Ngày nay, khi quá trình toàn cầu hóa và khu vực diễn ra mạnh mẽ thì các quốc gia không còn là các ốc đảo riêng biệt mà gắn bó với nhau ngày càng chặt chẽ thông qua vô vàn các mối liên kết khác nhau từ kinh tế chính trị đến văn hóa giáo dục, . Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển một cách biệt lập mà không có quan hệ với các quốc gia khác. Trong mạng lưới liên kết này quyết định và hành động của một quốc gia, ngay cả khi chúng chỉ mang tính chất nội bộ cũng tạo ra các hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp đến quốc gia khác và cộng đồng quốc tế. Nói cách khác quan hệ hợp tác quốc tế không chỉ là nhu cầu nội tại thiết thực của bản thân mỗi quốc gia nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước, mà còn là trách nhiệm - nghĩa vụ của các quốc gia xét dưới góc độ pháp luật quốc tế.
Luật quốc tế là một hệ thống pháp luật độc lập bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ quốc tế do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện bình đẳng đấu tranh thương lượng, luật quốc tế được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế riêng lẻ hoặc cưỡng chế tập thể hoặc thông qua dư luận tiến bộ thế giới.
Luật quốc gia là hệ thống các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo những trình tự thủ tục và hình thức nhất định.
Giữa luật quốc tế và luật quốc gia có mối quan hệ biện chứng. Mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế là vấn đề lí luận truyền thống của luật quốc tế nhưng vẫn đồng thời mang tính thời sự sâu sắc đối với mỗi quốc gia trong quá trình xây dựng hoàn thiện và phát triển pháp luật.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 27533 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p luật quốc tế có vị trí cao hơn pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, học thuyết này công nhận có khả năng xung đột giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Và để giải quyết xung đột, các quốc gia, do chịu ảnh hưởng của sự ràng buộc của pháp luật quốc tế, cần phải huỷ bỏ các văn bản pháp luật của quốc gia mình trái với pháp luật quốc tế. Còn các văn bản pháp luật quốc gia tạm thời có vị trí thấp hơn so với pháp luật quốc tế .Vì thế, để thực hiện các cam kết quốc tế, quốc gia cần phải xây dựng các văn bản pháp luật trong nước cho phù hợp với pháp luật quốc tế. Trong trường hợp có sự xung đột giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế thì pháp luật quốc tế được ưu tiên áp dụng.
Cộng hoà Pháp là một trong những quốc gia điển hình công nhận chủ nghĩa nhất nguyên: Coi quy phạm pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) có vị trí ưu thế hơn so với pháp luật quốc gia. Điều 55 Hiến pháp ngày 4/10/1958 của Cộng hoà Pháp tại Mục 6 về Điều ước quốc tế đã quy định: “Các điều ước quốc tế đã được phê chuẩn hoặc phê duyệt theo đúng quy định, có hiệu lực cao hơn luật, kể từ ngày công bố, với điều kiện điều ước quốc tế đó cũng được bên kia thực hiện”. Các Điều từ 52 đến 55 cũng đã phản ánh học thuyết nhất nguyên luận trong Hiến pháp của nước Pháp: pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế là một hệ thống pháp luật thống nhất, trong đó luật quốc tế chiếm ưu thế so với pháp luật quốc gia. Tuy vậy, nguyên tắc cơ bản này cũng có một số giới hạn trong quá trình áp dụng tại Cộng hoà Pháp. Trong trật tự các quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế có vị trí dưới Hiến pháp, nhưng lại có giá trị cao hơn các văn bản quy phạm pháp luật khác. Pháp luật Hoa kỳ cũng có quy định tương tự, cũng áp dụng chủ nghĩa nhất nguyên như ở Pháp. Ví dụ, Điều 6 Hiến pháp Hoa kỳ quy định: “Hiến pháp này, các đạo luật của Hoa kỳ được ban hành theo Hiến pháp này, mọi điều ước đã hoặc sẽ được ký kết dưới thẩm quyền của Hoa kỳ sẽ là luật tối cao của quốc gia. Quan toà ở các bang đều phải tuân theo những luật này...” . Mặc dù vấn đề vị trí của điều ước quốc tế trong mối quan hệ với Luật pháp Thuỵ Sỹ vẫn còn đang được tranh luận trong khoa học cũng như trong thực tiễn, nhưng hiện có một xu hướng nổi trội ở nước này, đó là: đặt cả điều ước quốc tế và tập quán quốc tế ở vị trí trên các đạo luật Liên bang hoặc thậm chí còn xếp ngang hàng với Hiến pháp. Còn tại Hà Lan, Hiến pháp của Hà Lan năm 1953 (được sửa đổi năm 1956) thậm chí còn cho phép các điều ước quốc tế được các cơ quan có thẩm quyền của Hà Lan ký kết có thể thay đổi và bác bỏ một cách hợp pháp các quy định của bản thân Hiến pháp.
2.1.2. Chủ nghĩa nhị nguyên (chủ nghĩa lưỡng hệ - Dualiste)
Đại diện xuất sắc cho trường phái này là H. Triepel, D.A. Anzilotti, H. Lauterpacht, L. Ehrlich. Trái ngược với chủ nghĩa nhất nguyên coi pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai bộ phận của một hệ thống thống nhất, chủ nghĩa nhị nguyên coi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là hai hệ thống pháp luật hoàn toàn độc lập với nhau, mặc dù có những lĩnh vực có thể đan xen lẫn nhau, nhưng không phải là một. Chủ nghĩa nhị nguyên xuất phát từ chỗ cho rằng thẩm quyền, nguồn luật và đối tượng áp dụng của các quy phạm pháp luật của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia hoàn toàn khác nhau. Pháp luật quốc gia điều chỉnh quan hệ giữa công dân với nhau và công dân với nhà nước; pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế với nhau, do đó, chỉ áp dụng cho các quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế, còn pháp luật quốc gia chỉ áp dụng cho các chủ thể trong nước. Học thuyết nhị nguyên lại được phân chia thành hai trường phái, đó là trường phái nhị nguyên cực đoan và trường phái nhị nguyên dung hoà.
a. Chủ nghĩa nhị nguyên cực đoan
Chủ nghĩa nhị nguyên cực đoan dựa trên sự tách biệt hoàn toàn hai hệ thống pháp luật: pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Do vậy, theo trường phái này không có xung đột giữa hai hệ thống pháp luật trên. Nếu một văn bản pháp luật của quốc gia (luật, pháp lệnh, nghị định) trái với pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) thì cả pháp luật quốc tế lẫn pháp luật quốc gia đều có hiệu lực như nhau. Tuy nhiên, quốc gia có nghĩa vụ hoàn thiện pháp luật trong nước của mình để có thể thực hiện được pháp luật quốc tế (thực thi các điều ước quốc tế). Như vậy, ở một mức độ nhất định, học thuyết này đã đặt pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) ở một vị trí ưu tiên hơn so với pháp luật quốc gia.
b. Chủ nghĩa nhị nguyên luận dung hoà
Chủ nghĩa nhị nguyên luận dung hoà xuất phát từ chỗ tách biệt về cơ bản hai hệ thống pháp luật - pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia - nhưng không phủ nhận khả năng xung đột giữa hai hệ thống đó. Xung đột giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia không chỉ được giải quyết theo cách của chủ nghĩa nhất nguyên, với một trật tự trên dưới của hai bộ phận pháp luật. Cả hai hệ thống được xem như là hai vòng tròn có phần giao nhau. Vùng giao nhau này xuất hiện thông qua các quy định dựa vào nhau, dẫn chiếu đến nhau hoặc sự chuyển hoá các quy phạm từ hệ thống pháp luật này sang hệ thống pháp luật khác. Hệ quả là pháp luật quốc tế chiếm ưu thế nổi trội so với pháp luật quốc gia. Cũng theo trường phái này, sự chuyển hoá của quy phạm pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) vào pháp luật quốc gia đòi hỏi phải có một văn bản chính thống của cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước. Và văn bản này sẽ tạo ra khả năng mở cửa lĩnh vực chủ quyền quốc gia đối với pháp luật quốc tế. Học thuyết này hiện nay đang được một số nước như CHLB Đức, Italia, Hà Lan, Vương quốc Anh áp dụng. Xu hướng này đã được phản ánh khá rõ nét trong Công ước Viên năm 1969 của Liên Hợp Quốc về Luật điều ước quốc tế. Điều 27 Công ước này quy định: “Một bên không thể viện những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do để không thi hành luật điều ước”.
Tóm lại, chủ nghĩa nhất nguyên dung hoà và chủ nghĩa nhị nguyên dung hoà đã có những bước phát triển mới và đã xích lại gần nhau. Theo hai học thuyết này, pháp luật quốc tế có vị trí ưu tiên trên thực tế, và pháp luật trong nước mặc dù có trái với pháp luật quốc tế, nhưng vẫn còn hiệu lực. Điểm khác biệt duy nhất giữa hai học thuyết này là vị trí độc lập hoặc vị trí trên dưới của hai hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
3. Về mối quan hệ giữa điều ước của CHXHCN Việt Nam và pháp luật Việt Nam
Cho tới nay nước ta đã ký được hơn 1000 điều ước quốc tế song phương và là thành viên của gần 200 điều ước quốc tế đa phương. Ngày 10/10/2001 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế. Điều 26 Phần III Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969 quy định nguyên tắc Pacta sunt servanda như sau: “Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý”. Đồng thời, Công ước Viên cũng đã xác định mối quan hệ giữa pháp luật trong nước và việc tôn trọng các điều ước quốc tế mà quốc gia đã cam kết, như sau: “Một bên kết ước không thể viện những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do để không thi hành một điều ước mà mình đã cam kết” (Điều 27 - Công ước Viên) . Việt Nam cũng đã ban hành Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Điều 24, Pháp lệnh Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 của Việt Nam cũng đã quy định nguyên tắc tuân thủ điều ước quốc tế (Pacta sunt servanda) như sau: “Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nghiêm chỉnh tuân thủ điều ước quốc tế mà mình đã ký kết là thành viên của Công ước Viên 1969, Việt Nam cam kết thực thi những “điều ước quốc tế được ký kết trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và các quy định của Hiến pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh về ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế). Nhìn tổng thể vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam đều được ghi nhận bằng một công thức chung nhất đó là: trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của luật (Bộ luật, Pháp lệnh, Nghị định) này, thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế ( Khoản 2, Điều 795, Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 3, Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997; Khoản 2, Điều 7 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Khoản 2, Điều 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000; Điều 5 Luật Hải quan năm 2001; Điều 5, Luật Thương mại năm 2005; Điều 8, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003 v.v...). Như vậy, Việt Nam đã chấp nhận quan điểm về giá trị ưu thế của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia so với pháp luật trong nước và coi điều ước quốc tế là một bộ phận cấu thành của pháp luật Việt Nam, và về phương diện hiệu lực thi hành, điều ước quốc tế giữ vị trí thứ hai sau các quy định của hiến pháp và trước các quy định của bộ luật. Tuy vậy, việc xác định vị trí cụ thể của điều ước quốc tế trong pháp luật trong nước là chưa được quy định một cách rõ ràng.
Về việc (cách thức) áp dụng các quy phạm điều ước quốc tế, cho đến nay pháp luật Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể. Vì vậy, việc quy định áp dụng điều ước quốc tế, trường hợp nào thì áp dụng trực tiếp, trường hợp nào phải thông qua thủ tục chuyển hoá bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, cần phải được quy định rõ và cần có cách tiếp cận linh hoạt, mềm dẻo. Nên chăng chỉ chuyển hoá những điều ước quốc tế có nội dung quá phức tạp hoặc chỉ quy định các nguyên tắc chung, còn các điều ước quốc tế có các nội dung quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết thì nên áp dụng trực tiếp mà không cần phải thông qua thủ tục chuyển hoá nhằm giảm bớt gánh nặng của công tác lập pháp, lập quy của Nhà nước vốn đã rất đồ sộ hiện nay.
Tóm lại, về vị trí của quy phạm điều ước quốc tế, cũng như phương thức áp dụng điều ước quốc tế cần phải được quy định rõ ràng và chặt chẽ trong đạo luật cao nhất của Nhà nước ta - Hiến pháp, và đạo luật chuyên ngành - Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Như vậy, một đòi hỏi cấp bách và không thể trì hoãn là cần tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 của Nhà nước ta. Làm được điều đó, là góp phần tạo lập một hành lang pháp lý cần thiết, làm bệ đỡ cho công cuộc hội nhập một cách sâu sắc và toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới, bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia trên cơ sở các nguyên tắc của pháp luật và tập quán quốc tế hiện đại.
4. Vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế ở Việt Nam được quy định tại Luật số 41/2005/QH11 về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, Chủ tịch nước công bố ngày 24/6/2005 và Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006) và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (ban hành ngày 12/11/1996, được sửa đổi, bổ sung ngày 16/12/2002).
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 là văn bản luật điều chỉnh một cách tổng thể các vấn đề liên quan đến công tác điều ước quốc tế của Việt Nam. Liên quan đến mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế, Luật quy định về nguyên tắc, thứ bậc cũng như việc áp dụng điều ước quốc tế.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tuy chủ yếu điều chỉnh việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước, tuy nhiên cũng quy định việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải cân nhắc, tính toán đến các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
4.1. Vị trí của điều ước quốc tế
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ ràng về việc điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có vị trí như thế nào trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong nước. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế (Khoản 1). Do đó, các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia sẽ được thực thi kể cả trong trường hợp pháp luật Việt Nam còn chưa quy định đầy đủ.. Từ quy định này, có quan điểm cho rằng điều ước quốc tế có vị trí sau Hiến pháp, trên các văn bản luật, pháp lệnh.
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005
Điều 6. Điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước
1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hoàxã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
2. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về cùng một vấn đề.
3. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.
Bên cạnh đó, năm 2001 Việt Nam cũng đã gia nhập Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước. Điều 26 Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 quy định nguyên tắc Pacta sunt servand quy định "mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý". Nguyên tắc này đã được chuyển hoá vào quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên" (Khoản 6 - Điều 3).
Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng đều thấy rõ giá trị ưu thế của điều ước quốc tế, chẳng hạn:
+ Theo Khoản 2 Điều 759 Bộ luật dân sự năm 2005 "trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Bộ luật này, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó ".
+ Theo Khoản 2 Điều 2 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em "trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.".
+ Theo Điều 3 Luật di sản văn hoá: "Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Có thể thấy rõ công thức chung được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam là nếu pháp luật trong nước (từ luật trở xuống) có quy định khác hoặc trái với điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập, thì điều ước quốc tế có giá trị ưu tiên áp dụng. Từ đó cho thấy, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có giá trị pháp lý ưu tiên hơn so với pháp luật trong nước.
4.2. Áp dụng điều ước quốc tế
Khoản 3 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 quy định Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước để thực hiện điều ước quốc tế đó. Quy định này thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai phương pháp thực hiện điều ước quốc tế: áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước vào văn bản quy phạm pháp luật quốc nội.
Một ví dụ điển hình là việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 về việc Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quyết định : "2. Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm."
4.3. Trình tự thực hiện điều ước quốc tế.
Khi đề cập đến trình tự thực hiện điều ước quốc tế, vấn đề quan trọng đặt ra đối với Việt Nam là làm cách nào để bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ điều ước. Trên cơ sở quy định tại Chương VI của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, có thể nêu lên một số nội dung quan trọng sau đây liên quan đến trình tự thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam, phù hợp với nguyên tắcPacta sunt servanda như sau:
- Kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế. Theo quy định tại Điều 71 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế bao gồm những nội dung sau đây: Lộ trình thực hiện điều ước quốc tế; Dự kiến phân công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế; Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế; Các biện pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện pháp cần thiết khác để thực hiện điều ước quốc tế; Tuyên truyền, phổ biến điều ước quốc tế.
Việc thực hiện các điều ước quốc tế, trước hết phải xuất phát từ đặc điểm tình hình, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Do đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đề ra tiến trình, các biện pháp tổ chức thực hiện điều ước trong từng giai đoạn, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Đồng thời, phải hoàn thiện cơ chế quản lý việc thực hiện điều ước, quản lý nguồn tài chính, kể cả những đóng góp, tài trợ quốc tế cho việc thực hiện điều ước quốc tế cũng phải được vạch ra một cách cụ thể.
- Xác định cơ quan có trách nhiệm thực hiện điều ước quốc tế. Nghĩa vụ thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người, trước hết là thuộc về Nhà nước. Nhưng trong bộ máy nhà nước, nghĩa vụ này chủ yếu thuộc về các Bộ, ngành, cơ quan trung ương và chính quyền địa phương các cấp. Trong phạm vi, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các Bộ, ngành và các cấp chính quyền có trách nhiệm đề ra kế hoạch cụ thể và biện pháp bảo đảm khả thi các cam kết mà Việt Nam đưa ra trong điều ước quốc tế. Việc thực hiện từng loại điều ước lại phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi Bộ, ngành. Trong trường hợp phát sinh khó khăn, bất cập, các Bộ, ngành, cơ quan trung ương cần phối hợp với Bộ Ngoại giao kiến nghị Chính phủ những biện pháp cần thiết để khắc phục, nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế phát sinh trên cơ sở điều ước. Đồng thời, hàng năm và khi có yêu cầu, các Bộ, ngành có trách nhiệm phối hợp với Bộ Ngoại giao báo cáo Chính phủ, Chủ tịch nước về tình hình thực hiện điều ước quốc tế rong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của ngành. Nghĩa vụ phối hợp thực hiện điều ước quốc tế đòi hỏi chung đối với tất cả các Bộ, ngành, cơ quan nhà nước ở trung ương và các cấp chính quyền địa phương; không một Bộ, ngành hoặc cơ quan nhà nước nào có thể đứng ngoài nghĩa vụ này.
Qua phân tích pháp luật Việt Nam, có thể kết luận các điều ước quốc tế đã được Việt Nam ký kết và gia nhập thì có hiệu lực pháp lý bắt buộc và được nhà nước đảm bảo thực hiện ngay cả trong trường hợp điều ước quốc tế đó có quy định trái với quy định của pháp luật trong nước. Bằng việc “nội luật hoá” các quy định của điều ước quốc tế, thì ở những mức độ khác nhau, đã có thể coi các quy định của điều ước quốc tế đó là một bộ phận cấu thành của pháp luật trong nước. Chính vì thế, điều ước quốc tế giữ vị trí đặc biệt trong hệ thống các quy phạm pháp luật quốc gia của Việt Nam.
II) Vấn đề nội luật hóa (chuyển hóa)
1.Cơ sở pháp lý và thực tiễn
Để đi đến ký kết một điều ước quốc tế, Bộ Tư pháp đã phải tiến hành một quy trình thẩm định kỹ lưỡng về tính hợp hiến, mức độ tương thích các quy định pháp luật trong nước… Nhưng khi nội dung của điều ước được thi hành trong thực tiễn thì hoàn toàn vẫn có thể xảy ra mâu thuẫn giữa quy định của hai hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Thực tế này có thể là do tình trạng văn bản hướng dẫn thi hành có nội dung không thống nhất với văn bản được hướng dẫn dẫn đến làm vô hiệu hóa luật. Thực trạng này thậm chí còn xảy ra ở cả các văn bản pháp luật trong nước. Nguyên nhân thứ hai có thể dẫn ra ở đây đó là trong quá trình giải thích luật mới phát hiện ra các mâu thuẫn có thể có nhưng chưa phát hiện được trong quá trình thẩm tra, phê duyệt.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có nguy cơ phải đối mặt với các ĐƯQT có nội dung trái Hiến pháp. Mà theo quy định của pháp luật Việt Nam thì nội dung ĐƯQT mà Việt Nam ký kết phải “phù hợp với các quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam ”. Theo đó, có thể hiểu, pháp luật Việt Nam không chấp nhận những điều khoản trong các điều ước có nội dung trái với Hiến pháp. Điều này xét về một phương diện nào đó hoàn toàn không có lợi cho các quan hệ ngoại giao của Việt Nam . Như vậy đòi hỏi chúng ta cần phải có cách xử lí khéo kéo cho vấn đề này để đảm bảo được các quyền tự chủ và dân tộc tự quyết mà vẫn thể hiện được chủ trương hội nhập quốc tế “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
Nghĩa vụ chuyển hoá các quy định của điều ước quốc tế nói chung và điều ước quốc tế về nhân quyền nói riêng đã được ghi nhận trong bản thân các công ước mà Việt Nam là thành viên cũng như pháp luật về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế trong nước.
Khác với nhiều nước, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) không quy định về việc chuyển hoá điều ước quốc tế mà Việt Nam là một bên ký kết vào pháp luật trong nước. Tuy nhiên, vấn đề này đã được quy định cụ thể trong Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005.
Khoản 3 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 quy định: "Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó."
Các phương thức nội luật hóa
Việc nội luật hoá (hay chuyển hoá điều ước quốc tế) được thực hiện theo các phương thức phổ biến sau:
Sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện điều ước quốc tế. Theo quy định tại khoản 10 Điều 14 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, cơ quan đề xuất ký kết có trách nhiệm kiến nghị về việc áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế.
Như vậy, để thực hiện nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc tế mà cần phải sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành, thì cơ quan đề xuất việc ký kết điều ước quốc tế phải chủ động phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc này.
Trong công tác xây dựng pháp luật, theo quy định tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, một trong những nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới là phải "không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên." Đây cũng là một biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc tế được tuân thủ nghiêm túc tại Việt Nam
Tiến hành chuyển hoá quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mật thiết đến vấn đề chuyển hoá (nội luật hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Mục đích cơ bản của vấn đề chuyển hoá là bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc tế.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam khẳng định thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ phát sinh từ điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Trong bộ máy nhà nước, Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo các Bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là một bên ký kết. Như vậy, nhận thức về nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế đã đạt được sự thống nhất cao, được thể chế hoá thành pháp luật, tạo cơ sở thuận lợi cho việc chỉ đạo của Chính phủ và việc thực hiện của các cơ quan nhà nước.
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, Nhà nước của mỗi quốc gia là thành viên của ĐƯQT đều có quyền hạn và trách nhiệm xác định cách thức thực thi các điều khoản của ĐƯQT trong phạm vi quyền lực pháp lý của mình. Hành vi này được các chuyên gia về luật quốc tế gọi là “chuyển hóa ĐƯQT vào luật quốc gia” (với các tên gọi khác nhau: “incorporation”, “transformation”, “reception”). Thực tế thực thi ĐƯQT tại các quốc gia hiện nay thường tồn tại hai cách thức chuyển hóa ĐƯQT vào pháp luật quốc gia: chuyển hóa trực tiếp và chuyển hóa gián tiếp.
Trong pháp luật Việt Nam, tại Khoản 3 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 2005 có quy định:
“Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của ĐƯQT, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT đó với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của ĐƯQT đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi,bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện ĐƯQT đó.”
Từ quy định này có thể thấy pháp luật Việt Nam thừa nhận hai cách thức áp dụng ĐƯQT vào thực tiễn pháp luật đó là: áp dụng trực tiếp và áp dụng gián tiếp.
Áp dụng trực tiếp
Áp dụng trực tiếp có nghĩa là khi ĐƯQT đã được ký kết và có hiệu lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó đều có nghĩa vụ thi hành và công dân hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của ĐƯQT đó trước Tòa án để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Đây là cách thức thực thi ĐƯQT được áp dụng rộng rãi trong pháp luật các nước trên thế giới từ giữa thế kỉ XX. Nhưng cho đến nay hãy còn khá mới mẻ đối với pháp luật Việt Nam. Sở dĩ như vậy bởi lâu nay tâm lí chung của cả các cơ quan hữu quan và người dân Việt Nam thường hiểu chưa đúng rằng pháp luật chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành chứ không bao gồm cả các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là hệ quả của công tác tuyên truyền các ĐƯQT còn chưa thực sự sâu rộng .
Tuy nhiên trong thực tiễn cũng đã có một số quy định của ĐƯQT được áp dụng trực tiếp vào đời sống pháp luật. Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung cam kết được áp dụng trực tiếp của Việt Nam là: Luật doanh nghiệp, Luật luật sư, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh. Hoặc Hiệp định về thuế chẳng hạn, đây là loại hiệp định luôn có hiệu lực cao hơn nội luật và được áp dụng trực tiếp, bởi lẽ có hay không có hành vi chuyển hóa hầu như không có ý nghĩa thực tế trong trường hợp áp dụng mức thuế đã cam kết giữa các quốc gia.
2.2. Áp dụng gián tiếp
Áp dụng gián tiếp là việc quốc gia thành viên ban hành một đạo luật để chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường hợp này xảy ra khi nội dung của ĐƯQT chưa đủ cụ thể, rõ ràng để có thể áp dụng trực tiếp vào thực tiễn pháp luật hoặc nội dụng điều ước đó có điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong Hiến pháp.
Cách thức này đã được tiến hành để chuyển hóa một số điều ước về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự trong pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam; chuyển hóa nội dung Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) vào trong Luật Bình đẳng giới. Nhiều quy định của các ĐƯQT khác cũng đã được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của Việt Nam, nhất là từ khi chúng ta gia nhập WTO như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật cạnh tranh, Luật thương mại…có nhiều quy định tương thích với các quy định của Công ước BERN về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Pháp lệnh về công nhận và thi hành của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam hài hòa với các quy tắc của Công ước New York năm 1958…
Nếu như trước kia, việc chuyển hóa ĐƯQT vào pháp luật quốc gia còn chưa được quy định cụ thể, thì với việc Quốc hội thông qua Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005, vấn đề áp dụng trực tiếp ĐƯQT vào đời sống pháp luật đã chính thức được thừa nhận. Theo đó, trong trường hợp nội dung của ĐƯQT đã cụ thể, rõ ràng, Nhà nước sẽ không cần phải thực hiện các thủ tục chuyển hóa ĐƯQT bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật truyền thống vừa phức tạp, vừa tốn kém, mà chỉ cần ra quyết định thừa nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của ĐƯQT đó để nội dung điều ước có thể đi vào thời kỳ thực hành. Điều này hứa hẹn đem đến những biến chuyển to lớn cho công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhà trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng như hiện nay.
Vấn đề nội luật hóa điều ước quốc tế
Cho dù theo cách suy luận của chủ nghĩa nhất nguyên hay theo thiết chế của chủ nghĩa nhị nguyên, thì các quốc gia đều có nghĩa vụ là làm cho pháp luật quốc gia mình phù hợp với pháp luật quốc tế. Về vấn đề này hiện nay có hai quan điểm chính, quan điểm thứ nhất cho rằng điều ước quốc tế có hiệu lực trực tiếp trong các lĩnh vực của pháp luật quốc gia mà không cần phải có sự chuyển hoá (nội luật hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia; còn theo quan điểm thứ hai, thì pháp luật quốc tế không áp dụng trực tiếp trong các lĩnh vực của pháp luật quốc gia; điều ước quốc tế, muốn phát huy hiệu lực của mình ở trong các nước thì đòi hỏi phải được chuyển hoá vào nội luật, nghĩa là toàn bộ hoặc một phần nội dung của điều ước đó phải được chuyển đổi dưới các hình thức văn bản quy phạm pháp luật (phương thức chuyển hoá điều ước quốc tế thường được quy định trong hiến pháp và các đạo luật quan trọng về điều ước quốc tế của các quốc gia).
Học thuyết về chấp nhận.
Học thuyết về sự chấp nhận hiệu lực trực tiếp của quy phạm điều ước quốc tế rất gần với chủ nghĩa nhất nguyên. Học thuyết này khước từ việc ban hành một văn bản thi hành của Nhà nước như là cầu nối giữa quy phạm pháp luật quốc tế và sự áp dụng nó ở trong nước. Theo học thuyết này, các quy phạm pháp luật quốc tế được áp dụng trực tiếp ở trong nước. Tuy nhiên, các quy phạm này không vì thế mà mất đi tính chất của nó với tư cách là các quy phạm pháp luật quốc tế. Với sự chấp nhận, các quy phạm điều ước được công nhận như là pháp luật trong nước.
Trong thực tiễn lập pháp và hành pháp, học thuyết về sự chấp nhận được vận dụng ở các nước theo hệ thống pháp luật Ănglô Xắc - xông. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Hà Lan, Liên bang Thụy Sỹ,….
Theo pháp luật Châu Âu, Toà án Châu Âu đã công bố rằng luật của cộng đồng chung Châu Âu không chỉ là luật của các nước thành viên, được áp dụng trực tiếp đối với các Toà án của các nước đó, mà nó còn cao hơn luật pháp của các nước thành viên, vượt lên trên sự xung đột với luật pháp quốc gia.
Học thuyết về sự chuyển hoá
Trái ngược với học thuyết về sự chấp nhận, học thuyết về sự chuyển hoá thể hiện rõ tính nhị nguyên luận. Học thuyết này xuất phát từ chỗ cho rằng các quy phạm pháp luật quốc tế không thể được áp dụng như các quy phạm pháp luật trong nước vì pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập với nhau. Những quy phạm điều ước quốc tế muốn được áp dụng trong nước thì phải được chuyển đổi (chuyển hóa) thành quy phạm pháp luật trong nước. Qua sự chuyển hoá này các quy phạm pháp luật quốc tế phát huy hiệu lực với căn cứ áp dụng mới, mà theo căn cứ này bên cạnh các quốc gia, các chủ thể trong nước cũng là đối tượng áp dụng của pháp luật quốc tế. Thông qua việc chuyển hoá, quy phạm pháp luật quốc tế sẽ được chuyển đổi thành pháp luật trong nước thông qua một, hoặc một số văn bản thi hành (luật, nghị định). Đối với điều ước quốc tế, mỗi điều ước sẽ được chuyển hoá thành pháp luật trong nước bằng một văn bản pháp luật riêng biệt, phù hợp với quy định của pháp luật quốc gia. Về phương diện pháp luật quốc tế, thì không tồn tại loại văn bản thi hành này ?
Pháp luật nhiều nước bên cạnh việc thừa nhận ưu thế của điều ước quốc tế so với pháp luật quốc gia, còn quy định rằng, điều ước quốc tế chỉ có hiệu lực ở trong nước chỉ sau khi có hành vi chuyển đổi (Điều 25, Điều 29, Luật Cơ bản (GG) của CHLB Đức; Điều 38 - Các nguyên tắc chung về luật của Italia; điều 28 Hiến pháp năm 1975 của Hy Lạp).
4. Một số vấn đề về thực thi ĐƯQT ở Việt Nam hiện nay
4.1. Cách thức áp dụng nội dung ĐƯQT vào thực tế pháp luật
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, Nhà nước của mỗi quốc gia là thành viên của ĐƯQT đều có quyền hạn và trách nhiệm xác định cách thức thực thi các điều khoản của ĐƯQT trong phạm vi quyền lực pháp lý của mình. Hành vi này được các chuyên gia về luật quốc tế gọi là “chuyển hóa ĐƯQT vào luật quốc gia” (với các tên gọi khác nhau: “incorporation”, “transformation”, “reception”). Thực tế thực thi ĐƯQT tại các quốc gia hiện nay thường tồn tại hai cách thức chuyển hóa ĐƯQT vào pháp luật quốc gia: chuyển hóa trực tiếp và chuyển hóa gián tiếp.
Trong pháp luật Việt Nam, tại Khoản 3 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 2005 có quy định:
“Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của ĐƯQT, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT đó với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của ĐƯQT đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi,bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện ĐƯQT đó.”
Từ quy định này có thể thấy pháp luật Việt Nam thừa nhận hai cách thức áp dụng ĐƯQT vào thực tiễn pháp luật đó là: áp dụng trực tiếp và áp dụng gián tiếp.
Áp dụng trực tiếp có nghĩa là khi ĐƯQT đã được ký kết và có hiệu lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó đều có nghĩa vụ thi hành và công dân. hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của ĐƯQT đó trước Tòa án để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Đây là cách thức thực thi ĐƯQT được áp dụng rộng rãi trong pháp luật các nước trên thế giới từ giữa thế kỉ XX nhưng cho đến nay hãy còn khá mới mẻ đối với pháp luật Việt Nam . Sở dĩ như vậy bởi lâu nay tâm lí chung của cả các cơ quan hữu quan và người dân Việt Nam thường hiểu chưa đúng rằng pháp luật chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành chứ không bao gồm cả các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là hệ quả của công tác tuyên truyền các ĐƯQT còn chưa thực sự sâu rộng . Tuy nhiên trong thực tiễn cũng đã có một số quy định của ĐƯQT được áp dụng trực tiếp vào đời sống pháp luật. Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung cam kết được áp dụng trực tiếp của Việt Nam là: Luật doanh nghiệp, Luật luật sư, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh. Hoặc Hiệp định về thuế chẳng hạn, đây là loại hiệp định luôn có hiệu lực cao hơn nội luật và được áp dụng trực tiếp, bởi lẽ có hay không có hành vi chuyển hóa hầu như không có ý nghĩa thực tế trong trường hợp áp dụng mức thuế đã cam kết giữa các quốc gia.
Còn áp dụng gián tiếp là việc quốc gia thành viên ban hành một đạo luật để chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường hợp này xảy ra khi nội dung của ĐƯQT chưa đủ cụ thể, rõ ràng để có thể áp dụng trực tiếp vào thực tiễn pháp luật hoặc nội dụng điều ước đó có điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong Hiến pháp. Cách thức này đã được tiến hành để chuyển hóa một số điều ước về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự trong pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam; chuyển hóa nội dung Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) vào trong Luật Bình đẳng giới. Nhiều quy định của các ĐƯQT khác cũng đã được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của Việt Nam, nhất là từ khi chúng ta gia nhập WTO như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật cạnh tranh, Luật thương mại…có nhiều quy định tương thích với các quy định của Công ước BERN về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Pháp lệnh về công nhận và thi hành của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam hài hòa với các quy tắc của Công ước New York năm 1958…
Nếu như trước kia, việc chuyển hóa ĐƯQT vào pháp luật quốc gia còn chưa được quy định cụ thể, thì với việc Quốc hội thông qua Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005, vấn đề áp dụng trực tiếp ĐƯQT vào đời sống pháp luật đã chính thức được thừa nhận. Theo đó, trong trường hợp nội dung của ĐƯQT đã cụ thể, rõ ràng, Nhà nước sẽ không cần phải thực hiện các thủ tục chuyển hóa ĐƯQT bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật truyền thống vừa phức tạp, vừa tốn kém, mà chỉ cần ra quyết định thừa nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của ĐƯQT đó để nội dung điều ước có thể đi vào thời kỳ thực hành.Điều này hứa hẹn đem đến những biến chuyển to lớn cho công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhà trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng như hiện nay.
4.2. Mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi ĐƯQT ở Việt Nam.
4.2.1. Mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi ĐƯQT
Để đi đến ký kết một ĐƯQT, Bộ Tư pháp đã phải tiến hành một quy trình thẩm định kỹ lưỡng về tính hợp hiến, mức độ tương thích các quy định pháp luật trong nước… Nhưng khi nội dung của điều ước được thi hành trong thực tiễn thì hoàn toàn vẫn có thể xảy ra mâu thuẫn giữa quy định của hai hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Thực tế này có thể là do tình trạng văn bản hướng dẫn thi hành có nội dung không thống nhất với văn bản được hướng dẫn dẫn đến làm vô hiệu hóa luật. Thực trạng này thậm chí còn xảy ra ở cả các văn bản pháp luật trong nước! Nguyên nhân thứ hai có thể dẫn ra ở đây đó là trong quá trình giải thích luật mới phát hiện ra các mâu thuẫn có thể có nhưng chưa phát hiện được trong quá trình thẩm tra, phê duyệt.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có nguy cơ phảiđối mặt với các ĐƯQT có nội dung trái Hiến pháp. Mà theo quy định của pháp luật Việt Nam thì nội dung ĐƯQT mà Việt Nam ký kết phải “phù hợp với các quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam ”. Theo đó, có thể hiểu, pháp luật Việt Nam không chấp nhận những điều khoản trong các điều ước có nội dung trái với Hiến pháp. Điều này xét về một phương diện nào đó hoàn toàn không có lợi cho các quan hệ ngoại giao của Việt Nam . Như vậy đòi hỏi chúng ta cần phải có cách xử lí khéo kéo cho vấn đề này để đảm bảo được các quyền tự chủ và dân tộc tự quyết mà vẫn thể hiện được chủ trương hội nhập quốc tế “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.
4.2.2. Vấn đề giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi ĐƯQT.
Về vấn đề giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi ĐƯQT, trong pháp luật Việt Nam hiện nay mới chỉ có quy định: “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và ĐƯQT mà CHXHCN Việt Nam là thành viên quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của ĐƯQT”. Từ đây có thể đưa ra phương thức xử lí những điểm chưa thống nhất giữa ĐƯQT và các văn bản luật trong nước: để thực hiện điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong nội luật thì có thể áp dụng trực tiếp ĐƯQT đó mà không cần chuyển hóa nội dung điều ước vào pháp luật trong nước hoặc sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước cho phù hợp sau khi ĐƯQT có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên chỉ với quy định này thì chúng ta hãy còn bỏ ngỏ việc giải quyết mâu thuẫn phát sinh giữa ĐƯQT và Hiến pháp. Một số nước, trong đó tiêu biếu là Cộng hòa Pháp, đã đưa ra cách giải quyết tương đối linh hoạt cho vấn đề này: tiến hành sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp với nội dung ĐƯQT mà Nhà nước tham gia kết ước. Vậy nên chăng,ở Việt Nam, pháp luật cho phép đưa vào nội dung của điều ước những điều khoản có nội dung trái với Hiến pháp nhưng trước khi chấp nhận ràng buộc thì phải tiến hành sửa đổi Hiến pháp? Bởi cần phải lưu ý rằng: pháp luật quốc gia vẫn trong quá trình tiếp cận với luật pháp quốc tế, những quy định trong nội luật chưa hẳn lúc nào cũng là tối ưu, nhất là trong khi tình hình thế giới biến đổi không phải từng ngày mà từng giờ.
Bên cạnh giải pháp tình thế được đưa ra khi “việc đã rồi” như trên, về lâu dài, chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác chủ động nghiên cứu, phân tích ĐƯQT để xây có thể xây dựng các quy phạm pháp luật trên cơ sở tính đến ĐƯQT mà Việt Nam sắp hoặc có thể trở thành thành viên trong tương lai. Mong rằng Việt Nam sẽ sớm có được một hệ thống pháp luật tương đối phù hợp với chuẩn luật pháp quốc tế.
5. Vấn đề nội luật hóa các nước trên thế giới
5.1. Vương quốc Anh
Điều ước quốc tế không đương nhiên được coi là một bộ phận của pháp luật Anh. Vì vậy, chúng không thể có hiệu lực thi hành trực tiếp trên lãnh thổ Anh. Điều ước quốc tế chỉ trở thành một bộ phận của pháp luật Anh khi nó được chuyển hóa thông qua một đạo luật của Nghị viện và khi đó nó mới có hiệu lực thi hành trong phạm vi của đạo luật chuyển hóa đó. Hầu hết, các quốc gia thuộc hệ thống thông luật (trừ Hoa kỳ ) đều có quy định như Anh. Do đó, các quốc gia đều từ chối hiệu lực thi hành trực tiếp điều ước quốc tế trên lãnh thổ quốc gia. Tuy vậy, quy định về chuyển hóa điều ước quốc tế của pháp luật Anh không áp dụng đối với mọi điều ước quốc tế. Các điều ước quốc tế về tranh chấp, chuyển nhượng lãnh thổ hoặc một số thỏa thuận hành chính của Anh sẽ có hiệu lực thi hành trực tiếp chứ không đòi hỏi phải có đạo luật chuyển hóa của nghị viện Anh.
Trường hợp điều ước quốc tế chưa được chuyển hóa bằng một đạo của Nghi viện thì về nguyên tắc nó sẽ chưa có hiệu lực thi hành và chưa làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ đối với cá nhân pháp nhân trong nước. Tuy nhiên, trên thực tế điều ước quốc tế đó vẫn có thể ảnh hưởng đến quá trình thực thi pháp luật của Anh thông qua những cách thức khác trong từng trường hợp cụ thể.
Khi một đạo luật do Nghị viện Anh ban hành có điều khoản không rõ ràng thì Tòa án Anh trong một số trường hợp có thể tham khảo điều ước quôc tế chưa được chuyển hóa để giải thích sự không rõ ràng đó. Nhưng khi các điều khoản của đạo luật đã rõ ràng thì Tòa án Anh áp dụng các quy định của điều khoản mặc dù nó có thể trái ngược với điều ước quốc tế mà Anh đã kí kết hoặc tham gia nhưng chưa được chuyển hóa.
Riêng các điều ước quốc tế kí trong khuôn khổ Liên Minh Châu Âu mà Anh là thành viên thì sẽ có hiệu lực thi hành trực tiếp trên lãnh thổ Anh và có ưu thế tuyệt đối so với các đạo luật được ban hành trước hoặc sau khi Anh kí kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế.
5.2. Cộng Hòa Pháp
Thực tiễn pháp luật của Cộng hoà Pháp hiện đang nghiêng theo xu hướng là: chỉ ban hành một số lượng rất ít các đạo luật nhằm chuyển hoá đối với các điều ước quốc tế mà nước Pháp là thành viên, còn nếu điều ước quốc tế có hiệu lực áp dụng trực tiếp thì không cần chuyển hoá điều ước quốc tế vào nội luật. Theo điều 55 hiến pháp Cộng Hòa Pháp quy định: “Những điều ước quốc tế hoặc hiệp định đã được phê chuẩn hoặc phê duyệt ngay khi công bố thì nó có ưu thế hơn là ưu thế của các luật với điều kiện được bên kí kết khác áp dụng, tùy ở mỗi điều ước hoặc hiệp định”. Theo đó, để một điều ước quốc tế có hiệu lực áp dụng trực tiếp, phải đáp ứng được hai điều kiện.
Thứ nhất, các nước kết ước phải thật sự mong muốn điều ước quốc tế đó có hiệu lực áp dụng trực tiếp;
Thứ hai, sự mong muốn này phải được thể hiện ngay trong điều ước thông qua những quy định rõ ràng và cụ thể. Nếu không có hai điều kiện này thì nước Pháp sẽ ban hành một đạo luật chuyển hoá để đảm bảo pháp luật của Pháp phù hợp với điều ước quốc tế.
Về nguyên tắc, Pháp sẽ chấp nhận sửa đổi hiến pháp để tham gia một điều ước quốc tế nếu điều ước quốc tế đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hoặc Pháp muốn tận dụng việc tham gia điều ước đó để phát triển một lĩnh vực cụ thể và cải cách hệ thống pháp luật của Pháp trong lĩnh vực đó. Qua thực tiễn cho thấy, Pháp sẽ sửa đổi hiến pháp để tham gia các điều ước quốc tế của Liên Minh Châu Âu và các điều ước quốc tế đa phương, toàn cầu mà Cộng Hòa Pháp là thành viên.
5.3. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Tất cả các điều ước sau khi Tổng thông Hoa kỳ phê chuẩn sẽ có hiệu lực thi hành trực tiếp trên lãnh thổ Hoa Kì mà không cần phải ban hành bất kỳ đạo luật nào để chuyển hóa. Song trong thực tế, theo quy định của Tòa án Hoa Kỳ, các điều ước quốc tế mà Hoa Kỳ kí kết hoặc tham gia có hai nhóm:
Thứ nhất, điều ước quốc tế tự động có hiệu lực là những điều ước quốc tế sau khi được Tổng thống Hoa kỳ phê chuẩn sẽ có hiệu lực thi hành trực tiếp trên lãnh thổ Hoa Kỳ không cần có đạo luật nào chuyển hóa.
Thứ hai, những điều ước quốc tế không tự động phát sinh hiệu lực là những điều ước quốc tế chỉ có hiệu thi hành nếu nó được chuyển hóa bởi một đạo luật do Nghị viện ban hành.
Theo Tòa án Hoa kỳ phải dựa vào nội dung của các điều ước quốc tế để phân loại. Điều ước quốc tế có điều khoản liên quan đến lợi ích của các cá nhân, pháp nhân Hoa kỳ thì có hiệu lực thi hành trực tiếp không cần phải chuyển hóa. Ngược lại, điều ước quốc tế chứa đựng nội dung liên quan đến quyền lực nhà nước, lãnh thổ thì cần phải chuyển hóa bằng một đạo luật của Nghị viện.
5.4. Một số nước khác
Theo hệ thống pháp luật nhất nguyên của mình, các Toà án của Hà Lan áp dụng trực tiếp và tức thời các quy phạm điều ước mà không cần một thể thức chuyển hoá vào nội luật.
Mặc dù Hiến pháp Liên bang Thuỵ Sỹ không có quy định rõ về mối quan hệ giữa Luật quốc tế và Luật trong nước, nhưng có một nguyên tắc bất thành văn và đã được ngầm định trong Hiến pháp, rằng điều ước quốc tế và những nguyên tắc chung của luật quốc tế có hiệu lực tức thời và không cần có các thủ tục đặc biệt. Toà án Liên bang đã nhiều lần khẳng định quan điểm này, rằng luật quốc tế phải được xem như luật của Liên bang Thuỵ Sỹ, “bởi vì bản chất của nó phải tương đương với luật trong nước”. Chỉ khi các nguyên tắc của luật tập quán quốc tế không đủ rõ ràng và do đó không phù hợp cho việc áp dụng và thực hiện tức thời thì luật Liên bang Thuỵ Sỹ mới cần sửa đổi và thực hiện chúng, về phía các điều ước thì không cần phải có bất kỳ sự thay đổi chính thức nào để thành đạo luật của Liên bang.
Theo pháp luật Canada, mặc dù một điều ước quốc tế đã có hiệu lực pháp lý nhưng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ điều ước quốc tế không có giá trị áp dụng trực tiếp, để thi hành điều ước quốc tế Canada phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hoá. Việc ban hành văn bản nội luật hoá sẽ tuỳ thuộc vào bản chất của điều ước quốc tế được ký kết, tức là tuỳ thuộc vào việc quyền và nghĩa vụ phát sinh có ảnh hưởng đến các biện pháp áp dụng trong nước hay không và các biện pháp áp dụng trong nước nào bị ảnh hưởng mà việc thi hành điều ước quốc tế có thể đặt ra việc ban hành văn bản pháp luật ở cấp liên bang, cấp tỉnh hoặc cả hai cấp. Như vậy, theo pháp luật Canada thì một điều ước quốc tế nếu chưa được nội luật hoá thì sẽ chưa được thi hành.
Kết luận
Với xu thế phát triển của quan hệ quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay các quốc gia càng xích lại gần nhau hơn. Nhu cầu tất yếu của các quốc gia là phải cùng nhau hợp tác để xây dựng một hệ thống pháp luật quốc tế tiến bộ hiện đại vì lợi ích chung của cả cộng đồng bằng việc kí kết các điều ước quốc tế nhằm thiết lập các tiêu chuẩn và nguyên tắc mới trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng về chủ quyền của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên hệ thống pháp luật nước ta nói chung, pháp luật trong hội nhập kinh tế nói riêng, vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Trong khi đó thì pháp luật trong lĩnh vực hội nhập kinh tế lại chậm được bổ sung, sửa đổi, có thể nói là quá lạc hậu, khập khiễng và có độ vênh quá nhiều so với các công ước quốc tế, các quy chế của các tổ chức kinh tế quốc tế...
Do đó, việc hoàn thiện hơn nữa pháp luật trong đó chú trọng đến nội luật hoá các cam kết là yêu cầu tất yếu. Trong quá trình này việc xử lý xung đột pháp luật là cần thiết để đảm bảo sự hài hoà từng bước giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, bảo vệ được lợi ích của quốc gia, dân tộc và DN trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Có như vậy, mới góp phần làm cho người dân Việt Nam tự tin hơn, mạnh mẽ hơn và linh hoạt hơn trong những cuộc đua tranh ngày càng gay gắt vì sự tiến bộ và thịnh vượng của dân tộc mình trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Luật quốc tế, Ts. Lê Mai Anh, Trường đại học luật Hà Nội.
Luật quốc tế, ThS Ngô Hữu Phước, NXB Chính trị quốc gia
Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
Luật điều ước quốc tế 2005
Công ước viên về Luật điều ước quốc tế 1969
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia.doc