MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU1
I. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI. 3
1. Nền kinh tế dộc lập tự chủ. 3
2. Hội nhập kinh tế quốc tế. 5
II. CƠ SỞ THỰC T Ế7
1.Toàn cảnh thế giới trong tiến trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế. 7
2.Hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoỏ kinh tế những thuận lợi và thỏch thức8
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ12
1. Theo quan điểm của chủ tịch HỒ CHÍ MINH12
3. Thực trạng đất nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 14
4. Những đề xuất ,kiến nghị để giải quyết vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế. 16
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4763 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩy chay hoàn toàn toàn cầu hoá hoặc đứng ngoài quá trình toàn cầu hoá. Vấn đề đối với các quốc gia là, phải có chiến lược thích ứng và khôn ngoan để vượt qua thách thức và chớp lấy thời cơ, đồng thời phải có ý thức giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ để đưa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phát triển và phồn vinh. Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nhưng đó cũng là một bài toán hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang phát triển, thôi thúc họ tìm lời giải tối ưu. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy nội lực và kết hợp với chủ động mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những điều kiện tiên quyết – chìa khoá hữu hiệu để giải mã bài toán này trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay.Tức là phải tìm ra các giải pháp phù hợp, để giải quyết tốt mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
Rừ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu nội sinh của bản thõn nền kinh tế nước ta, chứ không phải do chúng ta bị o ép, bị bắt buộc. Thời cơ đang đến, yêu cầu của chính bản thân đũi hỏi, khụng cũn sự lựa chọn ưu việt nào hơn. Vấn đề đặt ra là chúng ta lựa chọn như thế nào để vẫn hội nhập phát triển mà vẫn bảo toàn trọn vẹn độc lập tự chủ, vẫn hội nhập mà không đánh mất truyền thống, hội nhập mà an ninh trật tự xó hội được bảo đảm, hội nhập mà xó hội lành mạnh và phỏt triển. Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.[Trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 89] Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được đề ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lường trước được. Việt Nam từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội lần thứ IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Em nghĩ là một nhà kinh tế, thỡ nhất thiết phải nắm bắt và nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa 2 vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế. Đú là lớ do thụi thỳc em chọn và nghiên cứu đề tài : “Mối quan hệ giữa xõy dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế” .Với trỡnh độ và kinh nghiờm cũn nhiều hạn chế, chắc chắn bài viết cũn nhiều thiếu sút, em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy giáo và cỏc bạn để bài viết hoàn thiện hơn.Và em xin chõn thành cảm ơn thầy giáo GS.TS ĐOÀN QUANG THỌ người đó giỳp đỡ em tận tỡnh chu đáo để em hoàn thành bài tiểu luận này.
I. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1. Nền kinh tế dộc lập tự chủ
Một nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và truyền thống là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thỏa món những nhu cầu mọi mặt của đời sống xó hội, của an ninh, quốc phũng và quỏ trỡnh tỏi sản xuất; khụng bị lệ thuộc vào bờn ngoài cả từ khõu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cỏch bỡnh thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trỡ an ninh quốc gia. Một nền kinh tế như vậy nhỡn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc gia có đầy đủ mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khớ hậu lý tưởng, quy mô thị trường quốc gia đủ lớn, trỡnh độ phát triển cao về khoa học - công nghệ và không cần phải cóquan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể tự tồn tại, phát triển được. Nếu như trước kia khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ làm cho người ta liên tưởng tới việc tự lực cánh sinh hoặc biệt lập, khép kín, ít giao lưu và kém hiệu quả, thỡ ngày nay, khỏi niệm này được hiểu một cách mềm dẻo và linh hoạt hơn,’độc lập tự chủ có tính tương đối’.Khi toàn cầu hóa đó phỏt triển ở mức cao, cỏc thị trường quốc gia đó và đang tiếp tục mất đi những hàng rào ngăn cách quan trọng để từ đó tạo điều kiện hỡnh thành thị trường thống nhất trên phạm vi các khu vực và toàn cầu, thỡ cỏc luồng lưu chuyển khổng lồ về hàng hóa, dịch vụ, thông tin, vốn, công nghệ, nhân công và các mạng lưới công ty đa quốc gia rộng khắp toàn cầu đó gắn kết cỏc quốc gia lại với nhau, làm cho chỳng lệ thuộc vào nhau trong cả quỏ trỡnh sản xuất lẫn quỏ trỡnh tiờu thụ sản phẩm. Toàn cầu húa càng phỏt triển thỡ sự tương tác, tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước càng tăng. Khủng hoảng kinh tế hay những chấn động kinh tế, tài chính xảy ra ở một nền kinh tế nào đó đều có tác động đến các nền kinh tế mà nó có quan hệ. Mức độ ảnh hưởng nhiều hay ít tùy thuộc vào quy mô của nền kinh tế đó và sức nặng của nó trong quan hệ với các nền kinh tế khác. Thực tế cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở một số nước Đông Nam Á năm 1997 đó gõy ra ảnh hưởng dây chuyền nghiêm trọng đối với tất cả các nước trong khu vực và cả nhiều nước khác trên thế giới. Suy thoái kinh tế ở Mỹ và một số nước khác năm 2001 cũng đó kộo theo suy thoỏi kinh tế ở rất nhiều nước trên thế giới và có tác động mạnh đến hầu hết các nước. Như vậy, rừ ràng một “nền kinh tế độc lập tự chủ” theo cách hiểu truyền thống không cũn tồn tại trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay. Điều này buộc chúng ta phải có nhận thức mới phù hợp hơn với thực tiễn về khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ. Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể được hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tỡnh hỡnh quốc tế và ớt bị tổn thương trước những biến động đó; trong bất cứ tỡnh huống nào nú cũng cú thể cho phộp duy trỡ được các hoạt động bỡnh thường của xó hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh, quốc phũng của đất nước.
Xõy dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được đặt trong mối quan hệ biện chứng với việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, mở cửa, giao lưu với các nền kinh tế, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, hợp tác bỡnh đẳng và cùng có lợi. Nói một cỏch chung nhất, nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế có thể tự thân vận động, sử dụng và phát huy được nội lực, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, không bị lệ thuộc vào bất cứ ai, thế lực nào, có khả năng đối phó và đứng vững trước những thách thức, tác động tiêu cực từ bên ngoài .nghĩa là ta phải chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ, thống nhất và bản sắc dân tộc. Trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối, chớnh sỏch, cú quyết sách để chủ động hội nhập; hội nhập có định hướng theo lộ trỡnh hợp lý, theo định hướng xó hội chủ nghĩa. Độc lập tự chủ về kinh tế cũn cú nghĩa là là một nền kinh tế cú thực lực đủ mạnh, có thể ứng phó nhanh, kịp thời với những biến động khó lường của kinh tế thế giới và khu vực, là một nền kinh tế "mở" kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước, có sức cạnh tranh cao, không để bị lệ thuộc và bị chi phối từ bên ngoài, bảo đảm an ninh kinh tế.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập - tự do là hạt nhân chi phối và qui định mọi hoạt động thực tiễn. Để giành và giữ nền độc lập thỡ khụng chỉ cú quyết tõm khụng lay chuyển mà cũn là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Thực tế, trong nhiều thời điểm lịch sử, Người đó từng hũa hoón, nhượng bộ với kẻ thù nhưng không làm suy yếu mà củng cố nền độc lập vững chắc thêm.Giành độc lập chỉ là khởi đầu cuộc chinh phục lâu đài hạnh phúc cho nhân dân. Người xác định: “Giành độc lập đó khú, giữ gỡn độc lập cũn khú hơn nhiều”. Muốn có độc lập - tự do lâu dài thỡ phải lao động quên mỡnh để đất nước phồn vinh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Ngay sau ngày hũa bỡnh lập lại, Người đó vạch ra một lộ trỡnh cụng nghiệp húa - hiện đại hóa đất nước theo nguyên tắc xây dựng một nền kinh tế độc lập - tự chủ. Mang trên vai di sản của Người, ta ra biển lớn với thời cơ lớn. Người từng nói: để mất thời cơ là có tội với đồng bào. Ngày nay, nền độc lập không chỉ là chuyện đường biên giới mà cũn là chuyện thị trường. Thật cam go nếu ta chỉ là “sân sau” tiêu thụ, chỉ bán nguyên liệu thô để mua thành phẩm và nhỡn giỏ trị thặng dư chảy ra ngoài biên giới. Nếu không đạt tới một năng suất lao động cao, không có hàng hóa thương hiệu mạnh để thu được nhiều thặng dư từ thương trường quốc tế thỡ tất sẽ trở nờn nghốo kiệt. Đõy là một cõu hỏi húc bỳa của mọi quốc gia, đặc biệt là Việt Nam với nền kinh tế chưa phỏt triển, thỡ chỳng ta cần cú biện phỏp, một hướng đi đỳng đắn và cụ thể trong một thời gian dài.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế
Kh ỏi niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quỏ trỡnh cỏc doanh nghiệp của một quốc gia tham gia một cỏch chủ động, tích cực vào nền kinh tế thế giới. Nếu như toàn cầu hoá luôn có hai mặt tích cực và tiêu cực thỡ hội nhập kinh tế quốc tế luụn mang theo mỡnh những cơ hội và thách thức to lớn. Hội nhập kinh tế quốc tế của các nền kinh tế chuyển đổi (trong đó có Việt Nam) là quá trỡnh thực hiện tư do hoá thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng mở cửa thị trường. Từ đó đem lại nhiều cơ hội kinh tế như hàng hoá xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn và nhiều lợi ích gián tiếp khác đi liền với cạnh tranh quốc tế gay gắt và tăng dần hiệu quả kinh tế theo quy mô.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khỏch quan.
“Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, mà trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách đây hơn 150 năm, Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực. Theo ông, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành phổ biến.
Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao đổi hàng hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất thấp nên chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, đời sống kinh tế các nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và bế quan toả cảng của các địa phương, các dân tộc trước kia được thay thế bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trước Thế chiến thứ 2, hình thức quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công áp đặt trực tiếp, tức là các nước phát triển áp dụng chiến tranh xâm lược và bạo lực để thống trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài nguyên và tiêu thụ hàng hoá. Trong đó, mỗi nước đế quốc có một hệ thống thuộc địa riêng, phân công lao động và quốc tế hoá còn mang tính chất cát cứ, làm cho các nước lạc hậu không thoát khỏi tình trạng khó khăn trì trệ.
Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ thuật, lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh chóng. Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ thống phân công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế bằng hệ thống phân công mới gọi là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới một quốc gia vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lượng mới.
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của loài người và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả của các quá trình tích luỹ về số lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để số lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa, khu vực hoá đã chuyển thành xu hướng toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử tất yếu do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối.
Và trong đó đặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thế tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát triển của mình. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay toàn cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các châu lục, đã có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động [theo năm 1999] Đây là sự phát triển mới chưa từng có. Lịch sử đã chứng tỏ không một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng không thể sản xuất được tất cả các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm về trước Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt. Thành tựu có được như ngày nay là nhờ vào mở cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế này là xu thế phát triển tất yếu của thời đại không thể khác được. Chỉ có những quốc gia nào nắm bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát triển.
II. Cơ sở thực t ế
1.Toàn cảnh thế giới trong tiến trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng đều. Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực thay đổi theo hướng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh như các thập kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối ra; các nước thuộc Liên Xô trước đây và nước Đông Âu rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trưởng tương đối khá; kinh tế Trung Quốc phát triển ngoạn mục; Đông Nam á và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ trước, tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang hồi phục; Nam Á và Châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả các nước trên thế giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ to lớn cho nhân loại và những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự sống, tạo ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ … mở ra một tiềm năng mới cho loài người chinh phục tự nhiên, chinh phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản xuất ngày càng giải phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã hội.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ và tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đạt tới trình độ ngày càng cao. Phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu (EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA)…
Hiện nay, các nước lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi chính sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường lớn như Trung Quốc, Nga, ấn Độ, Mỹ…và cả một số nước vốn khép kín, theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế…
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ, do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt điều kiện với những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao vây cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.
ở khu vực Đông Nam á đó diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998, song vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và địa lý kinh tế của mình, dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào tạo tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2.Hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoỏ kinh tế những thuận lợi và thỏch thức
Những mặt thuận lợi: Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phổ biến theo hướng nhất thể hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động, những mô hình – cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và cả khoa học, kỹ thuật. Trong đó các nước đang phát triển tham gia với động lực cơ bản là nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo mối liên kết thương mại giữa các quốc gia, các khu vực với nhiều hình thức phong phú, hoạt động có hiệu quả. Và cho đến nay, một số các quốc gia đang phát triển đã đạt được những tiến bộ vượt bậc ví như : ở khu vực Đông Nam á có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã chuyển mạnh sang kinh tế hướng về xuất khẩu và thu được những thành quả tốt.
Xét về việc mở rộng và đa dạng các mối liên kết thương mại thì chính sách tỷ giá, chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan đã làm cho hoạt động thương mại tại các nước mở rộng thị trường và tăng khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,điều chúng ta thấy rõ là thị trường vốn có mối liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ hội hội nhập với thị trường tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm soát đối với đồng vốn chảy vào, đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và giao dịch thông qua tài khoản. Hiện nay, nhiều nước đã chấp nhận thả nổi đồng tiền, đã làm cho đồng vốn đổ vào các nước này tăng nhanh.
Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút vốn, một mặt thúc đẩy công nghiệp hoá, một mặt tăng tích luỹ từ đó cải thiện mức thâm hụt ngân sách. Chính sự ổn định kinh tế vĩ mô này đã tạo niềm tin cho các chương trình phát triển hỗ trợ cho những quốc gia thành công trong cải cách kinh tế và mở cửa.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh to lớn. Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn vào. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hoá nói chung và toàn cầu hoá kinh tế nói riêng thành quá trình tự do hoá kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển, đều phải tìm kiếm các đối sách để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa bình diện và đầy nghịch lý.
Những thách thức đặt ra:Sau hàng thế kỷ đấu tranh kiên cường, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc đã thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành được độc lập dân tộc và chủ quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế – xã hội của các nước chậm phát triển và đang phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện đáng lo ngại về sự tụt hậu so với trình độ của các nước phát triển. Khoảng cách ấy không những không được khắc phục, rút ngắn mà còn thực sự trở thành nguy cơ chia cắt thế giới làm hai nửa khác biệt: vài chục quốc gia tiên tiến đã vượt hơn 100 quốc gia thuộc “thế giới thứ ba” hàng vài thập niên phát triển hoặc gấp trăm lần chênh lệch về thu nhập bình quân GDP tính theo đầu người.
Các nước này tuy đã giành được độc lập, đó là một thành quả vô cùng quan trọng, song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn lạc hậu. Cho nên, họ vẫn bị phụ thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản : từ khai thác – sử dụng tài nguyên, quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật – công nghệ đến thị trường tiêu thụ cũng như phân công lao động quốc tế… Các nước đang phát triển đang phải đối diện trước thách thức của nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Bởi một cơ cấu kinh tế còn nhiều bất hợp lý, trong đó tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị thu nhập quốc dân, cộng thêm với trình độ thấp kém về năng suất lao động, cho nên tốc độ phát triển kinh tế của đa số các nước đang phát triển thấp và bấp bênh. Trong thập niên 60, các nước đang phát triển đạt mức tăng trưởng 5,7%, thập niên 70 đạt 5,3% thì đến thập niên 80 là 2% và những năm vừa qua của thập niên 90 tuy tình hình có được cải thiện, song cũng chỉ đạt mức trên 4% trong khi tỉ lệ tăng dân số vẫn còn ở mức trên 2%/năm.
Không những thế vấn đề nợ nước ngoài cũng trở thành gánh nặng đối với các nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nước ngoài của các nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên qua : từ 6 tỉ năm 1995 lên trên 2000 tỉ đầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng số nợ đã vượt xa so với tổng thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các nước đang phát triển không chỉ được biểu hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà còn là tình trạng nhiều nước không có khả năng thanh toán dù chỉ là lãi suất hằng năm, trong khi dó tốc độ của các khoản vay vẫn gia tăng và không hề có dấu hiệu giảm bớt.
Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương mại giữa các nước đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao đổi không ngang giá, các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD.
Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa – sản phẩm của các nước đang phát triển khi thâm nhập thị trường các nước phát triển. Qua con đường đầu tư, chuyển giao kỹ thuật – công nghệ, các cường quốc tư bản không chỉ thu lợi do bán các thiết bị công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm mà còn khống chế nhiều huyết mạch kinh tế quan trọng của các nước đang phát triển. Còn các nước đang phát triển, do áp lực bức bách của nhu cầu cải thiện đời sống kinh tế, đã dễ dàng chấp nhận “chào đón” bất kỳ sự cải tiến kỹ thuật – công nghệ nào, bất kỳ nguồn vốn tư bản nào. Sự đơn giản dễ dãi này, mặc dù trước mắt có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song rất có thể phải trả giá đắt bởi các hậu quả kinh tế xã hội khó lường. Do vậy, lựa chọn kỹ thuật – công nghệ, cơ cấu kinh tế, mô hình kinh tế – xã hội đang đặt ra những tiêu chuẩn phức tạp hơn để có thể tận dụng mọi cơ hội phát triển cho cả ngày mai, không chỉ vì những cái lợi tức thời trước mắt.
Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau thì sao? Con đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nước này đều có sự tương đồng về trình độ phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài nguyên, nhân lực và thị trường…trong khi tất cả đều thiếu vốn, kỹ thuật – công nghệ và tri thức quản lý hiện đại. Hơn nữa, những lợi thế nêu trên dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hoá hiện nay không còn có vai trò, ý nghĩa nổi bật như các thập niên trước đây. Điều đó cho thấy, các nước đang phát triển cần thiết phải có cách tiếp cận mới trong hợp tác cùng nhau. Chỉ có như vậy, khuôn khổ và cơ chế hợp tác mới thực sự trở nên hữu ích và thiết thực đối với các nước đang phát triển. Đồng thời, nó đóng góp và việc phối hợp các nỗ lực chung của các nước đang phát triển nhằm từng bước khắc phục và hạn chế những hậu quả tiêu cực của toàn cầu hoá cũng như trong quá trình xúc tiến quan hệ với các nước phát triển.
Phát triển các mối quan hệ này sẽ dẫn đến một kết cục là: các hàng rào thuế quan và phi thuế quan phải giảm thiểu theo các nguyên tắc của các tổ chức trên, các công ty nước ngoài được phép vào Việt Nam hoạt động một cách bình đẳng với các công ty Việt Nam và ngược lại các công ty Việt Nam cũng được phép hoạt động bình đẳng tại các nước đối tác. Trong điều kiện đó việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ nên được hiểu như thế nào là thích hợp. Liệu có mâu thuẫn giữa hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng kinh tế độc lập tự chủ?
Qua phõn tớch ta thấy rừ hội nhập kinh tế bờn cạnh tạo ra rất nhiều lợi thế thỡ nú cũng cú mặt trỏi của nú. Đũi hỏi ta phải cú những chớnh sỏch, chiến lược cụ thể để khắc phục mặt trái,vận dung tối đa những nguồn lực cú thể để xây dựng nền kinh tế đủ sức đứng vững trờn đấu trường quốc tế.
III. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
1. Theo quan điểm của chủ tịch HỒ CHÍ MINH
Ngay sau khi nước ta dành độc lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chỉ thị: "Chỳng ta phải thực hiện ngay:1. Làm cho dân có ăn2. Làm cho dõn cú mặc3. Làm cho dõn cú chỗ ở. 4. Làm cho dõn cú học hành.
Mục đích chúng ta đi đến chính là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập".Trong những lời giản dị đến nôm na này: chứa đựng những tư tưởng cực kỳ sâu sắc 4 việc phải thực hiện ngay ấy cũng là nhiệm vụ chiến lược của việc xây dựng đất nước, tuỳ theo từng điều kiện và sự phát triển cụ thể nhưng ở thời nào, ăn, mặc, ở, học hành cũng luôn luôn là mục đích của con người. Hồ Chí Minh - vị lónh tụ khụng bao giờ hứa hẹn điều gỡ cao xa trỏi lại. Người bao giờ cũng xuất phát từ những nhu cầu thiết thực của người lao động. Tự do độc lập là điều kiện cơ bản của mỗi quốc gia, hơn nữa là điều kiện tiên quyết để xây dựng một nền kinh tế - xó hội CNH - HĐH theo định hướng XHCN. Nhưng Người cũng biết rằng "Chúng ta giành được tự do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thỡ tự do độc lập cũng không làm gỡ". Đi vào con đường hội nhập kinh tế quốc tế hôm nay, đương nhiên khụng cũn hiện tượng chết đói, chết rét nhưng nếu nền sản xuất kinh doanh của chúng ta vẫn yếu kém, thiếu khả năng cạnh tranh giữa một thị trường rộng lớn và đầy thách thức thỡ cũng khú mà đảm bảo độc lập tự chủ thực sự. Đi tới một sự phồn vinh đích thực về kinh tế là để "nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập". Rừ ràng hai yếu tố phỏt triển kinh tế và giữ vững độc lập tự chủ liên quan chặt chẽ với nhau, "giỳp sức" cho nhau. Đằng sau những lời lẽ bỡnh thường, không bác học của Hồ Chớ Minh là tầm nhỡn xa rộng của nội thiờn tài và trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cỏi nhỡn ấy cũng đúng!
Theo con số thống kê gần đây, nước đó tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đó chiếm 90% tổng thương mại toàn cầu .việc tham gia WTO là tất yếu là đũi hỏi cấp bỏch để phát triển kinh tế - xó hội "sánh vai với các cường quốc năm châu". Nhưng trong hoàn cảnh đó, chúng ta giữ vững độc lập tự chủ với tư cách là một nguyên tắc bất di bất dịch như thế nào? Chắc chắn là trước hết phải có một đường lối, chính sách độc lập tự chủ về phát triển kinh tế xó hội, cú thực lực và tiềm lực kinh tế đủ mạnh ở mức cần thiết. Đồng thời phải có một số yếu tố vật chất thiết yếu để bảo đảm an toàn và điều kiện cơ bản cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững cũng như sự độc lập. Làm chủ về kinh tế trong tỡnh huống phức tạp như bảo đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng, mức cần thiết về kết cấu hạ tầng. an toàn môi trường v.v... Đó là những vấn đề cực lớn và vừa phải làm ngay, vừa thực hiện lâu dài .
2. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hóa đó trở thành một xu thế lớn của kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế từ vài thập niờn trở lại đây. Nó là một xu thế khách quan, có những tác động sâu sắc và toàn diện tới các nước và toàn bộ quan hệ quốc tế. Quá trỡnh này sẽ tiếp tục phỏt triển và cú ảnh hưởng lớn tới tương lai của nhân loại. Đại hội lần thứ IX Đảng ta đó nhận định: Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh. Nhận thức rừ xu thế phỏt triển khỏch quan đó, Đảng ta chủ trương tích cực tiến hành đổi mới đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Về thực chất, hội nhập kinh tế quốc tế là sự kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích của dân tộc, phát triển kinh tế đất nước, góp phần đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh. Quá trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm qua đó thu được nhiều kết quả tích cực góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội của nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà chúng ta đó tận dụng được - thông qua việc tham gia vào xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế nước ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn do tác động tiêu cực của quá trỡnh toàn cầu húa. Tỏc động có tính hai mặt của toàn cầu hóa thể hiện cả trong quá trỡnh xõy dựng và duy trỡ nền kinh tế độc lập tự chủ của nước ta. Về khái niệm kinh tế độc lập tự chủ Toàn cầu hóa (kinh tế) là quá trỡnh phỏt triển ở mức cao của cỏc quan hệ kinh tế quốc tế, được biểu hiện chủ yếu thông qua sự gia tăng mạnh mẽ các dũng lưu chuyển của hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và nhân công giữa các nước; và là sự hỡnh thành, phỏt triển của cỏc thiết chế, tổ chức quốc tế nhằm điều tiết, quản lý các dũng lưu chuyển quốc tế này. Do vậy, toàn cầu hóa cũng có nghĩa là quá trỡnh xúa bỏ cỏc rào cản đối với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và nhân công giữa các nước, làm cho các thị trường quốc gia mất dần biên giới, hỡnh thành những thị trường khu vực chung và tiến tới hỡnh thành một thị trường thống nhất trên toàn cầu. Nhỡn ở góc độ phân công lao động thỡ cú thể núi, toàn cầu húa thực chất là sự phỏt triển cao và mở rộng quỏ trỡnh phõn cụng lao động trên phạm vi các khu vực và toàn thế giới. Để phát triển trong bối cảnh như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một đũi hỏi khụng thể né tránh đối với các nước.
Đây là con đường đi phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, cho phép các nước tận dụng được các cơ hội và điều kiện thuận lợi mà quá trỡnh toàn cầu húa tạo ra để phát triển. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng gây ra nhiều khó khăn, thách thức lớn cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển. Vỡ lợi ớch trước hết của chính mỡnh, hầu hết cỏc nước đều đó và đang tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đứng ngoài xu thế này sẽ không những không tận dụng được các cơ hội và điều kiện thuận lợi cho phỏt triển, mà cũn tự tước đi khả năng đối phó với những thách thức do quá trỡnh toàn cầu húa đặt ra cho tất cả các nước, bất kể có tham gia hay không, thông qua sự hợp tác giữa các thành viên trong những cơ chế liên kết kinh tế rất đa dạng.
3. Thực trạng đất nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ trương của Đảng về tiến trỡnh hội nhập
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đặt ra từ Đại hội VI (năm 1986) trên cơ sở đường lối đổi mới và “mở cửa” nền kinh tế và trên cơ sở chính sách, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế.
Đại hội VII (năm 1991) đó thụng qua Cương lĩnh của Đảng và chiến lược phát triển kinh tế - xó hội 10 năm, đồng thời cũng nêu ra tư tưởng hội nhập kinh tế quốc tế là: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vỡ hoà bỡnh, độc lập và phát triển.
Cụ thể hoá đường lối Đại hội VII, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 3 (khoá VII) đó ra chuyờn đề Chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá mà Đại hội VII nêu ra, đánh dấu bước khởi đầu của tiến trỡnh hội nhập của Việt Nam. Đại hội VIII (năm 1996) đó khẳng định chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, đó là xây dựng một nền kinh tế “mở” và đẩy nhanh quá trỡnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Đến Đại hội IX (năm 2001), tiếp tục khẳng định chủ trương Đại hội VIII nêu ra và đó đưa ra một khẩu hiệu: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vỡ hoà bỡnh, độc lập và phát triển”.
Như vậy, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từng bước được hỡnh thành cựng với sự phỏt triển của đất nước. Các bước đi trong quá trỡnh hội nhập
Về các bước đi trong tiến trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, chúng ta cần xem xét đến hai mặt.
Đối với bên ngoài: chúng ta đó thực hiện lần lượt các bước đi cụ thể. Đó là: Năm 1993 đó khai thông quan hệ với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); Việc đạt được thỏa thuận sớm với EU, một đối tác thương mại lớn có 25 nước thành viên, đó cú tỏc động tích cực đối với quá trỡnh đàm phán của Việt Nam); ngày 25/7/1995 đó chớnh thức gia nhập Hiệp hội cỏc nước Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời tham gia vào AFTA và Chương trỡnh thuế quan ưu đói cú hiệu lực chung (CEPT); 3/1996 tham gia Diễn đàn Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; 15/6/1996 gửi đơn xin gia nhập APEC; 11/1998 được công nhận là thành viên của APEC; năm 2000 ký Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ...và thành cụng gần đõy nhất là Việt Nam gia nhập WTO,một bước ngoặt lớn cho vấn đề hội nhập nền kinh tế Việt Nam.
Đối với trong nước: Chúng ta đó làm 3 việc cơ bản: Quốc hội đó thụng qua nhiều đạo luật, văn bản dưới luật tạo hành lang pháp lý phự hợp cho hội nhập (Vớ dụ: Luật Doanh nghiệp, Luật Cụng ty, Luật Đầu tư nước ngoài...); thực hiện sự chuyển đổi thể chế kinh tế, đổi mới chính sách và hệ thống kinh tế vĩ mô và cố gắng cải cách kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa phự hợp với luật phỏp và tập quỏn quốc tế; để thống nhất việc chỉ đạo quá trỡnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 10/2/1998 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 31/1998-TTg thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Uỷ ban này có nhiệm vụ giúp Thủ tướng chỉ đạo và điều hành các bộ, ban, ngành trong việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Những kết quả đó đạt được trong tiến trỡnh hội nhập
Nước ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa lâu, kinh nghiệm cũn hạn chế nhưng cũng đó mang lại những kết quả bước đầu khá khả quan. Đó là: Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đó thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước và có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 160 nước và vùng lónh thổ, với hầu hết cỏc tổ chức quốc tế, khu vực quan trọng. Đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận của các nước, thế lực thù địch. Tạo được thế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên chính trường và thương trường quốc tế. Khắc phục được tỡnh trạng khủng hoảng thị trường do hệ thống xó hội chủ nghĩa ở Liờn Xụ (cũ) và cỏc nước Đông Âu sụp đổ, khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997, đồng thời cũng đó mở rộng được thị trường xuất khẩu. Thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn và giảm đáng kể nợ nước ngoài. Tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý. Nhiều ngành kinh tế mới đó xuất hiện dựa trờn cơ sở tăng cao hàm lượng chất xám trong sản xuất - kinh doanh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Liên tục trong thời gian qua, kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực. Đặc biệt, tỷ lệ người nghèo đói ở Việt Nam đó giảm mạnh, từ 58% (năm 1993) xuống 24,1% vào năm 2004 (theo chuẩn nghèo 1USD/ngày), chuẩn nghèo lương thực đó giảm từ 24,9% (năm 1993) xuống 7,8% trong năm 2004
Bước đầu chúng ta đó đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng cũng vẫn cũn những mặt hạn chế, yếu kộm nhất định. Cụ thể là: Nhận thức về hội nhập chưa được nhất trí cao. Chưa có một kế hoạch tổng thể và dài hạn để hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống chính sách, luật pháp quản lý kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh, cũn cú những chớnh sỏch, luật chưa thực sự phù hợp với những thông lệ quốc tế; lực lượng sản xuất có nguy cơ tụt hậu so với trỡnh độ phát triển chung của thế giới, do đó sức cạnh tranh hàng hoá kém, hiệu quả đầu tư thấp. Cơ cấu hàng hoá chủ yếu là bán sản phẩm và gia công, xuất khẩu tuy với khối lượng lớn nhưng giá trị thu được thấp. Với những thành công bước đầu về hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng và Nhà nước ta đó xỏc định trong thời gian qua, chúng ta tin tưởng rằng đến năm 2020, nước ta cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh.
Ngày 01.01.2008 Việt Nam chớnh thức trở thành thành viờn của tổ chức kinh tế thế giới WTO,lợi ích lớn nhất mà việc thực thi các cam kết WTO đem lại chính là môi trường kinh doanh được cải thiện theo hướng minh bạch, thông thoáng giúp huy động hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển. Kinh tế năm vừa qua đạt mức tăng trưởng ngoạn mục 8,5%. Đầu tư nước ngoài có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ năm 2006 và ước đạt mức kỷ lục 20 tỷ USD trong năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu tăng 21,5% đạt 48 tỷ USD. Đây là kết quả từ những quyết tâm của Chính phủ trong đổi mới cơ chế quản lý; nỗ lực của cỏc bộ, ngành trong cụng tỏc cải cỏch hành chớnh, cải thiện mụi trường kinh doanh; đặc biệt là sự năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp
4. Những đề xuất ,kiến nghị để giải quyết vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
Trên thực tế, nền kinh tế Việt Nam đó hội nhập kinh tế quốc tế khỏ sớm tuy nhiờn do hoàn cảnh của lịch sử, sự hội nhập ấy chỉ dừng ở trỡnh độ ban đầu, cũn nhiều hạn chế. Từ Đại hội VI, VII, và nhất là từ Đại hội VIII, IX, X đến nay tiến trỡnh hội nhập kinh tế thế giới và khu vực đó diễn ra với quy mụ và trỡnh độ rộng hơn, cao hơn với tốc độ khẩn trương và cỏc hỡnh thức đa dạng, hợp lý ,hiệu quả hơn. Đảng ta khẳng định rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu nội sinh của nền kinh tế nước ta chứ không phải do sự o ép của bất cứ một thế lực nào và để hội nhập được chúng ta phải có chiến lược hội nhập với những tiêu chí cụ thể , thận trọng. Quan điểm cơ bản hội nhập của chúng ta là: Hội nhập mà không lệ thuộc, phải bảo đảm chủ quyền quốc gia, độc lập tự chủ, hội nhập trong đấu tranh và hợp tác.
Để bảo đảm tính độc lập tự chủ, nền kinh tế của ta luôn luôn phải chủ động thế ổn định và phát triển bền vững, nền kinh tế luôn luôn đối phó nhanh, đối phó có hiệu quả trước những tác động của bên ngoài. Hàng loạt các tiêu chí phát triển cần được quan tâm điều phối như: Sự cân đối trong tỷ lệ tích luỹ tối thiểu trong GDP, tỷ lệ vay vốn nước ngoài so với GDP, nhất là vốn vay thương mại; tỷ lệ trả nợ hàng năm so với GDP và so với kim ngạch xuất khẩu; tỷ lệ vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; mức thâm hụt tối đa trong cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế ; tỷ lệ đầu tư trực tiếp của nước ngoài... Để bảo đảm độc lập tự chủ, trong hội nhập chúng ta phải phát huy tối đa phương châm “đa phương hoá”. Chủ động khai thác và tạo ra sự cạnh tranh giữa các đối tác, nhưng mặt khác phải khôn khéo và chủ động thoát khỏi các vũng xoỏy lụi cuốn, lợi dụng của họ.
Để bảo đảm hội nhập tự chủ chúng ta phải phải phát huy và sử dụng tốt mối quan hệ giữa “ nội lực” và “ngoại lực”. Thực tiễn cho hay muốn phát huy tốt “nội lực” , ít nhiều cần có sự hỗ trợ của “ngoại lực”. Nếu “ngoại lực” được sử dụng hợp lý và hiệu quả tất yếu sẽ tạo ra khả năng “nội lực”được khai thác tối đa và phát triển nhanh. Ngược lại để thu hút và tranh thủ sử dụng được “ngoại lực” nhất thiết phải động viên được “nội lực”,phải chuẩn bị và làm cho “nội lực”có đủ khả năng tiếp ứng và sử dụng “ngoại lực” một cách hiệu quả. “nội lực” được phát huy cao độ, sẽ tạo ra sự hấp dẫn và những điều kiện nhất định thu hút “ngoại lực”.
Để làm cho “nội lực” đủ mạnh, nhất thiết phải phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực của nền kinh tế đất nước. Đó là các nguồn vốn trong xó hội, tiềm năng tài nguyên đất đai, tiềm năng con người, tiềm năng của các thành phần kinh tế. Phải nhanh chóng tạo dựng và mở rộng các loại thị trường: thị trường hàng hoá, lao động, tài chính, khoa học kỹ thuật, bất động sản...Phải phát triển đồng bộ nền kinh tế, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp là chính sang phát triển cơ cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp. Trong sử dụng nguồn lực phải luôn luôn nêu cao tinh thần tiết kiệm hiệu quả .
Trên nền tảng tư tưởng phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập như trên, nền kinh tế đất nước đang phát triển đúng hướng và cũng nhờ vậy trong cơn bóo giỏ vừa qua, con tầu kinh tế của ta đang cố gắng thoát ra khỏi vùng bóo lớn và đang quyết tâm vượt lên những thử thách tiếp theo trước sự suy thoái chung của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên nếu chúng ta xử lý tốt hơn, sắc bén hơn mối quan hệ hội nhập và độc lập tự chủ trong kinh tế thỡ thiệt hại và khú khăn trong cơn bóo giỏ vừa qua sẽ giảm thiểu hơn. Nhận rừ tỡnh hỡnh này, hiện nay Chính phủ đang có những quyết định mạnh mẽ trong chỉ đạo nhằm thực hiện bằng được mục tiêu phát triển đó đề ra. Để tạo ra sức mạnh của nền kinh tế đủ sức vượt lên trong phong ba, chúng ta chỉ có một con đường đẩy nhanh nhịp độ phát triển công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, thực hiện bằng được mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh”... đây chính là nền tảng vững chắc bảo đảm độc lập tự chủ quốc gia trong hội nhập quốc tế.
Chúng ta chủ động hội nhập, chính là chúng ta chủ động bảo vệ và quyết tâm bảo vệ bằng được mục tiêu độc lập tự chủ trong phát triển.Như vậy chúng ta cần có những bước đi thích hợp mà theo em, đầu tiên là vấn đề nhận thức Thứ nhất là phải thống nhất được nhận thức về nhu cầu tất yếu phải hội nhập kinh tế, xem hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nhiệm vụ then chốt trong hoạt động kinh tế, nhằm phục vụ lợi ích chung của đất nước. Vấn đề thống về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng, vì hội nhập kinh tế quốc tế với trọng tâm là mở cửa, thực hiện tự do hoá thương mại sẽ làm xuất hiện nhiều mâu thuẫn cục bộ. Chẳng hạn, mâu thuẫn giữa xu hướng bảo hộ với xu hướng tự do hoá; nhiều doanh nghiệp còn yếu kém không đủ sức cạnh tranh, ngại phải thay đổi cách làm cũ, vẫn muốn nhà nước tiếp tục bảo hộ; mâu thuẫn giữa tăng nguồn thu ngân sách qua thuế nhập khẩu với việc giảm dần các hàng rào thuế quan, phi thuế quan khi thực hiện tự do hoá sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách…Những mâu thuẫn đó làm cho qúa trình hội nhập kinh tê quốc tế vấp phải không ít trở ngại khi đi vào các vấn đề cụ thể. Thế nên, chỉ khi nào nhận thức thông suốt thì mới có đủ ý chí, bản lĩnh, quyết tâm và sức mạnh để thật sự đưa vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế vào cuộc sống, vào suy nghĩ, vào kế hoạch, chương trình hành động, chiến lược phát triển của Nhà nước.
Thứ hai, cần có cơ sở vững vàng về chính trị, ổn định xã hội, phát huy nội lực, phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của từng ngành và từng doanh nghiệp. Muốn vậy, chúng ta phải đánh giá lại tiềm lực kinh tế của đất nước trong mọi lĩnh vực, ngành hàng; nghiên cứu lợi thế so sánh giữa nước ta với khu vực và các nước khác…Từ đó xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa hội nhập; xây dựng chiến lược phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; xác định ngành mũi nhọn cần ưu tiên đầu tư phát triển…Nhà nước cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; xây dựng hành lang pháp lý vừa chặt chẽ lại vừa thông thoáng; xác định lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết đã và sẽ ký kết tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh…
Thứ ba là chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới một cách có chọn lọc. Nắm vững các văn kiện, thông lệ quốc tế. Không bỏ sót, bỏ lỡ cơ hội nhưng cũng không nên quá nôn nóng, quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia, tránh để bị lệ thuộc vào một quốc gia, một thế lực nào đó. Sớm có chủ trương, chính sách và triển khai việc chuyển đổi cơ cấucủa nền kinh tế theo định hướng xuất khẩu, nhằm tạo ra các mặt hàng xuất khẩu đủ lớn về số lượng, đạt tiêu chuẩn về chất lượng, có sức cạnh tranh cao. Đồng thời, nhằm tạo ra một đội ngũ doanh nghiệp có đủ quy mô và năng lực, tất cả những yếu tố này cùng với môi trường pháp lý thông thoáng sẽ tạo thành một sức mạnh tổng hợp nâng cao sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Thứ tư là chúng ta cần tiếp cận, dần dần đi vào kinh tế tri thức. Nếu không có tri thức, không phát triển nguồn trí lực đủ tầm sẽ rất khó chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực cũng như trong quan hệ chung với thế giới hiện đại. Bởi tri thức hiện đóng vai trò số một trong các nguồn lực phát triển kinh tế. Kinh tế tri thức tạo ra những cơ hội cho các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng vươn lên rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Tiếp đó, ta cần thu nhập, cập nhật thông tin về tình hình kinh tế, tài chính, thương mại thế giới, tìm hiểu kĩ thị trường thế giới, dự báo triển vọng, xu hướng biến động và phát triển của nó. Cần nắm vững các văn kiện, thông lệ quốc tế, hệ thống pháp luật, các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế, các cam kết quốc tế…để có thể chủ động, tránh bị ép trong khi đàm phán, ký kết các cam kết; không bỏ sót, bỏ lỡ mà có thể khai thác triệt để, tận dụng quyền lợi, những ưu tiên, ưu đãi dành cho chúng ta trong quá trình hội nhập. Từ đó tìm được tiếng nói chung về một vấn đề, một lĩnh vực nào đó để tranh thủ càng nhiều càng tốt sự ủng hộ, đồng tình, hợp tác của các đối tác cùng chung lợi ích.
Thứ năm là xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và bản lĩnh vững vàng. Nhân tố con người là yếu tố quyết định nhất trong các khâu, các hoạt động phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuối cùng, đó là việc giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy được những giá trị ưu tú của dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đồng thời cũng cần chọn lọc tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc, xem đó là nhân tố cực kì quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới. Chúng ta kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kì” của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay dở, tốt xấu, để đi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn hoá, gây hậu quả xấu về tư tưởng, đạo đức, lối sống.
LỜI KẾT
Ngày nay, trong thế giới luôn luôn có biến động không ngừng, xu thế hội nhập, toàn cầu hoá đang nổi lên chiếm vị trí chủ đạo khuynh hướng phát triển của thế giới trong thời gian tới. Mỗi quốc gia đều hiểu rằng không thể đứng ngoài xu thế phát triển chung của thế giới. Hội nhập mở cửa đồng nghĩa hoà nhập trong xu thế đi lên của xã hội loài người; đóng cửa, biệt lập cũng đồng nghĩa với bảo thủ, tự giảm khả năng phát triển. Và trong quá trình hội nhập các quốc gia phải có biện pháp cụ thể để tận dụng ở mức tốt nhất những cơ hội để phát triển. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài mục đích này. Nhưng với một tiềm lực kinh tế còn hạn chế, Việt Nam đứng trước những thử thách, khó khăn to lớn. Trong đó nổi bật là nguy cơ tụt hậu khoảng cách phát triển với các quốc gia tiên tiến ngày càng mở rộng hơn. Đặc biệt khi Việt Nam đó là thành viờn thứ 150 của t ổ chức thương mại thế giới WTO, đõy vừa là một cơ hội to lớn mà ta nỗ lực rất nhiều mới có được nhưng đồng thời đây cũng là một thỏch thức ko nhỏ của chỳng ta. Hoặc là nắm bắt được cơ hội sẽ cũng cố tiềm lực kinh tế vững mạnh tạo cơ hội trong việc giữ vị thế, tiếng nói chủ động trong quá trình hội nhập và đặc biệt thương mại quốc tế,xõy dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ, hoặc sẽ bị cuốn theo cơn xoỏy của nền kinh tế thị trường.Như vậy chúng ta phải song song chú trọng vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Với thành tựu đạt được qua 20 năm đổi mới, cùng với chủ trương đúng đắn phát huy nội lực trong phát triển kinh tế, ta có quyền tin tưởng rằng Việt Nam sẽ vươn cao,vươn xa, tạo một chỗ đứng vững chắc trên đấu trường quốc tế.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế.DOC