I. Khái niệm
1. Kết hôn trái pháp luật
2. Hủy kết hôn trái pháp luật
II. Quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật
1. Nguyên tắc xử lý đối với việc hủy kết hôn trái pháp luật
2. Căn cứ chung để xử hủy việc kết hôn trái pháp luật
3. Người có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật
4. Đường lồi xử lý cụ thể các trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn theo luật định
5. Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật
6. Xử lý hành chính đối với trường hợp kết hôn trái pháp luật
7. Xử lý theo luật hình sự
III. Một số tình huống liên quan đến hủy việc kết hôn trái pháp
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3590 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Môn luật hôn nhân - Gia đình: Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngày 09/6/2000 tại kỳ họp thứ 7 khóa X Quốc hội đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình mới – đây là đạo luật thứ ba trong vòng 40 năm qua về lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở nước ta.
Điều mới dễ nhận thấy nhất là quy mô của đạo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đạt mức độ hoàn chỉnh cao về dung lượng, nhắm tới việc đáp ứng đầy đủ hơn yêu cầu điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình trong giai đọan phát triển mới của đất nước. So với 10 điều liên quan trong Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950, 6 chương 35 điều của Luật Hôn nhân và gia đình 1959 và 10 chương 57 điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với 13 chương và 111 điều đã có bước tiến rất lớn, đạt tầm vóc của một bộ luật. Đặc biệt có một số điểm mới nổi trội trong quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về việc hủy kết hôn trái pháp luật. Đây cũng là vấn đề mà chúng em muốn trình bày dưới đây: “Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật”.
I. Khái niệm
1. Kết hôn trái pháp luật là gì?
Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể là vi phạm một trong các quy định tại Điều 9, 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
2. Thế nào là hủy kết hôn trái pháp luật?
Hủy kết hôn trái pháp luật là biện pháp xử lý đối với những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn nhằm bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh Luật hôn nhân và gia đình.
II. Quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật
1. Nguyên tắc xử lý đối với việc hủy kết hôn trái pháp luật
Theo Điều 64 Hiến pháp 1992 quy định: “ Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”. Hôn nhân chỉ được nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn: “Không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn…hôn nhân không thể phục tùng sự tuỳ tiện của người kết hôn mà trái lại sự tuỳ tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân”. Chính vì thế, Nhà nước không thừa nhận những trường hợp nam, nữ kết hôn mà không tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn nên hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp xử lý đối với những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn nhằm đảm bảo sự chấp hành nghiêm chỉnh Luật hôn nhân và gia đình. Có thể nói đây là biện pháp chế tài của Luật hôn nhân và gia đình, thể hiện thái độ phủ định của Nhà nước đối với các trường hợp kết hôn trái pháp luật. Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “ Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của luật này, toà án xem xét và quyết định việc huỷ kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng kí kết hôn. Căn cứ quyết định của toà án, cơ quan đăng kí kết hôn xoá đăng kí kết hôn trong sổ đăng kí kết hôn”.
Về nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm một trong các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình là trái pháp luật, khi có yêu cầu, toà án có quyền huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó. Có thể nói rằng, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 bổ sung và đầy đủ hơn Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986. Nếu như trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 không có quy định về việc huỷ việc kết hôn trái pháp luật, đến năm 1986 trong Luật hôn nhân và gia đình tại Điều 9 có quy định về việc kết hôn trái pháp luật nhưng còn nhiều thiếu sót thì đến năm 2000 đã được pháp luật bổ sung từ điều kiện kết hôn đến những trường hợp cấm kết hôn và tại điều 15,16, 17 trong Luật hôn nhân và gia đình đã phân chia cụ thể hơn với việc huỷ kết hôn trái pháp luật, bao gồm: Người có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật ( Điều 15), Huỷ việc kết hôn trái pháp luật ( Điều 16); Hậu quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật, mà chúng ta sẽ được tìm hiểu rõ hơn nội dung dưới .
Tuy nhiên, huỷ việc kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hai người kết hôn trái pháp luật và của con cái của họ. Vì vậy, khi xử lý các trưòng hợp kết hôn trái pháp luật, toà án phải điều tra làm rõ hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, mức độ vi phạm và hoàn cảnh vi phạm, đặc biệt là phải xem xét và đánh giá thực chất mối quan hệ tình cảm giữa họ kể từ khi kết hôn cho đến khi toà án xem xét cuộc hôn nhân của họ để từ đó toà án có quyết định xử lý đúng đắn, đảm bảo “thấu lý, đạt tình”.
2. Căn cứ chung để xử hủy việc kết hôn trái pháp luật
a. Chưa đến tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật mà nam nữ kết hôn
Luật hôn nhân và gia đình quy định nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: Nam bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám mà kết hôn thì coi như không vi phạm điều kiện kết hôn. Giải pháp này đã được chấp nhận ngay từ văn bản luật đầu tiên về hôn nhân và gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 Điều 6) và được giữ nguyên cho đến nay. Các lý lẽ của giải pháp chủ yếu mang tính y học: đối với người Việt Nam, sự phát triển thể chất đủ chín mùi cho việc thiết lập quan hệ hôn nhân thường được ghi nhận khi con người đạt độ tuổi đó (Ở Châu Âu các quy định về tuổi kết hôn tối thiểu không giống nhau tùy theo nước, dù thể trạng chung của con người thuộc các dân tộc Châu Âu không khác nhau lắm. Tuổi kết hôn tối thiểu ở Đức là 21 đối với nam và 16 đối với nữ, ở Thụy Sĩ là 20 và 18, ở Ý là 16 và 14 và ở Pháp là 18 và 15 ). Người làm luật quan tâm đến sự chín mùi về thể chất chứ không quan tâm đến khả năng sinh sản. Điều đó giải thích tại sao luật chỉ quy định giới hạn tối thiểu mà không có quy định giới hạn tối đa về tuổi kết hôn: người đã quá tuổi sinh sản tự nhiên vẫn có quyền kết hôn. Như vậy, khi nam nữ chưa đến tuổi kết hôn tức là nam chưa bước sang tuổi hai mười, nữ chưa bước sang tuổi mười tám mà kết hôn; đối với trường hợp này, tòa án có thể hủy việc kết hôn trái pháp luật đó.
b. Thiếu sự tự nguyện của một trong hai bên hoặc của cả hai bên nam nữ khi kết hôn.
Thiếu sự tự nguyện của nam nữ kết hôn là có hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối để kết hôn
- Cưỡng ép kết hôn: Cưỡng ép của bên kia hoặc của người thứ ba. Cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 8 khoản 5). Điều luật nhắm chủ yếu vào việc đấu tranh chống tệ nạn cưới ép, gả ép trong các gia đình Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của các hủ tục phong kiến trong hôn nhân, cũng như của chế độ hôn nhân xếp đặt. Cần lưu ý rằng trong thực tiễn xét xử, thông thường cưỡng ép kết hôn được hiểu là hành vi của một người thứ ba chứ không phải của một hai trong bên kết hôn ( Theo Nghị quyết số 02 đã dẫn, người thứ ba có thể cưỡng ép một trong hai bên hoặc cả hai bên tiến hành kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Ví dụ: bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ; bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau;...). Trong Nghị quyết số 02 đã dẫn còn có các ví dụ về ép buộc kết hôn bằng cách đe doạ dùng vũ lực, dùng vật chất.
- Lừa dối để kết hôn: Luật hiện hành chỉ có định nghĩa chung về sự lừa dối, ghi nhận tại BLDS 2005 Điều 132 khoản 1và được áp dụng cho tất cả các giao dịch dân sự, không có định nghĩa riêng về sự lừa dối trong hôn nhân. Ta nói rằng lừa dối trong hôn nhân là việc một bên cố ý làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch để bên kia chấp nhận xác lập giao dịch kết hôn (Luật Việt Nam thời kỳ thuộc địa, chịu ảnh hưởng luật của Pháp, không thừa nhận lừa dối như là một trong những lý do để yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu) là một trong hai người kết hôn đã nói sai sự thật về ngưới đó làm cho người kia tưởng lầm mà kết hôn hoặc một trong hai người kết hôn đã hứa hẹn sẽ làm việc có ích cho người kia làm người kia đồng ý kết hôn. Theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì có thể coi là hành vi lừa dối kết hôn khi một bên hứa là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp, bảo lãnh ra nước ngoài, một bên không có khả năng sinh lý hoặc bị nhiễm HIV nhưng cố tình dấu…
Cần phân biệt hành vi lừa dối để kết hôn với sự nhầm lẫn. Nếu một người chỉ nhầm lẫn về một yếu tố về người kia như: nhầm lẫn về nghề nghiệp, về địa vị công tác, về hoàn cảnh gia đình… thì không coi là thiếu sự tự nguyện khi kết hôn. Khác với luật của nhiều nước, luật Việt Nam hiện hành không coi sự nhầm lẫn như là một trong những lý do để yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Nếu do nhầm lẫn mà chấp nhận kết hôn, thì người nhầm lẫn có thể xin ly hôn. Nếu sự nhầm lẫn là do hệ quả của sự lừa dối, thì có thể yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật do có sự lừa dối.
Sự tự nguyện của hai bên nam nữ kết hôn là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 và 2000 nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân cưỡng ép, lừa dối. Kết hôn là một quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Vì vậy, về nguyên tắc phải đảm bảo không có hôn nhân ngoài ý muốn của người kết hôn. Đây là điều kiện hết sức quan trọng được pháp luật hầu hết các nước phát triền, văn minh trên thế giới ghi nhận để đảm bảo giá trị đích thực của hôn nhân. “Không có hôn nhân thì không có tự nguyện” (Điều 146, Bộ luật dân sự nước Cộng hòa Pháp) và cuộc sống gia đình chỉ thực sự có hạnh phúc khi được xây dựng trên cơ sở sự hòa hợp và tự nguyện của hai bên nam nữ. Và hơn hết, quy định về điều kiện kết hôn tại khoản 2 Điều 9 Bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2000 phù hợp với tinh thần của Công ước Cedaw: “Quyền tự do như nhau được lựa chọn người kết hôn và chỉ kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện”.
c. Người đang có vợ (có chồng) lại kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
Trên cơ sở Hiến pháp 1992 (Điều 64), Điều 1 Luật hôn nhân và gia đình 1959, 1986 và Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình 2000, căn cứ trên là sự kế thừa và cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình – nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Đó là quy định hết sức cần thiết, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của Luật hôn nhân và gia đình là xóa bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, xóa bỏ sự đối xử bất bình đẳng đối với người phụ nữ, xây dựng chế độ hôn nhân tiến bộ Xã hội chủ nghĩa. Theo quy định thì một người đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì không có quyền kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Nếu việc kết hôn vi phạm quy định này thì có căn cứ để Tòa án nhân dân xử hủy việc kết hôn đó. Cơ sở pháp lý để xác định một người đang có vợ, có chồng là dựa vào giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và giấy chứng nhận kết hôn đó phải đang có hiệu lực. Trong trường hợp nam nữ sống như vợ chồng tuy không có giấy chứng nhận kết hôn nhưng được công nhận là “Hôn nhân thực tế” thì các bên nam nữ cũng được coi là có vợ có chồng, do đó nếu một trong hai bên lại kết hôn với người khác thì việc kết hôn của họ được coi là vi phạm pháp luật. Tòa án có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật đó khi có yêu cầu.
d. Người mất năng lực hành vi dân sự mà vẫn kết hôn
Trước đây Luật hôn nhân và gia đình 1959 cấm kết hôn với người mắc bệnh “loạn óc” mà chưa chữa khỏi (Điều 10) và Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định cấm kết hôn đối với người đang mắc bệnh “tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình”, tuy nhiên đến Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được sửa thành “cấm người mất năng lực hành vi dân sự” kết hôn. Sự thay đổi về thuật ngữ này phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự về năng lực hành vi dân sự của cá nhân nhưng nó lại thiếu tính thực tế. Bởi khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì không phải tất cả những người có quyền, lợi ích liên quan đều yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Song, điều đó không có nghĩa rằng luật thừa nhận quyền kết hôn cho người không nhận thức được hành vi của mình. Có thể suy nghĩ trong lôgic của sự việc:
1. Nếu người không nhận thức được hành vi của mình quyết định việc kết hôn trong lúc không nhận thức được hành vi của mình, thì việc kết hôn không có giá trị do sự ưng thuận không tồn tại. Thời điểm quyết định việc kết hôn hẳn cũng là thời điểm tiến hành lễ kết hôn trước viên chức hộ tịch.
2. Nếu người không nhận thức được hành vi của mình quyết định việc kết hôn trong lúc đang tỉnh táo, thì việc kết hôn có giá trị, dù, có thể sau đó, người này bị đặt trong tình trạng mất năng lực hành vi theo một quyết định của Toà án (nếu Toà án quyết định đặt người này trong tình trạng mất năng lực hành vi, thì vợ (chồng) trở thành giám hộ đương nhiên)
Bên cạnh các bổ sung trên thì chúng ta không còn tìm thấy trong đạo luật mới quy định cấm người đang mắc bệnh hoa liễu. Về trường hợp bỏ cấm đoán kết hôn đối với người đang mắc bệnh hoa liễu (và chúng ta liên tưởng đến cả người nhiễm HIV-AIDS) có lẽ mang nhiều ý nghĩa nhân đạo. Bởi lẽ, những căn bệnh trên không thể là lý do để tước bỏ quyền kết hôn của công dân khi họ có tình yêu thương và thật sự tự nguyện chấp nhận cuộc sống lứa đôi trong hoàn cảnh bệnh tật khó khăn đó. Mặt khác, đối với y học ngày nay thì việc ngăn ngừa sự lây lan và chữa trị bệnh hoa liễu không còn là nan giải nữa
e. Những người cùng dòng máu và trực hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời hoặc từng có quan hệ thích thuộc kết hôn với nhau
Về các trường hợp cấm kết hôn thì ngoài việc làm rõ thêm các quy định đã có, trong điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn thể hiện một sự điều chỉnh và bổ sung rất đáng kể so với luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986. Như tại khoản 4 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, trong khi cụ thể hóa trường hợp cấm kết hôn giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi thì đã bổ sung thêm việc cấm kết hôn giữa “bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”. Đây là bổ sung sáng suốt góp phần bảo vệ nền tảng đạo đức, sự trong sáng, lành mạnh và tôn ti trật tự trong quan hệ gia đình mang bản sắc luân lý đặc trưng của dân tộc Việt Nam.
Trong luật không có quy định trực tiếp cấm kết hôn giữa hai người là anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha cần được hiểu như thế nào? Những người này có liên hệ về huyết thống, do đó căn cứ đoạn 2, mục 3 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì họ thuộc diện có họ trong phạm vi ba đời, không được kết hôn với nhau. Hiểu như vậy là theo đúng lô-gíc: giữa những người có họ trong phạm vi ba đời (bao gồm trực hệ và bàng hệ) đều bị cấm kết hôn, trong đó anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha thuộc trường hợp không thể cho kết hôn với nhau được!
Vấn đề kết hôn giữa con riêng của chồng và con riêng của vợ, giữa những người con nuôi hoặc giữa con đẻ với con nuôi trong một gia đình chưa từng được dự liệu trong các đạo luật hôn nhân và gia đình của chúng ta nhưng là một thực tế cần quan tâm. Các chủ thể trên là anh chị em trong gia đình, nhưng giữa họ lại không có quan hệ huyết thống và không có quan hệ họ hàng, vậy nếu phát sinh việc kết hôn với nhau thì giải quyết ra sao? Về mặt đạo đức chúng ta không thể hoặc khó chấp nhận con riêng của vợ với con riêng của chồng, các người con nuôi của cùng cha mẹ nuôi hoặc con đẻ với con nuôi kết hôn với nhau, mặc dù về huyết thống không có ảnh hưởng tiêu cực cho nòi giống.
g. Hai người cùng giới kết hôn với nhau
Đối với một vấn đề gây tranh cãi và đang có những cách giải quyết khác nhau trên thế giới việc kết hôn của những người cùng giới tính thì thái độ của các nhà lập pháp Việt Nam thể hiện trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là dứt khoát: cấm kết hôn giữa hai người cùng giới kết hôn (khoản 5, Điều 10).Việc cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính chỉ được chính thức ghi nhận trong luật viết từ khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, trong tục lệ truyền thống, hôn nhân giữa những người cùng giới tính không bao giờ được thừa nhận ở Việt Nam. Trong điều kiện các luật hôn nhân và gia đình trước đây quy định chưa chặt chẽ ở điểm này, tục lệ thường xuyên can thiệp thông qua dư luận để ngăn chặn các quan hệ như vợ chồng giữa những người cùng giới tính hoặc để tạo sức ép đối với những người cùng giới tính nhằm chấm dứt việc duy trì quan hệ như vợ chồng giữa họ. Ở nước ta quan hệ đồng giới tính là một hiện tượng không mới nhưng hiện nay lại đang nổi lên khá công khai, nhất là trong cư dân đô thị. Về lâu dài, thiết tưởng cần có sự tìm hiểu, thống kê và nghiên cứu đầy đủ với thái độ tôn trọng và cảm thông để áp dụng những giải pháp, pháp luật thỏa đáng hơn cho vấn đề hôn nhân đồng giới.
3. Người có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật
Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“1. Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu tòa án hoặc đề nghị viện kiểm sát yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu tòa án hoặc đề nghị viện kiểm sát yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này:
a. Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn;
b. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
c. Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị viện kiểm sát xem xét, yêu”.
Các cá nhân có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật là: bên bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối kết hôn; vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn. Đây là những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ trực tiếp bị xâm phạm do việc kết hôn trái pháp luật. Do đó, pháp luật quy định họ có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Quyền yêu cầu của các cơ quan, tổ chức nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong việc đấu tranh bảo vệ pháp luật và bảo vệ quyền lợi các thành viên của tổ chức mình. Pháp luật quy định cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật còn nhằm bảo đảm việc xét xử đối với việc kết hôn trái pháp luật vẫn được tiến hành khi các cá nhân không yêu cầu.
Tòa án nhân dân sau khi nhận được đơn khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật phải tiến hành điều tra, xác minh làm rõ hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn của nam nữ và xem xét mối quan hệ tình cảm giữa họ. Theo quy định tại Điều 181 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, tòa án không được tiến hành hòa giải. Khi tòa án nhân dân xét xử, các nhân, cơ quan, tổ chức đã yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật phải có mặt tại phiên tòa (khoản 1 Điều 199 Bộ luật tố tụng dân sự 2004) để cung cấp những chứng cứ cần thiết giúp tòa án làm sáng tỏ vụ việc và có quyết định chính xác. Đồng thời, các cơ quan, đoàn thể này cũng có quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án hay quyết định của tòa án nhân dân. Nếu các cá nhân, cơ quan, tổ chức này vắng mặt lần thứ hai thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án thì cá nhân, cơ quan, tổ chức đã khởi kiện có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
4. Đường lồi xử lý cụ thể các trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn theo luật định
a. Đối với trường hợp kết hôn trước tuổi luật định (tảo hôn)- vi phạm khoản 1 diều 9 Luật hôn nhân và gia đình
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà một bên hoặc cả hai bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên tuy đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc sống của họ trong thời gian qua không hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng thì quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian qua họ chung sống bình thường, hạnh phúc, đã có con chung, có tài sản chung thì không quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn thì tòa án thụ lý để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
b. Đối với những trường hợp bị cưỡng ép hoặc bị lừ dối khi kết hôn- vi phạm khoản 2 điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.
Bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết hôn đều trái với nguyên tắc tự nguyện kết hôn. Vì vậy, tòa án xử hủy việc kết hôn. Tuy nhiên, tùy từng trường hợp mà quyết định như sau:
- Nếu sau khi bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn mà cuộc sống không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng thì tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu sau khi bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn mà bên bị cưỡng ép, bị lừa dối đã biết nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hòa thuận thi không quyết định hủy việc kết hôn. Nếu sau đó mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cấu tòa án giải quyết việc ly hôn, thì tòa án thụ lý để giải quyết việc ly hôn theo thủ tục chung.
c. Người đang có vợ, có chồng lại kết hôn hoặc chung sống với người khác như vợ chồng- vi phạm khoản 1 điều 10 Luật hôn nhân và gia đình
Đối với trường hợp này, tòa án nhân dân cần hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc ra quyết định chấm dứt cuộc sống chung trái pháp luật đó. Tuy nhiên, khi xử lý cần lưu ý những trường hợp sau:
- Đối với cán bộ, bộ đội ở miền Nam, đã có vợ (có chồng) ở miền nam tập kết ra miền Bắc năm 1954 lại lấy vợ (chồng) khác ở miền Bắc thì theo hướng dẫn tại thông tư số 60/DS ngày 22/2/1978 của tòa án nhân dân tối cao, đây là trường hợp ngoại lệ, có vi phạm khoản 1 điều 10 Luật hôn nhân và gia đình nhưng không nhất thiết phải xử hủy việc kết hôn sau của họ mà tùy từng trường hợp, tòa an nhân dân giải quyết khi có yêu cầu của các đương sự. Tòa án có thể giải quyết cho ly hôn nếu các đương sự thực sự mong muốn được chấm dứt hôn nhân. Trong trường hợp người vợ (chồng) trước ở miền Nam yêu cầu hủy việc kết hôn với của chồng (vợ) mình với người ở miền Bắc thì tòa án cần giải thích cho họ thấy rõ hoàn cảnh của đất nước dẫn đến tình trạng này và khuyên họ rút đơn. Nếu không rút đơn thì tòa án đưa ra xét xử và trong trường hợp đó không thỏa mãn được yêu cầu của đương sự. Cá biệt, nếu sau khi điều tra có bằng chứng rõ ràng rằng người tập kết đã có vợ (chồng) ở miền Nam lại nói dối là chưa, nay người vợ (chồng) lấy sau cho rằng bị lừa dối nên xin hủy việc kết hôn của họ thì tòa án xử hủy việc kết hôn đó.
- Một người đang có vợ hoặc có chồng, nhưng tình trạng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà kết hôn với người khác, nếu khi có yêu cầu hủy việc kết hôn sau khi họ đã li dị với vợ (chồng) của lần kết hôn trước thì không quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật đối với lần kết hôn sau. Nếu sau đó mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn thì tòa án thụ lý để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
d. Đối với trường hợp kết hôn vi phạm các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình
Đối với trường hợp kết hôn vi phạm các điều cấm này thì khi có yêu cầu tòa án cần xử hủy việc kết hôn mà không có ngoại lệ nào.
e. Đối với trường hợp kết hôn vi phạm điều 12 và điều 14 Luật hôn nhân và gia đình
Điều 12 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định về thẩm quyền đăng kí kết hôn:
“Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn
Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam ở nước ngoài”.
Trường hợp đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền như ủy ban nhân dân cơ sở đăng ký kết hôn cho nam, nữ khi không có bên kết hôn nào cư trú tại địa phương đó…thì việc đăng ký kết hôn này không có giá trị pháp lý. Do vậy nếu khi kết hôn có vi phạm điều kiện kết hôn quy đinh tại Điều 9 nên có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, thì tòa án không tuyên bố hủy việc kết hôn trái pháp luật mà áp dụng khoản 1 điều 11 tuyên bố không công nhận các bên kết hôn là vợ chồng.
Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình cũng quy định về tổ chức đăng ký kết hôn: “khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho hai bên”. Như vậy, nếu việc kết hôn không theo nghi thức về tổ chức đăng ký kết hôn thì việc kết hôn đó không có giá trị pháp lý. Do vậy nếu có yêu cầu hủy việc đăng ký kết hôn trái pháp luật thì dù có vi phạm một trong các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9, tòa án cũng không tuyên bố hủy việc kết hôn trái pháp luật mà áp dụng khoản 1 điều 11 tuyên bố không công nhận các bên kết hôn là vợ chồng (mục 2 điểm c nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000).
Trong thực tế có một số trường hợp vì những lý do khách quan hay chủ quan mà khi tổ chức đăng ký kết hôn chỉ có một bên nam hoặc nữ, nhưng nếu trước khi tổ chức đăng ký kết hôn các bên đã thực hiện đúng những quy định tại khoản 1 điều 13 Luật hôn nhân và gia đình 2000 và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn, họ thực sự chung sống với nhau thì không coi viếc đăng ký kết hôn đó là không theo nghi thức tại điều 14 (mục 2 điểm c nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000). Vì vậy, đối với những trường hợp này việc kết hôn đó vẫn coi là hợp pháp.
f. Đối với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định tại điều 11 Luật hôn nhân và gia đình
Theo quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình 2000 thì việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan đăng ký kết hôn thực hiện theo nghi thức pháp luật đã quy định. Nam, nữ không kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận như vợ chồng. Theo nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 1986 thì công nhận việc họ chung sống đó là hợp pháp và giữa họ vẫn phát sinh quan hệ vợ chồng.
- Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp này có yêu cầu ly hôn thì tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn.
- Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật hôn nhân và gia đình 2000 có hiệu lực đến ngày 01/01/2003. Trong thời hạn này nếu họ không đăng ký kết hôn nhưng có yêu cầu ly hôn thì tòa án áp dụng các quy định về ly hôn để giải quyết. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn. Nếu sau đó họ yêu cầu ly hôn thì tòa án giải quyết theo thủ tục chung của ly hôn (Mục 2 điểm c thông tư liên tịch số 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001).
- Nam và nữ sống chung như vợ chồng kể từ ngày 01/01/2001 trở đi (trừ 2 trường hợp trên) mà không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận là vợ chồng.
Tóm lại, điểm mới cần ghi nhận ở đây là: các quy định về việc đăng ký kết hôn đã cụ thể hơn và mang tính ràng buộc cao hơn. Nếu như trong các đạo Luật Hôn nhân gia đình năm 1959 và năm 1986 vấn đề đăng ký kết hôn chỉ được nêu một cách ngắn gọn chung trong một điều là do ủy ban nhân dân xã, phường nơi thường trú của một trong hai đương sự công nhận và ghi vào sổ kết hôn, thì nay vấn đề này được chi tiết hóa bằng bốn điều luật. Cụ thể: Điều 11 khẳng định dứt khoát rằng việc kết hôn phải được đăng ký trong trình tự hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định tại các Điều 12, 13 và 14. Ngoài ra, trong Điều 11 nhà lập pháp cảnh báo rằng: “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.” Để đảm bảo thực thi quy định này, Nghị quyết 35/2000/QH.10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội (tại điểm b và c mục 3) và Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp (tại các mục 1, 2 và 3) hướng dẫn: trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn thì khi họ có yêu cầu ly hôn Tòa án sẽ ra bản án không công nhận họ là vợ chồng. Đây là cách xử lý mới đối với hành vi cố ý vi phạm quy định của luật về việc đăng ký kết hôn, không phụ thuộc vào yêu cầu khởi kiện của các đương sự lúc ban đầu.
Bản án phủ nhận một quan hệ pháp luật loại như vậy là để làm cơ sở giải quyết các hậu qủa khác của sự trốn tránh hoặc coi thường việc đăng ký kết hôn. Do, những nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng kia không vi phạm các điều kiện cho phép hoặc cấm kết hôn khác nên Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ là không công nhận quan hệ vợ chồng của họ chứ không huỷ bỏ hay bắt buộc họ phải chấm dứt sự chung sống như trên.
5. Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật
a. Quan hệ nhân nhân
Theo khoản 1 Điều 17 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 “Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng”. Về nguyên tắc, Nhà nước không thừa nhận hai người kết hôn trái pháp luật là vợ chồng. Do đó, giữa họ chưa từng phát sinh quan hệ vợ chồng. Việc họ chung sống như vợ chồng là trái pháp luật. Vì thế, kể từ ngày quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật của tòa án có hiệu lực pháp luật, hai người phải chấm dứt cuộc sống chung trái pháp luật đó. Tuy nhiên điều này lại không được quy định cụ thể ở Luật hôn nhân và gia đình năm 1986.
b. Về việc chia tài sản
Khoản 3 Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con”.
Do hai người kết hôn trái pháp luật nên giữa họ không phát sinh quan hệ vợ chồng. Vì vậy, tài sản mà họ tạo ra trong thời gian chung sống với nhau không phải là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Khi tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật, tài sản chung (nếu có) được chia theo thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì tòa án quyết định chia cơ sở công sức đóng góp của mỗi bên trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, tài sản riêng của ai (phải có nghĩa vụ chứng mình đó là tài sản riêng của mình) thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó. Điểm khác của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 so với luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và năm 1986 đó là luật mới quy định Tòa án có thẩm quyền trong việc chia tài sản cho hai bên nếu hai bên không đạt được sự thỏa thuận trong việc chia tài sản chung.
Khi chia tài sản chung cần ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con. Bởi đây là đối tượng thường gặp nhiều khó khăn hơn về kinh tế cũng như tình cảm sau khi hôn nhân của họ bị hủy. Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ và con luôn được pháp luật quan tâm và đặt lên hàng đầu. Đây cũng chính là một trong những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
c. Quan hệ giữa cha mẹ và con
Khi tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật thì “quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn” (khoản 2 Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Khi hủy việc kết hôn trái pháp luật, vấn đề con chung được giải quyết như khi vợ chồng ly hôn là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. Tòa án nhân nhân phải căn cứ vào điều kiện thực tế của các bên đương sự và căn cứ vào các quy định pháp luật để giải quyết cho hợp tình, hợp lý.
6. Xử lý hành chính đối với trường hợp kết hôn trái pháp luật
Theo quy định tại Nghị định số 87/2001/NĐ-PC ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì người kết hôn trái pháp luật hoặc người tổ chức kết hôn trái pháp luật sẽ bị xử phạt hành chính dưới hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Theo quy định tại Điều 6, Điều 7 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP thì phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với các hành vi sau:
- Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật đối với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của tòa án buộc chấm dứt quan hệ đó;
- Tổ chức việc kết hôn cho người chưa đến tuổi kết hôn;
- Cưỡng ép người khác kết hôn, ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác;
- Cản trở người khác kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải bằng các thủ đoạn khác;
Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng với các hành vi sau:
- Đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ hoặc có chồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng;
- Kết hôn với những người có họ trong phạm vi 3 đời;
- Kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi;
- Kết hôn giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
- Kết hôn với người cùng giới tính ( Điều 8 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình).
Trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn theo luật định còn có thể bị xử phạt hành chính:
Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi sửa chữa, làm sai lệch nội dung hoặc giả mạo giấy tờ để đăng kí kết hôn mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; cố ý khai gian dối hoặc có hành vi lừa dối khác khi đăng kí kết hôn.
Hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khác :
Tịch thu và tiêu hủy giấy tờ đã bị sửa chữa làm sai lệch nôị dung hoặc giấy tờ giả mạo đối với trường hợp vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này.
7. Xử lý theo luật hình sự
Chương XV Bộ luật hình sự của Nhà nước ta quy định các tội phạm cụ thể xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình
- Điều 146. Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ - Điều 147. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng - Điều 148. Tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn - Điều 149. Tội đăng ký kết hôn trái pháp luật
- Điều 150. Tội loạn luân
Các tội trên đều có đặc điểm chung là các hành vi khách quan cấu thành tội phạm là những tình tiết nghiêm trọng, các hành vi vi phạm có hệ thống, thủ đoạn xảo quyệt, thô bạo đã được giáo dục hoặc đối với một số tội đã bị xử phạt hành chính mà vẫn vi phạm, đã bị tòa án nhân dân quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật nhưng vẫn tiếp tục duy trì…
Do đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình xuất phát từ yếu tố tình cảm của các thành viên trong quan hệ kết hôn, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng nên xử lý đối với các trường hợp vi phạm, ngoài việc bảo đảm các nguyên tắc pháp chế, nhân đạo, dân chủ, bình đẳng trước pháp luật, cũng phải bảo đảm quyền lợi của các thành viên trong gia đình với nhau. Do đó việc xử lý đối với các hành vi vi phạm này chủ yếu là biện pháp hành chính nhầm phản rõ phải, trái, phê phán và sửa chữa đối với các hành vi vi phạm, hàn gắn lại mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình có tác dụng giáo dục, thuyết phục người dân nâng cao pháp luật. Biện pháp xử lý theo luật hình sự chỉ được đặt ra khi những hành vi có tính chất côn đồ, có tình chất nguy hiểm, vi phạm nghiêm trọng truyền thống đạo lý, đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, đã bị xử phạt hành chính mà vẫn cố tình vi phạm
III. Một số tình huống liên quan đến hủy việc kết hôn trái pháp
1. Tình huống thứ nhất
Năm 1988, ở quê A và B (cả A và B đều đủ điều kiện để kết hôn) yêu nhau, chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn và có con chung (là G). Đến năm 1995, A lên thành phố làm việc và kết hôn với C. Một năm sau, A và C có con chung với nhau (là D). Hai Năm sau, Ông A chết nhưng không để lại di chúc. Ở quê bà B hay tin ông B chết sau khi lấy một người khác là bà C và đã có con chung (D). Bà B có đơn đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 của luật Hôn nhân gia đinh năm 2000 - người đang có vợ hoặc có chồng đi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với một người khác.
Đề nghị này được chấp nhận và được Tòa án thụ lý để giải quyết vụ việc. Khi ra tòa bà C khăng khăng một mực là giữa ông A và bà B vẫn chưa thành vợ chồng vì chưa đăng ký kết hôn nên A kết hôn với C là không trái pháp luật. Vậy trong trường hợp này, tòa án phải giải quyết thế nào?
Theo nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì công nhận việc ông A và bà B chung sống đó là hợp pháp và giữa họ vẫn phát sinh quan hệ vợ chồng. Có nghĩa rằng vào thời điểm ông A, bà B chung sống, có con đó, mặc dù không đăng ký kết hôn nhưng vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng. Do đó trong trường hợp này toà án đã hủy hôn nhân giữa ông A và C
2. Tình huống thứ hai
A và B kết hôn nhưng vi phạm một trong các trường hợp luật cấm được quy định tại điều 10 Luật hôn nhân và gia đình. Vì có mâu thuẫn trong cuộc sống chung cả hai thuận tình ly hôn và yêu cầu ly hôn được tòa án chấp nhận. Về sau căn cứ điều 15 khoản 2 Viện Kiểm sát có đơn đề nghị yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật thì liệu Tòa án có thụ lý giải quyết vụ việc này không ?
- Nếu cho rằng quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật chỉ phát sinh hiệu lực pháp luật về sau thì Tòa án sẽ không thụ lý vì cho rằng tại thời điểm đề nghị hủy kết hôn của Viện Kiểm sát giữa A và B không còn tồn tại mối quan hệ hôn nhân. Nếu theo giải pháp này có nghĩa là chấp nhận sự tồn tại một cách hợp pháp của “tình trạng kết hôn trái pháp luật” trước đó.
- Nếu cho rằng quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật có hiệu lực pháp luật trở về trước thì dù hôn nhân không tồn tại do hậu quả pháp luật của việc ly hôn, Tòa án buộc phải thụ lý đề nghị hủy kết hôn trái pháp luật của Viện Kiểm sát nhằm xóa bỏ về mặt pháp lý “một hôn nhân trái pháp luật” với tính chất một chế tài.
Ta thấy nếu bản chất của ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng trên cơ sở yêu cầu tự nguyện của một hoặc cả hai vợ chồng thì phải hiểu rằng hủy kết hôn trái pháp luật là một hình thức chế tài cho những hôn nhân thành tựu (có đăng ký kết hôn) những vi phạm những trường hợp luật cấm hoặc không đủ điều kiện để kết hôn. Và khi nói chế tài thì phải hiểu cụm từ “chấm dứt hôn nhân” có nghĩa là xóa bỏ - chính xác là hủy một hành vi (kết hôn) vì nó vô hiệu do vi phạm các điều luật cấm chứ không phải là chấm dứt hành vi đó. Chấm dứt cuộc sống chung chỉ là hệ quả của việc xóa bỏ hôn nhân.Vì thế theo nhóm em hủy việc kết hôn trái pháp luật phải có tính hồi tố. Qua đó chúng muốn mọi người hiểu thêm vấn đề tính hồi tố hay không hồi tố của việc hủy kết hôn trái pháp luật.
Kết luận
Luật hôn nhân và gia đình là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa điều chỉnh các quan hệ xã hội trong đời sống hôn nhân và gia đình. Sự ra đời của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là nhu cầu của toàn xã hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Trên cơ sở kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình, những quy định về việc hủy kết hôn trái pháp luật ra đời nhằm xây dựng và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa tiến bộ góp phần xóa bỏ ảnh hưởng tiêu cực của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, tư sản; giữ gìn và phát huy truyền thống và phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc bền vững.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Môn luật hôn nhân - gia đình- Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật.doc