Lời mở đầu
Thế giới ngày càng phát triển, con người ngày một tiến bộ và xã hội cũng đang dần đổi mới. Nhìn lại chặn đường đã qua, chúng ta không thể không nhắc đến cả một hệ thống các quy phạm đa dạng và phong phú mà nếu không có nó thì không biết xã hội này như thế nào. Trong hệ thống quy phạm ấy, nổi bật là hai loại quy phạm đã góp phần điều chỉnh phần lớn các hành vi của con người: Quy phạm pháp luật và quy phạm tôn giáo.
Ở Việt Nam, trong sáu vấn đề cấp bách trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ "thực dân và phong kiến thực hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương(*) để thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết". Quan điểm đó của Người đã được thừa hưởng và kế thừa xuyên suốt qua Hiến Pháp của Việt Nam. Ngoài ra ở rất nhiều quốc gia một tôn giáo được coi là quốc giáo như: Cộng hòa Italia (Công giáo chiếm 98% dân số), Vương quốc Arập-Xêút (Hồi giáo chiếm 100%) hay Vương quốc Thái Lan (Phật giáo chiếm 95%). Từ đó có thể thấy được sự quan trọng của tôn giáo đối với Nhà nước và Pháp luật.
Hoạt động tôn giáo ngày càng sôi động và đã trở thành một nhu cầu tinh thần không thể thiếu của phần lớn con người. Nhiều tôn giáo đã được mở rộng ra toàn cầu và ngày càng phổ biến như: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành Việc phát triển mạnh mẽ của tôn giáo đã củng cố niềm tin của giáo dân, góp một phần vào sự phát triển ổn định của xã hội. Song song những tác động tích cực đó, tôn giáo cũng có nhiều mặt hạn chế và tác động tiêu cực vì vậy vẫn còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận và tìm hiểu. Trong phạm vi kiến thức của mình chúng tôi xin trình bày một số vấn đề cơ bản về mối quan hệ phức tạp này trong tiểu luận “Mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo”.
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 16702 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Thế giới ngày càng phát triển, con người ngày một tiến bộ và xã hội cũng đang dần đổi mới. Nhìn lại chặn đường đã qua, chúng ta không thể không nhắc đến cả một hệ thống các quy phạm đa dạng và phong phú mà nếu không có nó thì không biết xã hội này như thế nào. Trong hệ thống quy phạm ấy, nổi bật là hai loại quy phạm đã góp phần điều chỉnh phần lớn các hành vi của con người: Quy phạm pháp luật và quy phạm tôn giáo.
Ở Việt Nam, trong sáu vấn đề cấp bách trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ "thực dân và phong kiến thực hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương(*) để thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết". Quan điểm đó của Người đã được thừa hưởng và kế thừa xuyên suốt qua Hiến Pháp của Việt Nam. Ngoài ra ở rất nhiều quốc gia một tôn giáo được coi là quốc giáo như: Cộng hòa Italia (Công giáo chiếm 98% dân số), Vương quốc Arập-Xêút (Hồi giáo chiếm 100%) hay Vương quốc Thái Lan (Phật giáo chiếm 95%). Từ đó có thể thấy được sự quan trọng của tôn giáo đối với Nhà nước và Pháp luật.
Hoạt động tôn giáo ngày càng sôi động và đã trở thành một nhu cầu tinh thần không thể thiếu của phần lớn con người. Nhiều tôn giáo đã được mở rộng ra toàn cầu và ngày càng phổ biến như: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành… Việc phát triển mạnh mẽ của tôn giáo đã củng cố niềm tin của giáo dân, góp một phần vào sự phát triển ổn định của xã hội. Song song những tác động tích cực đó, tôn giáo cũng có nhiều mặt hạn chế và tác động tiêu cực vì vậy vẫn còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận và tìm hiểu. Trong phạm vi kiến thức của mình chúng tôi xin trình bày một số vấn đề cơ bản về mối quan hệ phức tạp này trong tiểu luận “Mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo”.
(*)Xem một số định nghĩa ở trang 3.
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIỂU LUẬN
Mục đích của tiểu luận:
Làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật, tôn giáo.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật vào tôn giáo.
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo trong tình hình Việt Nam hiện nay.
Đóng góp của đề tài:
Làm sáng tỏ mối quan hệ, tác động giữa Pháp luật và Tôn giáo.
Đề xuất các quan điểm, kiến nghị nhằm hoàn chỉnh Pháp luật về Tôn giáo.
Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận này nghiên cứu chủ yếu mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo ở Việt Nam. Ngoài ra còn có tham khảo tài liệu về quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo của một số quốc gia khác.
Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung bài tiểu luận gồm 3 chương, 16 mục.
Một số khái niệm mở đầu:
Tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh xã hội một cách hư ảo, được một bộ phận quần chúng tin theo, tôn thờ theo những lễ nghi, lề luật chặt chẽ; nó còn là một thực thể xã hội được xác định dựa trên các dấu hiệu: có giáo lý, giáo luật, có hình thức tổ chức quản lý và hình thành cộng đồng tôn giáo, có cơ sở vật chất nhất định.
Hoạt động tôn giáo: Hoạt động tôn giáo là những hoạt động cụ thể của tổ chức tôn giáo và cá nhân tín đồ, chức sắc, nhà tu hành nhằm mục đích thỏa mãn các nhu cầu tôn giáo của cộng đồng và từng cá nhân.
Tín điều tôn giáo: Thường bao gồm những lí thuyết vê các đấng thiêng liêng, về thế giới, về con người và các quy tắc, quy định về trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ của những người theo tôn giáo đó, những nghi lễ, cách ứng xử cần thiết mà mỗi tín đồ cần thực hiện trong đời sống đạo của mình.
Đồng bào Lương: Người Công Giáo hay gọi những người không phải Kitô Giáo là Lương Dân.
Pháp luật: Là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho mọi người do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được Nhà nước bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội.
Quy phạm pháp luật: là quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để thể hiện ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị, mang tính bắt buộc chung và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
CHƯƠNG 2:
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ TÔN GIÁO
So sánh pháp luật và tôn giáo
Những điểm giống nhau giữa pháp luật và tôn giáo:
Tôn giáo và pháp luật đều sinh ra với tác dụng là những công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, chúng đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi con người, vì một xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
Những điểm khác nhau giữa pháp luật và tôn giáo:
Con đường hình thành của tôn giáo và pháp luật là khác nhau:
Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua những trình tự thủ tục chặt chẽ. Mỗi Nhà nước thường có những quy định về trình tự, thủ tục ban hành pháp luật khác nhau và đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt của các tổ chức, cá nhân tham gia. Pháp luật do Nhà nước ban hành dưới những hình thức chuyên biệt nhất định như tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Trong các Nhà nước đương đại, pháp luật tồn tại chủ yếu dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Luật…Về mặt cấu trúc, các quy phạm pháp luật còn được tập hợp thành các hệ thống lớn nhỏ khác nhau như chế định pháp luật, ngành luật, hệ thống luật pháp quốc gia.
Sống giữa thiên nhiên diệu kì và khắc nghiệt, con người luôn mong muốn hiểu biết về thiên nhiên, tìm cách khai thác thiên nhiên một cách hiệu quả nhất. Song, không phải khi nào con người cũng hiểu biết được hết về thiên nhiên nên đôi khi có một số lĩnh vực họ thần thánh hóa, linh thiêng hóa thiên nhiên.Tuy vậy, không chịu khuất phục trước thiên nhiên con người tìm cách lý giải, hóa giải những cái “thiêng” bằng tín ngưỡng, tôn giáo là thờ cúng, hiến tế và cầu xin, thậm chí là chinh phục, sai khiến những cái thiên đó. Dựa vào tôn giáo, con người tìm cách khống chế những cái “thiêng” của tự nhiên, cậy nhờ những đấng linh thiêng để làm lợi cho cuộc sống của con người, đồng thời cũng tự an ủi mình đối với những đau khổ, khó khăn, sự bất lực của bản thân trước tự nhiên và xã hội. Tôn giáo vì vậy mà được hình thành từ rất sớm và phát triển tới tận ngày nay và vẫn sẽ tiếp tục phát triển một thời gian dài trong xã hội loài người. Tôn giáo thường được thể hiện qua các cuốn kinh ví dụ như Kinh Coran (Hồi Giáo); Kinh cầu siêu, Kinh Kim cang (Đạo Phật)…
Pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp Nhà nước rất chặt chẽ, chính xác và nghiêm minh, trong đó có các biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc như tù có thời hạn, tù chung thân thậm chí tử hình. Trong khi đó, tín điều tôn giáo chỉ được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp mang tính xã hội như bị các tín đồ khác trong giáo lên án, tẩy chay hoặc nặng nhất là khai trừ khỏi giáo hội. Sự trừng phạt trong pháp luật luôn có giới hạn, các biện pháp và mức độ trừng phạt luôn được quy định chính xác trong pháp luật. Sự trừng phạt sẽ chấm dứt ngay sau khi chủ thể bị trừng phạt chấp hành xong hình phạt. Biện pháp trừng phạt trong tôn giáo thường ít khi được quy định trước mà tùy thuộc vào chủ thể áp dụng. Mặc dù các biện pháp trừng phạt trong tôn giáo ít nghiêm khắc hơn so với pháp luật; song, đôi khi lại có thể kéo dài vô tận. Ví dụ như sự lo lắng về luật nhân quả trong đạo Phật, người gây ra tội lỗi thường lo sợ đến một ngày nào đó họ sẽ phải trả giá cho những gì mình đã gây ra, vì thế họ luôn sống trong sự dằn vặt, lo sợ. Đây có thể coi như là một biện pháp trừng phạt vô hạn.
Các quy định của pháp luật thường chặt chẽ, chính xác và thống nhất hơn so với tín điều tôn giáo. Các quy định của pháp luật luôn phải được nhận thức và thực hiện, áp dụng chính xác, thống nhất trong phạm vi hiệu lực của nó. Sự chính xác đến từng chi tiết, từng mô hình hành vi là đòi hỏi cần thiết của pháp luật trong xã hội văn minh. Các quy định của tôn giáo trong nhiều trường hợp lại rất chung chung và không thống nhất nên đôi khi sự đánh giá và phạm vi áp dụng có sự thay đổi tùy thuộc vào từng tình huống cụ thể.
Trong một đất nước chỉ tồn tại một hệ thống pháp luật duy nhất do Nhà nước ban hành nhưng có thể tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau.
Mục đích của pháp luật mang tính hiện thực, còn tôn giáo là ngoài mục đích hiện thực, thường có lý tưởng cao xa hơn nhiều. Ví dụ: nghĩ về chốn thiên đàng, chuẩn bị cho kiếp sau…
Cách thức và cơ chế điều chỉnh của pháp luật và tôn giáo cũng có những điểm khác nhau. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, hành vi con người bằng cách quy định cho chủ thể tham gia các quan hệ đó các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Nói cách khác là quy định những hành vi được phép, những hành vi bắt buộc và những hành vi bị cấm đoán. Tôn giáo điều chỉnh hình vi của tín đồ của mình bằng cách quy định nghĩa vụ, bổn phận của họ, xác định cho họ những hành vi nên làm, không nên làm, cần phải làm, không được làm. Mặt khác, trong pháp luật, sự cho phép, bắt buộc hay cấm đoán luôn được xác định rất rõ ràng. Để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với chủ thể, Nhà nước quy định các biện pháp cưỡng chế sẽ được áp dụng trong bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật. Ngược lại, hầu hết những nghĩa vụ, bổn phận của tín đồ thường không mang tính xác định một cách chặt chẽ. Đó chỉ mới là những lời răn của tín điều tôn giáo đối với tín đồ: nên, không nên hay cần phải, không được…
Tác động qua lại giữa pháp luật và tôn giáo
Từ lâu, pháp luật và tôn giáo đã có mối quan hệ gắn bó, chúng tác động qua lại lẫn nhau: Tích cực và tiêu cực. Phần sau đây sẽ làm rõ những tác động cụ thể đó.
Tác động tích cực
Pháp luật tác động tích cực đến tôn giáo
Thứ nhất: Pháp luật hướng tôn giáo theo con đường đúng đắn. Khi một tôn giáo có các tư tưởng, quan niệm, giáo điều không phù hợp với xã hội hiện tại, gây cản trở, kìm hãm sự phát triển, tác động xấu đến xã hội thì pháp luật sẽ, bằng các biện pháp của mình, điều chỉnh hay loại bỏ.
Thứ hai: Pháp luật tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương chính sách của Nhà nước một cách nhanh chóng, đồng bộ và hiệu quả trên quy mô lớn. Ví dụ như: Điều 70 Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung 2001 đã quy định: “Công dân có quyền tự đo tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự đo tín ngưỡng, tôn giáo…”. Đã góp phần tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, pháp luật còn trừng trị những kẻ xâm hại đến lợi ích và bảo vệ quyền lợi của tôn giáo.
Tôn giáo tác động tích cực đến pháp luật
Thứ nhất: Tôn giáo giúp xây dựng pháp luật. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định thì rất nhiều tín điều tôn giáo được “pháp luật hóa”, chúng trở thành những quy phạm pháp luật được Nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Ví dụ như:
Trong đạo thiên chúa có quy định về việc kết hôn “một vợ, một chồng”, quy định này phù hợp với xã hội và được nâng lên thành luật trong Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam.
Thứ hai: Tôn giáo giúp pháp luật phát triển và hoàn thiện. Trong quá trình phát triển của tôn giáo, sẽ có lúc pháp luật dự báo trước được những nguy cơ tiềm tàn mà tôn giáo đem đến hay phát hiện ra những kẽ hở, thiếu sót trong trong pháp luật hiện hành. Sau đó, pháp luật sẽ tự điều chỉnh mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh, giảm thiểu những ảnh hưởng xấu và từ đó hoàn thiện mình hơn.
Thứ ba: Tôn giáo san sẻ một phần gánh nặng cho pháp luật.
Hầu hết các tôn giáo đều có các giáo lý, giáo điều luôn khuyên răn con người trong thế giới trần gian này phải biết làm điều thiện, giúp đỡ người khó khăn, tránh xa cái ác. Khi các giáo dân thực hiện theo các giáo lý đó thì đã phần nào đã giúp xã hội ổn định và phát triển.
Trong một số tôn giáo, cái chết chỉ là sự thay đổi về hình thái và địa điểm sinh sống, điều này giúp con người giải thoát khỏi nỗi sợ lớn nhất – cái chết, giúp họ dễ dàng chấp nhận cái chết hơn, ít lo sợ và sống vui vẻ hơn. Và xã hội sẽ bình yên hơn nếu mọi người đều sống mà không lo sợ về cái chết (điều này thì pháp luật không làm được).
Ngoài ra, do một số các tín điều tôn giáo đã được nâng thành luật nên chỉ cần giáo dân nghe theo các tín điều tôn giáo đó thì cũng giống như họ đang chấp hành pháp luật.
Từ các điều trên có thể thấy nhờ có tôn giáo mà công việc quản lý, kiểm soát xã hội của pháp luật đã nhẹ đi phần nào.
Tác động tiêu cực:
Về cơ bản pháp luật không đối lập, không ngăn cấm, không loại trừ tín điều tôn giáo, không tác động xấu đến tôn giáo. Trong quá trình phát triển của mình, đôi khi tôn giáo có các tín điều, giáo lý hay hoạt động không phù hợp, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, danh dự, tính mạng của cá nhân hoặc trái với đạo đức, văn hóa, không phù hợp với tiến bộ xã hội. Lúc đó pháp luật sẽ sẽ ngăn cấm, kìm hãm hoặc loại bỏ nó. Vì thế trong phần này, chúng tôi sẽ không đề cập cập về vấn đề pháp luật tác động tiêu cực đến tôn giáo.
Như đã trình bày ở trên, tôn giáo vẫn có những giáo lý gây ra không ít phiền toái, tác hại cho mỗi người và xã hội. Chưa kể là một số người đã cố tình lợi dụng tôn giáo để làm những điều xấu với mục đích vụ lợi vật chất hay chính trị, gây ra tổn hại về tiền của, tâm lý, ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường hay nghiêm trọng hơn là sức khỏe và tính mạng của con người. Phần sau đây sẽ chủ yếu trình bày những tác động tiêu cực của các hoạt động tôn giáo trong phạm vi Việt Nam là chủ yếu.
Thứ nhất: Vi phạm trong cách thức thành lập: Ở Việt Nam, những năm gần đây, hoạt động tôn giáo diễn ra không chỉ diễn ra sôi nổi trong phạm vi toàn quốc mà còn mở rộng quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài. Một số tôn giáo mới thâm nhập vào Việt Nam; nhiều tổ chức và hội đoàn tôn giáo trong nước phục hồi, phát triển mà không xin phép chính quyền. Các hoạt động tôn giáo tại Việt Nam khi chưa được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân và cho phép hoạt động thì sẽ phải tan rã, không được duy trì. Dù biết rằng hoạt động mà không xin phép như vậy là trái pháp luật nhưng một số cá nhân, tổ chức vẫn cứ làm.
Thứ hai: Một số lễ nghi tôn giáo vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Như đã biết, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, là nguồn giải tỏa những bức xúc, ham muốn mà con người không hoặc chưa thể thực hiện được. Tôn giáo dựng lên một đấng siêu nhiên có thể làm mọi thứ để mọi người có thể cầu xin giúp đỡ hay phù hộ. Đương nhiên, cùng với những thỉnh cầu thì sẽ cần cúng tế hay hiến tế. Trong lịch sử, đã ghi lại nhiều cuộc hiến tế của thổ dân Aztec. Và hiện nay một số ít các tôn giáo ở các quốc gia nghèo khó, lạc hậu vẫn còn duy trì hành động “giết người” này chỉ để “cầu mưa” hay “cầu mùa vụ”. Gần đây nhất là vụ hiến tế người hàng loạt ở Uganda, đối tượng bị hiến tế chủ yếu là trẻ em. Họ hiến tế đơn giản vì họ tin rằng khi dâng cúng máu và các bộ phận con người cho thần linh thì họ sẽ được “phù hộ” để nhanh chóng trở nên giàu có. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, tác động đến quyền cơ bản của con người mà không ai có thể xâm phạm: Quyền được sống.
Thứ ba: Vi phạm trong lĩnh vực in ấn, xuất bản sách kinh tôn giáo. Ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, số kinh sách, tài liệu, văn hóa phẩm tôn giáo dù được nhập vào trong nước rất nhiều, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của tín đồ nhưng việc in ấn xuất bản, nhập khẩu không xin phép vẫn tiếp tục diễn ra. Các ấn phẩm đó không có xuất xứ, không có giấy phép rõ ràng (chủ yếu do photocopy), từ đó vi phạm các luật và công ước về bản quyền.
Thứ tư: Vi phạm trong xây, sửa nơi thờ tự. Hiện nay, ở một số địa phương của Việt Nam việc sửa chữa, xây dựng mới nơi thờ tự (như: chùa, nhà thờ, tháp tôn giáo,…) mà không xin phép hay làm không đúng nội dung xin phép vẫn diễn ra rất nhiều. Mặc dù Điều 12 Nghị định số 26 của Chính phủ đã quy định: “Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở thờ tự, việc khôi phục công trình thờ tự bi hoang phế, bị hủy hoại do chiến tranh, do thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cơ sở thờ tự; việc xây dựng công trình thờ tự (nhà tượng, bia, đài, tháp và các công trình nhằm mục đích thờ tụ) phải được phép của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Một số giáo hội cố tình vi phạm, khi chính quyền phát hiện, giáo hội thường xin phạt hành chính để các công trình xây dựng sai vẫn tồn tại, làm cho mọi chuyện như đã rồi. Nếu chính quyền không chấp nhận thì họ dùng quần chúng tín đồ để gây sức ép, buộc chính quyền phải đồng ý. Điều này không những vi phạm pháp luật về xây dựng mà còn tác động xấu đến hành vi của giáo dân, vì họ sẽ nhìn từ hành vi của giáo hội mà thực hiện theo.
Thứ năm: Hoạt động tôn giáo bị lợi dụng để chống phá Nhà nước. Ngày nay, khi mà các hoạt động tôn giáo cũng đang toàn cầu hóa thì việc các thế lực thù địch sử dụng tôn giáo như một công cụ hữu hiệu để chống phá một quốc gia là hết sức phổ biến. Tôn giáo là một lĩnh vực khá nhạy cảm, có thể tạo ngòi nổ gây mất ổn định chính trị, xã hội. Đơn cử như Việt Nam chúng ta. Các thế lực thù địch bên cạnh hoạt động xuyên tạc chủ trương, chính sách tôn giáo của Nhà nước, còn tăng cường vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm dân chủ, nhân quyền; ráo riết kích động, chỉ đạo các thành phần cực đoan, phản động trong giáo hội chống đối, nhằm gây ra tình hình phức tạp về an ninh, trật tự dẫn tới xung đột chính trị ở các vùng tôn giáo, tạo cớ quốc tế hóa vấn đề tôn giáo để can thiệp, gây sức ép về kinh tế, chính trị - xã hội đối với đất nước. Điển hình là vụ linh mục Vũ Thanh Cảnh, chánh xứ Hàm Long, Hà Nội đã ký đơn cho số cầm đầu hội đoàn và nhiều giáo dân đi khiếu kiện đòi lại nhà nguyện Fatima 193 Bà Triệu. Hay ở Nghệ An giáo hội đã huy động hội viên các đoàn hội, đặc biệt là hội phụ nữ tập trung nằm lỳ hàng tháng trời để chiếm giữ, đòi lại khu đất nhà thờ Cầu Rầm…
Thứ sáu: Cá nhân, tổ chức lợi dụng niềm tin tôn giáo để trục lợi riêng. Một số cá nhân, tổ chức lợi dụng sự thiếu hiểu biết của giáo dân để tuyên truyền mê tín, dị đoan. Từ đó, lừa đảo hoặc tước đoạt vật chất, trục lợi cho riêng mình. Ở Kon Tum đã từng có một sự kiện được dựng lên để tuyên truyền mê tín dị đoan: “Đức Mẹ hiện hình”. Tin đồn “Đức Mẹ” hiện hình và nhập vào một bà cô chữa được bách bệnh nhanh chóng lan rộng. Vậy là mọi người đổ xô về để được “Đức Mẹ” chữa bệnh và tất nhiên là phải có “phí”. Sau đó, công an vào cuộc điều tra thì phát hiện rằng đây là “Đức Mẹ” giả và cũng không có chút kiến thức gì về khám chữa bệnh.
Tác động khác:
Trong các trường hợp đặc biết, có sự mâu thuẫn giữa pháp luật và tín điều tôn giáo trong việc giải quyết cùng một vấn đề thì các tín đồ, giáo dân và tổ chức tôn giáo phải thực hiện theo pháp luật, nghĩa là, theo nguyên tắc thì luật phải có tính tối cao so với các tín điều tôn giáo. Ở đây, pháp luật có tác động cưỡng chế đối với tôn giáo.
Ví dụ: Khi một cơ sở thờ tự nằm trong khu quy hoạch thì cũng phải chịu sự di dời của cơ quan chính quyền.
Vai trò của pháp luật đối với tôn giáo:
Giúp thể chế hóa đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng.
Pháp luật là công cụ quan trọng để thực hiện sự quản lí của Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Là phương tiện bảo vệ các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và hoạt động bình thường của các tôn giáo.
Là phương tiện đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia.
Mức độ ảnh hưởng của tôn giáo đối với pháp luật
Tại các quốc gia có một tôn giáo là quốc giáo:
Mức độ ảnh hưởng của tôn giáo đối với pháp luật là rất lớn. Pháp luật và tôn giáo phát triển cùng nhau, thống nhất với nhau. Chẳng hạn trong kinh Coran ở các nước theo đạo Hồi hoặc trong kinh Cựu Ước ở Israel, các tín điều tôn giáo thường có vị trí như pháp luật hoặc có liên kết rất mật thiết với pháp luật. Cho nên, ở một mức độ nào đó một số tín điều tôn giáo có sự thống nhất với pháp luật, tạo điều kiện để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, nhất là đối với việc giáo dục, đòi hỏi con người phải làm việc thiện, việc có ích cho cộng đồng và xã hội. Ở các quốc gia này, số người dân tham gia vào quốc giáo là rất lớn vì thế chỉ cần các tín đồ tôn giáo tuân theo các giáo lý thì cũng chính là họ đã tuân thủ pháp luật. Sau đây là bảng thống kê các quốc gia có dân số đông tham gia vào quốc giáo: (Xem bảng trang sau)
Tên quốc gia
Tôn giáo được xem là quốc giáo
Phần trăm người dân tham gia vào quốc giáo
Vương quốc Ảrập-Xêút
Hồi giáo
100%
Cộng hòa Hồi giáo Iran
Hồi giáo
99%
Nhà nước Hồi giáo Ápganixtan
Hồi giáo
99%
Cộng hòa Italia
Công giáo
95%
Vương quốc Thái Lan
Phật Giáo
95%
Vương quốc Campuchia
Phật Giáo
95%
Liên bang Mianma
Phật Giáo
89%
Cộng hòa dân chủ xã hội chủ nghĩa Srilanca
Phật giáo
70%
Vương quốc Anh
Anh giáo(**)
57%
(Nguồn: Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay – Trần Minh Thư)
(**) Anh giáo: được dùng để chỉ những giáo hội tuân giữ các truyền thống tôn giáo được thiết lập và phát triển bởi Giáo hội Anh Quốc.
Tại các quốc gia đa tôn giáo:
Ví dụ như: Việt Nam hiện nay là quốc gia có nhiều tôn giáo khác nhau và không có tôn giáo nào chiếm vị trí độc tôn. Tuy là quốc gia có nhiều tôn giáo cùng tồn tại song song với nhau nhưng mỗi tôn giáo vẫn có mức độ ảnh hưởng nhất định đối với pháp luật. Vẫn có những tín điều tôn giáo được nâng lên thành luật nhưng ảnh hưởng của tôn giáo đến sự hình thành của pháp luật không sâu sắc như các quốc gia được nêu ở phần trên.
Nhìn chung thì pháp luật và tôn giáo có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng hỗ trợ cho nhau cùng phát triển và hoàn thiện. Ở một phương diện nào đó, chúng đều là những công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, có một số chức năng tương tự nhau để duy trì, quản lí đời sống xã hội phục vụ mục đích chung của cộng đồng. Đương nhiên chúng cũng có nhiều khác biệt. Song, vì lượng kiến thức còn hạn hẹp và mối quan hệ giữa pháp luật, tôn giáo là khá phức tạp nên phần trình bày ở trên chỉ nêu lên được một số vấn đề cơ bản nhất giữa tôn giáo và pháp luật mà thôi.
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TẠI VIỆT NAM
Pháp luật về hoạt động tôn giáo phải quán triệt và cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về tôn giáo:
Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định: "Quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không phải bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước. Tuân thủ theo pháp luật là chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng". Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo, cần quán triệt sâu sắc những quan điểm đổi mới của Đảng về tôn giáo. Cụ thể là những quan điểm sau đây:
Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta khẳng định: "Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân lao động" và "Tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn giáo và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng. Chống mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân". Việc xác định "tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân", có nghĩa là Đảng ta đã xác nhận sự tồn tại của tôn giáo trong đời sống xã hội. Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách kịp thời và thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để bảo vệ và tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ hai, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển, tôn giáo nào cũng có hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực thể hiện ở chỗ giáo lý tôn giáo răn, dạy tín đồ hướng thiện, làm điều lành, tránh điều ác. Còn mặt tiêu cực thể hiện ở chỗ nó làm cho con người sống an phận và chấp nhận, thậm chí hạn chế họ tham gia vào quá trình cải tạo, xây dựng xã hội bằng các phương pháp cách mạng. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta đã khai thác, phát huy những mặt tích cực vốn có của đạo đức tôn giáo phục vụ cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Thừa nhận "đạo đức tôn giáo còn có nhiều điều phù hợp với quá trình xây dựng xã hội mới", có nghĩa là thừa nhận vai trò tích cực nhất định của tôn giáo với đời sống xã hội. Trước những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhiều vấn đề đạo đức xã hội đang bị xuống cấp nghiêm trọng thì những giá trị nhân bản, đạo đức và văn hóa vốn có trong văn hóa, đạo đức của các tôn giáo có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, đạo đức tốt đẹp trong đồng bào tôn giáo ở nước ta.
Thứ ba, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử đối với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối trật tự công cộng và xâm phạm an ninh quốc gia. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) chỉ ra một cách sâu sắc và cụ thể: Đảng, Nhà nước nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ, cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Pháp luật về hoạt động tôn giáo phải là công cụ đảm bảo sự bình đẳng giữa các tôn giáo:
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo cùng tồn tại, phát triển nên việc đối xử bình đẳng với các tôn giáo có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đoàn kết đồng bào theo đạo trong khối đại đoàn kết toàn dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các tôn giáo ở Việt Nam có quá trình hình thành, phát triển khác nhau, có tôn giáo nội sinh (như đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo), có tôn giáo ngoại nhập (như Công giáo, đạo Tin Lành, Phật giáo, Hồi giáo); mỗi tôn giáo đều có giáo lý, giáo luật và những lễ nghi thờ cúng khác nhau, nhưng tất cả đều tồn tại đan xen, hòa đồng trên cùng một địa bàn dân cư, không có sự kỳ thị và xung đột tôn giáo như ở một số quốc gia khác. Có thể lấy 2 đại lễ của Phật giáo và Thiên chúa giáo là Phật Đản và Noel làm ví dụ điển hình cho sự hòa hợp giữa các tôn giáo ở Việt Nam. Không phân biệt là người có theo tôn giáo hay không, cũng không hề có sự phân biệt giữa người dân theo các tôn giáo khác nhau. Tất cả đều hòa hợp, giao lưu vui vẻ trong các lễ hội tôn giáo, họ coi đó như một dịp để giao lưu văn hóa, học tập những nét đẹp của các tôn giáo khác, các bạn trẻ coi đó như một dịp để vui chơi, hẹn hò… Có được kết quả đó là nhờ chủ trương đối xử bình đẳng giữa các tôn giáo của Đảng và Nhà nước từ đó phần nào ngăn chặn, hạn chế được âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá Việt Nam. Thực tiễn công tác tôn giáo ở nước ta cho thấy, nếu không có chính sách, pháp luật bình đẳng với các tôn giáo, thì chúng ta không thể tập hợp được quần chúng tín đồ các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân và sẽ tạo kẽ hở để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá ta quyết liệt hơn. Thực tiễn công tác tôn giáo ở nước ta cho thấy, nếu không có chính sách, pháp luật bình đẳng với các tôn giáo, thì chúng ta không thể tập hợp được quần chúng tín đồ các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân và sẽ tạo kẽ hở để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá ta quyết liệt hơn.
Pháp luật về hoạt động tôn giáo vừa phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; vừa là phương tiện đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia, bài trừ mê tín, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc:
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền tự do đó được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, vì vậy là bất khả xâm phạm. Đối với đồng bào là tín đồ các tôn giáo, quyền tự do đó bao hàm quyền được hành đạo, quản đạo và truyền đạo. Các quyền này là một nhu cầu tinh thần của tín đồ, chức sắc và nhà tu hành các tôn giáo. Song trên thực tế, ở một số địa phương vẫn còn có hiện tượng ép buộc người dân bỏ đạo hoặc theo đạo. Sự vi phạm đó đã gây phản ứng bất bình trong nhân dân, tạo sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng kích động chống đối. Vì vậy, phải tiếp tục quán triệt quan điểm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo là rất cần thiết ở Việt Nam trong tình hình hiện nay. Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, pháp luật về hoạt động tôn giáo phải được xây dựng trên tinh thần thực sự tôn trọng đức tin (niềm tin) tôn giáo của tín đồ. Mỗi tín đồ đều có quyền tin vào những vị thần, vị thánh và thực hiện những nghi lễ thờ cúng theo giáo lễ, giáo luật của tôn giáo mà họ theo. Đối với những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng, hợp pháp của tín đồ và tổ chức tôn giáo cần phải được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ; chống mọi tư tưởng đánh đồng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo với hoạt động mê tín dị đoan, với hoạt động bị lợi dụng rồi gây khó khăn cho các hoạt động tôn giáo chính đáng, hợp pháp. Phải giúp cho các hoạt động tôn giáo phát huy được những mặt tích cực của mình thể hiện trong giáo lý, giáo lễ của tôn giáo. Tính hướng thiện, từ bi, bác ái, vì con người... của tôn giáo phải khơi dậy trong ứng xử giữa mọi người trong xã hội. Tạo điều kiện cho các tôn giáo tham gia cùng Nhà nước và xã hội giải quyết những vấn đề của xã hội đang đặt ra, như vấn đề xã hội hóa giáo dục, y tế, cứu trợ thiên tai... Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn phải giúp cho quần chúng tín đồ từng bước xóa bỏ đức tin mù quáng, luật lệ khắt khe trong tôn giáo. Các chính sách, pháp luật phải nhằm làm cho mọi người trong đó có đồng bào các tôn giáo có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, an toàn ngay trên trần thế, được phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì những niềm tin lệch lạc trong tôn giáo mới có thể bị đẩy lùi, những luật lệ tôn giáo khắt khe trói buộc con người mới bị dỡ bỏ. Tuyệt đối không dùng các biện pháp hành chính mệnh lệnh, sự trói buộc của pháp luật để cản trở, can thiệp thô bạo vào niềm tin tôn giáo. Xuất phát từ tình hình trên đây, đòi hỏi hệ thống pháp luật về hoạt động tôn giáo phải là công cụ sắc bén trong phòng ngừa, đấu tranh với mọi hành động lợi dụng tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước và hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam. Một nội dung nữa của quan điểm này đòi hỏi trong quá trình xây dựng hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo phải nghiêm cấm các hoạt động lợi dụng tôn giáo để hoạt động mê tín, dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc. Mê tín, dị đoan là hoạt động xuất phát từ nhận thức mù quáng, trái với giáo lý, giáo luật của các tôn giáo. Hoạt động này thường gây tâm lý hoang mang, tốn kém tiền của, lãng phí thời gian và ảnh hưởng đến sức khỏe cho nhân dân. Thời gian qua, các tôn giáo ở nước ta đều phục hồi phát triển mạnh mẽ, các hoạt động và lễ hội của các tôn giáo diễn ra rất sôi động với nhiều hình thức, nội dung phong phú ở các nơi thờ tự, góp phần đáp ứng nhu cầu của quần chúng tín đồ. Song bên cạnh đó, nhiều đối tượng xấu đã lợi dụng tiến hành các hoạt động mê tín để trục lợi (như xem bói, lên đồng, gọi hồn, chữa bệnh bằng phép lạ, sấm truyền những tin gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân...), phá hoại truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Vì vậy, pháp luật về hoạt động tôn giáo của ta phải có những quy định ngăn cấm và xử lý nghiêm với những người có hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để hoạt động mê tín, phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Pháp luật về hoạt động tôn giáo vừa không can thiệp vào nội bộ tôn giáo, vừa đảm bảo mọi hoạt động tôn giáo phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật:
Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước. Theo quan điểm cơ bản này, đối với những tôn giáo đã được Nhà nước cho phép hoạt động, Nhà nước không chỉ bảo hộ, tôn trọng mà còn không can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo. Nguyên tắc tôn trọng và không can thiệp vào nội bộ tôn giáo ở đây phải được hiểu là Nhà nước tôn trọng và không can thiệp vào công việc nội bộ hoàn toàn mang tính thuần túy tôn giáo, theo đúng đường hướng hành đạo của giáo hội và không trái với quy định trong giáo lý, giáo luật và giáo lễ của từng tôn giáo. Như vậy, để Nhà nước tôn trọng và không can thiệp vào công việc nội bộ của mình thì các tôn giáo phải hoạt động tuân thủ pháp luật và đúng với giáo lý, giáo luật. Nói cách khác, các tôn giáo phải hoạt động thuần túy tôn giáo, không được núp dưới danh nghĩa tôn giáo để làm những việc phi tôn giáo, vi phạm pháp luật. Để đáp ứng yêu cầu không can thiệp vào công việc nội bộ tôn giáo, đòi hỏi pháp luật không được quy định điều chỉnh những vấn đề thuần túy thuộc nội bộ tôn giáo.
Theo quan điểm này, quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo phải vừa thể hiện nguyên tắc Nhà nước tôn trọng và không can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo; vừa thể hiện nguyên tắc Nhà nước phải điều chỉnh mọi hoạt động tôn giáo theo hướng các hoạt động đó diễn ra trong khuôn khổ của pháp luật. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa quy định của pháp luật và quy định của giáo luật, thì vì lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc và vì lợi ích quốc gia do Nhà nước là đại diện, Nhà nước yêu cầu và đòi hỏi các tôn giáo phải tuân thủ, chấp hành theo quy định của pháp luật. Mọi người, mọi tổ chức phải sống và làm việc theo pháp luật, kể cả trong lĩnh vực hoạt động tôn giáo.
Pháp luật về hoạt động tôn giáo phải là công cụ xác định đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với giáo hội, đề cao lợi ích của Tổ quốc, dân tộc:
- Ở những quốc gia có tôn giáo phát triển, tất yếu sẽ xuất hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo hội tôn giáo. Mối quan hệ này phụ thuộc vào những điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ở mức độ khác nhau, Nhà nước điều chỉnh mối quan hệ này theo hướng có lợi và phục vụ tốt nhất cho mục đích chính trị của mình.
- Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa Nhà nước và các giáo hội tôn giáo luôn luôn được các Nhà nước phong kiến quan tâm điều chỉnh cho phù hợp với chính sách cai trị của triều đại mình. Trong các triều đại phong kiến Lý, Trần, đạo Phật được coi là quốc đạo, là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, kiến trúc, hội họa... Đến thời Hậu Lê và các triều đại phong kiến nhà Nguyễn, Nho giáo được đề cao; ngược lại Công giáo bị cấm gắt gao và bị coi là tà giáo. Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (1945), Nhà nước ta xác định rõ quyền tự do bình đẳng giữa các tôn giáo; coi tôn giáo là một thực thể khách quan, tồn tại trong quốc gia, đi cùng dân tộc và chịu sự quản lý của Nhà nước.
- Trước xu thế phục hồi, phát triển mạnh mẽ của tôn giáo hiện nay, ở một số nước trên thế giới, tôn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn vào công việc nội bộ của các quốc gia và giữ vai trò không nhỏ trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Còn tại Việt Nam, các tôn giáo đều phục hồi, phát triển nhanh chóng, các giáo hội đều tìm cách hoạt động tách khỏi sự quản lý của Nhà nước; ở nhiều địa phương, hoạt động truyền giáo được lồng ghép trong các hoạt động từ thiện nhân đạo.
- Từ thực tế trên cho thấy, trong quản lý Nhà nước với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam cần xác định rõ, mối quan hệ giữa Nhà nước với các giáo hội tôn giáo Việt Nam là mối quan hệ giữa cơ quan công quyền với các tổ chức xã hội; Nhà nước chỉ bảo hộ các tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận. Các tôn giáo phải hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, không được can thiệp vào công việc của Nhà nước, tách tôn giáo ra khỏi nhà trường. Nhà nước coi hoạt động tôn giáo là hoạt động riêng của công dân và không tài trợ kinh phí cho các hoạt động tôn giáo. Riêng đối với những cơ sở thờ tự của tôn giáo được xếp hạng là di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, thì Nhà nước có thể đầu tư kinh phí để trùng tu, tôn tạo, vì đây là những giá trị văn hóa không chỉ của tôn giáo mà còn của quốc gia, nên cần phải giữ gìn, bảo vệ.
- Các giáo hội tôn giáo ở Việt Nam khi quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài phải tuân thủ pháp luật và phải được sự đồng ý của Nhà nước. Ngược lại các tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ta, phải được sự đồng ý của Nhà nước và tuân thủ pháp luật Việt Nam.
- Bên cạnh các biện pháp kể trên, để pháp luật và tôn giáo có sự kết hợp chặt chẽ trong quản lý xã hội Việt Nam hiện nay cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở những vùng có nhiều đồng bào theo đạo sinh sống, nhất là đối với những vùng sâu, vùng xa khi mà trình độ dân trí còn thấp kém, lạc hậu. Đối với những người hành nghề tôn giáo, những vị chức sắc tôn giáo là những người có ảnh hưởng rất lớn đối với suy nghĩ và hành vi của các tín đồ, trong lĩnh vực tôn giáo cũng như trong những lĩnh vực khác của đời sống xã hội, thì Nhà nước càng cần phải động viên hay thậm chí là bắt buộc họ phải học tập, nhận thức đầy đủ nội dung, tinh thần các chính sách và quy định pháp luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước, phải gương mẫu trong việc thực hiện pháp luật. Bởi vì trong cuộc sống hằng ngày, những vị chức sắc tôn giáo như là những người thầy vạn năng của các tín đồ: họ chủ trì các buổi lễ tôn giáo, thuyết giảng giáo lý, giáo dục tín đồ, là người phân xử các tranh chấp, mâu thuẫn trong cộng đồng tín đồ… Các tín đồ có thể gặp họ để nhờ phân xử giải quyết bất kỳ một việc gì từ việc tranh chấp trong gia đình, nuôi dạy con cái, khuyên nhủ về cách xử sự hằng ngày… Do vậy, họ cần phải nắm vững pháp luật, biết kết hợp hài hòa giữa pháp luật và tín điều tôn giáo để trực tiếp giải quyết, quyết định những công việc có ảnh hưởng lớn đến cả cộng đồng cũng như đối với từng tín đồ của cộng đồng mình.
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
1
Chương 1: Một số vấn đề chung về pháp luật và tôn giáo
2
Chương 2: Mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo
4
So sánh pháp luật và tôn giáo
4
Những điểm giống nhau giữa pháp luật và tôn giáo
4
Những điểm khác nhau giữa pháp luật và tôn giáo
4
Tác động qua lại giữa pháp luật và tôn giáo
6
Tác động tích cực
6
2.2.1.1. Pháp luật tác động tích cực đến tôn giáo
6
2.2.1.2. Tôn giáo tác động tích cực đến pháp luật
7
Tác động tiêu cực
8
Tác động khác
11
Vai trò của pháp luật đối với tôn giáo
11
Mức động ảnh hưởng của tôn giáo đối với pháp luật
11
2.3.1. Tại các quốc gia có một tôn giáo là quốc giáo
11
2.3.2. Tại các quốc gia đa tôn giáo
13
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về tôn giáo tại Việt Nam
14
Pháp luật về hoạt động tôn giáo phải quán triệt và cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về tôn giáo
14
Pháp luật về hoạt động tôn giáo phải là công cụ đảm bảo sự bình đẳng giữa các tôn giáo
16
Pháp luật về hoạt động tôn giáo vừa phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; vừa là phương tiện đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia, bài trừ mê tín, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc
17
Pháp luật về hoạt động tôn giáo vừa không can thiệp vào nội bộ tôn giáo, vừa đảm bảo mọi hoạt động tôn giáo phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật
19
Pháp luật về hoạt động tôn giáo phải là công cụ xác định đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với giáo hội, đề cao lợi ích của Tổ quốc, dân tộc
20
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo.doc