Môn dân sự: Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Các qui định về giao dịch dân sự nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu nói riêng có một ý nghĩa, vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý an toàn cho sự phát triển các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Thông qua việc nghiên cứu về sự đổi mới trong điều chỉnh pháp luật về hợp đồng trong BLDS năm 2005 với các phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận phù hợp thì mong rằng sẽ có những bổ sung, sửa đổi những qui định về pháp luật để phù hợp hơn với sự phát triển ngày càng nhanh của nước ta.

doc7 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2666 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Môn dân sự: Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A - LỜI MỞ ĐẦU Sự yên bình của người dân là điều rất quan trọng. Nhưng thời gian gần đây tình trạng lừa đảo, chiếm đoạt tài sản một cách trái pháp luật không chỉ gia tăng về số lượng mà còn gia tăng về mức độ nguy hiểm, táo tợn hơn, xảy ra ở khắp nơi trên cả nước. Trên thực tế việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn ra với rất nhiều tình huống phức tạp. Điều này đã làm rất nhiều người dân phải lo ngại. Là một khách thể được luật Hình Sự bảo vệ, quyền sở hữu của cá nhân nói riêng và của các tổ chức nói chung được coi trọng và tại chương XXIV của Bộ luật hình sự 1999 đã quy định về các tội xâm phạm sở hữu. Việc phân tích các tình tiết để làm rõ trách nhiệm hình sự của các cá nhân tham gia vào vụ việc cũng như việc xác định loại tội phạm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng hình phạt để từ đó có các biện pháp ngăn chặn tình trạng lừa đảo chiếm đoạt gia tăng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em đã chọn tình huống số 6 để đưa ra quan điểm của mình trước vấn đề này: B - TÌNH HUỐNG A,B,C bàn nhau tìm kiếm tiền bằng cách tổ chức trò chơi đỏ đen trên xe khách liên tỉnh. Ngày 20 tháng 1 năm 2008 chúng giả làm hành khách đi xe trên tuyến Hà Nội – Vinh và dụ dỗ hành khách cùng chơi. Sau một vài ván biểu diễn thử trò chơi làm cho hành khách trên xe tò mò và thấy dễ thắng mà tham gia, chúng đã dụ được M và N tham gia chơi. Khi thấy M đặt cược 5 triệu đồng, chúng dùng thủ đoạn tráo bài để dành phần thắng. Để tìm cách gỡ số tiền bị mất, M tiếp tục đặt cược 3 triệu đồng và lại thua. 1. A, B, C phạm tội gì? 2. M và N có phạm tội không? Nếu phạm tội thì là tội gì? Tại sao? C - GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG 1 – A, B, C phạm tội gì? Xét tình huống ta thấy hành vi của A, B, C đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 139 BLHS. ( Tội ) lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản người khác bằng thủ đoạn gian dối. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cấu thành tội khi thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau: Tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 500000 đồng trở lên; Gây hậu quả nghiêm trọng; Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt; Đã bị kết án về tội chiếm đoạt và chưa được xóa án tích. Mà trong tình huống trên ta thấy hành vi của A, B, C đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ( A, B, C đã lừa đảo chiếm đoạt được tiền của M tổng cộng là 8 triệu đồng ( từ 500.000 đồng trở lên). Cụ thể các yếu tố cấu thành tội phạm như sau: 1.1 Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là quan hệ sở hữu. Đối tượng của này là tài sản. Hành vi của A, B, C đã xâm phạm đến khách thể của tội phạm mà cụ thể ở đây là quan hệ sở hữu của M. 1.2 Xét mặt khách quan của tội phạm Theo quy định của BLHS thì hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Giữa hai hành vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối. Hành vi lừa dối Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Xét tình huống ta thấy: Việc A, B, C giả làm hành khách đi xe đó là những thông tin không đúng sự thật nhằm tạo lòng tin cho các hành khách trên xe đồng thời để dễ dàng dụ dỗ hành khách cùng chơi bài. Với việc biểu diễn thử trò chơi sau một vài ván làm cho hành khách tò mò và thấy dễ thắng A, B, C đã dụ được M và N ( 2 hành khách trên xe ) cùng chơi. Một lần nữa A, B, C lại lừa dối M, N bằng thủ đoạn tráo bài để dành phần thắng khi M đặt cược 5 triệu đồng và tiếp đó M lại đặt 3 triệu đồng để gỡ số tiền 5 triệu đồng đã mất. Vậy hành vi lừa dối của A, B, C là nhằm chiếm đoạt số tiền của hành khách trên xe mà cụ thể ở tình huống trên đó là số tiền 8 triệu đồng của M. Hành vi gian dối của A, B, C có trước sau đó mới nhận và chiếm đoạt tài sản của M. Hành vi chiếm đoạt Xét tình huống trên ta thấy tài sản bị chiếm đoạt ( 8 triệu đồng ) đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản là M. Vậy hình thức cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối là M. Vì đã tin vào thông tin sai sự thật của A, B, C mà M đã bị A, B, C chiếm đoạt tài sản. Khi A, B, C nhận được tài sản cũng là lúc đã làm chủ được tài sản định chiếm đoạt và người bị lừa dối là M đã mất khả năng làm chủ tài sản là 8 triệu đồng trên thực tế. Vậy thời điểm A, B, C chiếm đoạt được 5 triệu đồng thì tội lừa đảo coi hoàn thành ở thời điểm này. => Như vậy, giữa hành vi lừa dối để hành khách trên xe tham gia trò chơi (cụ thể là M và N đã tham gia) và hành vi chiếm đoạt 8 triệu đồng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chính hành vi lừa dối M, N tham gia là điều kiện để hành vi chiếm đoạt được tiền của M, N xảy ra. Còn hành vi chiếm đoạt tiền của M và N là kết quả của hành vi lừa dối được M, N tham gia trò chơi. Hậu quả của tội phạm: Hậu quả mà cấu thành tội phạm này đòi hỏi là “ giá trị tài sản từ 2 triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gậy hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm ” Xét tình huống trên ta thấy A, B, C bằng hành vi lừa dối của mình qua việc giả làm hành khách và tráo bài khi chơi với M để dành phần thắng mà A, B, C đã chiếm được tổng cộng 8 triệu đồng từ M. Vậy chính việc gian dối của A, B, C mà hậu quả xảy ra là M đã mất số tiền 8 triệu đồng. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả Việc M bị mất số tiền 8 triệu đồng là do chính hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt của A, B, C gây ra. 1.3 Mặt chủ quan của tội phạm Lỗi của A, B, C là lỗi cố ý trực tiếp. Về lý trí: A, B, C biết việc giả làm hành khách trên xe, việc chơi vài vãn bài, là thông tin giả nhưng A, B, C vẫn cố tình làm cho hành khách thấy tò mò, dễ thắng và mong muốn hành khách tin đó là thật mà tham gia. Mặt khác A, B, C không những nhận thức rõ hành vi của mình mà khi thực hiện hành vi lừa dối các hành khách trên xe cũng thấy trước được hậu quả của nó. Thấy trước hậu quả của hành vi là sự dự kiến của A, B, C về sự phát triển của hành vi. A, B, C có thể dự kiến hành vi tất nhiên sẽ gây hậu quả hoặc dự kiến hành vi có thể gây ra hậu quả. Về ý chí: A, B, C đã nhận thức được hành vi lừa dối của mình ngay từ khi giả làm hành khách trên xe nhưng A, B, C vẫn tiếp tục thực hiện hành vi lừa dối đó. Chứng tỏ A, B, C mong muốn hậu quả xảy ra đó là chiếm được số tiền của các hành khách trên xe. Mục đích của A, B, C là chiếm đoạt tài sản. 1.4 Chủ thể của tội phạm: là chủ thể thường, người có năng lực TNHS và đạt tuổi chịu TNHS. 2 – M và N có phạm tội không? Nếu phạm tội thì là tội gì? Tại sao? Xét tình huống ta thấy hành vi của M và N đã phạm tội và phạm tội đánh bạc theo khoản 1, Điều 248 BLHS 1999. Trong BLHS năm 1985, tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được quy định chung trong Điều 200, BLHS năm 1999 tách thành tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Việc tách riêng các tội phạm nói trên là nhằm cá thể hóa cũng như phân biệt tính nguy hiểm của các tội phạm với nhau đồng thời qui định chính sách hình sự xử lý đúng đắn. Đánh bạc là tệ nạn xã hội phức tạp, gây mất trật tự trị an xã hội, ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình, công tác của cá nhân và hoạt độnh bình thường của xã hội. Việc phát hiện, xử lí cũng như đấu tranh loại trừ tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội là việc làm hết sức khó khăn, phức tạp. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc cũng là hành vi tiếp tay nguy hiểm cho việc đánh bạc. Trong thực tiễn hành vi đánh bạc phát triển và tồn tại cũng xuất phát từ sự hỗ trợ của hoạt động tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Bởi lẽ trong tình huống trên ta thấy hành vi của A, B, C đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc. Cụ thể các yếu tố cấu thành tội phạm như sau: 2.1 Khách thể của tội phạm Tội đánh bạc xâm phạm đến trật tự công cộng. Mà trong tình huống thì việc M, N đánh bạc ảnh hưởng tới trật tự công cộng, hoạt động bình thường của xã hội. 2.2 Mặt khách quan của tội phạm. Theo khoản 1 Điều 248 BLHS qui định về tội đánh bạc: 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kì hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Trong tình huống này, M và N đã dùng tiền để giải quyết việc được thua trong trò chơi mà A, B, C đã bày ra. Lúc đầu M đặt 5 triệu, sau đó vì thua nên muốn gỡ lại M đã đặt tiếp 3 triệu nữa và lại thua. Các hành vi nói trên cấu thành tội phạm khi người vi phạm đã bị xử lí hành chính hoặc đã bị kết án về một trong những tội này và chưa được xóa án tích mà còn tiếp tục vi phạm. Nếu không thuộc trường hợp này thì việc tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chỉ cấu thành tội phạm khi có qui mô lớn. 2.3 Mặt chủ quan của tội phạm Đối với tội đánh bạc lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. M và N do muốn thắng trong trò chơi do A, B, C bày ra nên đã tham gia chơi. Do vậy lỗi của M và N là lỗi cố ý. 2.4 Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm là chủ thể thường - người đạt tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS. Ở đây M và N đủ tuổi chịu TNHS và có đủ năng lực TNHS. D - KẾT LUẬN Với hình phạt thỏa đáng, nội dung của Bộ luật hình sự đã làm nổi bật lên mục đích bảo vệ quyền sở hữu của con người, hướng tới con người. Khách thể, đối tượng tác động là những tình tiết liên quan tới việc quyết định tính chất nguy hiểm của tội phạm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Việc xác định mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của hành vi lại là cơ sở để truy cứu TNHS cũng như áp dụng hình phạt. Khẳng định sự nghiêm minh nhưng cũng nhân đạo của mình, luật Hình sự Việt Nam cũng cần có những thay đổi cần thiết để phù hợp sự thay đổi của xã hội. Bài làm của tôi mong muốn góp phần cung cấp thêm thông tin hữu ích cho các bạn. Đồng thời rất mong các ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và các bạn để bài tập hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBt lớn môn dân sự về Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.doc
Luận văn liên quan