ĐẶT VẤN ĐỀ 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Vị trí, chức năng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Chính phủ
1.1 Vị trí của Quốc hội và Chính phủ . 1
1.2 Chức năng của Quốc hội và Chính phủ . 1
1.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Chính phủ .1
2. Mối liên hệ trong tổ chức 2
3. Mối liên hệ trong trong hoạt động
3.1 Về phương thức hoạt động .3
3.2Trong hoạt động lập pháp . 3
3.3 Trong hoạt động giám sát . 4
3.4 Trong hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng khác của đất nước
3.4.1 Về hoạt động đối nội . .8
3.4.2 Về hoạt động đối ngoại 8
KẾT LUẬN . .8
Những nhược điểm trong Hiến pháp 1980 về cách tổ chức bộ máy nhà nước và cách tổ chức quyền lực nhà nước chính là một trong những nguyên nhân để ban hành Hiến pháp 1992. Hiến pháp 1992 ra đời cùng các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước mà trong đó có quy định cụ thể về vị trí, vai trò, chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước cho phù hợp với tình hình mới của đất nước là một dấu mốc, là bước đổi mới nhằm hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước, hoàn thiện hơn việc xác lập mối quan hệ pháp lý giữa Quốc hội và Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Vị trí, chức năng, nguyên tắc tổ chức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ
Vị trí của Quốc hội và Chính phủ
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” (Điều 83).
“Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” (Điều 109).”
Chức năng của Quốc hội và Chính phủ:
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Chính phủ
Quốc hội và Chính phủ đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Như vậy Quốc hội và Chính phủ đã được tổ chức lại theo hướng giảm tính chất tập thể, tăng cường trách nhiệm của Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các đại biểu Quốc hội và các thành viên khác của Chính phủ. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội và Chính phủ theo Hiến pháp 1992 cũng được xác lập lại cho phù hợp với tính chất của hai cơ quan này. Chế định hội đồng Nhà nước đã được sửa đổi, phân tách thành chế định Chủ tịch nước và chế định Ủy ban thường vụ Quốc hội như trong Hiến pháp 1959. Việc đổi mới về cơ cấu tổ chức Quốc hội được thể hiện từ việc bầu cử đại biểu Quốc hội đến việc cơ cấu thành lập các cơ quan của Quốc hội với những quyền hạn được quy định cụ thể hơn, đầy đủ hơn. Đồng thời việc quy định rõ trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội và các đoàn đại biểu Quốc hội, trách nhiệm tập thể của Chính phủ, trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của Quốc hội và Chính phủ.
Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong Hiến pháp 1992 đã được cải thiện một bước nhằm khẳng định cách tổ chức quyền lực của Nhà nước ta là nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước đúng theo tinh thần của Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đặt ra. Trong mối quan hệ đó Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Do vậy, Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội , Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Tuy nhiên, Chính phủ cũng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Vai trò lãnh đạo cơ quan cao nhất nắm quyền hành pháp đã được thiết lập lại. Điều này khẳng định tính độc lập tương đối của Chính phủ với Quốc hội trong vị trí của mình.
I. Mối liên hệ trong tổ chức
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức chính phủ năm 1992, Quốc hội thành lập ra Chính phủ. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao gồm: Bộ và cơ quan ngang Bộ (Điều 2 Luật tổ chức Chính phủ năm 1992). Số lượng các Bộ, việc thành lập, giải tán các bộ do Quốc hội quyết định. Quốc hội bầu ra Thủ tướng Chính phủ trong các đại biểu của mình. Các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội, do Chủ tịch nước bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng và được Quốc hội phê chuẩn (Điều 84 Hiến pháp 1992 và điều 2 Luật tổ chức Chính phủ năm 1992). Tuy Chính phủ do Quốc hội lập ra nhưng với việc lựa chọn danh sách các thành viên, Chính phủ đã khẳng định vị trí tương đối độc lập của mình. Đây là một quy định khác so với Hiến pháp 1980. Theo Hiến pháp 1980, Quốc hội bầu và bãi miễn Chủ tịch cũng như toàn bộ các thành viên khác của Hội đồng bộ trưởng. Tuy nhiên, việc quy định mới này không làm thay đổi bản chất mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ. Ở nước ta Quốc hội vừa có quyền lập hiến vừa có quyền lập pháp. Do vậy Quốc hội không những có quyền thành lập ra Chính phủ mà còn có quyền định ra cơ cấu và những nguyên tắc hoạt động của cơ quan này.
II. Mối liên hệ trong trong hoạt động
Về phương thức hoạt động:
Quốc hội thông qua phương thức chính là các kì họp của Quốc hội. Quốc hội họp thường kì mỗi năm hai lần. Nhưng Hiến pháp 1992 cũng như các Hiến pháp trước đều ghi nhận chính phủ có quyền triệu tập kì họp bất thường của Quốc hội. Điều 28 Hiến pháp 1946 quy định : “Ban thường vụ có thể triệu tập Nghị viện nếu 1/3 Nghị viện hoặc Chính phủ yêu cầu”. Điều 46 Hiến pháp 1959 quy định: “Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể triệu tập cuộc họp bất thường theo quyết định của mình hay theo yêu cầu của Hội đồng Chính phủ hay của ít nhất là 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội”. Điều 85 Hiến pháp 1980 cũng lại khẳng định : “Hội đồng Nhà nước có thể triệu tập Quốc hội bất thường theo quyết định của mình, theo yêu cầu của Hội đồng bộ trưởng hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội” Và đến Hiến pháp 1992, quyền yêu cầu triệu tập Quốc hội bất thường của Chính phủ một lần nữa được khẳng định tại Điều 86: “Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập cuộc họp bất thường”. Quyền năng này của Chính phủ không chỉ được ghi nhận ở Việt Nam mà hầu hết các nước theo chính thể Đại nghị hay Tổng thống đều ghi nhận.
8 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10491 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành của Việt Nam., để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những nhược điểm trong Hiến pháp 1980 về cách tổ chức bộ máy nhà nước và cách tổ chức quyền lực nhà nước chính là một trong những nguyên nhân để ban hành Hiến pháp 1992. Hiến pháp 1992 ra đời cùng các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước mà trong đó có quy định cụ thể về vị trí, vai trò, chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước cho phù hợp với tình hình mới của đất nước là một dấu mốc, là bước đổi mới nhằm hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước, hoàn thiện hơn việc xác lập mối quan hệ pháp lý giữa Quốc hội và Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Vị trí, chức năng, nguyên tắc tổ chức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ
Vị trí của Quốc hội và Chính phủ
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” (Điều 83).
“Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” (Điều 109).”
Chức năng của Quốc hội và Chính phủ:
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Chính phủ
Quốc hội và Chính phủ đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Như vậy Quốc hội và Chính phủ đã được tổ chức lại theo hướng giảm tính chất tập thể, tăng cường trách nhiệm của Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các đại biểu Quốc hội và các thành viên khác của Chính phủ. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội và Chính phủ theo Hiến pháp 1992 cũng được xác lập lại cho phù hợp với tính chất của hai cơ quan này. Chế định hội đồng Nhà nước đã được sửa đổi, phân tách thành chế định Chủ tịch nước và chế định Ủy ban thường vụ Quốc hội như trong Hiến pháp 1959. Việc đổi mới về cơ cấu tổ chức Quốc hội được thể hiện từ việc bầu cử đại biểu Quốc hội đến việc cơ cấu thành lập các cơ quan của Quốc hội với những quyền hạn được quy định cụ thể hơn, đầy đủ hơn. Đồng thời việc quy định rõ trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội và các đoàn đại biểu Quốc hội, trách nhiệm tập thể của Chính phủ, trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của Quốc hội và Chính phủ.
Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong Hiến pháp 1992 đã được cải thiện một bước nhằm khẳng định cách tổ chức quyền lực của Nhà nước ta là nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước đúng theo tinh thần của Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đặt ra. Trong mối quan hệ đó Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Do vậy, Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội , Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Tuy nhiên, Chính phủ cũng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Vai trò lãnh đạo cơ quan cao nhất nắm quyền hành pháp đã được thiết lập lại. Điều này khẳng định tính độc lập tương đối của Chính phủ với Quốc hội trong vị trí của mình.
I. Mối liên hệ trong tổ chức
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức chính phủ năm 1992, Quốc hội thành lập ra Chính phủ. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao gồm: Bộ và cơ quan ngang Bộ (Điều 2 Luật tổ chức Chính phủ năm 1992). Số lượng các Bộ, việc thành lập, giải tán các bộ do Quốc hội quyết định. Quốc hội bầu ra Thủ tướng Chính phủ trong các đại biểu của mình. Các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội, do Chủ tịch nước bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng và được Quốc hội phê chuẩn (Điều 84 Hiến pháp 1992 và điều 2 Luật tổ chức Chính phủ năm 1992). Tuy Chính phủ do Quốc hội lập ra nhưng với việc lựa chọn danh sách các thành viên, Chính phủ đã khẳng định vị trí tương đối độc lập của mình. Đây là một quy định khác so với Hiến pháp 1980. Theo Hiến pháp 1980, Quốc hội bầu và bãi miễn Chủ tịch cũng như toàn bộ các thành viên khác của Hội đồng bộ trưởng. Tuy nhiên, việc quy định mới này không làm thay đổi bản chất mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ. Ở nước ta Quốc hội vừa có quyền lập hiến vừa có quyền lập pháp. Do vậy Quốc hội không những có quyền thành lập ra Chính phủ mà còn có quyền định ra cơ cấu và những nguyên tắc hoạt động của cơ quan này.
II. Mối liên hệ trong trong hoạt động
Về phương thức hoạt động:
Quốc hội thông qua phương thức chính là các kì họp của Quốc hội. Quốc hội họp thường kì mỗi năm hai lần. Nhưng Hiến pháp 1992 cũng như các Hiến pháp trước đều ghi nhận chính phủ có quyền triệu tập kì họp bất thường của Quốc hội. Điều 28 Hiến pháp 1946 quy định : “Ban thường vụ có thể triệu tập Nghị viện nếu 1/3 Nghị viện hoặc Chính phủ yêu cầu”. Điều 46 Hiến pháp 1959 quy định: “Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể triệu tập cuộc họp bất thường theo quyết định của mình hay theo yêu cầu của Hội đồng Chính phủ hay của ít nhất là 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội”. Điều 85 Hiến pháp 1980 cũng lại khẳng định : “Hội đồng Nhà nước có thể triệu tập Quốc hội bất thường theo quyết định của mình, theo yêu cầu của Hội đồng bộ trưởng hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội” Và đến Hiến pháp 1992, quyền yêu cầu triệu tập Quốc hội bất thường của Chính phủ một lần nữa được khẳng định tại Điều 86: “Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập cuộc họp bất thường”. Quyền năng này của Chính phủ không chỉ được ghi nhận ở Việt Nam mà hầu hết các nước theo chính thể Đại nghị hay Tổng thống đều ghi nhận. Các kì họp bất thường của Quốc hội nhằm để Quốc hội và Chính phủ giải quyết những vấn đề xảy ra trong hoàn cảnh đặc biệt. Ở nước ta đây chính là sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nắm quyền lập pháp và cơ quan nắm quyền hành pháp. Còn ở các nước theo chế độ tam quyền phân lập thì cho đây là sự sắp xếp tinh vi, khéo léo của hành pháp nhằm chế ngự lập pháp.
Trong hoạt động lập pháp
Hoạt động lập pháp của Quốc hội ngày càng có chất lượng hơn nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội và Chính phủ. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, nhưng Chính phủ là cơ quan có sáng kiến về lập pháp. Sáng kiến về quyền lập pháp và sáng kiến đề nghị luật. Đây là một quyền năng rất quan trọng mà Nhà nước giao cho Chính phủ trong chế độ Đại nghị. Ở chế độ Đại nghị, Chính phủ được quyền trình dự án luật trước Quốc hội và các đạo luật được Quốc hội thông qua đã khẳng định vị trí rất lớn của Chính phủ trong việc thực hiện sáng quyền lập pháp. Ở chính thể Cộng hòa Tổng thống, mặc dù hành pháp không có sáng quyền lầp pháp nhưng trên thực tế, Tổng thống can thiệp rất sâu trong lĩnh vực nàythông qua các bản thông điệp mà Tổng thống đọc trước Quốc hội hàng năm và thông qua ảnh hưởng của Tổng thống - Thủ lĩnh của Đảng chiếm đa số trong Hạ Nghị viện.
Xuyên suốt 4 bản Hiến pháp, Chính phủ Việt Nam đều có quyền trình dự án luật trước Quốc hội. Ngoài Chính phủ là chủ thể của sáng quyền lập pháp, Điều 87 Hiến pháp 1992 và Điều 62 Luật tổ chức Quốc hội năm 1992 còn quy định : “Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đòng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận, các đại biểu Quốc hội cũng có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội. Đại biểu thực hiện quyền kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành”. Quy định này là hợp lý bởi Chính phủ thống nhất quản lý về mọi mặt của đời sống xã hội nên Chính phủ có thể thấy những bất cập trong sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác Chính phủ có đầy đủ chuyên viên và hệ thống các cơ quan chuyên môn nắm vững tình hình thực tiễn hơn Quốc hội. Trong số 36 luật và 41 pháp lệnh đã được Quốc hội khoá IX (1992-1997) thông qua thì tuyệt đại đa số là do Chính phủ soạn thảo và trình dựa án luật, pháp lệnh trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Chính phủ ngoài sáng lập quyền lập pháp đối với các đạo luật thường còn có thế sử dụng sáng quyền lập pháp đối với các đạo luật về ngân sách bởi Chính phủ “thống nhất việc xây dựng, phat triển kinh tế quốc dân, thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quản lí và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc về sở hữu quốc dân” (Điều 112 Hiến pháp 1992). Tuy trong Hiến pháp 1992 không ấn định rõ cơ quan nào có thẩm quyền sáng quyền lập pháp về ngân sách Nhà nước trong trường hợp cần thiết. Sáng quyền về các đạo luật nói chung và ngân sách nói riêng là biểu hiện của sự tương quan giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Trong hoạt động giám sát:
Việc kiểm tra giám sát đối với hoạt động của Chính phủ là một hoạt đọng đặc thù của Quốc hội.Ở Hiến pháp 1946, quyền giám sát đối với Chính phủ thuộc ban Thường vụ Quốc hội, đến Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 quyền này đã được chính thức ghi nhận là do Quốc hội trực tiếp thực thi. Thực hiệnhoạt động giám sát, Quốc hội mong muốn Hiến pháp cũng như các đạo luật khác đựơc tuân thủ một cách triệt để nhằm bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN, góp phần quan trọng tạo nên sự ổn định trật tự an toàn và kỉ cương của xã hội.Theo Hiến pháp 1992, Quốc hội là cơ quan có quyền giám sát tối cao nên Quốc hội có quyền giám sát đôi với mọi cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước từ Trung ương tới Địa phương. Nhưng để trách sự chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ này, Quốc hội chỉ tập trung giám sát việc chấp hành Hiến pháp, Luật, các nghị quyết của Quốc hội đối với các cơ quan Nhà nước Trung ương.
Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác của Chính phủ và của các cơ quan nhà nước khác. Hàng năm, Chính phủ phải báo cáo tình hình hoạt động của mình trước quốc hội ít nhất một lần. Điều 77 Luật tổ chức Quốc hội năm 1992 quy định: “Tại kì họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo công tác từ kì họp cuối cùng của Quốc hội khóa trước đến kì họp thứ nhất của Quốc hội khóa mới. Qua báo cáo của Chính phủ, Quốc hội thực hiện được quyền giám sát tối cao đối với mọi hoạt động của tình hình kinh tế - xã hội trong phạm vi cả nước.
Hình thức giám sát quan trọng nhất của Quốc hội là trong các kỳ họp.Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo của Thủ tướng Chính phủ tại kì họp cuối năm. Để Quốc hội có cơ sở vững chắc khi xem xét báo cáo, theo quyết định của Chủ tịch Quốc hội hoặc những người điều khiển phiên họp, báo cáo của Chính phủ có thể chuyển cho các Uỷ ban hữu quan của Quốc hội để thẩm tra, nghiên cứu trước. Khi thấy những vấn đề cấp thiết phải có điều tra để kết luận, Quốc hội có thể thành lập Uỷ ban điều tra đặc biệt (gồm các đại biểu Quốc hội và các chuyên viên thuộc lĩnh vực cần kiểm tra). Sau làm việc Uỷ ban sẽ báo cáo kết quả trước Quốc hội.
Hình thức giám sát thứ hai của Quốc hội đối với Chính phủ là thông qua vai trò của các đại biểu Quốc hội. Chất vấn là một hình thức giám sát hữu hiệu nhất. Do vậy cả bốn bản Hiến pháp đều quy định hình thức này. Mục đích chất vấn không chỉ nhằm thu thập thông tin mà mục đích cuối cùng là nhằm quy kết trách nhiệm của chủ thể bị chất vấn. Kết quả trả lời chất vấn dẫn đến kết quả kết luận áp dụng hay không áp dụng các biện pháp kỉ luật đối với cơ quan hay đối với ngừơi bị chất vấn.
Trong thời gian Quốc hội họp, đại biểu Quốc hội gửi chất vấn đến chủ tịch kì họp Quốc hội. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời trươc Quốc hội kì họp đó. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại các kì họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản (Điêu 42 Luật tổ chức Quốc hội năm 1992). Quốc hội phải bố trí thời gian để các đại biểu pháp biểu ý kiến về việc trả lời chất vấn. Đại biểu Quốc hội có quyên chất vấn bất cứ vấn đề gì thuộc thẩm quyền của Quốc hội không phụ thuộc vấn đề đó nêu ra trong nội dung chương trình của kì họp hay không. “Trong thời gian giữa hai kì họp Quốc hội, chất vấn được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung câu trả lời thì có quyền đề nghị chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận truớc Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn” (Điều 42 Luật tổ chức Quốc hội năm 1992)
Hình thức giám sát thứ ba của Quốc hội đối với Chính phủ là giám sát với các Uỷ ban của Chính phủ. Khoản 9 Điều 84 Hiến pháp 1992 quy định: “Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội”. Trước đây thẩm quyền này thuộc Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước. Điều 53 Hiến pháp 1959 quy định: Uỷ ban thường trực Quốc hội “sửa đổi hoặc bãi bỏ những Nghị quyết, Nghị định, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ trái với Hiến pháp, Luật và pháp lệnh”. Điều 100 Hiến pháp 1980 cũng quy định: “Hội đồng nhà nước đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Nghị định, Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến pháp, Luật và pháp lệnh”. Nhưng theo Hiến pháp 1992, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ có quyền đình chỉ các văn bản của Chính phủ trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội hủy bỏ các văn bản đó. Điều này nhấn mạnh tính quyền lực cao nhất của Quốc hội nước ta. Ở các nước tư bản, việc xem xét các văn bản của Chính phủ có phù hợp với Hiến pháp hay không thuộc thẩm quyền của một cơ quan đặc biệt. Đó là Hội đồng bảo hiểm, Tòa án Hiến pháp hay Tòa án tối cao. Như vậy, trong quan hệ của Quốc hội với Chính phủ, với các quyết định của mình, Quốc hội có tác động mạnh vào hoạt động của Chính phủ và cũng tạo điều kiện tốt cho Chính phủ thực hiện tốt chức năng của mình.
Ngoài các chức năng giám sát nêu trên, hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ còn do các cơ quan của Quốc hội đảm nhiệm. Đó là Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban khác của Quốc hội. Điều 91 Hiến pháp 1992 quy định: “Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ”. Hội đồng dân tộc và ủy ban của Quốc hội cá quyền giám sát hoạt động của Chính phủ về lĩnh vực mình phụ trách. Điều 32, 33 Luật tổ chức Quốc hội năm 1992 có quy định: Khi cần thiết, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội cử các thành viên của mình tới các cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề mà Hội đồng, Ủy ban quan tâm.Cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để thành viên của Hội đống và Uỷ ban thực hiện nhiệm vụ. Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban có quyền kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ về nhữn vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng, Ủy ban. Người nhận kiến nghị có trách nhiệm xem xét, trả lời trong thời gian chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận đựơc kiến nghị. Không trả lời hoặc trong trường hợp Hội đồng, Uỷ ban không tán đồng với nội dung trả lời thì Hội đồng hoặc Uỷ ban có quyền kiến nghị với Chủ tịch Quốc hội, yêu cầu trả lời tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp Quốc hội gần nhất.Giữa hai kì họp Quốc hội, phần việc giám sát của Quốc hội do Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội đảm nhiệm. Tuy nhiên, việc các Ủy ban thực hiện chức năng giám sát của các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan của Chính phủ nói riêng là tương đối độc lập, góp phần nâng cao chất lượng trong hoạt động giám sát của Quốc hội.
Tóm lại, giám sát là hoạt động đặc biệt của Quốc hội, hoạt động giám sát của Quốc hội trong những năm qua đã phần nào có những tác động tích cực đối với hoạt động lập pháp và cũng tạo cơ sở cho các đại biểu Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Qua hoạt động giám sát, Quốc hội đã khắc phục được những khiếm khuyết của của các văn bản pháp luật mà mình ban hành do những thay đổi nhanh chóng của tình hình đất nước. Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ cũng như hoạt động của các cơ quan nhà nứớc khác còn chưa đạt đựơc hiệu quả như mong muốn do chất lượng đại biểu Quốc hội chưa cao, các hình thức giám sát hoạt động chưa tích cực. Trong nghị quyết của kì họp thư 11, Quốc hội khóa IX có nhận xét: “Hoạt động giám sát còn yeu, hiệu quả chưa cao, nhiều kiến nghị thông qua hoạt động giám sát các cơ quan trách nhiệm giải quyết”. Do vậy, trong văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX Đảng ta dã chủ trương nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của hoạt động giám sát của Quốc hội. Để đạt đựơc điều đó, Quốc hội cần tập trung hơn nữa vào việc giám sát hoạt động của bộ máy hành pháp vì đây mới là nơi chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện các văn bản luật và các quyết định khác của Quốc hội
Trong hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng khác của đất nước:
Theo quy định tại Điều 83, Điều 84 của Hiến pháp 1992 và điều 1, Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội năm 1992, ngoài chức năng lập Hiến, lập Pháp, chức năng giám sát, Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ Kinh tế- Xã hội trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân sách.
Về hoạt động đối nội: Vấn đề tài chính - ngân sách là một trong những vấn đề quan trọng của Quốc gia. Mặt khác, việc thông qua ngân sách là một trong những chức năng quan trọng nhất, thể hiện rõ nét và trực tiếp nhất quyền lực nhà nước của Quốc hội. Quyền thông qua ngân sách còn là cơ chế kiểm soát quyền lực quan trọng của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp. Theo quy định tại khoản 4 Điều 88 Hiến pháp năm 1992, Quốc hội có quyền quyết định dự toán ngân sách nhà nước. Còn Chính phủ sẽ thực hiện chính sách tài chính tiền tệ quốc gia (Điều 112 Hiến pháp 1992). Đây cũng là một quy định mới trong Hiến pháp 1992. Ở Hiến pháp 1946, vấn đề tài chính - tiền tệ quốc gia chưa được đặt ra. Đến Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 chỉ quy định Quốc hội có quyền ấn định các loại thuế. Việc quy định cụ thể quyền về ngân sách nhà nước giúp Quốc hội thực hiện hoạt động quản lí, giám sát việc chi tiêu của Chính phủ cũng như việc chi tiêu của Chính quyền địa phương nhằm đẩy mạnh hoạt động chống tham nhũng - một nguy cơ lớn mà Đảng ta luôn nhấn mạnh.
Về hoạt động đối ngoại: Khoản 12, 13 Điều 84 Hiến pháp 1992 quy định: Quốc hội quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình khi nước nhà bị xâm lược. Nhưng trong thời gian Quốc hội không họp, thẩm quyền này thuộc về Uỷ ban thường trực Quốc hội (Khoản 9 Điều 91 Hiến pháp 1992). Quốc hội phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã kí kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước. Trên cơ sở đó “Chính phủ thống nhất quản lí công tác đối ngoại của Nhà nước; kí kết, tham gia, phê duyệt điều ước Quốc tế nhân danh Chính phủ chỉ đạo việc thực hiện các điều ước Quốc tế ma Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia” (Khoản 8 Điều 112 Hiến pháp 1992). Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 1992 và pháp lệnh kí kết các điều ước Quốc tế năm 1998, chỉ có Chủ tịch nước mới có quyền kí kết các điều ước Quốc tế nhân danh Nhà nước. Các điều ước Quốc tế này có hiệu lực khi đựơc Quốc hội phê chuẩn. Còn Thủ tướng chỉ đựơc quyền kí kết các điều ước Quốc tế nhân danh Chính phủ mà thôi.
KẾT LUẬN
Bằng hoạt động của mình khi quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội đã khẳng định vị trí của mình là cơ quan quyền lực cao nhất trong bộ máy nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Còn Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất quản lý các vấn đề của xã hội. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ là mối quan hệ quan trọng nhất trong tất các mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Nó thể hiện được mối liên hệ trong các cơ quan nhà nước cao nhất trong việc phân công phối hợp với nhau trong tổ chức và hoạt động.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành của Việt Nam.doc