Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế - Bài này tập hợp nhiều tư liệu có giá trị và rất có ích cho môn pháp luật đại cương

PLĐC là một môn học rất có ích cho các sinh viên khối ngành Kinh Tế-Tài Chính-Ngân hàng. Đến với bộ môn này chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa pháp luật với các lĩnh vực xã hội: mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước, . Trong các mối quan hệ trên thì nhóm chúng tôi đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế nhằm làm rõ sự tác đông qua lại giữa kinh tế với pháp luật đặc biệt trong thực tiễn nước ta.Đồng thời hiều rõ về vai trò và sức ảnh hưởng của các chình sách của pháp luật trong nền kinh tế Việt Nam. Nhóm chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý để hoàn thiện bài tiểu luận này.Trong quá trình làm bài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.Mong quý thầy cô thông cảm đề nhóm có thể làm bài lần sau tốt hơn nữa. Xin chân thành cảm ơn Mục lục: I. Khái quát về pháp luật và kinh tế 4 II. Quan hệ giữa pháp luật và kinh tế 4 III. Sự tác động qua lại của kinh tế và pháp luật 1. Sự tác động của pháp luật với kinh tế 7 2. Sự tác động của kinh tế đối với pháp luật 8 IV. Mối liên hệ thực tế giữa pháp luật với kinh tế nước ta 9 V. Vai trò của pháp luật đối với nền kinh tế nước ta 1. Vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa 10 2. Những chính sách pháp luật trong nền kinh tế 13 VI. Kết luận

docx17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 21148 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế - Bài này tập hợp nhiều tư liệu có giá trị và rất có ích cho môn pháp luật đại cương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TIỂU LUẬN Đề tài: Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế Học sinh: Nguyễn Thị Bích Trâm Trần Thị Lành Phan Thị Yến Nhi Phan Thị Thuận Giáo viên hướng dẫn: Lời mở đầu PLĐC là một môn học rất có ích cho các sinh viên khối ngành Kinh Tế-Tài Chính-Ngân hàng. Đến với bộ môn này chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa pháp luật với các lĩnh vực xã hội: mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước,…. Trong các mối quan hệ trên thì nhóm chúng tôi đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế nhằm làm rõ sự tác đông qua lại giữa kinh tế với pháp luật đặc biệt trong thực tiễn nước ta.Đồng thời hiều rõ về vai trò và sức ảnh hưởng của các chình sách của pháp luật trong nền kinh tế Việt Nam. Nhóm chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý để hoàn thiện bài tiểu luận này.Trong quá trình làm bài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.Mong quý thầy cô thông cảm đề nhóm có thể làm bài lần sau tốt hơn nữa. Xin chân thành cảm ơn Mục lục: Khái quát về pháp luật và kinh tế 4 Quan hệ giữa pháp luật và kinh tế 4 Sự tác động qua lại của kinh tế và pháp luật Sự tác động của pháp luật với kinh tế 7 Sự tác động của kinh tế đối với pháp luật 8 Mối liên hệ thực tế giữa pháp luật với kinh tế nước ta 9 Vai trò của pháp luật đối với nền kinh tế nước ta Vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa 10 Những chính sách pháp luật trong nền kinh tế 13 Kết luận 15 Khái quát về pháp luật và kinh tế: Pháp luật: Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật xuất hiện từ khi chế độ tư hữu về tài sản và sự phân hóa xã hội thành giai cấp xuất hiện, giữa các giai cấp có lợi ích đối kháng không thể điều hòa được. Trong khi giai cấp thống trị bao giờ cũng muốn hướng hành vi của mọi người vào lợi ích riêng của họ. Do đó khi nắm trong tay các phương tiện quyền lực, giai cấp thống trị chọn lọc giữ lại, thừa nhận các trật tự chuẩn mực phù hợp với lợi ích của họ và biến chúng thành các trật tự xã hội, các quy tắc xử sự chung bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo nhằm phục vụ lợi ích riêng của giai cấp thống trị. Kinh tế: Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mỗi quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích. Nguyên nghĩa của khái niệm này là "kinh bang tế thế" là các công việc mà một vị vua phải đảm nhiệm: chăm lo đời sống vật chất của bề tôi, chăm lo đời sống tinh thần của cộng đồng. KINH trong KINH BANG- trị nước và TẾ trong TẾ THẾ- giúp đời! (do vua Minh Trị của Nhật đã yêu cầu dịch ra từ tiếng Latinh, nhờ chữ này mà Minh Hoàng lôi kéo được tầng lớp tri thức Nho giáo đi kinh doanh, buôn bán và làm giàu) Nghĩa hẹp của từ này chỉ "hoạt động sản xuất và làm ăn của cá nhân hay hộ gia đình" như trọng câu: Gia đình tôi chuyển đi xây dựng vùng kinh tế mới. Nghĩa rộng của từ này chỉ "toàn bộ các hoạt động sản xuất, trao đổi, phân phối, lưu thông" của cả một cộng đồng dân cư, một quốc gia trong một khoảng thời gian, thường là một năm. Thí dụ câu: Kinh tế Việt Nam dự kiến đạt mức độ tăng trưởng là 8,2% năm 2006. Khái niệm kinh tế đề cập đế các hoạt động của con người có liên quan đến sản xuất, phân phối, trao đổi, và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên định nghĩa về kinh tế đã thay đổi theo lịch sử các hoạt động kinh tế. Nói đơn giản kinh tế có nghĩa là:" Dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và hạn hẹp, con người và xã hội loài người tìm cách trả lời 3 câu hỏi:" Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? và Sản xuất cho ai?" Quan hệ giữa pháp luật và kinh tế: Pháp luật là yếu tố thượng tầng xã hội, còn kinh tế thuộc về yếu tố của cơ sở hạ tầng. Pháp luật sinh ra trên cơ sở hạ tầng và bị quy định bởi cơ sở hạ tầng của pháp luật. Cơ sở hạ tầng là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của phTrong mối liên hệ với kinh tế, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác, pháp luật lại có sự tác động ngược trở lại một cách mạnh mẽ đối với kinh tế. Trước hết, các quan hệ kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật, mà còn quyết định toàn bộ nội dung, hình thức, cơ cấu và sự phát triển của nó. Như Mác đã viết : “ Trong thời đại nào cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa lại ra lệnh cho những điều kiện kinh tế được. Chẳng qua chế độ pháp luật về chính trị, cũng như về dân sự chỉ là cái việc nói lên, ghi chép lại quyền lực của những quan hệ kinh tế”. Sự lệ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở những mặt chủ yếu sau: Thứ nhất: cơ cấu nền kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định thành phần cơ cấu hệ thống các ngành luật. Thứ hai: tính chất nội dung của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định tính chất, nội dung của các quan hệ pháp luật, tính chất phương pháp điều chỉnh cua pháp luật. Thứ ba: chế độ kinh tế, thành phần kinh tế tác động quyết định tới sự hình thành, tồn tại các cơ quan, tổ chức và thể chế pháp lý, phương thức hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và thủ tục pháp lý. Bên cạnh đó, pháp luật cũng có tác động trở lại đối với kinh tế theo những xu hướng tích cực hoặc tiêu cực khác nhau: Tác động tích cực: nếu pháp luật được ban hành phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội thì nó tác động tích cực đến sự phát triển các quá trình kinh tế, cũng như cơ cấu của nền kinh tế, ở đây, sự tác động cùng chiều giữa pháp luật và các quá trình kinh tế xã hội (chẳng hạn khi pháp luật thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lí của nhà nước tạo điều kiện giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội…). Khi pháp luật thề hiện phù hợp với nền kinh tế: Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản ánh đúng trình độ kinh tế dẫn tới kinh tế phát triển, pháp luật tạo hành lang tốt cho kinh tế phát triển Ví Dụ: Pháp luật tư sản thời kì đầu, sau thắng lợi của cách mạng tư sản đã thể hiện rõ nội dung tiến bộ so với pháp luật phong kiến và có tác động tích cực góp phần xóa bỏ những quan hệ kinh tế - xã hội lỗi thời lạc hậu, cũng cố và thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ kinh tế - xã hội mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhưng đến thời kì đế quốc chủ nghĩa nó đã tác động tiêu cực đến các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội gây nhiều phản ứng mạnh mẽ, đe dọa trật tự xã hội tư bản. Để khắc phục nhược điểm đó các nhà nước tư bản đã nhiều lần điều chỉnh, phải thay đổi đường lối để pháp luật thích ứng được tình hình. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động dưới sự lảnh đạo của Đảng cộng sản, phản ánh đúng đắn trình độ phát triển của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cho nên pháp luật xã hội chủ nghĩa có nội dung tiến bộ và giữ vai trò tích cực trong việc tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội. Tác động tiêu cực: khi pháp luật không phù hợp với các quy luật pháp triển kinh tế - xã hội được ban hành do ý chí chủ quan của con người thì nó sẽ kìm hãm toàn bộ nền kinh tế.,hoặc một bộ phận của nền kinh tế (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, bằng các mệnh lệnh, quy định hành chính đối với các hoạt động kinh tế, đã làm nền kinh tế bị trì trệ dẩn đến khủng hoảng) Tuy nhiên; trong bước quá độ chuyển từ cơ chế kinh tế này sang cơ cấu kinh tế khác, các quan hệ kinh tế cũ chưa hoàn toàn mất đi, quan hệ kinh tế mới đang hình thành và phát triển nhưng chưa ổn định thì pháp luật có thể tác động kích thích sự phát triển kinh tế ở những mặt, lỉnh vực này nhưng lại kìm hãm sự phát triển kinh tế ở những mặt, lỉnh vực khác. Ví Dụ: pháp luật của xã hội phong kiến trong thời kì cuối lạc hậu, không phù hợp với nền sản xuất công nghiệp Sự tác động qua lại giữa kinh tế và pháp luật: Giữa pháp luật và kinh tế có mối liên hệ thưc tế với nhau, chúng tác động lẫn nhau. Pháp luật thể hiện vai trò của mình lên kinh tế và ngược lại. Sự tác động của pháp luật đối với kinh tế: Trong mối liên hệ với kinh tế pháp luật có vai trò chung nhất là sự biểu hiện về mặt pháp lí các mối quan hệ sản xuất thành một hệ thống các quan hệ pháp luật tạo nên trật tự pháp luật về kinh tế cho một nhà nước. Nhìn lại pháp luật trong cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, có thể thấy rằng sự tồn tại của pháp luật như một nhu cầu chủ quan bắt nguồn trực tiếp từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Pháp luật lúc đó được quan niệm như là phương tiện trong tay nhà nước nhằm để đẩy nhanh hay kìm hảm xóa bỏ một quan hệ kinh tế nào đó một cách duy ý chí. Ngược lại, trong cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, pháp luật trước hết tồn tại vì kinh tế, sinh ra trực tiếp từ những đòi hỏi của các quan hệ ki nh tế. Chỉ trong mối quan hệ không tách rời khỏi đòi hỏi và nhu cầu của kinh tế, pháp luật đến lượt mình trở thành phương tiện hàng đầu trong quản lí nhà nước về kinh tế, pháp luật trước hết tạo lập các khung hay còn gọi là hành lang pháp lí cho người quan xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trong cách chơi, đồng thời Nhà nước là chủ thể quản lí cũng dựa vào chuẩn mực đó điều khiển cách chơi. Các quan hệ kinh tế thị trướng rát đa dạng phong phú, năng động và phức tạp nhưng trong điều kiện nước ta lịa phải định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó lại cành nảy sinh nhu cầu điều chỉnh để loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, tùy tiện ngăn ngừa rối loạn, khủng hoảng, thiết lập trật tự ổn định. Chính vì thế Mac đã viết: “Tính được điều chỉnh và trật tự chính là hình thức cũng cố về mặt xã hội một phương thức sản xuất nhất định và do đó có sư giải phóng tương đối phương thức sản xuất đó khỏi sự ngẫu nhiên và tùy tiện thuần túy”. Một trong những phương tiện điều chỉnh hữu hiệu là pháp luật. Bằng sự điều chỉnh pháp luật mà tạo ra môi trương thuận lợi tin cậy và chính thức cho sự tồn tại và phát triển các quan hệ kinh tế. Tron thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi mà của cải vật chất chưa thực sự dồi dào, pháp luật chính là phương tiện thực hiện tốt nhất nguyên tắc làm theo năng lực hưởng theo lao động. Cùng với điều kiện đó, pháp luật là phương tiện thể chế hóa các quan hệ tiền - hàng, hoạch toán kinh tế, hợp đồng kinh tế, các quan hệ về lợi ích và đặc biệt là thể chế hóa và hoàn thiện cơ chế quản lí về mặt tổ chức và hoạt động, làm cho nó có hiệu lực thực thi trong quy mô toàn xã hội. Sự tác động của kinh tế đối với pháp luật: Trước tiên, phải khẳng định kinh tế là yếu tố quyết định pháp luật. Trong quá trình phát triển của xã hội, lực lượng sản xuất dư thừa lam cho năng suất lao đông tăng lên, xã hội co cua cải dư thừa hình thành giai cấp, các tập quán trở nên bất lực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Sự hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp không điều hòa được thì cùng với nhà nước pháp luật cũng ra đời. Như vậy, hình thái kinh tế thay đổi dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Theo Anghen chỉ đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, do sự phát triển của lực lượng sản xuất của của phân công lao động va năng suất lao động mà đã:…phát sinh nhu cầu phải tập hợp, dưới những quy tắc chung hành vi sản xuất, phân phối và trao đổi sản phẩm, những hành vi này tái diễn hang ngày và phải làm sao để mọi người phải phục tùng những quy định chung của sản xuất và trao đổi. Quy tắc đó thoạt nhiên là thói quen, sau thành pháp luật. Mặt khác, cũng từ những nguyên nhân kinh tế mà sự phát triển của nó đến một điều kiện nhất định đã phá vở những cơ sở tồn tại của chế độ thị tộc, làm cho chế độ nguyên thủy từ chổ không có mâu thuẫn dẫn đến một xã hội đầy tính đối kháng. Mối liên hệ thực tế giữa pháp luật và kinh tế ở nước ta: Ở nước XHCN trong đó có nước ta, hệ thống pháp luật được chia thành các ngành luật khác nhau trong đó có nganh luật kinh tế. Theo nghĩa truyền thống thì luật kinh tế là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với các cơ quan Nhà nước về quản lí kinh tế. Trong khoa học pháp lí khái niệm trên được hiểu là khái niệm luật kinh tế theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa này thì luật kinh tế là một ngành luật có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng. Từ khi pháp lệnh hợp đồng kinh tế hết hiệu lực và hợp đồng kinh tế (hợp đồng kinh doanh, thương mại) được điều chỉnh bằng nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau như luật dân sự, luật thương mại, luật đầu tư…Do ngành luật kinh tế cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn là “pháp luật kinh tế”. Theo nghĩa này thì luật kinh tế bao gồm tất cả các ngành luật không những điều chỉnh mối quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với cơ quan Nhà nước mà còn điều chỉnh các quan hệ xã hội khác, liên quan mật thiết với kinh doanh, thương mại như luật thương mại, luật dân sự, luật đầu tư, luật phá sản…Mặt khác trong thời gian gần đây, để phù hợp với việc VN gia nhập WTO, tổ chức thương mại thế giới, thì pháp luật cho hoạt động kinh doanh, thương mại phải tiếp tục phát triển để phù hợp với pháp luật và thong lệ quốc tế. Với tinh than trên thì khái niệm kinh doanh va hoạt động thương mại được quy định trong luật kinh doanh và thương mại được hiểu theo nghĩa rộng: kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay cung ứng dịch vụ/thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Về việc hình thành các tổ chức kinh tế đại diện cho các doanh nghiệp theo tưng giới, ngành là cần thiết, song do khâu quản lý nhà nước còn bất cập, chưa chặt chẽ nên nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh. Các hiện tượng tiêu cực như mạo đăng tài khoản, chiếm dụng trụ sở, chủ doanh nghiệp lợi dụng kẻ hở của pháp luật và những yếu kém trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế để thao túng không phải là cá biệt. Có những tổ chức pháp nhân tự ý lập doanh nghiệp trái phép, thậm chí lập ra các doanh nghiệp “ma”. Một số doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước, sau khi chạy được tư cách pháp nhân hoàn chỉnh thì lại không kinh doanh theo đăng kí pháp nhân, “vượt rào” trong sản xuất kinh doanh, hoặc thiếu năng động, tự chủ trong hoạch toán kinh tế, tổ chức sản xuất kinh doanh theo kiểu “lãi thì hưởng, lỗ thì nhà nước chịu”. Hoạt dộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp do tách rời sự quản lý của pháp luật hoặc do sự phân định chức năng chưa rõ rang nên có những bước chệch choạng nhất định. Việc thực hiện dân chủ về kinh tế trong nội bộ từng doanh nghiệp còn nhiều mặt yếu lớn, bất cập như thiếu công bằng, không bằng phẳng trong ăn chia, nhập nhằng giữa nguyên tắc phân phối lao động với phân phố theo vốn đầu tư nên dẫn đến tình trạng người lao động thiếu quan tâm đến sản xuất kinh doanh, đến sự phát triển và vị thế doanh nghiệp. Việc giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội còn nhiều mặt chưa hài hòa chưa thỏa đáng, nên chưa thực sự nâng cao tính tích cực, tự giác của chế định xã hội kinh tế nhằm xây dựng, bảo vệ tổ quốc nói chung và xây dựng hệ tống chính trị vững mạnh nói riêng trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Trở ngại lớn nhất là vấn đề hoạch toán kinh tế, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước tình trạng “lãi giả, lỗ thật” hoành hành, vì cơ chế tực hiện vẫn còn nhiều điểm chưa hoàn toàn đoạn tuyệt với cơ chế quan liêu bao cấp. Hơn nữa, hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực này chưa thực sự định hình, nhất là các bộ luật đang hình thành hoặc mới hình thành như luật đầu tư chứng khoán, Luật phá sản, Luật đình công…đang là vấn đề nhạy cảm, chưa được hiểu và chấp hành nhất quán, đầy đủ. Đặc biệt, việc đăng kí tư cách pháp nhân và chịu sự kiểm soát của pháp nhân trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một số tổ chức kinh tế và doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước cũng có sự bất cập, thậm chí coi nhẹ. Vai trò của pháp luật trong nền kinh tế Việt Nam: Vai trò của pháp luật đối với kinh tế xã hội chủ nghĩa: Trước hết cần phải khẳng định bất cứ sự đánh giá thấp nào về vai trò pháp luật XHCN đều không những đối lập với kinh nghiệm lịch sử mà còn không phù hợp quan điểm chủ nghĩa Mac – Lê nin và quan điểm của Đảng ta. Dự báo khoa học về pháp luật xã hội chủ nghĩa đã được C.Mac đề cập trong tác phẩm phê phán cương lĩnh Gôta. Sau đó Lê nin trong tác phẩm Nhà Nước Cách mạng đã chứng minh rằng dưới chủ nghĩa xã hội đòi hỏi khách quan pháp luật trước hết trong chính đặc điểm của kinh tế. Người viết: “Nếu không muốn rơi vào không tưởng thì sau khi lật đổ chủ nghĩa tư bản chớ nên nghĩ rằng người ta có thể tức khắc làm việc cho xã hội mà cần phải có một tiêu chuẩn pháp lí nào cả, vả chăng việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản không thể đem lại ngay lập tức cho những tiền đề kinh tế như vậy”. Pháp luật dưới chủ nghĩa xã hội với tư cách là người điều chỉnh việc phân phối sản phẩm và phân phối lao động giữa các thành viên trong xã hội. Như vậy theo V.I Lênin sự tồn tại của pháp luật xã hội chủ nghĩa do tính chất của lao động và phân phối sản phẩm. Chính vì thế Lênin viết tiếp: “ Ở giai đoạn đầu của mình chủ nghĩa cộng sản chưa thể chin muồi về mặt kinh tế”… do đó còn phải giữ lại chân trời hẹp của pháp luật tư sản, lấy trạng thái kinh tế để đi đến khẳng định nhu cầu phải có pháp luật và tính chất của nó. Pháp luật trong chủ nghĩa xã hội tồn tại trước hết vì đòi hỏi kinh tế đến lượt mình nó sẽ trở thành phương tiện quản lý Nhà nước, chỉ khi Nhà nước nhận thức được nhu cầu phải điều chỉnh bằng pháp luật, và ban hành pháp luật một cách khách quan phù hợp với nhu cầu phát triển tiến bộ của xã hội hoàn toàn không được quan điểm một cách đơn giản thuần túy pháp luật là phương tiện của Nhà nước trong tay Nhà nước có quyền ban hành theo ý chủ quan của mình. Thực tiển xây dựng chủ nghĩa xã hội trong 70 năm qua ngày càng làm sáng rõ luận điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin. Đảng ta từng bước khắc phục những thiếu sót và sai lầm về việc thực hiện pháp luật và khẳng định quản lí đất nước bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo lí. Nước ta, trong tiến trình đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trước bối cảnh lịch sử mới chúng ta có những thời cơ mới song phải đối mặt với những thách thức cực kì to lớn. Con đường phải vượt qua là phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; lấy chủ nghĩa Mac – Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nan cho hành động nâng cao hiệu lực quản lí của bộ máy nhà nước trên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội; tiếp tục bảo vệ các giá trị chuẩn mực và các giá trị văn hóa dân tộc Pháp luật đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lí kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chức năng tổ chức và quản lí kinh tế có pham vi rộng và phức tạp bao gồm nhiều mối quan hệ, nhiều vấn đề mà Nhà nước cần xác lập, điều tiết và giải quyết như: hoạch định các chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá cả…toàn bộ các quá trình tổ chức và quản lý từ hoạch định các chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch cho tới tổ chức thực hiện trên thực tế, kiểm tra giám sát tổng kết và đánh giá kết quả… đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của Nhà nước tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực. Do tính chất phức tạp (nhiều vấn đề, nhiều quan hệ cần giải quyết) và phạm vi rộng (trên quy mô toàn quốc) của chức năng quản lí kinh tế, Nhà nước không thể tham gia váo quá trình quản lý cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý hành chính – kinh tế. quá trình đó không thể thực hiện nếu như không dựa vào pháp luật. Chỉ pháp luật với những đặc thù của nó mới là cơ sở để đảm bảo cho Nhà nước thực hiện chức năng của mình trong lĩnh vực kinh tế Quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam những năm qua đã là một thực tiển sinh động khẳng định vai trò của pháp luật. Tình trạng thiếu hệ thống quy phạm pháp luật kinh tế, cũng như sự tồn tại quá lâu những văn bản quy phạm pháp luật kinh tế của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam và làm phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực như tham ô, lãng phí…Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, nhiều văn bản pháp luật kinh tế được ban hành kịp thời phù hợp tình hình mới đã có tác dụng thiết thực tăng cường hiệu lực của Nhà nước, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế mang lại những thành tựu bước đầu quan trọng. Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định nền kinh tế nước ta hiên nay là: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước…bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”. Đại hội cũng khẳng định phải tiếp tục “ đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gở mọi trở ngại về cơ chế chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và pháp luật bảo vê”. Với cơ mới, hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng của các quan hệ kinh tế, các chủ thể, lợi ích, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Nhà nước có nhiệm vụ bảo đảm cho nền kinh tế ổn định, phát triển, có tính tổ chức cao và theo định hướng đã chọn. Không thể quản lý theo lối cũ bằng các biện pháp hành chính mệnh lệnh mà phải đổi mới cơ chế quản lý. Điều 26 Hiến pháp quy định “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành các cấp”. Quản lý kinh tế bằng pháp luật là nguyên tắc hết sức quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Với những thuộc tính vốn có, pháp luật bảo đảm xác lập mối quan hệ kinh tế phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị trường bảo đãm vận hành cơ chế để ngăn chặn và xử lý những trường hợp vi phạm trong quản lý kinh doanh. Trước yêu cầu đó cần hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nước ta để tạo ra một môi trường pháp lý phù hợp cho sự phát triển kinh tế thị trường. Hiến pháp mới ban hành là văn bản cơ bản khẳng định những nguyên tắc nền tảng trên lĩnh vực kinh tế. Trước mắt cần khẩn trương sữa đổi, bổ sung và ban hành mới một hệ thống văn bản pháp luật kinh tế phù hợp với yêu cầu mới. Để đãm bảo thực sự sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm long tin giữa các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước với pháp luật, cần phải ban hành các văn bản luật do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội ban hành. Trước mắt cần phải sớm ban hành bộ luật dân sự và một số luật khác liên quan đến vấn đề sở hữu. Phát triển nền kinh tế có kế hoạch là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện kinh tế thị trường cần kết hợp kế hoạch với thị trường, bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích kinh tế toàn dân với lợi ích kinh tế của các tổ chức sản xuất kinh doanh. Các đơn vị kinh tế của các địa phương được quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm kết quả hoạt động của mình, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước. Để quản lý kinh tế hiệu quả Nhà nước cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật kinh tế, bộ máy quản lý kinh tế đã chuyển trọng tâm từ quản lý trực tiếp sang quản lý hành chính kinh tế ở tầm vĩ mô với những nội dung mới: Định hướng và tạo môi trường thuận lợi để nền kinh tế phát triển; Xây dựng một hệ thống pháp luật kinh tế đầy đủ để tạo ra tự do và bình đẳng trong hoạt động kinh tế của mọi thành phần kinh tế; Tổ chức cung cấp thông tin, dịch vụ cho các chủ thể tham gia kinh tế; Điều tiết kinh tế thị trường, hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường; Chăm lo phúc lợi xã hội cho mọi thành viên xã hội, chú ý quan tâm đến các đối tượng xã hội Pháp luật kinh tế : Mục tiêu tối hậu của công việc hoạch định chính sách và ban hành luật pháp là ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Nền pháp lý quốc gia nào cũng phải bảo đảm đạt mục tiêu đó. Luật pháp thoát thai từ nhu cầu thực tế hiện hữu. Chẳng hạn ngân sách quốc gia cần tiền để chi tiêu nên việc thu thuế là một nhu cầu. Tuy nhiên, đối tượng và phạm vi áp dụng luật phải hợp lý nhằm tránh tạo ra bất công và bất ổn xã hội. Không thỏa mãn một nhu cầu thực tế chắc chắn sẽ dẫn đến bất ổn, nhưng nếu để thỏa mãn nhu cầu đó mà tạo ra sự bất công thì cái giá phải trả cho sự bất ổn khác có khi cao hơn rất nhiều. Luật pháp thiết lập nền tảng giải quyết vấn đề tương lai thông qua cách thỏa mãn nhu cầu hiện tại. Chẳng hạn, luật cần phải qui định một hệ thống thu thuế như thế nào để người dân vui lòng nộp thuế. “Con người lý trí” sẽ cân nhắc giữa cái giá phải trả cho rủi ro từ việc trốn thuế với số tiền bỏ ra để nộp thuế. Tất nhiên, trốn thuế sẽ bị trừng phạt, nhưng nếu người dân cảm thấy nộp thuế theo cách luật ấn định là bất hợp lý, thì thà họ chọn rủi ro hơn là phải nộp thuế vì không muốn mất tiền cho sự bất hợp lý của chính phủ. Một đạo luật về thuế sẽ được xem là có hiệu quả nếu người dân, sau khi cân nhắc như vậy, chọn giải pháp nộp thuế thay vì trốn thuế. Những thập kỷ gần đây, nền học thuật pháp lý tại các quốc gia Âu - Mỹ đã phát triển một hướng nghiên cứu mới gọi là law and economics (tạm dịch là kinh tế - luật) kết hợp giữa kinh tế học vi mô và luật học để trở thành ngành khoa học độc lập, ứng dụng các phân tích kinh tế vào môi trường pháp lý. Một trong những thành tựu của kinh tế - luật là giúp các nhà hoạch định chính sách và soạn thảo luật pháp tính được phí tổn mà xã hội có thể phải gánh chịu khi áp dụng chính sách hoặc đạo luật cụ thể trong tương lai. Không cần phải nói, ai cũng biết bộ máy hành chính quan liêu gây thiệt hại như thế nào cho nền kinh tế quốc gia, vì chi phí xã hội phải trả cho sự bê trễ các hoạt động kinh tế là không thể tính hết. Chi phí xã hội rất đa dạng, chẳng hạn, liên quan đến luật thuế, có thể bao gồm cả giá trị thất thu khi người dân trốn thuế và cả số tiền cần thiết để xây dựng bộ máy chống và trừng phạt hành vi trốn thuế của người vi phạm. Một ví dụ khác: để giải quyết những vấn đề liên quan đến cạnh tranh thương mại không lành mạnh, thay vì dựa vào hệ thống tòa án hoặc cơ quan công quyền hiện hữu, có nơi người ta lại thành lập hai cơ quan mới là hội đồng cạnh tranh và cơ quan quản lý cạnh tranh. Hẳn nhiên, bộ máy hành chính nhà nước phải phình to hơn và chỉ để phục vụ riêng một lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội. Đây chắc chắn sẽ là mục tiêu chỉ trích của các nhà kinh tế - luật vì ngân sách quốc gia phải chịu đựng những khoản chi không cần thiết hoặc có thể giảm thiểu được. Kết quả tính toán mà kinh tế - luật đạt được chắc chắn sẽ có tác dụng khuyến cáo cơ quan hành pháp, chẳng hạn Bộ Kế hoạch và đầu tư hoặc những cơ quan cấp phép kinh doanh khác, tuân thủ tuyệt đối thời hạn luật định khi cấp phép. Mọi sự chậm trễ, vì bất cứ lý do gì, cũng khiến xã hội gánh chịu thêm phí tổn do nhà đầu tư mất tiền bạc, công sức, thời gian và cơ hội kinh doanh. Sự hành hạ người dân bằng những thủ tục hành chính nhiêu khê và vô lý tuy thỏa mãn cảm giác thích uy quyền của các quan chức, song lại gây nhiều tổn hại tính thành tiền cho xã hội và nền kinh tế. Kinh tế - luật xem việc giảm thiểu chi phí xã hội là cơ sở đánh giá tính hợp lý và hiệu quả của các đạo luật được ban hành. Những quốc gia Âu - Mỹ đã hùng mạnh càng hùng mạnh hơn vì họ biết tiết kiệm và kiểm soát chi phí xã hội. Nước ta nghèo nhưng lại không quan tâm vấn đề này nên ngày càng nghèo thêm, đó là chưa nói đến tác hại của nạn tham nhũng bất trị. Việc cai trị quốc gia, nếu cứ giữ theo lề lối và tập quán cũ như hiện tại, mà không nhanh chóng áp dụng những thành tựu khoa học hiện đại về kinh tế học và luật học, thì không thể nào tạo được sức bật cho nền kinh tế quốc gia trong cuộc cạnh tranh toàn cầu khốc liệt sắp tới. Trong quá trình xây dựng và phát triển của Việt Nam, Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI họp vào tháng 12 – 1986 như một mốc son lịch sử đánh dấu sự chuyển hướng co ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành mô hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế mới được Đại hội VI đề ra là: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần bằng pháp luật và các công cụ khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới kinh tế này lại tiếp tục khẳng định và hoàn thiện thêm vào Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII họp vào cuối tháng 6 – 1991. Cho đến nay, đường lối đổi mới kinh tế đã triển khai được 10 năm với 2 kế hoạch 5 năm 1986 – 1990 và 1kinh 991 – 1995. Mặc dù hiện nay trong nền kinh tế Việt Nam còn tồn tại nhiều khó khăn và thách đố so với thời kì trước khi tiến hành đổi mới thì đã có sự chuyển biến về chất, không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc. Những thành tựu dã đạt được trong 10 năm đổi mới vừa qua, nhất là trong 5 năm gần đây đã đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội. Đồng thời tạo thêm nhiều thế và lực để bước vào thời kì phát triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đại hội Đảng lần thứ VI tiến hành vào tháng 12/1986 đac đưa ra đường lối đổi mới kinh tế với nội dung cơ bản là: phát triển hàng hóa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, dưới sự quản lí của nhà nước bằng pháp luật và các công cụ khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ VII. Qua 10 năm triển khai đường lối đổi mới, tình hình kinh tế- xã hội nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng đồng thời cũng không còn ít khó khăn, có thể đánh giá, phân tích một cách khái quát động thái, thực trạng kinh tế- xã hội 10 năm đổi mới vừa qua với những thành tựu và hạn chế như sau: Những thành tựu đạt được: Động lực chủ yếu thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội trong kế hoạch kế hoạch 5 năm 1986-1990 không phải là đẩy mạnh đầu tư như trước đây mà là đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Để đổi mới cơ chế quản lí cũ trong những năm 1987-1989 đã ban hành hàng loạt chỉ thị, nghị quyết nhằm từng bước xác lập cơ chế quản lí mới. 5/4/1988 Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 về đổi mới quản lí trong nông nghiệp, chuyển từ khoán theo khâu sang khoán theo hộ trong công nghiệp. Hiện nay, đã hình thành hệ thống luật pháp thích hợp với kinh tế thị trường thề hiện trên các văn bàn pháp lí hiến pháp được sửa đồi và ban hành nhiều luật mới:Bộ luật hình sự, luật đầu tư nước ngoài, luật đầu tư trong nước, luật thương mại, luật doanh nghiệp, các luật về thuế, luật phá sản,...và hàng ngàn nghi định, thông tư… của chính phủ và các bộ các ngành.Có thể nói rằng cho đến nay hệ thống lật pháp về kinh tế thị trường ở Việt Nam đã hình thành về cơ bản tuy còn có những thiếu sót và hạn chế. Những luật này để bảo vệ quyền sở hữu của mọi thành phần kinh tế kể cả các doanh nghiệp nước ngoài, bảo đảm quyền kinh doanh cho mọi doanh nghiệp, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc của thị trường, thực hiện các cam kết của chính phủ Việt Nam với nước ngoài. Kết luận: Tóm lại kinh tế và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Chúng không thể tách rời nhau. Nếu kinh tế mà không có sự quản lý của pháp luật sẽ dẫn tới rối loạn và lệch hướng về kinh tế. Ngược lại, pháp luật sinh ra từ nhu cầu chủ quan, bắt nguồn trực tiếp từ những đòi hỏi kinh tế. Vì vậy, muốn nền kinh tế phát triển thì cần phải vận dụng tốt mối quan hệ này tức là pháp luật phải phù hợp với sự phát triển của kinh tế. Tư liệu tham khảo Pháp luật đại cương (PGS. TS. Đinh Văn Mậu) Giáo trình luật kinh tế Kinh tế xã hội Việt Nam – Thực trạng, xu thế và giải pháp Pháp luật Đại cương (TS. Lê minh Toàn)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxMối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế bài này tập hợp nhiều tư liệu có giá trị và rất có ích cho môn pháp luật đại cương.docx
Luận văn liên quan