Tổng quan về ASEAN
1. Lịch sử hình thành và phát triển của ASEAN:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8-8-1967 sau khi Bộ trưởng Bộ ngoại giao các nước Indonesia, Malaysia, Philipines, Singapore và Thái lan ký bản tuyên bố ASEAN (còn gọi là Tuyên bố Bangkok). Hiện nay tổ chức này có 10 hội viên bao gồm 5 nước hội viên nguyên thuỷ và 5 hội viên gia nhập sau này là Brunei Darussalam (8-1-1984), Việt Nam (28-7-1995), Lào và Myanma (23-7-1997), Campuchia (30-4-1999). Trong thập kỷ 90, ASEAN nổi lên như là một tổ chức tiểu khu vực hoạt động năng nổ và hữu hiệu, tuy nhiên cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính từ giữa năm 1997 đang đặt ra một số thách thức lớn đối với ASEAN.
Kể từ khi thành lập năm 1967 ASEAN đã đặt mục tiêu “thúc đẩy tăng trưởng kinh tế” là ưu tiên hợp tác. Tuyên bố thành lập ASEAN (Tuyên bố Băng cốc) ngày 08/8/1967 nêu mục đích các quốc gia thành viên “sẽ thông qua các nỗ lực chung, tích cực hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau nhằm đạt được các mục tiêu thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa ”. Có thể nêu các giai đoạn phát triển hợp tác kinh tế ASEAN như sau:
1. Thời kỳ đầu: Đây là khoảng thời gian từ khi thành lập năm 1967, hợp tác kinh tế ASEAN chưa được phát triển mạnh. ASEAN chỉ tiến hành một số hoạt động như lập Phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN (ASEAN CCI) năm 1972 nhằm tham khảo ý kiến khu vực tư nhân trong hợp tác kinh tế ASEAN; lập Ủy ban ASEAN tại Giơ-ne-vơ năm 1973 để phối hợp chính sách chung của ASEAN, gồm các vấn đề kinh tế, tại các diễn đàn khu vực và quốc tế.
2. Thời kỳ 1975-1992: Hợp tác kinh tế của Hiệp hội chỉ thực sự được khởi động từ khi ASEAN tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ nhất (tháng 11/1975) chuẩn bị cho Hội nghị Cấp cao ASEAN đầu tiên tháng 2/1976.
Đây là quá trình ASEAN đặt nền móng cho sự hợp tác kinh tế, thông qua kế hoạch cũng như thể chế tổ chức các nền kinh tế ASEAN từng bước đi vào hợp tác.
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ nhất (Ba-li, In-đô-nê-xia, ngày 23-24/2/1976), các Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN I (còn gọi là Tuyên bố Ba-li I) qua đó lần đầu tiên đề cập cụ thể đến các mục tiêu chung của hợp tác kinh tế ASEAN, nêu rằng sẽ “phối hợp một cách có hiệu quả hơn để tăng cường hợp tác trong nông nghiệp và công nghiệp; mở rộng thương mại, kể cả các vấn đề về thương mại hàng hóa quốc tế; cải thiện giao thông vận tại và bưu điện-viễn thông và nâng cao đời sống nhân dân”.
Sự hợp tác kinh tế ASEAN được đẩy mạnh từ sau Hội nghị Cấp cao này với việc:
(i) Đề ra một số chương trình hành động hợp tác kinh tế lớn của ASEAN lúc bấy giờ nhằm thúc đẩy thương mại nội bộ và hợp tác công nghiệp ASEAN:
a) Đối với thương mại là: Thỏa thuận ưu đãi thương mại ASEAN (PTA-được ký năm 1977);
b) Đối với công nghiệp gồm: Thỏa thuận khung về các dự án công nghiệp ASEAN (AIP) ký năm 1980; Thỏa thuận khung về chương trình hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) ký năm 1981, sau đó là kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC); và Thỏa thuận khung về liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) ký năm 1983;
(ii) Lập 5 Ủy ban kinh tế làm bộ máy điều hành các hoạt động hợp tác là các Uỷ ban về hợp tác lương thực, nông nghiệp và lâm nghiệp (COFAF); tài chính và ngân hàng (COFAB); công nghiệp, khoáng sản và năng lượng (COIME); vận tải và viễn thông (COTAC); thương mại và du lịch (COTT).
- Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ hai (Kua-la Lăm-pơ, Ma-lai-xia, ngày 04-05/8/1977) và kỷ niệm 10 năm thành lập ASEAN, đã đánh giá tiến trình hợp tác ASEAN và khẳng định thực hiện các cam kết Tuyên bố Hòa hợp ASEAN I, nhấn mạnh thúc đẩy hợp tác các lĩnh vực kinh tế và xã hội, coi đó là yếu tố cơ bản đảm bảo sự ổn định chính trị khu vực.
Hội nghị thoả thuận:
(i) Hợp tác hỗ trợ lẫn nhau trường hợp khẩn cấp đối với các sản phẩm nguyên liệu cơ bản (gạo, xăng dầu); xem xét lập Quỹ dự trữ an ninh lương thực ASEAN (gạo) và ký thoả thuận “hoán đổi” tiền tệ hỗ trợ các nước ASEAN trường hợp thiếu hụt thanh khoản;
(ii) Đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và hoạt động kinh doanh khu vực qua Thỏa thuận PTA từ năm 1978, hỗ trợ tài chính ưu đãi thực hiện các dự án công nghiệp ASEAN; cải thiện dịch vụ vận tải biển nội bộ ASEAN, đơn giản hoá quy định và thủ tục hải quan, hài hòa hoá hệ thống và cách thức thu thập số liệu thống kê ASEAN và ký Hiệp định bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần; khuyến khích chuyển giao tri thức, công nghệ và thu hút đầu tư tư nhân;
(iii) Thúc đẩy đối thoại và đàm phán quốc tế giữa các quốc gia đang phát triển và phát triển đối với Thỏa thuận sản phẩm hàng hoá quốc tế; lập Quỹ chung nhằm bình ổn giá vâ nguồn thu nhập của ASEAN từ xuất khẩu các sản phẩm nguyên liệu thô; đề nghị các quốc gia phát triển tạo thuận lợi tiếp cận thị trường, giảm dần các biện pháp bảo hộ đối với nguyên liệu thô cũng như các sản phẩm do ASEAN sản xuất;
(iv) Hợp tác thăm dò năng lượng, nghiên cứu và triển khai ứng dụng nguồn năng lượng thay thế (đối với dầu mỏ) và các nguồn năng lượng không truyền thống khác;
(v) Thảo luận hợp tác giao thông vận tải và viễn thông (phát triển hệ thống cáp biển ngầm, truyền thông vệ tinh, dịch vụ thư tín và thanh toán bưu điện ASEAN); hợp tác phát triển và đồng bộ hoá tiêu chuẩn, quy định giao thông đường bộ, đường sắt và phà biển; tham vấn về vận tải hàng không và vận tải biển khu vực;
(vi) Thúc đẩy hợp tác ASEAN và với các đối tác trong lĩnh vực lương thực, nông và lâm nghiệp (vấn đề cung cầu lương thực và các nông sản chiến lược khác, lập trung tâm bảo vệ thực vật và cây trồng khu vực, quản lý nguồn lợi thuỷ sản, bảo tồn nguồn lợi lâm nghiệp, cung cầu thức ăn chăn nuôi, và đào tạo khuyến nông.
- Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 3 (Ma-ni-la, Phi-lip-pin, ngày 14-15/12/1987) thỏa thuận thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế và khuyến khích khu vực tư nhân tham gia; qua đó ký Hiệp định khuyến khích và bảo hộ Đầu tư (IGA) năm 1987 và Nghị định thư về mở rộng danh mục thuế ưu đãi theo Thoả thuận ưu đãi thương mại ASEAN (PTA). Đối với cơ cấu tổ chức, quyết định lập cơ chế Hội nghị liên Bộ trưởng (JMM) gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế, thể chế hoá các Hội nghị Quan chức cao cấp (SOM) và Quan chức cao cấp Kinh tế (SEOM) vào bộ máy hợp tác ASEAN.
3. Thời kỳ 1992-2003: Các nền kinh tế ASEAN có sự phát triển nhanh và luôn đạt mức tăng trưởng GDP cao (trên 7%/năm) vào những năm cuối thập kỷ 70 đến đầu thập kỷ 90 và nhờ đó ASEAN được coi là khu vực phát triển kinh tế năng động. Đây là giai đoạn hợp tác kinh tế ASEAN được mở rộng và phát triển tương đối toàn diện so với trước, là thời kỳ ASEAN quyết định tiến hành thực hiện Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) được coi như là bước tiến về chất trong lịch sử hợp tác kinh tế ASEAN. Đây là thời kỳ có những điều kiện và nhân tố thuận lợi thúc đẩy ASEAN đi đến hình thành khuôn khổ hợp tác trên toàn khu vực Đông Nam Á, qua việc Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á khác tham gia ASEAN hoàn tất ý tưởng về một ASEAN bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á, đưa đến những phát triển căn bản đối với hợp tác ASEAN (Việt Nam là thành viên đầy đủ của ASEAN ngày 28/7/1995, Lào và Mianma tháng 7/1997, Campuchia 30/4/1999). Khi tham gia ASEAN, Việt Nam và các quốc gia CLM khẳng định sẽ tuân thủ các cam kết và điều khoản của các văn kiện và thỏa thuận hợp tác ASEAN, bao gồm cả hợp tác kinh tế. Đây cũng là giai đoạn ASEAN tăng cường khởi xướng tạô dựng các mối liên kết với các đối tác kinh tế phát triển năng động khác trong và ngoài khu vực.
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 17347 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa Việt Nam và Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hia, ngày 4-5/11/2002) đã thảo luận:
(i) Tăng cường liên kết kinh tế ASEAN, giảm hàng rào phi quan thuế, cải thiện môi trường đầu tư để tăng buôn bán, đầu tư nội khối, nâng cao khả năng cạnh tranh của ASEAN trước tình hình các thị trường truyền thống giảm mạnh bởi suy thoái kinh tế thế giới;
(ii) Nêu tập trung triển khai các dự án ưu tiên, nhất là về thu hẹp khoảng cách phát triển, giúp các thành viên mới, phát triển Tiểu vùng như tại khu vực Mê công;
(iii) Xác định lại và nghiên cứu mục tiêu và chiến lược phát triển của Hiệp hội để tiến tới hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN có tính đến những kinh nghiệm của Liên minh Châu Âu. 4. Thời kỳ 2003-nay: Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 9 (Ba-li, In-đô-nê-xia, ngày 7-8/10/2003) các Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố Ba-li II) nêu mục tiêu và những định hướng chiến lược hướng tới tạo lập Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 Cộng đồng trụ cột về an ninh (ASC), kinh tế (AEC) và văn hóa-xã hội (ASCC).
Để thực hiện mục tiêu đó, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 10 (Viêng-chăn, Lào, ngày 28-30/11/2004) đã đề ra các Kế hoạch Hành động AEC, ASC, ASCC và Chương trình Hành động Viêng chăn (VAP) với những chương trình, biện pháp cụ thể hóa việc thực hiện thời kỳ 2004-2010 nối tiếp Chương trình Hành động Hà Nội (HPA), gồm có thực hiện Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) về thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN.
Đồng thời, ký Hiệp định khung về 11 lĩnh vực ưu tiên hội nhập của ASEAN và lập Lộ trình liên kết ASEAN (RIA) nêu các biện pháp và lịch trình cụ thể cho hợp tác, liên kết ASEAN tại các lĩnh vực kinh tế hướng tới xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC).
Hội nghị cũng thảo luận tình hình kinh tế khu vực và quốc tế, tin tưởng các nền kinh tế khu vực đã phục hồi và có triển vọng tăng trưởng tốt trong năm 2004-05; bầy tỏ quyết tâm cùng hợp tác giảm thiểu tác động tiêu cực đối với nền kinh tế do giá dầu tăng và dịch cúm gia cầm; ủng hộ sử dụng năng lượng thay thế (nhiên liệu sinh học, nguồn thuỷ điện) và lập các Đội ứng phó dịch bệnh bùng phát; đề nghị thúc đẩy hợp tác các Tiểu vùng phát triển AMBDC, BIMP-EAGA, GMS, ACMECS; hợp tác với khu vực doanh nghiệp tư nhân hoạch định chính sách hợp tác kinh tế ASEAN qua các khuyến nghị của Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN (ABAC). - Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 11 (Kua-la Lăm-pơ, Ma-lai-xi-a, ngày 11-14/12/2005), các Lãnh đạo đã:
(i) Ghi nhận kết quả phát triển tốt của các nền kinh tế ASEAN với GDP tăng 6,1% năm 2004 (so với 5,1% của thế giới) và dự kiến tăng 5,5% năm 2005, mặc dù gặp những khó khăn như giá dầu bất ổn, tỷ lệ lãi xuất tăng cao, dịch bệnh bùng phát và cạnh tranh của kinh tế quốc tế; (ii) Nhất trí cần xem xét khả năng sớm hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, nhất là về kinh tế, sớm hơn 5 năm so với đã thỏa thuận và có linh hoạt đối với những nước chưa sẵn sàng; nhất trí tập trung nỗ lực cao hơn, giải quyết những trở ngại và huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả các chương trình và kế hoạch hành động như Chương trình VAP và Sáng kiến IAI về liên kết kinh tế và thu hẹp khoảng cách phát triển;
(iii) Đồng ý đề nghị của các Bộ trưởng Kinh tế đẩy nhanh thực hiện tự do hóa các lĩnh vực thương mại dịch vụ không thuộc danh mục ưu tiên liên kết vào năm 2015 (có sự linh hoạt); khuyến khích ký các Thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA) đối với hài hoà hoá hệ thống quy chuẩn thiết bị điện và điện tử (EEE), về dịch vụ thiết kế và Hiệp định lập Cơ chế một cửa ASEAN;
(iv) Hoan nghênh các Bộ trưởng Tài chính ASEAN khai trương Chỉ số FTSE-ASEAN (tháng 9/2005) được quốc tế công nhận góp phần tạo dựng và phát triển thị trường vốn ASEAN; đề nghị thúc đẩy thực hiện sáng kiến Thị trường tái phiếu châu Á;
(v) Sử dụng hiệu quả năng lượng, thăm dò và phát triển các nguồn năng lượng thay thế nhằm đảm bảo an ninh lương thực và duy trì tăng trưởng bền vững;
(vi) Đẩy nhanh liên kết khu vực về du lịch và vận chuyển hàng không (tổ chức Diễn đàn đầu tư du lịch ASEAN tháng 9/2005 tại Kua-la Lăm-pơ và áp dụng công thức 2+X thực hiện Hiệp định đa phương về tự do hoá hoàn toàn tất cả các dịch vụ vận tải hàng hóa hàng không);
(vii) Huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn nhằm cải thiện an ninh lương thực và giảm đói nghèo; đề nghị thúc đẩy hợp tác với FAO và ESCAP;
(viii) Thúc đẩy hợp tác các Tiểu vùng phát triển AMBDC, BIMP-EAGA, IMT-GT, GMS, ACMECS, CLMV. - Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 (Xê-bu, Phi-lip-pin, ngày 12-15/1/2007) đã:
(i) Tập trung thảo luận việc đẩy nhanh hợp tác nội khối và hướng xây dựng Hiến chương ASEAN, quyết định thời hạn hình thành Cộng đồng ASEAN trên cả ba trụ cột về kinh tế, chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội vào năm 2015 sớm hơn dự kiến trước đây là năm 2020. Về hợp tác kinh tế, hội nghị nhất trí sẽ hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015, đồng thời sẽ đẩy mạnh hơn nữa quá trình hình thành các Khu vực mậu dịch tự do hoặc các Thỏa thuận hợp tác kinh tế toàn diện với các đối tác bên ngoài; xem xét thực hiện Sáng kiến IAI từ khía cạnh phát triển hạ tầng, cụ thể là liên kết giao thông vận tải nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển;
(ii) Bầy tỏ lo ngại trước tác động tiêu cực của giá dầu mỏ tăng cao kéo dài đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển của khu vực, do đó thoả thuận tăng cường hợp tác năng lượng ASEAN một cách chiến lược, bao gồm tạo dựng một thị trường năng lượng mở và thực hiện các dự án hạ tầng về mạng lưói điện, hệ thống đường ống dẫn khí xuyên ASEAN; nhấn mạnh nhu cầu cần cải thiện việc sử dụng hiệu quả và đa dạng hoá nguồn cung ứng năng lượng, phát triển nguồn năng lượng thay thế như nhiên liệu sinh học và năng lưọng hạt nhân dân sự, đồng thời chú ý đến khía cạnh an ninh, môi trường, sức khoẻ, an toàn trong phát triẻn các lĩnh vực năng lượng cũng như xem xét lập thể chế an toàn hạt nhân khu vực. Các Lãnh đạo cũng nhất trí ký Tuyên bố Xê-bu về an ninh năng lượng Đông Á. - Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 13 (Xinh-ga-po, ngày 19-22/11/2007) vào dịp kỷ niệm 40 nằm Ngày thành lập ASEAN, các Lãnh đạo ASEAN đã khẳng định quyết tâm đẩy nhanh thực hiện Cộng đồng AEC vào năm 2015 qua việc ký Kế hoạch tổng thể thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Đối với các lĩnh vực hợp tác cụ thể hội nghị đã:
(i) Nhất trí ký Tuyên bố Xinh-ga-po hợp tác Đông Á về thay đổi khí hậu, năng lượng và môi trường; cho rằng giữa an ninh năng lượng, môi trường, thay đổi khí hậu và phát triển bền vững có mối liên quan phức tạp và đồng thời cũng là những thách thức mang tính toàn cầu cần phải được giải quyết một cách tổng thể thông qua hành động phối hợp quốc gia, khu vực và quốc tế; (ii) Ghi nhận thoả thuận lập Mạng tiểu lĩnh vực an toàn năng lượng hạt nhân (NES-SSN) nhằm thảo luận vấn đề an ninh, an toàn năng lượng hạt nhân dân sự và tạo dựng thể chế an toàn hạt nhân khu vực đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế; đề nghị phối hợp chặt chẽ hơn trong phát triển nguồn năng lượng tái tạo nhằm ứng phó với vấn đề thay đổi khí hậu;
(iii) Ký Nghị định thư về Gói cam kết thứ 6 thực hiện Hiệp định về hợp tác dịch vụ (AFAS); khẳng định thực hiện Lộ trình liên kết lĩnh vực vận chuyển hàng không ASEAN (RIATS) như đã định (dự kiến ký tháng 2/2008) nhằm tự do hoá hoàn toàn dịch vụ hàng không giữa các Thủ đô ASEAN vào tháng 12/2008;
(iv) Cho rằng thu hẹp khoảng cách phát triển vẫn là nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ các lợi ích mà nỗ lực liên kết ASEAN đem lại và Sáng kiến IAI cần được kết nối với mục tiêu tổng thể của liên kết ASEAN. - Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 (Cha-am, Hua Hin, Thái Lan, ngày 28/2-01/3//2009) đã:
(i) Thảo luận tình hình khủng hoảng kinh tế-tài chính, lo ngại khả năng kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm do các nền kinh tế lớn suy thoái, tác động tiêu cực đối với khu vực và nêu tầm quan trọng tăng cường hợp tác, liên kết và tính tự cường ASEAN; đề nghị duy trì thương mại mở, không áp dụng biện pháp bảo hộ; cam kết tiếp tục hợp tác trao đổi kinh nghiệm về thực hiện các gói kích thích tài chính, phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô và các biện pháp cần thiết khác nhằm ngăn chặn đà suy giảm, phục hồi kinh tế; thúc đẩy triển khai cơ chế CMIM, tăng cường hợp tác với đối tác +3 và IFIs; ủng hộ các biện pháp của G-20 và kêu gọi cải tổ hệ thống tài chính quốc tế có tính đến lợi ích và tiếng nói của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển; (ii) Nêu an ninh lương thực và năng lượng là vấn đề liên quan, cần được giải quyết tổng thể. Đối với an ninh lương thực, cần tăng cường hợp tác cả về sản xuất và phân phối, đảm bảo nguồn lực và công nghệ cho sản xuất, có cơ chế thích hợp hạn chế làm lệch thị trường thương mại lương thực. Đối với an ninh năng lượng, nêu tầm quan trọng của đa dạng hoá nguồn cung, bảo tồn và phát triển nguồn thay thế, sử dụng hiệu quả năng lượng, ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường; phát triển nguồn năng lượng tái tạo và thay thế gồm cả thuỷ điện và nhiên liệu sinh học (đề nghị lập chỉ tiêu tỷ lệ sử dụng cho 5 năm tới); hoan nghênh ký Hiệp định an ninh dầu mỏ ASEAN (APSA); đề nghị quan tâm hơn đến khía cạnh an ninh, môi trường, sức khoẻ, an toàn trong lĩnh vực năng lượng;
(iii) Hoan nghênh họp phiên đầu tiên Hội đồng AEC, việc triển khai thực hiện Biểu đánh giá AEC và Kế hoạch truyền thông AEC, hợp tác với khu vực doanh nghiệp và tư nhân;
(iv) Hoan nghênh ký Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA) và hoàn tất dự thảo Thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA) về thực tiễn điển hình (GMP) đối với giám sát sản xuất dược phẩm; ký Nghị định thư Gói cam kết thứ 7 thực hiện Hiệp định hợp tác dịch vụ (AFAS); ký Hiệp định đầu tư tổng thể ASEAN (ACIA);
(v) Hoan nghênh cam kết thúc đẩy hợp tác và liên kết hơn nữa lĩnh vực du lịch qua soạn thảo Kế hoạch chiến lược hợp tác du lịch 2011-2015 và phát triển Hành lang du lịch ASEAN, chương trình Năm du lịch thanh niên 2009-2010 và các biện pháp dành ưu đãi du lịch ASEAN nhằm ứng phó với suy giảm kinh tế và du lịch khu vực;
(vi) Nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế và nhu cầu thúc đẩy phát triển và liên kết với các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ nhằm giảm thiểu tác động khủng hoảng kinh tế;
(vii) Thông qua Khung chiến lược và Kế hoạch công tác Sáng kiến IAI giai đoạn II (2009-2015). - Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 15 (Cha-am, Hua Hin, Thái Lan, ngày 28/2-01/3//2009) đã khẳng định quyết tâm mạnh mẽ đưa Hiến chương ASEAN vào cuộc sống và tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Lộ trình Xây dựng Cộng đồng ASEAN về Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã hội.
Các Nhà Lãnh đạo cũng đã giành nhiều thời gian thảo luận sâu về tăng cường kết nối ASEAN, tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng giao thông như đường bộ, đường sắt, vận tải biển, và công nghệ thông tin…, cũng như gia tăng hợp tác về giáo dục, phát triển nguồn nhân lực và giao lưu nhân dân.
Các Nhà Lãnh đạo cũng đã trao đổi ý kiến về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm, nhất là tăng cường phối hợp chính sách và hợp tác ứng phó với các thách thức toàn cầu như khủng hoảng kinh tế - tài chính, an ninh năng lượng và lương thực, biến đổi khí hậu, quản lý thảm hoạ và phòng chống dịch bệnh.
Kết thúc hội nghị, các Nhà Lãnh đạo ASEAN đã ra Tuyên bố về Kết nối ASEAN, Tuyên bố về Tăng cường Hợp tác Giáo dục hướng tới một Cộng đồng ASEAN đùm bọc và chia sẻ, và Tuyên bố ASEAN về Biến đổi Khí hậu. Năm 2007 diễn ra lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN. Đây là mốc quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình của ASEAN theo hướng xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột: Cộng đồng An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hoá Xã hội (ASCC). Đây cũng là thời điểm để nhìn lại chặng đường phát triển ban đầu của Hiệp hội cho đến nay. “ASEAN - Trái tim của châu Á năng động” là chủ đề chính thức của lễ kỷ niệm 40 năm thành lập ASEAN. Nó đã thâu tóm một cách ngắn gọn súc tích bản chất tiên phong của chủ nghĩa khu vực trong ASEAN và vai trò chủ chốt của ASEAN trong sự phát triển ngày càng rộng hơn của Châu Á, không chỉ trong 40 năm qua mà có thể là cho cả 40 năm tiếp theo.
2. Mục tiêu hoạt động của ASEAN:
Tuyên bố ngày 8/8/1967 nêu 2 mục tiêu:
1. Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường nền tảng cho một cộng đồng các nước Đông Nam Á hoà bình và thịnh vượng.
2. Thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực bằng việc cam kết tôn trọng công lý và pháp quyền trong quan hệ giữa các nước trong vùng và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương LHQ.
Năm 1995, các nguyên thủ quốc gia và Chính phủ của ASEAN khẳng định lại: “Hoà bình hợp tác và thịnh vượng chung là những mục tiêu cơ bản của ASEAN”.
3. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của ASEAN:
a) Cơ cấu tổ chức:
Cơ quan có quyền ra quyết định cao nhất của ASEAN là Hội nghị cấp cao các Nguyên thủ Nhà nước và Chính phủ, họp mỗi năm 1 lần. Tiếp theo là Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao hàng năm và hội nghị Bộ trưởng về từng lĩnh vực riêng lẻ (nông nghiệp và lâm nghiệp, kinh tế, năng lượng, môi trường, tài chính, tin học…), Hội đồng Đầu tư ASEAN (AIA), Hội đồng khu vực thương mại tự do AFTA. Tiếp đó là 29 uỷ ban và 122 nhóm làm việc giúp việc cho các hội nghị bộ trưởng.
Tổng Thư ký ASEAN được bầu theo năng lực và trao hàm Bộ trưởng. Tổng Thư ký ASEAN có nhiệm kỳ 5 năm, có quyền đề xuất, tư vấn, phối hợp và thực hiện các hoạt động của ASEAN. Bộ máy của Ban Thư ký được tuyển chọn công khai và dựa trên sự cạnh tranh trong toàn khối.
ASEAN còn thành lập những tổ chức hợp tác liên chính phủ như: Hệ thống đại học ASEAN, Trung tâm Quản trị ASEAN-EC, Trung tâm Năng lượng ASEAN, Trung tâm Kế hoạch hoá và Phát triển nông nghiệp ASEAN, Trung tâm thông tin Động đất ASEAN, Trung tâm Huấn luyện và Nghiên cứu Gia cầm ASEAN, Trung tâm bảo tồn sự đa dạng sinh thái ASEAN, Trung tâm Phát triển Thanh niên nông thôn ASEAN, v.v….
Bên cạnh đó, còn có các tổ chức nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực như: Phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN, Diễn đàn Doanh nghiệp ASEAN, Liên đoàn Du lịch ASEAN, Hội đồng Dầu mỏ ASEAN, Liên đoàn Cảng ASEAN, Học viện nghiên cứu chiến lược và quốc tế ASEAN, Câu lạc bộ Dầu thực vật ASEAN, cùng với 53 tổ chức phi chính phủ (NGOs) có quan hệ chính thức với ASEAN.
Để yểm trợ hoạt động đối ngoại của ASEAN, có các Uỷ ban gồm trưởng các phái đoàn ngoại giao tại các thủ đô: Brussels, London, Paris, Washington D.C., Tokyo, Canberra, Ottawa, Wellington, Geneva, Seoul, New Delhi, New York, Beijing, Moscow và Islamabad.
b) Cơ chế hoạt động:
ASEAN hoạt động theo cơ chế sau đây:
a) Nguyên tắc đồng thuận: theo đó các quyết định về các vấn đề quan trọng chỉ được coi là của ASEAN khi không có nước thành viên nào bác bỏ. Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình đàm phán lâu dài, nhưng đảm bảo được lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên. Đây là nguyên tắc được áp dụng ở mọi cấp và mọi vấn đề của ASEAN.
b) Nguyên tắc bình đẳng: thể hiện trên hai mặt.
Thứ nhất là, các nước ASEAN, bất kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia sẻ quyền lợi;
Thứ hai là, hoạt động của tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên, các chức chủ toạ các cuộc họp của ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao, cũng như địa điểm cho các cuộc họp được phân đều cho các nước thành viên trên cơ sở luân phiên theo vần a, b, c của tiếng Anh.
c) Các nguyên tắc bất thành văn: trong quan hệ giữa các nước ASEAN cũng đã dần dần hình thành một số các nguyên tắc, tuy không thành văn, song mọi người đều hiểu và tôn trọng áp dụng như: nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và giữ bản sắc chung của Hiệp hội…
4. Các cột mốc quan trọng trong hợp tác của các nước ASEAN:
- Ngày 8/8/1967: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc với mục tiêu là tăng cường hợp tác kinh tế, văn hoá-xã hội giữa các nước thành viên, tạo điều kiện cho các nước hội nhập sâu hơn với khu vực và thế giới.
Trải qua hơn 40 năm tồn tại và phát triển, ASEAN đã chứng tỏ là một tổ chức khu vực năng động, có khả năng thích ứng cao với những biến đổi trong tình hình thế giới và khu vực:
- Năm 1971: trước sự xoay chuyển nhanh chóng cục diện khu vực và thế giới, đặc biệt trong quan hệ giữa các nước lớn, ASEAN ra Tuyên bố về Khu vực Hòa bình, Tự do và Trung lập (ZOPFAN), nhấn mạnh quyết tâm giữ khu vực trung lập, không liên kết, qua đó giữ vững hòa bình, ổn định và an ninh khu vực, hạn chế can thiệp của lực lượng bên ngoài vào công việc nội bộ của khu vực.
- Năm 1976: sau khi Việt Nam thống nhất và các nước Đông Dương khác giành độc lập, Hiệp hội đã ra Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN (hay còn gọi là Tuyên bố Bali I) thể hiện quyết tâm hợp tác khu vực, đồng thời gửi đi tín hiệu thân thiện, hợp tác với các quốc gia khác trong khu vực thông qua Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (TAC), kêu gọi các quốc gia trong khu vực cùng hợp tác vì hòa bình, an ninh chung của khu vực, giải quyết xung đột, tranh chấp bằng đàm phán hòa bình.
- Năm 1992: Cùng với xu thế thế giới sau Chiến tranh lạnh tập trung vào phát triển kinh tế và thương mại, ASEAN đã ký Hiệp định khung về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEPT/AFTA), bắt đầu tiến trình tự do hóa kinh tế khu vực.
Cũng trong năm 1992, ASEAN ra Tuyên bố về Biển Đông xác lập nguyên tắc giải quyết các mâu thuẫn ở khu vực này bằng biện pháp hòa bình.
- Từ năm 1993-94: ASEAN bắt đầu mở rộng quan hệ đối ngoại, thúc đẩy đối thoại về an ninh ở khu vực thông qua việc lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) tại Hội nghị Bộ truởng ASEAN lần thứ 26 (tháng 7 năm 1993). Diễn đàn ARF đầu tiên đã được tổ chức năm 1994.
- Trong năm 1995: ASEAN có hai bước tiến quan trọng:
(1) kết nạp Việt Nam (ngày 28 tháng 7 năm 1995), bắt đầu tiến trình mở rộng ASEAN;
(2) ký kết Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á không vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), hưởng ứng phong trào giải trừ quân bị đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới sau Chiến tranh lạnh và hiện thực hóa Tuyên bố ZOPFAN.
- Tháng 12/1997 trước viễn cảnh ASEAN sẽ sớm hoàn tất việc mở rộng bao gồm cả 10 nước Đông Nam Á, mở ra trang sử mới cho khu vực, ASEAN đã thông qua Tầm nhìn ASEAN 2020, vạch ra mục tiêu hướng tới một cộng đồng khu vực hòa bình, ổn định, hài hòa và phát triển thịnh vượng.
- Năm 1998: Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VI tại Hà Nội, ASEAN đã thông qua Chương trình hành động Hà Nội (HPA) nhằm triển khai thực hiện Tuyên bố về Tầm nhìn ASEAN 2020 trong 6 năm 1998-2004.
- Ngày 30/4/1999: Cambodia được kết nạp vào ASEAN tại Hà Nội, hoàn tất mục tiêu của ASEAN trở thành một tổ chức khu vực với đầy đủ 10 quốc gia thành viên Đông Nam Á.
- Năm 2002: Trong nỗ lực tìm kiếm giải pháp hoà bình cho vấn đề biển Đông, ASEAN và Trung Quốc ký bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 8 diễn ra ở Phnom Penh.
- Năm 2003: ASEAN tiến một bước nữa trong tăng cường liên kết khu vực khi cho ra đời Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II), xác định mục tiêu thành lập một Cộng đồng ASEAN gồm ba trụ cột:
+ Cộng đồng Chính trị-An ninh,
+ Cộng đồng Kinh tế
+ Cộng đồng Văn hóa-Xã hội.
- Năm 2005: Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần đầu tiên được tổ chức tại Kuala Lumpur với sự tham gia của ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand.
- Năm 2007: Hiến chương ASEAN được ký ngày 20 tháng 11 năm 2007 là một bước phát triển quan trọng nhất của ASEAN từ khi thành lập, thông qua việc trao tư cách pháp nhân cho tổ chức ASEAN, tạo nền tảng pháp lý và thể chế để ASEAN xây dựng Cộng đồng. Hiến chương có hiệu lực ngày 15/12/2008.
- Tháng 2/2009 tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tại Hủa hỉn, Thái Lan, các nhà Lãnh đạo ASEAN đã thông qua Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN bao gồm các Kế hoạch tổng thể xây dựng các Cộng đồng trụ cột Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa Xã hội ASEAN.
II- Mối quan hệ giữa ASEAN và Việt Nam:
Khu vực ASEAN có 500 triệu dân, diện tích rộng 4,5 triệu km2, tổng GDP là 737 tỉ USD và tổng kim ngạch ngoại thương là 720 tỉ USD (2001).
Có thể xem ASEAN như một sân chơi nhỏ cấp khu vực giúp Việt Nam làm quen với các luật chơi chung của quốc tế để dần tham gia vào tiến trình hội nhập ở quy mô lớn hơn như APEC, WTO...
Ngày 28/7/1995, tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 ở Brunei, đã diễn ra buổi lễ trọng thể kết nạp Việt Nam làm thành viên thứ 7 của hiệp hội. Ngay sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam chủ động, tích cực tham gia hoạt động hợp tác trên mọi lĩnh vực.
Kể từ trước khi chính thức gia nhập với tư cách thành viên đầy đủ năm 1995 tại Hội nghị ngoại trưởng các nước ASEAN tại Brunei, Việt Nam đã được mời tham dự các cuộc họp hàng năm của ngoại trưởng các nước ASEAN tại Singapore (1993) và Thái Lan (1994) cũng như một số cuộc họp khác của ASEAN. Từ đầu năm 1994, Việt Nam được mời tham gia vào một số dự án hợp tác chuyên ngành của ASEAN trên 5 lĩnh vực đã được hai bên thoả thuận: khoa học kỹ thuật, văn hoá thông tin, môi trường, y tế và du lịch. Hiện nay Việt Nam đã tham gia hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của ASEAN với tư cách thành viên đầy đủ. Việt Nam tham gia Khu Mậu Dịch Tự Do ASEAN từ năm 1996.
Một trong những đóng góp đầu tiên của Việt Nam là thúc đẩy việc kết nạp Lào, Myanmar, Campuchia, hình thành một ASEAN-10. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (12/1998). Chương trình Hành động Hà Nội đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể để thực hiện Tầm nhìn 2020.
Đặc biệt, Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM-34) tại Hà Nội năm 2001 mang đậm dấu ấn Việt Nam. Việt Nam còn có sáng kiến trong việc xây dựng cộng đồng ASEAN trên ba trụ cột, trong đó Cộng đồng Văn hóa-Xã hội do Việt Nam đề xuất.
Việt Nam còn là một trong những thành viên sáng lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), góp phần xây dựng ARF trở thành diễn đàn quan trọng, đối thoại về an ninh khu vực.
Theo sự phân công của ASEAN, Việt Nam đã đảm nhiệm tốt vai trò là nước điều phối viên trong quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các cường quốc như Nhật Bản, Nga, Mỹ và hiện nay là Australia.
ASEAN là tổ chức duy nhất trên thế giới có mối quan hệ đối thoại thành cơ chế với nhiều nước lớn và tổ chức quốc tế quan trọng nên việc gia nhập ASEAN đã hỗ trợ đắc lực cho Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế. ASEAN cũng giúp Việt Nam nâng cao vị thế và tiếng nói trên trường quốc tế.
Trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, dù xuất phát điểm thấp hơn các nước ASEAN cũ rất nhiều, nhưng sự tham gia của Việt Nam vào các chương trình liên kết kinh tế đã tạo thế chủ động hội nhập của nước ta vào nền kinh tế khu vực, phù hợp với các ưu tiên phát triển trong nước. Kim ngạch thương mại Việt Nam – ASEAN tăng trưởng trung bình hàng năm trên 20%.
Đến tháng 6/1995 mới chỉ có gần 200 dự án với tổng vốn trên 2 tỷ USD của các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam, chiếm 15% FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài). Đến năm 2004, các nước ASEAN đã đầu tư trên 600 dự án với tổng vốn hơn 10 tỷ USD, chiếm 27% FDI.
Gia nhập ASEAN trong bối cảnh sự khác biệt giữa Việt Nam và các thành viên cũ còn khá lớn, nhất là kinh tế, nhưng với sự linh hoạt, mềm dẻo giờ đây Việt Nam đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong hiệp hội.
Việt Nam không những tham gia tích cực vào chương trình hợp tác sẵn có, mà còn đóng góp to lớn cho sự hình thành các sáng kiến, cơ chế hợp tác mới của ASEAN. Ngay cả khi chưa gia nhập ASEAN, Việt Nam đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC, 1992), tham gia ngay từ đầu vào ARF (1994).
Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức (1995), Việt Nam cam kết tiến hành thực hiện tương đối tốt các chương trình cũng như cơ chế hợp tác của ASEAN, từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) cho đến Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN (Framework Agreement on Services - AFSA), Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - AIA), Hiệp định khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN (ASEAN Industrial Cooperation - AICO), Sáng kiến hội nhập (IAI)...
Điều quan trọng hơn là Việt Nam cùng với các nước ASEAN đề ra nhiều sáng kiến mới, nhằm khắc phục những mặt yếu kém, trì trệ trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác khu vực phát triển. Cụ thể là Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị ASEAN lần thứ VI (tại Hà Nội, tháng 12/1998), với một “Chương trình hành động Hà Nội” (HPA) được thông qua, vừa mang tính định hướng vừa đưa ra giải pháp cho việc hiện thực hóa “Tầm nhìn 2020” - nền tảng tư tưởng cho sự thiết lập Cộng đồng ASEAN sau đó (10/2003).
Việt Nam cũng có nhiều đóng góp về mặt ý tưởng và đề ra biện pháp nhằm thu hẹp khoảng cách và phát triển tiểu vùng. Điều này được thể hiện trong “Tuyên bố Hà Nội” năm 1998, “Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, nhằm tăng cường liên kết ASEAN” năm 2001...
Ngoài ra, Việt Nam còn có sáng kiến trong việc tạo dựng ý tưởng và xây dựng cộng đồng ASEAN trên 3 trụ cột chính, trong đó Cộng đồng Văn hóa-Xã hội là do Việt Nam đề xuất.
Việt Nam đã và đang đóng vai trò tích cực trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hòa giải khu vực, góp phần củng cố vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Đây là một trong những đóng góp nổi bật của Việt Nam.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã biến ước mơ và ý tưởng về xây dựng ASEAN thành một khối thống nhất với tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á, được đề cập trong “Tuyên bố Băng Cốc 1967” đã trở thành hiện thực.
Đây cũng là hành động hòa giải khu vực, đánh dấu sự chấm dứt đối đầu giữa hai khối ASEAN và Đông Dương được hình thành dưới thời Chiến tranh Lạnh, mở ra thời kỳ mới của sự hợp tác hữu nghị láng giềng và hội nhập khu vực, củng cố địa vị của ASEAN trên trường quốc tế.
Sau sự kiện 28/7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, việc gia nhập ASEAN của Lào, Mianma và Campuchia về cơ bản đã được giải quyết. Với tư cách là tổ chức của tất cả các nước trong khu vực, ASEAN không chỉ lớn mạnh lên về một số lượng, mà còn cả ý chí và lòng quyết tâm hội nhập của tất cả thành viên, trong đó có Việt Nam.
Sự tham gia một cách có hiệu quả của Việt Nam trong ASEAN đã góp phần quan trọng cho việc mở rộng hợp tác của ASEAN với các đối tác bên ngoài, nhất là các đối tác và láng giềng của Việt Nam. Điều này được thể hiện bằng việc Việt Nam đã góp phần làm tăng mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, ASEAN và Liên bang Nga, ASEAN và Ấn Độ, ASEAN và EU.
Cùng với quan hệ Việt -Trung được cải thiện nhanh chóng trong thập niên qua, vị thế địa lý chiến lược và sự phát triển năng động của Việt Nam thực sự đã và đang đóng góp một phần quan trọng làm cho ASEAN-Trung Quốc xích lại gần nhau hơn, hiểu biết và hợp tác nhiều hơn.
Hơn nữa, cùng với sự lớn mạnh của ASEAN, Việt Nam đã và đóng vai trò không nhỏ trong cân bằng chiến lược và ảnh hưởng giữa các nước lớn, đặc biệt là trong cân bằng chiến lược Mỹ-Trung. Đây là vấn đề lớn, có ý nghĩa trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á.
Với chủ đề làm cho Hợp tác Á-Âu trở nên thực chất và sống động hơn, Hội nghị ASEM-5 được tổ chức tại Hà Nội tháng 10/2004 đã góp phần cải thiện hình ảnh và tình đoàn kết của ASEAN. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc thuyết phục các đối tác EU chấp thuận kết nạp Mianma, một trong 3 thành viên mới của ASEAN, vào ASEM. Điều này đã góp phần duy trì sự thống nhất và hòa thuận trong ASEAN.
Việc Việt Nam tham gia vào ASEAN đã và đang tạo môi trường thuận lợi hơn cho đất nước giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu qủa vào hệ thống toàn cầu.
Trong bối cảnh gián đoạn các mối quan hệ truyền thống, bị cấm vận, cô lập bởi hậu qủa của chiến tranh để lại, thì sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN không chỉ để góp phần thực hiện chính sách đổi mới toàn diện, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế do Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 đề ra, mà quan trọng hơn là tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ khu vực và quốc tế. Cụ thể, sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành nước sáng lập viên ASEM (1996), thành viên chính thức của APEC (1998), mở rộng không gian hợp tác với các nước Đông Nam Á (qua cơ chế ASEAN+1 và ASEAN+3).
Điều quan trọng hơn, Việt Nam trong 10 năm gia nhập ASEAN, đã từ nền kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua việc hội nhập này, Việt Nam đã từng bước điều chỉnh bộ máy hành chính phù hợp với nền kinh tế thị trường; đồng thời thông qua hợp tác và cạnh tranh, các nguồn tiềm năng nội địa được khơi dậy. Đây là thành tựu có ý nghĩa lớn nhất đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập ASEAN nói riêng trong thời gian qua.
1. Về chính trị, ngoại giao,an ninh quốc phòng:
Việt Nam là một trong 18 thành viên tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ASEAN Regional Forum - ARF) ngay từ đầu. Với tư cách là Chủ tịch ARF nhiệm kỳ 2000-2001, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các nước khác trong ASEAN duy trì những nguyên tắc cơ bản, bước đi vững chắc của ASEAN (tiếp tục tập trung thực hiện các biện pháp xây dựng và củng cố lòng tin, tăng cường hiểu biết lẫn nhau) trên con đường tiến tới “ngoại giao phòng ngừa”.
Ngoài sáng kiến xây dựng “Chương trình hành động Hà Nội năm 1998”, Việt Nam đã đưa ra sáng kiến, cùng với các nước ASEAN kiên trì thương lượng với Trung Quốc để có một “Tuyên bố về nguyên tắc ứng xử biển Đông” vào năm 2002.
Gần đây, Việt Nam đã tích cực và chủ động trong việc đóng góp nội dung cho “Tuyên bố Bali II” và “Dự thảo Cộng đồng ASEAN” nhằm hình thành Tuyên bố và Kế hoạch hành động của Cộng đồng An ninh ASEAN.
Việt Nam cho rằng, cách tiếp cận An ninh toàn diện với việc khẳng định sự ổn định của chính trị-xã hội, tăng trưởng kinh tế với thu hẹp khoảng cách phát triển, xóa đói giảm nghèo làm nền tảng và cơ sở đảm bảo sự bền vững của Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC). Ý kiến, đề xuất này được các nước ASEAN nhất trí, và được nhấn mạnh trong Hành động của Cộng đồng An ninh ASEAN.
Ngoài ra, Việt Nam đã vận động nhiều nước khác đề cao chủ quyền quốc gia, đưa vào văn kiện ASC những cụm từ hoặc tuyên bố mạnh mẽ như “các nước ASEAN không để lãnh thổ của mình được phép sử dụng vào mục đích chống phá các nước khác; cũng không cho phép can thiệp quân sự từ bên ngoài vào dưới bất kỳ hình thức và biểu hiện nào”. Đây là một trong những tuyên bố mạnh mẽ nhất của ASEAN từ trước tới nay về chính trị và an ninh.
Việt Nam cũng đã góp phần to lớn vào việc mở rộng quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của ASEAN, giúp ASEAN mở rộng thêm nhiều đối tác như Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, tổ chức nhiều Diễn đàn hợp tác lớn như ASEM, sắp tới là APEC-2006, giúp các nước lớn còn lại của thế giới tham gia dễ dàng hơn vào ASEAN, ASEM. Ngoài ra, Việt Nam còn tích cực trong hoạt động chính trị, an ninh như tham gia các hoạt động của Nghị viện ASEAN, hợp tác trong các vấn đề an ninh phi truyền thống.
Năm 2010, Việt Nam đảm nhiệm cương vị Chủ tịch ASEAN. Sau hơn 20 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường; chính trị-xã hội ổn định; độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quốc phòng-an ninh được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với phương châm “Việt Nam là bạn, và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,” Việt Nam ngày càng được coi là mảnh “đất lành” cho các cơ chế hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển đâm chồi nảy lộc.
Một trong những đóng góp cụ thể nổi bật nhất là nước ta đã thúc đẩy hình thành một ASEAN gồm cả mười quốc gia trong khu vực Ðông-Nam Á, đoàn kết và hợp tác, mở ra thời kỳ phát triển mới về chất của quan hệ giữa các quốc gia. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội tháng 12-1998, đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN nhiệm kỳ 2000 - 2001, tổ chức thành công AMM, nhiều Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành của ASEAN. Việt Nam đã đóng góp tích cực vào việc tăng cường đoàn kết và hợp tác ASEAN, kiên trì bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội như "đồng thuận" và "không can thiệp", góp phần quan trọng phát huy tác dụng Hiệp ước TAC và SEANWFZ, duy trì môi trường hòa bình, an ninh và ổn định khu vực; duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN trong việc xử lý các vấn đề khu vực cũng như tại các diễn đàn do ASEAN khởi xướng; nỗ lực đưa ra sáng kiến xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Ðông (COC) dẫn đến việc ký Tuyên bố của các bên liên quan về cách ứng xử ở Biển Ðông (DOC)...
2. Về kinh tế:
Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện lộ trình AFTA, tích cực chủ động tham gia mọi chương trình hợp tác kinh tế của ASEAN, phù hợp với quyền lợi của đất nước. Từ năm 1995 đến năm 2000, Việt Nam đã đưa vào danh sách CEPT 4.233 mặt hàng, chiếm 67% trong tổng số 6.332 mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi MFN.
Tháng 2/2001, Chính phủ Việt Nam đã công bố lịch trình tổng thể cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT cho đến 1/1/2006 là thời điểm hội nhập đầy đủ vào AFTA. Việt Nam cũng tham gia ký kết Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) ngày 7/10/1998, với mục tiêu tạo ra một khu vực đầu tư tự do trong nội bộ các nước ASEAN vào năm 2010 và cho các nước khác ngoài ASEAN và năm 2020.
Việt Nam tham gia ký và thực hiện khá tốt Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN (AFAS), về “Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN” (AICO), về “Sáng kiến hội nhập” (IAI), đã chủ động đưa ra và tích cực thực hiện Chương trình hợp tác phát triển Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), trong đó có dự án xây dựng các hành lang kinh tế, nhất là hành lang kinh tế Đông-Tây, hành lang lưu thông Côn Minh-Hà Nội-Hải Phòng...
Có thể khẳng định rằng, về hợp tác và liên kết khu vực nói chung, và kinh tế nói riêng, Việt Nam đã chủ động đưa ra nhiều sáng kiến, đề xuất, được các nước ASEAN đánh giá cao.
Về quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và các nước trong ASEAN từ thập niên 1990, nhất là từ sau khi Việt Nam vào ASEAN năm 1995, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt trên 20%. Năm 1994, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN chiếm tỉ trọng 21%, đến đầu những năm 2000 chiếm trên 25%.
Về đầu tư, đến tháng 6/1995, các nước trong ASEAN đầu tư vào Việt Nam gần 200 dự án với tổng số vốn pháp định trên 2 tỉ USD, chiếm 15% FDI vào Việt Nam thời điểm đó. Đến năm 2004, các nước khác trong ASEAN đã đầu tư trên 600 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 10 tỉ USD, chiếm 27% FDI vào Việt Nam. Xingapo từ nhiều năm qua đã trở thành nước đầu tư số 1 tại Việt Nam với gần 400 dự án, số vốn đăng ký lên đến 8 tỉ USD đến cuối 2004. Malaixia, Thái Lan cũng là những nước đầu tư lớn, xếp thứ 11-12 với tổng số vốn đăng ký trên 1 tỉ USD.
Không chỉ hội nhập kinh tế với ASEAN, Việt Nam cùng các nước này mở rộng không gian hợp tác kinh tế với các nước Đông Á (ASEAN+3), với các nước EU trong khuôn khổ ASEM, với các nước Châu Á-Thái Bình Dương trong khuôn khổ APEC.
Trong 10 năm qua, Việt Nam đã để lại ấn tượng khá tốt đẹp đối với các nước ASEAN không chỉ về thành tựu phát triển kinh tế (nhất là trong lĩnh vực tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo) mà còn trong việc thực hiện cam kết hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Việt Nam luôn phấn đấu phát triển kinh tế đạt tốc độ cao với tỷ lệ tăng trưởng trung bình khoảng 7%. Tuy vẫn còn là nước nghèo, nhưng Việt Nam đã rút ngắn được một chút khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước ASEAN 6 (Thái Lan, Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia, Philíppin, Brunây). Từ năm 1994 đến năm 2000, Việt Nam đã rút ngắn khoảng cách GDP/đầu người so với các nước trong khu vực (so với Xinhgapo từ 17,1 lần xuống còn 15 lần, với Malaixia từ 5 lần xuống còn 4,2 lần, với Thái Lan từ 4,4 lần xuống còn 3,4 lần, với Philíppin từ 2,5 lần xuống còn 1,9 lần, với Inđônêxia từ 2,3 lần xuống còn 1,7 lần).
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng các ngành kinh tế khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp) giảm đáng kể, năm 2004 còn 21,76%; khu vực II (công nghiệp, xây dựng) 40,09%; khu vực III (thương mại, dịch vụ) 38,15%. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo đã được những thành tựu đáng kể và được cộng đồng quóc tế ghi nhận.
Việc Việt Nam đang tích cực chuẩn bị các điều kiện để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sẽ là mốc đánh dấu sự phát triển và hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Về hợp tác kinh tế, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành cắt giảm thuế quan theo Hiệp định CEPT/AFTA; đạt mục tiêu AFTA đã định sau mười năm (sớm hơn dự kiến 5 năm), góp phần tăng cường liên kết kinh tế nội khối, đưa ASEAN trở thành một cơ sở sản xuất khu vực có khả năng cạnh tranh và hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư khu vực và quốc tế, mở rộng hợp tác ASEAN trên nhiều lĩnh vực. Ðối với thực hiện Sáng kiến ASEAN về thu hẹp khoảng cách phát triển (IAI), tại AMM - 34 tổ chức ở Hà Nội năm 2001, Việt Nam đã cùng ASEAN đưa ra Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển; trong thời gian làm Chủ tịch Nhóm đặc trách IAI, Chương trình thực hiện IAI đã thu nhiều kết quả (hiện IAI có 134 dự án và hơn 90% số dự án đó đã có nguồn tài trợ với tổng số cam kết đạt được là 48 triệu USD tại các lĩnh vực như phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ thông tin, du lịch, xóa giảm đói nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống...). Tháng 6-2007, Việt Nam đăng cai tổ chức Diễn đàn Sáng kiến IAI lần thứ hai nhằm đề ra chiến lược hợp tác thực hiện Sáng kiến IAI giai đoạn 2008 - 2015. Việt Nam đã đưa ra sáng kiến quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội qua Chương trình hợp tác phát triển Tiểu vùng Mê Công, các vùng nghèo dọc Hành lang Ðông-Tây (WEC)...
3.Về văn hóa xã hội:
Theo quy định của Hiến chương ASEAN, Việt Nam sẽ đảm nhận cương vị Chủ tịch luân phiên của ASEAN từ tháng 1 đến tháng 12/2010.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gợi mở 4 trọng tâm nhằm thúc đẩy việc thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng ASCC vào năm 2015.
Một là, đẩy mạnh hơn nữa các nỗ lực và tiến hành các biện pháp phù hợp để thực hiện các cam kết và các ưu tiên đã được xác định trong Kế hoạch tổng thể về xây dựng ASCC, trong đó tập trung nguồn lực thích đáng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để bảo đảm tính thực thi hiệu quả các thỏa thuận.
Hai là, coi trọng việc tăng cường điều phối và phối hợp hành động giữa các cơ quan thuộc trụ cột Văn hóa - Xã hội, nhất là vai trò điều phối của Hội đồng Cộng đồng Văn hóa-Xã hội.
Ba là, có giải pháp bảo đảm nguồn lực để thực hiện kế hoạch tổng thể xây dựng ASCC theo đúng lộ trình. Trước hết phải xây dựng một cơ chế thích hợp nhằm huy động và quản lý hiệu quả các nguồn lực, từ cả các nước thành viên cũng như các đối tác của ASEAN, trong đó quan tâm hơn sự tham gia của khu vực tư nhân.
Bốn là, các nước thành viên cần tích cực và chủ động lồng ghép các mục tiêu và biện pháp của Kế hoạch tổng thể về xây dựng ASCC với các mục tiêu và kế hoạch phát triển quốc gia, đảm bảo các mục tiêu và hoạt động của ASEAN trong lĩnh vực văn hóa xã hội được nội hóa ở cấp quốc gia, qua đó hỗ trợ thúc đẩy và bổ sung cho những nhu cầu phát triển của quốc gia cũng như việc thực hiện tốt hơn kế hoạch chung của ASCC.
Trong 10 năm qua, tích cực hội nhập với khu vực Đông Nam Á và thế giới, Việt Nam luôn gìn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của khu vực và thế giới, giao lưu học hỏi, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các nước bạn bè trong ASEAN.
Các trường đại học, các học viện, trung tâm nghiên cứu đã góp phần quan trọng vào công việc này. Hàng ngàn sinh viên học tập và tốt nghiệp ngành Đông phương học là nguồn nhân lực chất lượng cao cung cấp cho các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các cơ quan ngoại giao, văn hóa...
Hiện nay một số trường, viện đang đào tạo trên đại học các ngành Châu Á học, Đông phương học. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á là cơ quan nghiên cứu hàng đầu của cả nước, đã công bố hàng chục công trình có giá trị về Đông Nam Á, về quan hệ Việt Nam-ASEAN.
Ngày nay ASEAN đã trở nên khá quen thuộc với giới thanh niên, sinh viên ở các thành phố lớn trong cả nước. Việc trao đổi văn hóa giáo dục giữa Việt Nam với các nước ASEAN đã không ngừng được mở rộng. Nhiều đoàn nghệ thuật Việt Nam đến thăm, biểu diễn ở các nước bạn, giới thiệu nền văn hóa dân tộc đặc sắc của Việt Nam; đồng thời nhiều đoàn nghệ thuật các nước ASEAN đã đến biểu diễn, giao lưu tại Việt Nam.
4. Về giáo dục:
Ngay từ đầu những năm 1990, Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam đã coi việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á là một ưu tiên. Thực hiện chủ trương đó, tháng 2/1990, Bộ Giáo dục Đào tạo chính thức gia nhập tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á (SEAMEO). S
Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính của ASEAN, Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam trở thành thành viên của Tiểu ban Giáo dục của ASEAN (ASCOE), đã tích cực phối hợp với các nước trong khu vực với nhiều hoạt động thiết thực, có hiệu quả và được các bạn đánh giá cao.
III. Những cơ hội và thách thức:
Về kinh tế, việc thực hiện AFTA, vốn đã không dễ dàng giữa các nước thành viên là cựu của ASEAN, sẽ càng khó khăn thêm với các nước thành viên mới, trong đó có Việt Nam. Hội nghị Bộ trưởng thương mại các nước ASEAN họp ở Singapore tháng 4 năm 1996 đã đi đến sự nhất trí chung là phần lớn hàng hoá của khu vực sẽ có mức thuế từ 0 đến 5% vào thời điểm hoàn tất AFTA, và có "nương nhẹ" hơn đối với một số mặt hàng nông sản nhạy cảm như gạo mà thời hạn cuối cùng thực hiện giảm thuế có thể kéo dài đến năm 2010. Nhưng cũng không phải tất cả các nước thành viên đều sẵn sàng chấp nhận thời hạn đó. Indonesia, với sự ủng hộ của Philippines sau đó đã đề nghị kéo dài thời hạn cho các mặt hàng nông sản đến năm 2020. ASEAN đã phải tiến hành đàm phán, thương lượng một số vòng để đạt được sự nhất trí trong nội bộ, và cuối cùng cả hai nước (Indonesia và Philippines) đều đồng ý trở lại thời hạn ban đầu là 2010 với điều kiện có sự linh hoạt đối với vấn đề mức thuế cuối cùng(2). Điều đó cũng cho thấy trong các nước ASEAN vẫn còn những ý kiến khác nhau cề thời hạn thực hiện AFTA. Một số nước muốn thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện AFTA vào năm 2000 chứ không phải 2003 nữa, trong khi một số nước còn ngần ngại, muốn bảo lưu một số mặt hàng... chưa nói đến khả năng rút ngắn thời hạn thực hiện AFTA, thì việc thực hiện đúng tiến trình đã là thách thức đối với Việt Nam, vì chính trong việc thực hiện AFTA của Việt Nam cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế. Đánh giá tiến trình thực hiện AFTA đó ông Trần Xuân Thắng, Tổng cục trưởng Tổng cục thuế cho biết: "Về mặt tổ chức và triển khai thực hiện CEPT của Việt Nam thời gian qua có thể nói rằng việc hợp tác thực hiện chưa được hiệu quả, còn mang tính bị động, đối phó... Cho đến nay mới chỉ có các cơ quan cấp Bộ, ngành tham gia vào các lĩnh vực liên quan đến AFTA, còn các doanh nghiệp hầu như vẫn đứng ngoài cuộc". Bên cạnh đó, "để thực hiện cam kết cắt giảm thuế quan của Việt Nam bắt đầu từ năm 1998, thì thời gian còn lại cho các doang nghiệp Việt Nam đổi mới công nghệ, làm quen dần với môi trường cạnh tranh... là quá ngắn ngủi"(3). Một cơ hội cho việc mở rộng hợp tác kinh tế của Việt Nam trong khu vực, đồng thời cũng lại là một thách thức mới đối với Việt Nam là trong chiến lược phát triển của ASEAN "tầm nhìn ASEAN 2020", điểm quan trọng là mục tiêu tiến tới khu vực mậu dịch tự do ASEAN mở rộng hay khu vực kinh tế ASEAN (AER), theo đó sau năm 2003, các loại thuế và những biện pháp bảo hộ khác sẽ được xoá bỏ hoàn toàn. Qua hai năm tham gia trực tiếp vào các hoạt động hợp tác khác nhau của ASEAN, đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn của Việt Nam đã có những bước tiến bộ vượt bậc về trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, làm quen dần với phương thức hợp tác trong ASEAN. Tuy nhiên, việc đào tạo đội ngũ cán bộ và nguồn lực nói chung vẫn đòi hỏi phải có nhiều cố gắng để có thể đáp ứng những bước đi tiếp theo khó khăn và phức tạp hơn trong hợp tác ASEAN. Về an ninh khu vực, ASEAN vốn được biết đến với những nguyên tắc hoạt động đã trở thành tượng trưng cho tổ chức như nguyên tắc nhất trí, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng... Với ASEAN - 10 và những diễn biến gần đây ở Campuchia, những nguyên tắc trên dường như đang bị thử thách. Với 10 nước thành viên rất khác nhau về diện tích, dân số, trình độ phát triển, thể chế chính trị, tôn giáo... tính đa dạng của ASEAN về các mặt kinh tế chính trị, văn hoá và lợi ích an ninh... càng lớn và điều đó không khỏi tác động đến quá trình phát triển tiếp theo của ASEAN như: sự phức tạp hơn để đạt được sự nhất trí ASEAN về những vấn đề kinh tế, an ninh, sự dung hoà giữa các lợi ích quốc gia và lợi ích chung của khu vực, những thời hạn khác nhau về thực hiện AFTA, những khả năng khác nhau trong tham gia vào các hoạt động chung của ASEAN... Sự phức tạp đó cũng chính là điều mà Việt Nam cần phải lưu ý xử lý trong tương lai liên quan đến việc giải quyết các vấn đề trong khuôn khổ ASEAN. Sau khi những sự kiện xảy ra đầu tháng bảy vừa qua ở Campuchia, có thể nói nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của ASEAN đang bị thử thách mạnh mẽ nhất. Ngoài sự theo dõi, chờ đợi phản ứng của ASEAN từ bên ngoài, trong nội bộ ASEAN, những cuộc tranh luận cũng đã mở ra. Khá nhiều quan chức và các nhà học giả ASEAN đặt ra vấn đề ASEAN cần phải có "chính sách can thiệp xây dựng" hay "can thiệp với đặc điểm ASEAN, với cách của ASEAN" ở Campuchia, và đó là điều cần phải làm vì những gì xảy ra hôm nay ở Campuchia có thể xảy ra tương tự trong tương lai ở một nước thành viên hay láng giềng khác của ASEAN. Tuy nhiên, dù là "can thiệp xây dựng" hay "can thiệp với cách của ASEAN, với đặc điểm ASEAN" thì vẫn không tránh được những từ "can thiệp" hay "dính líu". vấn đề đặt ra ở đây là cách tiếp cận của ASEAN và thái độ của các nước thành viên, trong đó có Việt Nam, sẽ như thế nào đối với những nguyên tắc hoạt động của ASEAN trong tương lai ? Liệu có phải ASEAN đang chuyển mình để có những bước đi có tính quyết định hơn, có tổ chức hơn và đóng vai trò lớn hơn ?
Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010: 1.Theo quy định của Hiến chương ASEAN, Việt Nam sẽ đảm nhận cương vị Chủ tịch luân phiên của ASEAN từ tháng 1 đến tháng 12/2010. Theo đó, Việt Nam sẽ chủ trì tổ chức và điều hành một loạt các hoạt động quan trọng của ASEAN gồm: 02 Hội nghị Cấp cao ASEAN và giữa ASEAN với các bên đối tác, 08 Hội nghị của các Hội đồng Cộng đồng cấp Bộ trưởng, nhiều Hội nghị Bộ trưởng chuyên trách thuộc các kênh hợp tác khác nhau của ASEAN (quốc phòng, kinh tế, tài chính,…), và nhiều hoạt động giữa ASEAN và các bên Đối tác. Với tư cách nước Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đề xuất định hướng hợp tác và hoạt động của ASEAN trong suốt năm 2010. Năm 2010 là năm bản lề quan trọng đối với ASEAN, đánh dấu 5 năm hướng tới xây dựng Cộng đồng ASEAN (2010-2015), 1 năm triển khai Hiến chương; đối với Việt Nam, năm 2010 đánh dấu 15 năm Việt Nam tham gia ASEAN, 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và Nga, 15 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ và EU, đây cũng là dịp chúng ta tổ chức Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Do đó, việc đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2010 vừa là vinh dự, vừa đặt ra những trọng trách cho Việt Nam. 2. Với vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam tập trung vào các ưu tiên sau: - Thúc đẩy đoàn kết và hợp tác ASEAN, đẩy mạnh liên kết khu vực nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN, hoàn tất việc đưa Hiến chương ASEAN vào cuộc sống; - Mở rộng và tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện giữa ASEAN với các bên Đối tác; củng cố và duy trì vai trò quan trọng của ASEAN tại các khuôn khổ hợp tác khu vực, đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương; - Đồng thời, hỗ trợ quảng bá đất nước và con người Việt Nam; đề cao hình ảnh một nước Việt Nam đổi mới và năng động, có đường lối đối ngoại độc lập, hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước, tích cực hội nhập khu vực và quốc tế. 3. Việt Nam đã xác định Chủ đề cho năm 2010 là: “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”. Theo đó, trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước thành viên nhằm: - Thông qua các hành động cụ thể đẩy nhanh tiến độ triển khai hiệu quả các chương trình, kế hoạch xây dựng 3 trụ cột Cộng đồng ASEAN và Kế hoạch công tác giai đoạn II về Thu hẹp khoảng cách phát triển trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, đảm bảo việc thực hiện mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN đúng lộ trình vào năm 2015. - Tiếp tục triển khai Hiến chương, hoàn thiện bộ máy tổ chức mới, cải tiến phương thức hoạt động của ASEAN, hoàn tất soạn thảo các văn kiện pháp lý bổ sung cho Hiến chương, tạo khuôn khổ pháp lý cho ASEAN; - Tiếp tục tăng cường quan hệ với các đối tác bên ngoài trên cơ sở các khuôn khổ đối tác, hợp tác hiện có, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, hợp tác ứng phó với các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh năng lượng và lương thực… - Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ cùng các nước thành viên thúc đẩy vai trò và vị thế quốc tế của ASEAN thông qua củng cố và duy trì vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực; mở rộng hơn vai trò của ASEAN tại các thể chế, diễn đàn khu vực và quốc tế như APEC, ASEM, LHQ, G20…
Đến nay, có thể nói rằng với ASEAN - 10, ASEAN sẽ bước sang một giai đoạn phát triển mới. Một bước chuyển mới bao giờ cũng kèm theo những thay đổi, những trăn trở để tự hoàn thiện, để đáp ứng được với những đòi hỏi của tình hình thế giới, khu vực, và với vị trí và vai trò mới của ASEAN trong khu vực và trên thế giới. Và điều đó chỉ có thể có được với sự đóng góp và hợp tác của các nước thành viên. Xử lý tốt những vấn đề trong quan hệ của mình với ASEAN, Việt Nam đang làm cho sự tham gia của mình trong ASEAN ngày càng có hiệu quả hơn, và thiết thực hơn, thực hiện mục tiêu lâu dài là xây dựng và bảo vệ đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa Việt Nam & ASEAN.doc