
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
Dư nợ tín dụng XNK 1250.188 1382.396 1763.427
Dư nợ tín dụng chung 5000.753 5099.321 5807.045
2006 2007 2008
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
Bảng số liệu và biểu đồ trên đã cho thấy dư nợ tín dụng XNK của SGD 
tăng liên tục qua các năm. Năm 2007, dư nợ tín dụng XNK đạt 1382,396 tỷ 
đồng, tăng 132,208 (11%) so với năm 2006, năm 2008 đạt 1763,427 tỷ đồng, 
tăng 381,03 tỷ đồng (28%) so với 2007. So với tốc độ tăng trưởng của dư nợ 
tín dụng chung thì hoạt động cho vay XNK đã có bước nhảy vọt. Năm 2007, 
2008 dư nợ tín dụng chung chỉ tăng trưởng 2% và 14%, con số này đối với dư 
nợ tín dụng XNK là 11% và 28%. Nó cho ta thấy hiện nay SGD đang rất chú 
trọng vào mảng cho vay XNK, hứa hẹn trong thời gian tới sẽ còn phát triển 
hơn nữa. 
Dư nợ cho vay XNK tăng nhanh phản ánh sự nỗ lực của SGD trong việc 
thực hiện công tác marketing cho hoạt động cho vay XNK. Trong thời gian 
qua, SGD đã thực hiện tốt công tác phân loại khách hàng (khách hàng thường 
xuyên và khách hàng không thường xuyên) và có những chính sách thích hợp 
đối với từng nhóm khách hàng. SGD luôn cố gắng duy trì mối quan hệ tốt, có 
 42
nhiều ưu đãi với các khách hàng hiện tại, đặc biệt là các khách hàng thường 
xuyên và khách hàng VIP. Đồng thời, SGD cũng thực hiện nhiều biện pháp 
nhằm thu hút thêm nhiều khách hàng mới, trong đó có những khách hàng lớn 
như Tổng công ty xăng dầu Việt Nam, Công ty dệt may Hà Nội… Ngoài ra 
BIDV còn kịp thời ra một số công văn và hướng dẫn cụ thể trong việc cấp tín 
dụng là những cơ sở quan trọng giúp SGD mạnh dạn mở rộng hoạt động cho 
vay XNK, góp phần quan trọng trong việc gia tăng dư nợ cho vay XNK. 
Sự đóng góp lớn của hoạt động cho vay XNK vào hoạt động tín dụng 
chung của SGD được thể hiện rõ qua tỷ trọng của hoạt động này trong thời 
gian qua. Tỷ trọng Dư nợ tín dụng XNK/Dư nợ tín dụng chung tăng từ 25% 
năm 2006 đến 30% năm 2008. Có được con số này, như đã nói ở trên, là do 
kết quả của việc SGD đang cố gắng giảm bớt các khoản cho vay không hiệu 
quả, ví dụ như trong lĩnh vực xây lắp, tập trung hơn vào những hình thức cho 
vay mới hiệu quả hơn, trong đó có cho vay tài trợ XNK. 
Bảng 2.10: Dư nợ tín dụng XNK và Tổng nguồn vốn huy động 
Đơn vị: Tỷ đồng 
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
Ta có thể thấy tổng nguồn vốn huy động trong các năm qua đều tăng rất 
cao, tuy nhiên tỷ lệ Dư nợ tín dụng XNK/Tổng nguồn vốn huy động lại giảm 
dần qua các năm. Điều này cho thấy nguồn vốn còn bị ứ đọng khá nhiều, hoạt 
động cho vay chưa tương xứng với tốc độ huy động vốn. Nó cũng mở ra khả 
năng mở rộng loại hình tín dụng XNK nói riêng, cũng như tín dụng nói chung 
của SGD. Cho vay XNK vốn là loại hình tín dụng từ trước tới nay rất có chất 
 Năm 
Chỉ tiêu 
2006 2007 2008 
Giá trị Giá trị %TT Giá trị Tỷ lệ 
Dư nợ tín dụng XNK 1250,188 1382,396 11% 1763,427 28% 
Tổng nguồn huy động 10110,926 15304,462 51% 28919,460 89% 
Tỷ trọng 12% 9% 6% 
 43
lượng và an toàn, đồng thời sẽ có nhiều tiềm năng trong tương lai. Vì vậy 
SGD cần phải cố gắng phát huy những ưu điểm ở trên, tiếp tục nâng cao tỷ 
trọng tín dụng XNK trong tổng nguồn vốn huy động của NH. 
2.2.2.4. Nợ quá hạn 
Nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng 
tín dụng của NH. BIDV nói chung và SGD nói riêng đã thực hiện nghiêm túc 
việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, do đó đã đạt được những kết 
quả rất khả quan. 
Bảng 2.11: Nợ quá hạn XNK 
Đơn vị: Triệu đồng 
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
Như ta có thể thấy, mặc dù cho vay XNK là một sản phẩm khá mới của 
SGD, nhưng trong 3 năm gần đây không hề có nợ quá hạn đối với tín dụng 
XNK tại SGD. Có được kết quả này là do nỗ lực của SGD trong việc rà soát 
và kiểm tra khách hàng vay vốn, thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro, đôn 
đốc khách hàng trả nợ. Số liệu này cho ta thấy chất lượng các khoản cho vay 
XNK ở SGD là rất tốt, phản ánh chất lượng của việc mở rộng hoạt động cho 
vay XNK của SGD, mở rộng về quy mô nhưng vẫn đảm bảo chất lượng của 
món vay. Tuy nhiên, để duy trì được kết quả này thì SGD vẫn cần tiếp tục 
thực hiện nhiều biện pháp để đảm bảo được việc thu nợ có hiệu quả. 
Mặt khác, nhìn vào tình hình nợ quá hạn chung tại SGD, tuy năm 2007 tỉ 
lệ nợ quá hạn và nợ quá hạn khó đòi đều tăng, nhưng đến năm 2008 đã giảm 
 Năm 
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 
Tỷ lệ tăng trưởng(%) 
2007/2006 2008/2007 
Nợ quá hạn 750 918 87 22% -91% 
Nợ quá hạn XNK 0 0 0 
Nợ quá hạn khó đòi 150 229 68 53% -70% 
Nợ quá hạn XNK khó đòi 0 0 0 
 44
đáng kể, chỉ còn 87 triệu đồng và 68 triệu đồng. Đây là tín hiệu đáng mừng, 
cho thấy trong thời gian tới tình hình nợ quá hạn sẽ được cải thiện. 
2.2.2.5. Nợ xấu 
Bên cạnh nợ quá hạn, nợ xấu cũng là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng 
của khoản cho vay. Mặc dù không có được con số ấn tượng như nợ quá hạn, 
tuy nhiên tình hình nợ xấu XNK tại SGD cũng đạt được một số kết quả sau: 
Bảng 2.12: Nợ xấu XNK 
Đơn vị: Tỷ đồng 
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
Nợ xấu XNK trong năm 2008 khoảng 1,881 tỷ đồng, chỉ chiếm 1,38% so 
với nợ xấu của toàn SGD, điều này là phù hợp với hoạt động cho vay XNK 
khi mà như ở trên đã đề cập, đây là loại hình tín dụng rất an toàn và có chất 
lượng, nợ quá hạn gần như là không có. 
Tuy tỷ trọng là thấp, nhưng nó đang có xu hướng tăng lên qua các năm, 
từ 1,2% năm 2006 đến 1,38% năm 2008. Với các chỉ số khác thì tỷ trọng này 
là không đáng kể, tuy nhiên đối với chỉ số nợ xấu, phản ánh rủi ro của món 
khoản cho vay, thì mức tăng này là rất đáng kể. Năm 2008 mức nợ xấu XNK 
cũng tăng 383 triệu đồng (26%) so với năm 2007. Có thể giải thích điều này 
là mặc dù SGD đã có nhiều biện pháp kiểm soát khoản cho vay, nhưng do 
mức tăng trưởng của Doanh số cho vay XNK và Dư nợ tín dụng XNK quá 
nhanh, dẫn tới nợ xấu gia tăng là điều không thể tránh khỏi. SGD cần có ngay 
 Năm 
Chỉ tiêu 
2006 2007 2008 
Giá trị Giá trị %TT Giá trị Tỷ lệ 
Nợ xấu (nhóm 3, 4, 5) 100,015 119,834 20% 136,369 16% 
Nợ xấu XNK 1,2 1,498 25% 1,881 26% 
Tỷ trọng 1,2% 1,25% 1,38% 
Dư nợ tín dụng XNK 1250,188 1382,396 11% 1763,427 28% 
Nợ xấu XNK/Dư nợ tín dụng XNK 0,1% 0,11% 0,11% 
 45
những biện pháp khắc phục ngay, tránh để nợ xấu tăng cao, dễ dẫn đến nợ quá 
hạn và nợ khó đòi. 
2.2.2.6. Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng XNK 
Nhờ những biện pháp kịp thời, có hiệu quả của SGD đối với hoạt động 
cho vay XNK nên đã đạt được những kết quả như đã nêu ở trên, góp phần 
đóng góp vào lợi nhuận chung của SGD: 
Bảng 2.13: Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng XNK 
Đơn vị: Tỷ đồng 
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008) 
Năm 2008, lợi nhuận từ hoạt động cho vay XNK đạt gần 61 tỷ đồng, nếu 
so với năm 2007 thì tăng 12,02 tỷ đồng, tức là 25%. Năm 2007 cũng tăng 
trưởng so với năm 2006, nhưng mức tăng thấp hơn, chỉ có 6,947 tỷ đồng 
(17%). Con số này tiếp tục phản ánh sự phát triển về mọi mặt của hoạt động 
tín dụng tài trợ XNK, hơn thế nữa còn khẳng định những đóng góp quan trọng 
đối với SGD. Điều này được thể hiện qua tỷ trọng lớn của lợi nhuận từ tín 
dụng XNK so với lợi nhuận từ tín dụng chung và lợi nhuận sau thuế. Năm 
2008, tỷ trọng lợi nhuận thu từ hoạt động cho vay XNK so với lợi nhuận thu 
 Năm 
Chỉ tiêu 
2006 2007 2008 
Tăng trưởng 
2007/2006 2008/2007 
Giá trị % Giá trị % 
Lợi nhuận từ 
hoạt động tín 
dụng XNK 
42,006 48,953 60,974 6,947 17% 12,02 25% 
Lợi nhuận từ 
hoạt động tín 
dụng 
150,023 152,98 174,211 2,957 2% 21,232 14% 
Tỷ trọng 28% 32% 35% 
Thu dịch vụ ròng 49,512 76,850 115 27,338 55% 38,15 50% 
Lợi nhuận trước 
thuế 184,858 321 428 136,142 74% 107 33% 
 46
từ hoạt động cho vay chung đạt con số 35%, tăng 3% so với năm 2007 và 7% 
so với năm 2006. 
Bên cạnh việc đóng góp chung vào lợi nhuận của SGD, hoạt động cho 
vay XNK còn có vai trò thúc đẩy nguồn thu từ hoạt động dịch vụ ròng. Ngoài 
việc cung cấp các dịch vụ cho nhà xuất nhập khẩu như nhờ thu, nhờ chi, thư 
tín dụng L/C… thì hoạt động cho vay XNK kéo theo sự tăng mạnh trong hoạt 
động kinh doanh tiền tệ. Nguyên nhân là do điều kiện để SGD cấp tín dụng 
cho các doanh nghiệp XNK là họ phải có tài khoản tại SGD, đồng thời có 
chính sách ưu đãi đối với những doanh nghiệp cam kết bán lại nguồn ngoại tệ 
cho SGD. Chính vì vậy, nguồn thu ngoại tệ của SGD là khá dồi dào, góp phần 
lớn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ nói riêng và thu từ dịch vụ ròng nói 
chung. Trong 2 năm liên tiếp 2007 và 2008, mức tăng trưởng thu từ dịch vụ 
ròng đều đạt trên 50%, con số này đã phần nào phản ánh được đóng góp của 
hoạt động cho vay XNK tại SGD. 
2.2.3. Đánh giá hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại SGD 
2.2.3.1. Những kết quả đạt được 
Trong bối cánh hoạt động tiền tệ của NH nói chung và SGD nói riêng đã 
gặp nhiều khó khăn, rủi ro vẫn còn tiềm ẩn, tất cả các cán bộ làm công tác tín 
dụng phải chấn chỉnh hoạt động, đi vào kỷ cương tuân thủ chặt chẽ theo quy 
định cho vay. Với phương châm cho vay an toàn, hiệu quả và hạn chế đến 
mức thấp nhất rủi ro phát sinh nhằm từng bước nâng cao chất lượng tín dụng, 
việc thẩm định, phê duyệt cho vay đã từng bước được cải tiến đáp ứng nhu 
cầu của khách hàng, trách nhiệm của cán bộ tín dụng dần dần được nâng cao. 
Do vậy hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại SGD đã đạt được một số kết quả 
nhất định, góp phần quan trọng vào kết quả hoạt động kinh doanh chung của 
SGD, thể hiện ở một số mặt sau: 
 47
Thứ nhất, đứng trước sự cạnh tranh gay gắt về cả lãi suất cũng như giành 
giật khách hàng của các NH hoạt động trên địa bàn Thủ đô, SGD luôn quan 
tâm đặc biệt tới công tác khách hang. Số lượng khách hàng được cấp tín dụng 
XNK ngày càng tăng. Đây là kết quả của sự nỗ lực của SGD trong thực hiện 
hoạt động marketing đối với cho vay XNK. Cán bộ tín dụng đã trực tiếp tiếp 
xúc, đặt quan hệ với khách hàng tiền năng bên cạnh việc duy trì mối quan hệ 
than thiết với các khách hàng hiện tại. Đội ngũ cán bộ NH có thái độ phục vụ 
tận tình, chu đáo, trình độ chuyên môn cao góp phần thu hút thêm khách hàng 
mới đến vay vốn tại SGD. 
Thứ hai, cơ cấu khách hàng được điều chỉnh một cách hợp lý hơn thông 
qua việc mở rộng đối tượng cho vay XNK. Theo đó, tỷ trọng cho vay đối với 
doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang có xu hướng tăng lên rõ rệt, còn tỷ 
trọng cho doanh nghiệp Nhà nước vay đang giảm. Tính tới hết năm 2008, tỷ 
trọng dư nợ đối với doanh nghiệp Nhà nước trong tổng dư nợ tín dụng toàn 
SGD là khoảng 64%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 29%, còn lại 7% là 
dư nợ của các thành phần khác. Con số này trong năm 2007 tương ứng là 
72%, 26% và 2%. Sự thay đổi trong cơ cấu này cũng hoàn toàn phù hợp với 
chủ trương của Đảng và Nhà nước cũng như định hướng phát triển của BIDV. 
Thứ ba, doanh số và dư nợ tín dụng tài trợ XNK tăng liên tục qua các 
năm, ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng tín dụng chung của SGD. 
Đây là kết quả từ việc số lượng khách hàng được cấp tín dụng XNK tại SGD 
ngày càng tăng, thêm vào đó giá trị mỗi khoản vay cũng lớn hơn so với trước. 
Thứ tư, sau gần hai năm tiên phong trong việc triển khai hệ thống xếp 
hạng tín dụng nội bộ, trích lập dự phòng rủi ro theo Điều 7 Quyết định 
493/2005/QĐ-NHNN, SGD nói riêng cũng như BIDV nói chung đã đạt được 
những kết quả khả quan, đặc biệt là chất lượng của các khoản vay XNK. Đến 
 48
nay, các khoản tín dụng tài trợ XNK tại SGD đã gần như không có nợ quá 
hạn, tỷ lệ nợ xấu cũng ở mức rất thấp và đang tiếp tục có xu hướng giảm. 
Điều này cho thấy hiệu quả trong việc mở rộng hoạt động cho vay XNK tại 
SGD, cả về quy mô lẫn chất lượng. 
Thứ năm, hoạt động cho vay XNK đã có những tác động tích cực trong 
việc thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh tiền tệ tại SGD. 
Điều này được thể hiện qua doanh số và lợi nhuận thu được từ các hoạt động 
trên tại SGD, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. Sự đóng góp của hoạt động cho 
vay XNK tới SGD, cũng như tới BIDV đã góp phần giúp cho BIDV được Tạp 
chí Asianmoney xếp hạng là “Ngân hàng cung cấp dịch vụ kinh doanh ngoại 
tệ tốt nhất Việt Nam” trong năm 2007. 
Thứ sáu, SGD đã xuất sắc hoàn thành và hoàn thành vượt mức tiến độ, 
kế hoạch đề ra trong năm cho hoạt động tín dụng tài trợ XNK, đặc biệt là các 
chỉ tiêu về chất lượng và hiệu quả hoạt động. 
2.2.3.2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân 
a) Những mặt còn tồn tại: 
Mặc dù hoạt động tín dụng XNK tại SGD đạt được rất nhiều kết quả lạc 
quan như trên, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nổi lên một số mặt hạn chế cần 
được khắc phục, cụ thể: 
Thứ nhất, SGD chưa khai thác hết tiềm năng của khách hàng, số doanh 
nghiệp hiện nay đang cần vay vốn tài trợ XNK là rất lớn, tuy nhiên SGD mới 
chỉ thực hiện cho vay với những khách hàng truyền thống, những khách hàng 
tiềm năng lớn và số ít khách hàng mới, còn bỏ ngỏ một số lượng lớn các 
doanh nghiệp khác có tiềm năng, nhưng do điều kiện chưa thể tiếp cận được 
với nguồn vốn của SGD. 
 49
Thứ hai, tỷ trọng dư nợ cho vay XNK trong tổng nguồn vốn huy động tại 
SGD còn rất thấp, hơn thế nữa lại đang có xu hướng giảm dần qua các năm, 
từ 12% năm 2006 xuống còn 6% năm 2008. Đây là loại hình cho vay tương 
đối hiệu quả, có thời gian thu hồi vốn nhanh và có tác dụng kích thích các 
hoạt động dịch vụ khác của NH. Vì vậy trong thời gian tới SGD cần nỗ lực 
hơn nữa để mở rộng cho vay XNK, tránh để vốn huy động được bị ứ đọng, 
gây thất thu cho NH. 
Thứ ba, tuy rằng cơ cấu cho vay XNK đang được điều chỉnh hợp lý hơn, 
nhưng tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn quá cao (64% 
trong năm 2008), mảng doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chưa được chú ý 
đúng mức (năm 2008 chỉ tăng 3% so với năm 2007). Đành rằng cho vay 
doanh nghiệp Nhà nước thì có rủi ro thấp hơn so với doanh nghiệp ngoài quốc 
doanh, tuy nhiên trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 
làm ăn rất có hiệu quả, đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 
100% vốn nước ngoài là nhóm khách hàng SGD cần mạnh dạn tiếp cận, tin 
tưởng vào họ vì tiềm năng của nhóm khách hàng này là rất lớn. 
Thứ tư, các hình thức tín dụng tài trợ XNK còn khá là ít và đơn điệu, làm 
giảm tính hấp dẫn đối với khách hàng. Hy vọng trong thời gian tới, SGD sẽ 
mạnh dạn đa dạng hóa, phát triển thêm một số loại hình cho vay XNK nữa để 
phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế cũng như nhu cầu của doanh nghiệp. 
b)Nguyên nhân: 
Những mặt còn hạn chế trong hoạt động cho vay XNK tại SGD có thể 
được cho là do những nguyên nhân sau: 
* Nguyên nhân chủ quan: 
Thứ nhất, lĩnh vực hoạt động truyền thống của BIDV là đầu tư xây dựng cơ 
bản, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là hoạt động mới được thực hiện trong mấy 
 50
năm trở lại đây. Do vậy, thị phần thanh toán quốc tế của SGD trên địa bàn còn 
nhỏ bé. 
Thứ hai, cơ sở dữ liệu của NH về khách hàng và thị trường còn thiếu, 
không thường xuyên được cập nhật nên đã gây khó khăn cho NH trong việc 
thẩm định, đưa ra các quyết định cho vay cũng như kiểm tra, giám sát các 
khoản đã cho vay. 
Thứ ba, mặc dù trong thời gian gần đây, công tác Marketing đối với tín 
dụng XNK rất được SGD quan tâm nhưng hiệu quả còn chưa cao. Hoạt động 
Marketing mới chỉ nhắm vào số ít khách hàng lớn, truyền thống, số lượng các 
doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu vay vốn là rất lớn nhưng lại chưa được 
quan tâm đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng số lượng khách hàng tới 
SGD còn ít, cơ cấu cho vay XNK chưa được hợp lý. 
*Nguyên nhân khách quan: 
Thứ nhất, SGD nói riêng cũng như các NH nói chung trên toàn quốc 
đang cần một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ cho hoạt động cho vay 
XNK. Tuy rằng các Nhà nước, Chính phủ đang được điều chỉnh các chính 
sách cho phù hợp với tình hình hiện nay. Nhưng do tần suất điều chỉnh quá 
lớn, khiến cho cả NH cũng như khách hàng không kịp nắm bắt, điều chỉnh 
cho phù hợp. Bên cạnh đó các quy chế này tác động tới NH và khách hàng 
một cách không nhất quán, khi thì tạo thuận lợi cho NH, nhưng lại gây cản trở 
cho doanh nghiệp, khi thì tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng gây khó khăn 
cho NH. Cả hai tình huống đều dẫn đến tình cảnh NH và doanh nghiệp không 
thể đáp ứng được nhu cầu của nhau, khi thì NH ứ đọng vốn không cho vay 
được, còn doanh nghiệp thì lại không thể tiếp cận được nguồn vốn đó… 
Thứ hai, do vị trí địa lý của SGD nằm trên địa bàn Hà Nội, thế nhưng 
hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu có nhu cầu vay vốn lại thường nằm ở 
 51
các khu CN, khu chế xuất xa trung tâm…Điều này đã làm cho khả năng tiếp 
cận nguồn vốn của các doanh nghiệp thấp, và với SGD nói riêng cũng như 
BIDV nói chung thì việc mở rộng hoạt động tín dụng XNK cũng trở nên khó 
khăn hơn. 
Thứ ba, nguyên nhân nằm ở các doanh nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam, 
phần lớn các doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn tự có rất nhỏ. 
Bên cạnh đó, phương án kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trình lên SGD 
xin vay vốn không hợp lý, dẫn tới SGD dù muốn cũng không thể cấp tín dụng 
cho các doanh nghiệp như vậy. Hơn thế nữa, do mới chuyển sang hoạt động 
theo cơ chế thị trường, kiến thức của doanh nghiệp về hoạt động tín dụng, về 
hợp đồng thương mại còn hạn chế gây bất lợi cho NH. Ngoài một số doanh 
nghiệp còn không thực hiện đúng cam kết khi vay vốn như không mua bảo 
hiểm tài sản, sử dụng vốn sai mục đích. 
Thứ tư, sự cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt cũng là một trở 
ngại đáng kể trong việc SGD phát triển hoạt động cho vay tài trợ XNK. Hiện 
nay, SGD phải cạnh tranh với một số NH vốn có thế mạnh trong hoạt động 
cho vay XNK như Ngân hàng cổ phần Ngoại Thương Việt Nam 
(Vietcombank) Ngân hàng Thương mại Cổ phần xuất nhập khẩu 
(Eximbank)… Vì vậy trong thời gian tới SGD phải nỗ lực hơn rất nhiều thì 
mới mong mở rộng được hoạt động cho vay XNK. 
 52
CHƯƠNG 3 - GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO 
VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH 
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP 
KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH 
3.1.1. Định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của đất 
nước tới năm 2010 
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sau với nền kinh tế thế 
giới, đặc biệt là Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức 
Thương mại thế giới WTO, điều này đòi hỏi Việt Nam phải chủ động hơn 
trong quá trình hội nhập để khắc phục những khó khăn, thách thức của nền 
kinh tế và phát huy được những điểm mạnh và cơ hội của mình. 
Tuy nhiên trong tình hình thế giới như hiện nay, kinh tế toàn cầu đang 
rơi vào suy thoái, đặc biệt là các nước phát triển, những thị trường xuất khẩu 
chủ lực của đất nước ta, báo hiệu cho một thời kỳ hoạt động xuất khẩu sẽ 
không thuận lợi. Bên cạnh đó hoạt động nhập khẩu cũng gặp những khó khăn 
có thể dự báo trước. Trước những yêu cầu đó, Nhà nước đã xây dựng chiến 
lược phát triển hoạt động XNK như sau: 
- Phát triển xuất khẩu một cách bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng 
trưởng GDP. 
- Về mặt hàng xuất khẩu: đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng 
có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm 
năng thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu 
quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu 
những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản 
 53
phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm tỷ trọng hàng xuất khẩu 
thô. Nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu vì ngày càng có nhiều tiêu 
chuẩn khắt khe của các nước đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ sản 
xuất trong nước. 
- Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 là khoảng 13% theo chỉ tiêu 
Quốc hội đề ra - tương đương với kim ngạch xuất khẩu khoảng 72 tỷ USD dự 
báo sẽ gặp rất nhiều khó khăn, một số dự đoán cho rằng do tác động của cuộc 
suy thoái kinh tế toàn cầu, mức 13% này là khó có thể đạt được. 
- Phương hướng chung đối với hoạt động nhập khẩu, đó là kết hợp với 
sản xuất trong nước để thực hiện việc nhập khẩu đáp ứng các nhu cầu về 
nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc cho sản xuất và đầu tư. Ưu tiên nhập 
khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ đầu tư và sản xuất cho 
xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng 
hóa trong nước…. 
- Kiểm soát nhập khẩu một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện 
các biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Đẩy mạnh sản xuất và tăng cường 
sử dụng những loại máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu còn đang nhập khẩu 
để góp phần giảm nhập siêu. 
- Hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong nước đã sản xuất được và bảo 
đảm yêu cầu về chất lượng, các mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu. 
- Trong thời buổi nền kinh tế khó có thể dự đoán trước những biến động, 
thì bên cạnh duy trì mối quan hệ XNK hiệu quả với các thị trường truyền 
thống như Châu Á - Thái Bình Dương, Nga, cần phải đa dạng hóa, mở rộng 
quan hệ với nhiều thị trường tiền năng khác nhằm tránh lệ thuộc, rủi ro trong 
quan hệ XNK như thị trường Châu Âu, Châu Phi và Nam Mỹ. 
- Khuyến khích, tạo điều kiện và khai thác tối đa tiềm năng của mọi 
thành phần kinh tế trong hoạt động XNK nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp. 
 54
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay XNK tại SGD 
Trên cơ sở định hướng phát triển hoạt động XNK của đất nước cũng như 
định hướng phát triển chung của toàn SGD, SGD đã đề ra định hướng phát 
triển cụ thể cho hoạt động cho vay XNK như sau: 
- SGD phấn đấu tăng dư nợ cho vay XNK so với năm 2008, trên cơ sở 
đó gia tăng thu nhập từ các dịch vụ liên quan phục vụ cho các doanh nghiệp 
vay vốn như thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ… 
- Tiếp tục xúc tiến công tác marketing, thu hút thêm các doanh nghiệp 
vay vốn XNK. 
- Mở rộng cho vay XNK đối với mọi thành phần kinh tế, giảm tỷ trọng 
cho vay XNK đối với các doanh nghiệp Nhà nước. 
- Tập trung cho vay XNK vào các sản phẩm, thị trường theo định hướng 
phát triển XNK của Nhà nước. 
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO 
VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU 
TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 
Trong bối cảnh hoạt động kinh doanh ngân hàng đang ngày càng bị cạnh 
tranh gay gắt, môi trường vĩ mô thường xuyên biến động phức tạp, đồng thời 
từ thực trạng hoạt động cho vay XNK của SGD trong những năm vừa qua, em 
xin đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay XNK tại SGD 
một cách có hiệu quả. 
3.2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành 
3.2.1.1. Tăng cường công tác huy động vốn 
Định hướng tín dụng XNK của SGD phải phù hợp với chính sách phát 
triển kinh tế xã hội của Nhà nước và nằm trong chiến lược kinh doanh chung 
của BIDV. 
 55
Điều kiện tiên quyết đảm bảo tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng nguồn 
vốn. Có huy động vốn được nhiều thì Ngân hàng mới có thể cho vay hoặc đa 
dạng hoá hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng và ngược lại, việc sử 
dụng vốn khuyến khích Ngân hàng đẩy mạnh đa dạng các hình thức huy 
động. Việc mở rộng khai thác các nguồn vốn có thể theo các hướng sau đây: 
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ 
cấu nguồn vốn huy động của SGD. Vì vậy SGD cần phải tiếp tục phát huy vai 
trò đầu mối huy động tiền gửi từ các tổ chức, định chế tài chính và các tổng 
công ty lớn trong nền kinh tế như: Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Công ty 
tái bảo hiểm quốc gia, bảo hiểm xã hội Việt Nam… 
- Tiếp tục khuyến khích dân cư gửi tiền vào SGD bằng các chính sách 
tăng lãi suất tiền gửi cả VNĐ lẫn ngoại tệ, cả ngắn hạn và trung dài hạn. Đối 
với khách hàng truyền thống, Ngân hàng nên có các phần thưởng xứng đáng, 
có chính sách ưu đãi riêng. 
- Thực hiện một số biện pháp để đảm bảo có nguồn ngoại tệ đáp ứng 
được nhu cầu mở rộng cho vay XNK tại SGD vì hoạt động XNK thường liên 
quan mật thiết đến ngoại tệ. Có thể áp dụng mức phí hấp dẫn để thu hút lượng 
kiều hối gửi về nước; thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ an toàn, hiệu quả; 
triển khai các sản phẩm huy động tiền gửi bằng ngoại tệ hấp dẫn… 
3.2.1.2. Định hướng chiến lược tài trợ 
Chuyển hướng tài trợ từ cho vay thương vụ có tính chất riêng lẻ thụ động 
sang cho vay theo dự án khép kín chu trình lưu thông hàng hoá từ sản xuất 
đến tiêu thụ. Việc lựa chọn và thẩm định dự án đầu tư trở thành nhân tố có ý 
nghĩa quan trọng nhất đối với sự thành công của Ngân hàng. Một dự án mặc 
dù đã được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt, 
nhưng trước khi quyết định cho vay, SGD cần phải thẩm định xem xét lại: 
- Tính pháp lý của bộ hồ sơ bao gồm hồ sơ dự án và hồ sơ xây dựng theo 
điều kiện xây dựng của Nhà nước, hồ sơ mua sắm thiết bị theo quy chế đấu 
 56
thầu và quy định của bộ thương mại (nếu có thiết bị nhập khẩu), hồ sơ tín 
dụng theo quy định của Ngân hàng. 
- Phương án vay và trả nợ của dự án tính toán các nguồn vốn và nguồn tài 
trợ, dự kiến biến động của các thông số ảnh hưởng đến nguồn trả nợ. 
- Thẩm định nhóm chi tiêu hiệu quả: thời gian hoàn vốn, hiệu quả ròng 
(NPV), thể lệ hoàn vốn nội bộ, tỷ suất lợi nhuận... 
Đối với dự án có giá trị lớn vượt giới hạn tỷ lệ vốn có của doanh nghiệp 
và Ngân hàng, nên sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ thay bằng việc cho 
vay doanh nghiệp có dư nợ tại Ngân hàng hiện nay. 
3.2.2. Nhóm giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK 
3.2.2.1. Quản lý tài sản thế chấp cầm cố 
- Về nguyên tắc, tài sản thế chấp cầm cố cho khoản vay phải là những tài 
sản được hình thành trước và độc lập với vốn vay. Nhưng nếu NH có kho bãi 
đầy đủ điều kiện an toàn, có thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay để 
làm hàng hoá vật tư đảm bảo việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người 
vay. Hiện nay tại SGD đang thực hiện cách làm là thuê kho bãi của bên thứ ba 
để gửi quản lý hàng hóa (bên thứ ba là bên có chức năng cho thuê kho bãi). 
Hàng chỉ được xuất kho khi có lệnh của NH (ký hợp đồng thuê kho ba bên). 
- Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như 
thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn... tài sản do ngân hàng quản lý cần được bảo hiểm. 
NH có thể thực hiện bằng hợp đồng thoả thuận với các tổ chức bảo hiểm 
trong nước và ngoài nước với điều khoản bên thụ hưởng bảo hiểm là NH, 
buộc người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá thế chấp cầm cố với NH. 
- Thành lập các công ty mua bán, khai thác tài sản thế chấp tồn đọng của 
các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào thực trạng giá trị của tài sản tồn đọng và khả 
năng của công ty, tổ chức tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty 
dưới hình thức uỷ thác hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thỏa 
 57
thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng 
có hiệu quả. Việc xử lý cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế thủ 
tục pháp lý; có cơ chế cho phép ngân hàng được để lại tài sản thế chấp cho 
doanh nghiệp tiếp tục khai thác theo phương án sản xuất kinh doanh mới, 
giúp doanh nghiệp có nguồn trả nợ; ngân hàng được quyền trực tiếp ký hợp 
đồng uỷ quyền bán tài sản với trung tâm bán đấu giá, không qua các trung 
gian những tài sản thuộc diện xử lý của toà án. 
3.2.2.2. Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK 
Hoạt động cho vay XNK là hoạt động cho vay phức tạp, chịu tác động 
nhiều bởi thị trường thế giới. Do đó, để hạn chế bớt rủi ro trong hoạt động cho 
vay XNK, SGD cần thực hiện một số biện pháp sau: 
- SGD chỉ thực hiện cho vay đối với những doanh nghiệp đã mua bảo 
hiểm hàng hóa XNK và bảo hiểm tín dụng XNK. Trong hoạt động XNK, giá 
trị hàng hóa XNK thường rất lớn và được vận chuyển bằng đường biển, thời 
gian vận chuyển dài. Do đó những rủi ro trong quá trình vận chuyển là rất lớn. 
Mặc khác rủi ro còn có thể xuất phát từ chính đối tác khi họ không có khả 
năng thanh toán vì lý do nào đó, dẫn đến tổn thất đối với doanh nghiệp rất 
lớn, đôi khi làm mất khả năng thanh toán đối với ngân hàng. Tuy vậy, hiện 
nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm đúng mức đến việc mua bảo 
hiểm hàng hóa XNK. Vì vậy, bảo hiểm tín dụng XNK đảm bảo an toàn hơn 
cho NH trong trường hợp khách hàng gặp rủi ro, NH vẫn có nguồn để thu nợ. 
- SGD cần cập nhật liên tục các quy chế, văn bản mới liên quan đến hoạt 
động cho vay XNK để tạo cơ sở cho các cán bộ đưa ra quyết định cho vay 
chính xác. 
Ngoài những nhân tố rủi ro khách quan và chủ quan trong tín dụng thông 
thường, tín dụng tài trợ XNK còn chịu ảnh hưởng lớn của hai nhân tố lãi suất 
và tỷ giá của các đồng tiền giao dịch. Sự biến động thường xuyên của hai 
 58
nhân tố, nếu tạo thêm thuận lợi cho ngân hàng trong nghiệp vụ tín dụng thì sẽ 
gây thiệt hại cho khách hàng và ngược lại. 
Để quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài áp 
dụng các giải pháp nghiệp vụ kinh doanh hối đoái trên thị trường tiền tệ với 
các công cụ chủ yếu sau: Hợp đồng mua bán kỳ hạn; Nghiệp vụ SWAP về lãi 
suất; Hợp đồng quyền chọn về lãi suất và tỷ giá… 
3.2.2.3. Đa dạng hoá các phương thức cho vay XNK 
Hiện nay, SGD chưa thực hiện tài trợ XNK dưới các hình thức như phát 
hành thư bảo lãnh với người nước ngoài, bao thanh toán, thuê mua tài chính... 
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam và giới hạn nguồn vốn kinh doanh của 
mình, SGD chưa thể áp dụng ngay được các hình thức này. Song, trong 
những năm tới, NH nên cố gắng áp dụng tốt hình thức tín dụng bảo lãnh và 
tín dụng trả góp. 
Về tín dụng trả góp: Đối với các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị từ 
nước ngoài, thời gian sử dụng khá lâu nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn 
lớn. Để giúp cho các doanh nghiệp này SGD cấp tín dụng cho họ theo đó các 
doanh nghiệp này được phép trả dần theo số tiền vay theo định kỳ. Sở hữu 
không nhất thiết phải dùng vốn trung và dài hạn để cho các doanh nghiệp này 
vay mà có thể dùng vốn ngắn hạn để cho vay vì các doanh nghiệp sẽ trả định 
kỳ theo thoả thuận với SGD. 
Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 
26/2006/QĐ-NHNN về việc ban hành "Quy chế bảo lãnh ngân hàng". Quyết 
định số 26/2006/QĐ-NHNN hướng dẫn thực hiện các loại bảo lãnh dự thầu, 
bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo đảm thanh 
toán, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo hợp đồng, đảm bảo hoàn trả vốn vay. 
Trong những năm vừa qua thực hiện các loại hình bảo lãnh theo quyết định 
26, các NHTM đã bảo lãnh cho rất nhiều doanh nghiệp tham gia đấu thầu 
 59
thực hiện hợp đồng... giúp cho việc triển khai thực hiện dự án, thu hút vốn và 
công nghệ cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Bên cạnh những mặt được 
đó, qua hơn 2 năm thực hiện quy chế bảo lãnh theo quyết định 26/2006/QĐ-
NHNN đã bộc lộ một số tồn tại bất hợp lý. Với những kinh nghiệm của các 
ngân hàng khác trong việc thực hiện nghiệp vụ này và bài học của bản thân 
mình, SGD cần phải có nhận thức đúng về hình thức tín dụng bảo lãnh. 
Do đó, SGD áp dụng hình thức bảo lãnh XNK thì cần lưu ý các điều trên 
và thực hiện quy trình nghiêm ngặt như một khoản cho cho vay cùng loại: 
+ Thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng 
+ Phân kỳ kế hoạch thu nợ 
+ Kiểm tra quản lý vốn như quy trình tín dụng 
+ Tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng đầy đủ. 
3.2.3. Chính sách khách hàng 
Khách hàng là nguyên nhân tồn tại và phát triển của NHTM, thế nên 
khách hàng quyết định cơ cấu, quy mô nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân 
hàng, thể hiện uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường 
trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, khách hàng vay vốn chủ yếu của 
SGD là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong khi đó, số lượng các doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh ở nước ta là rất nhiều và nhu cầu vay vốn tài trợ cho hoạt 
động XNK là rất lớn. Vì vậy không thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và đáp ứng 
yêu cầu mở rộng hoạt động cho vay XNK, SGD có thể vận dụng các hình 
thức, biện pháp sau đây: 
- Thứ nhất: Phân loại khách hàng 
Đánh giá đúng khách hàng trước hết dựa vào quan hệ tín dụng của họ với 
Ngân hàng. Căn cứ chủ yếu để phân loại khách hàng là năng lực tài chính và 
kinh doanh. Cần phải phân tích khách quan và đúng đắn các loại nợ quá hạn 
để phân loại khách hàng, nhưng quan trọng nhất vẫn là việc thực hiện của các 
 60
Chi nhánh ngân hàng cơ sở cho từng đối tượng phù hợp với thực tiễn sinh 
động. Sử dụng cơ chế lãi suất ưu đãi cho cả đối tượng khách hàng lớn, truyền 
thống cũng như khách hàng đang gặp khó khăn. 
- Thứ hai: Tổ chức hội nghị khách hàng 
Đây là hình thức tổ chức hoạt động có hiệu quả cho cả ngân hàng và 
khách hàng. Thông qua các hội nghị khách hàng, khách hàng có điều kiện tiếp 
xúc và trao đổi thông tin với nhau, đồng thời tạo cơ hội cho họ và ngân hàng 
hiểu về khó khăn vướng mắc để có các giải pháp cùng nhau tháo gỡ. 
Tổ chức một hội nghị khách hàng cũng cần phải coi trọng về khâu chất 
lượng, trước hết là công tác thẩm định lựa chọn khách hàng, thăm dò và xây 
dựng nội dung hội nghị để có đề tài trọng tâm, đồng thời tạo được không khí 
cởi mở để thông qua khách hàng mà đánh giá năng lực, phẩm chất của cán bộ 
ngân hàng. 
Một hình thức hội nghị phổ biến hiện nay của các ngân hàng nước ngoài 
là hội thảo chuyên đề do một ngân hàng chủ trì với sự tham gia của các bạn 
hàng là ngân hàng và doanh nghiệp với nhiều nội dung phú như: trao đổi kinh 
nghiệm, tổ chức thảo luận về nghiệp vụ mới và về biện pháp quản lý rủi ro. 
- Thứ ba: Từ tư vấn tiếp thị đến hợp tác kinh doanh. 
Ngân hàng là người tư vấn có hiệu quả nhất về phương diện tài chính 
cho dự án kinh doanh của khách hàng. Trong ngoại thương, vai trò tiếp thị 
của ngân hàng rất quan trọng, giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng 
và sản phẩm mới. Tham gia cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng hàng hoá xuất 
khẩu. 
Trong các nước tư bản, từ lâu tư bản ngân hàng đã thâm nhập vào tư bản 
công nghiệp và thương nghiệp, quản lý khép kín toàn bộ các khâu sản xuất và 
lưu thông. Sự sát nhập đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của tập đoàn về tài 
chính, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá. 
 61
3.2.4. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng 
3.2.4.1. Đào tạo, tuyển chọn cán bộ tín dụng 
Con người luôn là nhân tố quyết định thành công mọi hoạt động sản xuất 
xã hội. Chúng ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền 
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và bắt đầu sự nghiệp công nghiệp 
hoá đòi hỏi: "xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có phẩm chất tốt, kiến thức 
và năng lực về nghiệp vụ ngân hàng, áp dụng được công nghệ hiện đại và có 
trình độ ngoại ngữ là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động ngân 
hàng". Để đạt được yêu cầu đó, NHNT Hà Nội cần tập trung vào chiến lược 
con người với nội dung cơ bản sau: 
- Thứ nhất: công tác đào tạo và đào tạo lại 
Một trong những nguyên nhân chất lượng tín dụng toàn ngành thấp là do 
chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, nhận thức không đầy đủ về quy luật thị 
trường và sản xuất hàng hoá. Do đó, đây là những mục tiêu để SGD xây dựng 
các giải pháp trong bộ trong hoạch định chiến lược đào tạo và đào tạo lại cán 
bộ nhân viên. 
Trước hết là công tác quy hoạch cán bộ các cấp, cần phải trang bị lại 
kiến thức cơ bản theo hai hình thức đào tạo tập trung và đào tạo định hướng, 
giúp cán bộ, công nhân viên ngân hàng tự học để có đủ trình độ phù hợp với 
cương vị đã đảm nhận. Cần phá bỏ triệt để tư tưởng cho đi học các đối tượng 
không nằm trong quy hoạch như sắp xếp nghỉ hưu, sức khoẻ hoặc năng lực 
không đủ điều kiện làm việc, cán bộ kỷ luật... 
Các đối tượng đào tạo theo hướng tập trung, chuyên ngành. Trước hết ưu 
tiên cho cán bộ tín dụng, kế toán và triển khai chương trình phổ cập tin học. 
Đào tạo hoặc tuyển dụng tổ chuyên gia tin học có khả năng xây dựng các đề 
án tin học và lập trình các nghiệp vụ phát sinh của ngân hàng. 
 62
Khuyến khích học ngoại ngữ đối với cán bộ chuyên môn, học chuyên 
môn đối với cán bộ chuyên ngữ và cán bộ nghiên cứu khoa học ngoài giờ 
bằng các hình thức khen thưởng vật chất hoặc nâng mức lương. 
- Thứ hai: Công tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ 
Tuyển chọn và sử dụng cán bộ là những nội dung quan trọng trong tiêu 
chuẩn hoá và trẻ hoá cán bộ. Khác với những năm đầu thập kỷ 90, càng khác 
xa với thời kỳ kinh tế bao cấp, hầu hết số người được đào tạo trong trường 
chưa thể có đủ ngay kiến thức tổng hợp, thậm chí chưa đáp ứng được công 
việc trong điều kiện hiện đại, chưa nói đến sự phát triển trong tương lai. Việc 
tuyển chọn cán bộ trẻ thay thế lớp người sắp nghỉ hưu có ý nghĩa quyết định 
trong tương lai phát triển của ngân hàng. Kinh nghiệm từ các doanh nghiệp 
nước ngoài cho thấy, hình thức tài trợ cho sinh viên và các cơ sở đào tạo: 
trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm đào tạo... đã mang lại kết quả tốt 
cho Ngân hàng về đội ngũ nhân tài trẻ có năng lực và yêu cầu. 
Ngân hàng cần thực hiện tốt chế độ thi tuyển để có lớp người mới thực 
sự về chất. Những năm qua, việc thi tuyển chủ yếu tập trung vào ngoại ngữ 
cần phải đưa ra các môn thi chuyên ngành khác để lựa chọn cho cán bộ có đủ 
năng lực toàn diện về chuyên môn và nhận thức xã hội. Có được lớp người 
mới, số người cũ sẽ tự đào thải nếu không có ý thức vươn lên và thiếu ý thức 
trong công việc. Làm tốt công tác tuyển chọn cán bộ, SGD sẽ dần khắc phục 
tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ như hiện nay. 
- Thứ ba: Đối với cán bộ làm tín dụng XNK thì các yêu cầu và tiêu dùng 
chuẩn về năng lực cao hơn không những kiến thực nghiệp vụ mà cần trang bị 
cho họ trình độ cơ bản về thương mại, pháp luật, ngoại ngữ... nơi nào chưa có 
đủ điều kiện về cán bộ thì kiên quyết không cho thực hiện nghiệp vụ thanh 
toán quốc tế. 
 63
3.2.4.2. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng 
Công nghệ ngân hàng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh 
của một NHTM. SGD luôn là đơn vị đi đầu trong hệ thống BIDV cũng như 
các NHTM trong nước về hiện đại hóa công nghệ NH. Công nghệ tin học của 
thế giới ngày nay đang mở ra những cơ hội thuận lợi cho SGD trong chiến 
lược hiện đại hoá ngân hàng. Tuy nhiên, công nghệ NH thường xuyên thay 
đổi và hiện tại công nghệ NH ở Việt Nam vẫn còn kém xa so với công nghệ 
NH thế giới. Trong năm tới, ngân hàng cần tập trung thực hiện từng bước 
chiến lược đó như sau: 
- Tìm hiểu kỹ lưỡng về các công nghệ NH trên thế giới, lựa chọn công 
nghệ NH thích hợp nhất để ứng dụng tại SGD. 
- Cử cán bộ ra nước ngoài học tập kinh nghiệm, cách thức sử dụng công 
nghệ mới, tổ chức các buổi tập huấn cho cán bộ về cách thức sử dụng, khai 
thác công nghệ… 
Trong giai đoạn hiện nay, hiện đại hóa công nghệ NH tại SGD cần tập 
trung giải quyết những vấn đề sau: 
-Thực hiện kế toán giao dịch tức thời tại quầy, kiểm tra kiểm soát từ xa 
các nghiệp vụ thị trường liên ngân hàng, quản lý thông tin báo cáo thống kê 
và thông tin phòng ngừa rủi ro, quản lý lưu trữ hồ sơ tín dụng, kế toán ngân 
hàng. Đảm bảo an toàn hiệu quả nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh 
ngoại tệ. 
- Tiếp tục phát triển hệ thống kênh phân phối hiện đại như telephone 
banking, mobile banking, internet banking để tạo nhiều cơ hội đáp ứng nhu 
cầu khách hàng cũng như giúp khách hàng thuận tiện hơn trong quá trình giao 
dịch. 
- Từng bước hiện đại hoá các phương tiện thanh toán không dùng tiền. 
Sử dụng thẻ thanh toán của ngân hàng và doanh nghiệp, thẻ rút tiền tự động, 
 64
đảm bảo cho khách hàng gửi tiền một nơi mà có thể rút tiền bất cứ Chi nhánh 
nào trong cả nước. 
- Nâng cấp cơ sở hoạt động và các phương tiện làm việc của ngân hàng. 
Công nghệ NH phải đảm bảo nhanh, kịp thời và chính xác nhằm đáp ứng yêu 
cầu cao về xử lý thông tin trong lĩnh vực NH. 
 65
KẾT LUẬN 
Những năm qua, trước yêu cầu đổi mới nền kinh tế theo hướng mở cửa 
và đặc biệt là nhu cầu vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp hoạt động 
XNK, các NHTM Việt Nam đã có những bước đi tích cực trong việc mở rộng 
hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng tốt nhất 
những yêu cầu đó. 
Cùng với các ngân hàng trong toàn ngành, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu 
tư và Phát triển Việt Nam đã không ngừng mở rộng hoạt động cho vay XNK, 
khách hàng vay vốn cho hoạt động XNK tại SGD ngày càng tăng về cả số 
lượng cũng như giá trị mỗi khoản vay. Dù đã đạt được nhiều kết quả đáng tự 
hào nhưng không phải là không có những hạn chế đối với SGD. Khó khăn 
xuất phát từ bản thân SGD, từ sự cạnh tranh mạnh mẽ trong hệ thống NHTM 
cũng như từ những biến động bất lợi của môi trường kinh tế. 
Thấy được những hạn chế đó, với nỗ lực không ngừng và khả năng phát 
triển của NH như hiện nay chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng trong tương lai 
hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng XNK nói riêng của SGD sẽ phát 
triển mạnh mẽ và đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển của ngành NH 
cũng như sự phát triển chung của đất nước. 
 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2006), Giáo trình Ngân hàng thương mại, 
Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. 
2. TS. Tô Ngọc Hưng (2000), Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân 
hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội. 
3. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo (2006), Nghiệp vụ thanh toán quốc tế, 
Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 
4. PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2005), Thanh toán quốc tế - Tài trợ ngoại 
thương, Nxb Thống kê, Hà Nội. 
5. GS.TS Lê Văn Tư (2000), Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán 
quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, Nxb Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh. 
6. Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (2006-2008), 
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Hà Nội. 
7. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về quy chế cho 
vay. 
8. Lê Ngọc Quỳnh (2008), Hai năm BIDV thực hiện điều 7 quyết định 
493: Minh bạch nợ xấu - kết quả ngoài mong đợi, Tạp chí Ngân hàng, 
Số 07/2008. 
9. Peter S.Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, 
Hà Nội. 
10. Herbert-Jkessler (1993), Tài chính ngoại thương, NXB Khoa học kỹ 
thuật, Hà Nội. 
 67
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Báo cáo tốt nghiệp- Mở rộng hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.pdf Báo cáo tốt nghiệp- Mở rộng hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.pdf