Mối quan hệ của Quốc hội với Chính phủ trong việc lập pháp

Qua những biểu hiện trên của mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ chúng ta đã có được cái nhìn đúng đắn, khách quan hơn về nhiệm vu, chức năng, quyền hạn cũng như sự gắn kết khăng khít giữa hai cơ quan đầu não của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Qua đó nâng cao hiểu biết của mình về hoạt động, tổ chức của hai cơ quan đặc biệt trên, đồng thời đóng góp ý kiến xây dựng để Quốc hội và Chính phủ ngày càng được hoàn thiện hơn nhằm đấp ứng được yêu cầu đổi mới của xã hội, với công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra là xây dựng Nhà nước của dân-do dân- vì dân.

doc8 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3409 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ của Quốc hội với Chính phủ trong việc lập pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quốc hội và Chính phủ là hai cơ quan đặc biệt quan trọng trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Mối quan hệ giữa hai cơ quan này được biểu hiện thông qua mối quan hệ giữa hai hoạt động lập pháp và chức năng hành pháp. Sự tác động qua lại của Quốc hội và Chính phủ đã khẳng định một thực tế rằng việc hoạch định chính sách cũng như xây dựng, ban hành các dự án luật, pháp lệnh không phải chỉ có một cơ quan duy nhất, mà là sản phẩm của mối quan hệ mang tính chất “ cộng đồng trách nhiệm” giữa các chủ thể trình là Chính phủ và chủ thể ban hành là Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Vì vậy sau đây em xin trình bày đề tài " Phân tích mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành" để làm rõ mối quan hệ giữa hai cơ quan trên. Do kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi sai sót trong bài luận rất mong thầy cô thông cảm và đóng góp ý kiến để em có thể nâng cao kiến thức của mình. Em xin chân thành cảm ơn! 1.Khái quát về Quốc hội và Chính phủ. a. Vị trí , tính chất , chức năng của Quốc hội. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân trí thức và những người lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững nguyện vọng, tâm tư của quần chúng. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp. Việc soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và thủ tục, trình tự giải thích Hiến pháp do Quốc hội quy định. Căn cứ vào Hiến pháp, Quốc hội ban hành luật, nghị quyết. Theo quy định tại Ðiều 84 Hiến pháp 1992, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước; phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định thành lập, bãi bỏ các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình Trong lĩnh vực đối ngoại, Quốc hội quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là năm năm. Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập. b. Vị trí, tính chất và chức năng của Chính phủ. Hiện nay, vị trí của Chính phủ được quy định tại điều 109 Hiến pháp 1992: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Về tính chất, chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như kế hoạch ngân sách về các loại thuế ban hành hiến pháp các luật, ….. Chính phủ chịu trách nhiệm trong việc cụ thể hóa Hiến pháp, các luật và nghị quyết của Quốc hội thành những văn bản dưới luật, đồng thời bàn biện pháp phân công chỉ đạo thực hiện, biến những quy định trong Hiến pháp, các luật nghị quyết của Quốc hội thành hiện thực. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính phủ có nhiệm vụ đảm bảo sự thống nhất trong quản lý nhà nước, thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND. Về nhiệm kỳ, thì nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. 2. Cơ sở cho mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ. a. Cơ sở lý luận. Bắt nguồn từ bản chất giai cấp của nhà nước CHXHCN việt nam là nhà nước của dân do dân vì dân nhân dân là chủ nhân dân làm chủ thể hiện tập trung tối đa ý chí nguyện vọng của nhân dân. Trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công phối hợp vận dụng những hạt nhân hợp lý của thuyết phân chia quyền lực ở các nước tư sản. Quốc hội không thể tự mình đảm nhiệm hết tất cả các công việc của đất nước cũng như của xã hội , bởi vậy nên đành giao công việc này cho các cơ quan nhà nước khác như chính phủ, chủ tịch nước hay các cơ quan khác do mình tự lập nên để có thể thực hiện tốt hơn phần công việc của mình. Mặt khác thì Quốc hội vẫn giám sát tối cao đối với các cơ quan này. Vai trò của Quốc hội là rất lớn nhưng trên thực tế người thực hiện quản lý xã hội, mang quyền lực thực tế lại là chính phủ. b. Cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý là những cơ sở tồn tại về mặt pháp lý được quy định trong hiến pháp và luật của Quốc hội. Trong Hiến pháp cũng dành riêng một chương ( chương VIII ) để quy định về Chính phủ. Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10, luật của Quốc hội 32/2001/QH10 về tổ chức và hoạt động của chính phủ ra đời. Bộ luật này gồm tất cả 43 điều quy định rất rõ mối quan hệ giữa hai cơ quan trung ương này. c. Cơ sở thực tiễn. Trong thực tế hiện nay ở nước ta, có thể nói là mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ là khá “ thân thiết ”. Quốc hội ban hành luật trên cơ sở dự luật của chính phủ thì “ có hơn 90% các dự luật do chính phủ đệ trình ”. Bên cạnh đó, khi Quốc hội đã ban hành luật thì Chính phủ cũng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật cho các cơ quan nhà nước khác thực hiện. 3.Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ. a. Quốc hội thành lập ra Chính phủ. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Quốc hội thành lập ra chính phủ chứ chính phủ thì không thể thành lập ra Quốc hội. Đây chỉ là mối quan hệ một chiều như vậy. Quốc hội bầu ra thủ tướng chính phủ trong số các đại biểu quốc hội tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa với điều kiện người đó “không phải là các thành viên chuyên trách của các ủy ban và hội đồng thuộc quốc hội” qua sự giới thiệu của Chủ tịch nước. Rồi trên cơ sở giới thiệu của thủ tướng chính phủ quốc hội phê chẩn các chức danh khác của các thành viên thuộc chính phủ gồm các phó thủ tướng các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các thứ trưởng. Đồng thời với việc bầu và phê chẩn quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với tất cả các chức danh thuộc chính phủ, đối với chức danh thủ tướng chính phủ thì trên cơ sở đề nghị của chủ tịch nước hoặc ủy ban thường vụ quốc hội. Ngoài ra còn có quy định về tiêu chuẩn thành viên Chính phủ như sau: thành viên Chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng), thành viên Chính phủ không đồng thời là thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Việc quy định như vậy là để đảm bảo cho các thành viên tập trung vào một công việc chính của mình mà không kiêm nhiệm thêm bất cứ công việc của ngành, tổ chức hay cơ quan nào khác. Theo điều 2 của Luật tổ chức Chính phủ thì : “Quốc hội quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ ”. Theo hiến pháp 1946 trong thời kỳ chiến tranh thì chính phủ có 8 bộ. Hiến pháp 1959 thì chính phủ có 18 bộ và 5 cơ quan ngang bộ. Hiến pháp 1980 thì chính phủ có 28 bộ và 8 cơ quan ngang bộ. Hiến pháp 1992 thì chính phủ có 20 bộ và 6 cơ quan ngang bộ. b. Quốc hội giám sát Chính phủ. Một trong những chế định quan trọng nhất của Hiến pháp các nước trên thế giới thể hiện chức năng giám sát của Nghị viện đối với Chính phủ là việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh quan trọng của Chính phủ của chế độ đại nghị. Tại Việt Nam, chế định này cũng được quy định trong Hiến pháp 1992 ( sửa đổi bổ sung năm 2001) và trong luật tổ chức Quốc hội năm 2001. Theo điều 84 của Hiến pháp 1992 ( sửa đổi bổ sung năm 2001 ) quy định, trước khi quyết định việc bãi miễn các chức danh Thủ tướng, Phó thủ trướng, Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội với các chức danh đó. Trong trường hợp người đảm nhiệm chức danh nêu trên bị mất tín nhiệm, thì Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm. Điều 88 Luật tổ chức Quốc hội 2001 quy định rõ: Trong trường hợp không đủ quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc để nghị phê chuẩn người đó có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét , quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức người không được Quốc hội tín nhiệm. Thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Thành viên của Chính phủ có thể bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm và cách chức theo quy định của pháp luật. Chính việc bỏ phiếu tính nhiệm của Quốc hội đối với các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn, là đòi hỏi tăng cường trách nhiệm của các chức danh này, trong số đó có và quan trọng nhất là chức danh của ngành hành pháp bao gồm: Thủ tướng và các bộ trưởng cấu thành Chính phủ Bên cạnh đó, chức năng giám sát của Quốc hội còn được thể hiện qua hoạt động chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với các bộ trưởng và thành viên của Chính phủ. Hình thức giám sát này của đại biểu có hiệu năng, tác dụng hơn các hình thức khác ở chỗ nó sẽ phát huy được công luận, một khi phiên họp được truyền hình trực tiếp cho công chúng. Trong trường hợp chất vấn không được trả lời một cách thỏa đáng tại kì họp, Quốc hội có thể bỏ phiếu tín nhiệm bộ trưởng. Trường hợp khác, Quốc hội có thể giao cho các ủy ban, Hội đồng hoặc thành lập các đoàn công tác lâm thời điều tra lại vấn đề có liên quan đến chất vấn và trả lời chất vấn của những người có liên quan đến chất vấn và trả lời chất vấn của những người có trách nhiệm và báo cáo lại kết quả điều tra để Quốc hội xem xét tại kì họp tiếp theo. c. Mối quan hệ của Quốc hội với Chính phủ trong việc lập pháp. Quy trình lập pháp được xem như công nghệ làm luật. Công nghệ lạc hậu hay hiện đại, phù hợp hay không phù hợp với khả năng vận hành là một trong những yếu tố quyết định năng lực lập pháp của bộ máy nhà nước, của Quốc hội. Quốc hội không trực tiếp soạn thảo nội dung của tất cả các văn bản pháp luật, pháp lệnh mà đa số các văn bản pháp lệnh do Quốc hội và ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua đều do chính phủ soạn thảo. Như vậy, quyền lập pháp của Quốc hội được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật, pháp lệnh của chính phủ. Công đoạn của Chính phủ trong quá trình xây dựng dự án luật có thể gồm 4 bước sau: Nhận biết vấn đề. Nghiên cứu, phân tích và đề ra chính sách để xử lí vấn đề. Phê chuẩn chính sách. Soạn thảo văn bản luật để thể chế hóa chính sách. Về mặt nội dung, chính phủ tập trung hơn vào việc xây dựng thể chế, thảo luận và thông qua các dự án tại phiên họp của chính phủ. Kết quả là chính phủ đã ban hành một lượng lớn các VBQP pháp luật với chất lượng ngày càng cao. Bởi vậy, có thể nói rằng Chính phủ là cơ quan chủ yếu đưa ra các sáng kiến lập pháp phải chủ động đưa ra chiến lược lập pháp trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; định hướng đi cho từng lĩnh vực cụ thể, lựa chọn những vấn đề ưu tiên giải pháp quản lý bằng luật; Đề ra lộ trình, cách thức thực hiện… Đây phải là điểm then chốt hình thành nội dung nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh từng năm và cả nhiệm kỳ của Quốc hội trước khi chúng ta nói đến những tồn tại của quy trình. Dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XII (2007- 2011) gồm 96 dự án luật thuộc Chương trình chính thức, 28 dự án luật thuộc Chương trình chuẩn bị, cụ thể là: Lĩnh vực kinh tế có 21 dự án luật; Các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, xã hội, khoa học, công nghệ và môi trường có 31 dự án luật; Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đối ngoại có 8 dự án luật, 4 dự án pháp lệnh; Các lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính, dân sự, hình sự, tư pháp có 29 dự án luật, 5 dự án pháp lệnh. KẾT LUẬN Qua những biểu hiện trên của mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ chúng ta đã có được cái nhìn đúng đắn, khách quan hơn về nhiệm vu, chức năng, quyền hạn cũng như sự gắn kết khăng khít giữa hai cơ quan đầu não của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Qua đó nâng cao hiểu biết của mình về hoạt động, tổ chức của hai cơ quan đặc biệt trên, đồng thời đóng góp ý kiến xây dựng để Quốc hội và Chính phủ ngày càng được hoàn thiện hơn nhằm đấp ứng được yêu cầu đổi mới của xã hội, với công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra là xây dựng Nhà nước của dân-do dân- vì dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài lớn hiến pháp.doc