Nguồn tài trợ thích hợp để giữ mức độ r ủi ro tài chính thấp vẫn là nguồn vốn
cổ phần bằng cách phát hành chứ ng khoán ra công chúng.
Như đã đề c ập ở phần trên, giai đoạn này là giai đoạn chuyển hóa từ nhà
đầu tư vốn m ạo hiểm s ang nhà đầu tư vốn cổ phần m ới. Bởi vì các nhà đầu tư vốn
mạo hiểm ban đầu chỉ quan t âm đến việc đạt được lãi vốn và có thể t ái đầu tư vào
nhữn g doanh nghiệp m ới khởi sự khác.
Vì vậy, phư ơng thứ c tài trợ sao cho rủi ro thấp đó là do anh nghiệp cần tìm
kiếm thêm các nhà đầu tư vốn cổ phần m ới để thay thế cho các nhà đầu tư mạo
hiểm để nhữn g cổ đông này không chỉ mua lại toàn bộ các nguồn vốn m ạo hiểm ban
đầu mà còn tiếp tục cung cấp vốn cho các nhu cầu trong thời kỳ tăng trưởng.
Những nhà đầu tư vốn cổ phần m ới, họ đã t hấy doanh nghiệp tồn tại thật sự,
sản p hẩm đã được t hị trường chấp nhận nên họ sẵn lòng mua lại toàn bộ vốn m ạo
hiểm ban đầu mà còn cung cấp nguồn vốn cần thiết cho doanh nghiệp trong su ốt
thời kỳ tăng trưởng.
36 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3486 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Môn tài chính doanh nghiệp - Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính cho giai đoạn khởi sự và tăng trưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hi đưa sản phẩm ra t hị trường cũng như các chi
phí hoạt động phải chi ra thường xuy ên. Các chi phí này gồm những chi phí như chi
trả lương cho nhân viên, chi phí thuê mặt bằng, nhà xưởng, chi phí cho công việc
quảng bá tiếp thị sản phẩm và những chi phí khác. Vì vậy, dòng tiền của doanh
nghiệp trong giai đoạn này là âm ở mức cao.
Do quyết định đầu tư của mình đựoc thực hiện từ trước giai đoạn khởi sự và
đến bây giờ thì sản phẩm của doanh nghiệp mới bắt đầu đựoc mọi người chú ý quan
tâm đến, do đó doanh nghiệp cần toàn tâm toàn lực cho quyết định đầu tư ban đầu,
tức cho sản phẩm hiện có của công ty. Sau khi đạt đến một mức t ăng trưởng nhất
định và chúng tiền đến giai đoạn bão hòa thì doanh nghiệp sẽ tìm ra 1 quyết định
đầu tư mới để t hay thế cho sản phẩm cũ đang có xu hướng giảm trong tưong lai gần.
Do đó, trong giai đoạn này doanh nghiệp chưa thể đầu tư mở rộng sản xuất hay phát
triển sản phẩm mới thay thế.
Cần chú ý giai đoạn này mục t iêu tiên quyết của doanh nghiệp là làm mọi cách
để thị trường chấp nhận sản phẩm của mình nên doanh nghiệp phải hoàn toàn tập
trung vào mục tiêu này, doanh nghiệp không thể có ý tưởng về s ản phẩm mới cũng
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 13
như không thể có ý đồ mở rộng quy mô thị trường. Doanh nghiệp chưa thể đầu tư
vào sản phẩm khác.
Chính vì vậy, không có quyết định đầu tư trong giai đoạn này.
Quyết định tài trợ
Một doanh nghiệp (công ty cổ phần) có thể có được tài trợ từ 3 nguồn: Nợ, cổ
phần ưu đãi, cổ phần thường. Nhưng không phải nguồn tài trợ nào cũng gây ra rủi
ro tài chính cho doanh nghiệp. Rủi ro tài chính có thể triệt tiêu hoàn toàn bằng việc
tài trợ bằng 100% vốn cổ phần.
Trong giai đoạn khởi sự này, từ việc phân tích xác lập mức độ rủi ro của doanh
nghiệp, ta có thể dễ dàng nhận thấy quy ết định tài trợ là quyết định quan trọng nhất
trong cả ba quyết định đầu tư, tài trợ và phân phối ở giai đoạn này.
Giai đoạn khởi sự của chu kỳ kinh doanh có mức độ rủi ro kinh doanh rất cao
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chiến lược t ài chính phù hợp với mức độ rủi ro
tài chính được giữ càng thấp càng tốt và tốt nhất là không có rủi ro tài chính. Do
đó, trong suốt giai đoạn này, t ài trợ bằng vốn cổ phần là thích hợp nhất, không có
tài trợ nợ thì càng tốt. Hơn thế nữa giai đoạn này doanh nghiệp không đủ điều kiện
để sử dụng nợ một cách thuận lợi vì muốn sử dụng nợ thuận lợi phải đảm bảo điều
kiện thừa khả năng thanh toán lãi vay trong khi giai đoạn này hầu như doanh
nghiệp hoạt động với dòng t iền âm hoặc rất thấp (không đảm bảo điều kiện thanh
toán được lãi vay).
Một vấn đề lớn đặt ra với doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nhà đầu tư tài trợ,
bởi vì với những rủi ro tổng thể quá cao trong giai đoạn này s ẽ khó có nhà đầu tư
thông thường nào đồng ý tài trợ. Mặc khác, doanh nghiệp trong giai đoạn này cũng
chưa đủ điều kiện để được niêm yết tren thị trường chứng khoán, không thể phát
hành rộng rãi cổ phiếu ra công chúng để thu hút vốn.
Doanh nghiệp trong giai đoạn khởi sự chưa thể chia cổ tức do EBIT âm, hoạt
động luôn trong tình trạng lỗ, doanh nghiệp do đặc thù trong giai đoạn khởi sự rủi
ro kinh doanh rất cao nên phải có rủi ro tài chính thấp hoặc không có rủi ro t ài
chính, nhưng doanh nghiệp không t hể phát hành cổ phần ra công chúng vì những
rang buộc pháp lý và chi phí phát hành cao. Vì thế doanh nghiệp phải tìm được nhà
đầu tư phù hợp trong giai đoạn này. Trong khi đó, những nhà đầu tư vốn mạo hiểm
với “khẩu vị”: thích mạo hiểm, t hích rủi ro cao, thời gian đầu tư ngắn, không cần
chia cổ tức, đầu tư nhắm vào thặng dư cao, dám chấp nhận đầu tư vào công ty nếu
công ty có thể chứng minh được khả năng tăng trưởng lớn của mình trong tương lai.
Vì thế nhà đầu tư mạo hiểm hoàn toàn phù hợp với doanh nghiệp khởi sự.
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 14
Khi bỏ vốn đầu tư vào công ty , các nhà đầu tư mạo hiểm t ất nhiên sẽ đòi hỏi
một tỷ suất sinh lợi rất cao để bù đắp cho những rủi ro họ phải gánh chịu khi đầu tư
vào công ty. Dòng tiền trong những năm đầu của công ty sẽ rất thấp, thậm chí âm
nên họ sẽ khó có khả năng nhận được cổ tức trong giai đoạn này. Các nhà đầu tư
vốn mạo hiểm sẽ chỉ có thể đạt được tỷ suất sinh lợi cao thông qua phần lãi vốn, là
phần tăng thêm của giá trị cổ phần sau này so với giá trị ban đầu của chúng.
Chính vì vậy, trong giai đoạn khởi sự quyết định tài trợ là quan trọng nhất và nguồn
tài trợ thích hợp là từ vốn mạo hiểm
Các nhà đầu tư vốn mạo hiểm
Doanh nghiệp trong giai đoạn khởi sự là những doanh nghiệp có rủi ro cao,
nên việc chấp nhận đầu tư vào những công ty này đòi hỏi một sự phân tích kỹ của
các nhà đầu tư. Những nhà đầu tư quyết định tài trợ cho các công ty vào giai đoạn
này thường đòi một tỷ suất sinh lợi tương xứng với rủi ro mà họ phải gánh chịu,
những nhà đầu tư này đa phần là những nhà đầu tư mạo hiểm. Đầu tư cổ phần vào
các công ty mới khởi sự được gọi là đầu tư vốn mạo hiểm (venture capital).
Đặc điểm của nhà đầu tư vốn mạo hiểm:
Các nhà đầu tư vốn mạo hiểm này thường là các nhà đầu tư chuyên nghiệp bao gồm các
giám đốc đầu tư quản lý các quỹ vốn mạo hiểm, các công ty chuyên biệt, các công ty tư nhân giàu
có. Họ là những người có nguồn vốn lớn, có nhiều kinh nghiệm trong việc phân tích tiềm năng của
các công ty, khả năng phán đoán và nắm bắt cơ hội . Ở Việt Nam hiện nay, các quỹ đầu tư và các
định chế tài chính trung gian khác trong nước và nước ngoài ngày càng phát triển sẽ là đối tác
thích hợp đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các công ty mới khởi sự. Các định chế tài chính
này sẵn sàng đầu tư vào các công ty mới khởi sự, họ chấp nhận các rủi ro cao khi đầu tư vào một
doanh nghiệp vì họ có phương cách đầu tư để hạn chế thiệt hại bằng cách triển khai một danh
mục bao gồm các đầu tư riêng rẽ có cùng mức rủi ro cao. Như vậy, việc thất bại hoàn toàn của
một vài đầu tư trong danh mục sẽ được bù trừ bằng thành công vượt bậc của các đầu tư khác.
Hầu hết các nhà đầu tư vốn mạo hiểm có một giới hạn thời gian đầu tư tương đối ngắn
(thường từ 3 đến 5 năm). Điều này là hợp lý vì họ muốn tập trung vào đầu tư trong giai đoạn khởi
sự có rủi ro cao của doanh nghiệp. Họ mong muốn đạt được lãi vốn và tái đầu tư vào các doanh
nghiệp mới khởi sự khác.
Hầu hết các nhà đầu tư vốn mạo hiểm đầu tư vốn của mình vào các doanh
nghiệp có rủi ro kinh doanh cao là do họ quan tâm đến lãi vốn. Tuy nhiên, làm thế
nào họ thực h iện lãi vốn, mà lợi nhuận này chỉ được tạo ra nếu công ty thành công.
Bởi lẽ những nhà đầu tư này sẽ không muốn nguồn vốn của mình bị găm lại cho
đến khi công ty có dòng tiền dương và có thể bắt đầu chia cổ tức. Họ cần phải
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 15
chuyển nguồn vốn này sang cho các cơ hội đẩu tư mới, vì vậy trong giai đoạn sau
này các nhà đầu tư vốn mạo hiểm sẽ phải t ìm người mua lại loại vốn cổ phần này
với giá trị đã gia tăng. Để làm được điều đó công ty mới khởi sự phải chứng tỏ được
rằng sản phẩm của mình có hiệu quả và tiềm năng thị trường của sản phẩm là khả
quan và làm cho việc đầu tư hấp dẫn về tài chính. Khi chứng minh rõ ràng những
thông tin này nhà đầu tư vốn mạo hiểm sẽ dễ dàng chuyển phần vốn của mình cho
các nhà đầu tư khác trước khi công ty mới khởi sự chuyển sang giai đoạn phát sinh
dòng tiền dương.
Các nhà đầu tư vốn mạo hiểm là các nhà đầu tư chấp nhận mức rủi ro cao để
tìm một vị trí vốn chủ sở hữu trong một công ty ở giai đoạn khởi sự hoặc phát triển
ban đầu có nhiều tiềm năng. Đổi lại với số vốn đầu tư đó, nhà đầu tư vốn này sẽ
được nhận một tỷ lệ đáng kể về quyền sở hữu doanh nghiệp và vị trí trong hội đồng
quản trị. Những nhà cấp vốn này tham gia nhiều vào việc quản lý chiến lược của
công ty non trẻ mà họ đầu tư và thường là cầu nối giữa công ty này với các nhà
cung ứng cũng như các đồng minh kinh doanh tiềm năng. Trong nhiều trường hợp,
họ tuy ển chuyên gia quản lý và kỹ thuật mà công ty này cần để thành công.
Nhà cấp vốn mạo hiểm không bằng lòng với tỷ lệ sinh lời hàng năm 15 đến
20% - một tỷ lệ vẫn làm hài lòng các nhà đầu tư cổ phiếu thường. Ý thức được tiếng
nói của mình trong nhiều thương vụ, họ chờ đợi một tỷ lệ sinh lời lớn trên việc đầu
tư rủi ro. Nhìn chung, những nhà đầu tư vốn mạo hiểm này tìm các công ty nhỏ có
tiềm năng sinh lời mười lần số vốn đầu tư rủi ro của họ trong vòng từ 3 đến 5 năm.
Thường thì lối ra khả dĩ hấp dẫn nhất cho các đầu tư vốn mạo hiểm là phát hành ra
công chúng chứng khoán của công ty trên thị trường chứng khoán và tiến đến cơ hội
kế tiếp.
Quyết định phân phối
Khi đầu tư vào doanh nghiệp các nhà đầu tư sẽ đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi
tương xứng. Trên lý thuyết các nhà đầu tư sẽ không quan tâm đến việc họ sẽ nhận
cổ tức hay đạt được thu nhập qua lãi vốn . Với tình hình tài chính của một công ty
mới khởi sự, chính sách cổ tức đề nghị là tỷ lệ chi trả cổ tức bằng không. Dòng tiền
của một doang nghiệp mới thành lập thường là âm ở mức cao, doanh nghiệp hoạt
động luôn trong tình trạng lỗ và cần các nguồn t iền mới cho các cơ hội đầu tư có
sẳn của công ty. Bởi vậy doanh nghiệp không có tiền để chia cổ tức, thậm chí có
tiền cũng không chia vì phải để phục vụ cho giai đoạn tăng trưởng.
Nếu chiến lược tài trợ bằng nợ vay được kết luận là không thích hợp, thì chi
trả cổ tức phải tài trợ bằng vốn cổ phần, tức là nếu các nhà đầu tư đòi hòi cổ tức, họ
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 16
sẽ phải đầu tư thêm tiền vào doanh nghiệp để chi trả cho cổ tức này. Trong một thị
trường vốn hoàn hảo , điều này hoàn hoàn có thể chấp được, nhưng rất tiếc là trong
thực t ế, chi phí giao dịch khi huy động vốn cổ phần mới rất tốn kém cho các doanh
nghiệp có rủi ro cao mới khởi sự. Các chi phí này bao gồm các chi phí pháp lý và
chi phí chuy ên môn phải trả. Vì vậy, việc trả cổ tức và huy động vốn cổ phần mới
để chi trả cho phần cổ tức này là hoàn toàn không hợp lý.
Quyết định chi trả cổ tức bằng 0
Tóm lại: Trong giai đoạn khởi sự
Mức độ rủi ro tổng thể cao, rủi ro kinh doanh cao do vậy rủi ro tài chính đi
kèm nên được giữ càng thấp càng tốt.
Quyết định tài trợ: Vốn cổ phần (vốn mạo hiểm). Cấu trúc vốn tối ưu cho giai
đoạn này là t ài trợ bằng vốn của các nhà đầu tư vốn mạo hiểm. Giai đoạn khởi sự
kết thúc khi nhà đầu tư mạo hiểm rút vốn bằng cách phát hành chứng khoán ra thị
trường.
Bất cứ giai đoạn nào thì chiến lược tài chính cũng kết hợp giữa 3 quyết định;
quyết định đầu tư, quyết định tài chính, quyết định phân phối. Nhưng do đặc t hù của
giai đoạn khởi sự nên quyết định tài trợ là quyết định quan trọng nhất trong giai
đoạn này. Chiến lược tài chính cho giai đoạn này là tập trung vào quyết định tài trợ
để xác định cấu trúc vốn tối ưu cho doanh nghiệp.
Giai đoạn này mới đưa sản phẩm vào thị trường nên mục tiêu chỉ cần hòa vốn,
thậm chí chấp nhận lỗ nên doanh nghiệp có chính sách không chỉ trả cổ tức, không
có quyết định đầu tư, mở rộng thị phần.
Tìm cách rút ngắn giai đoạn khởi sự để nhanh chóng chuyển sang giai đoạn
tăng trưởng.
Các thông số chiến lược tài chính
Dựa trên những phân tích trên có thể rút ra được bảng tổng kết các thông số
chiến lược tài chính đối với doanh nghiệp trong giai đoạn khởi sự.
Rủi ro kinh doanh Rất cao
Rủi ro tài chính Rất thấp
Nguồn tài trợ Vốn mạo hiểm
Chính sách cổ tức Tỷ lệ trả cổ tức: 0
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 17
Triển vọng tăng trưởng tương lai Rất cao
Tỷ số giá thu nhập (P/E) Rất cao
EPS Danh nghĩa hoặc âm
Giá cổ phần Tăng nhanh hoặc biến động cao
4.Nghiên cứu thêm về đầu tư mạo hiểm
4.1 Đầu tư mạo hiểm
Đầu tư mạo hiểm (Venture capital) là phương thức mà theo đó, nhà đầu tư hay
những tổ chức chuyên môn hóa rót vốn vào những doanh nghiệp mới thành lập,
chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, có tốc độ tăng trưởng cao và thường sử
dụng các công nghệ mới, hiện đại… đang cần tài trợ để phát triển sản phẩm hoặc
quá trình tăng trưởng.
Gọi là “nguồn vốn mạo hiểm” bởi:
- Các công ty được đầu tư không cần một khoản đặt cọc hay kí quỹ nào. Việc
rót vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm dựa vào sự tin tưởng vào việc tạo dựng thành
công doanh nghiệp của người sáng lập và đội ngũ giám đốc công ty.
- Các quỹ đầu tư tham gia vào việc kiểm soát và điều hành công ty. Họ tư vấn
ở cấp chiến lược, hướng dẫn, hỗ trợ các công ty trong quản lý, xây dựng thương
hiệu, phát triển thị trường…Vì vậy họ có thể gặp rủi ro, bị mất khoản đầu tư nếu
công ty bị phá sản. Tuy nhiên, điều này ít xảy ra và họ thường đạt tỷ suất lợi nhuận
từ 35- 50%.
3 giai đoạn thực hiện đầu tư mạo hiểm
Một dự án đầu tư mạo hiểm thông thường kéo dài từ 7 đến 10 năm, được thực
hiện qua ba bước: bắt đầu từ việc xem xét, thẩm định dự án, tới thực hiên việc đầu
tư, rót vốn và kết thúc là việc t hu hồi vốn.
Bước 1: Xem xét và thẩm định các dự án đầu tư. Các quỹ đầu tư sẽ tiến hành
nhiệm vụ xem xét và thẩm định dự án đầu tư rất kỹ trước khi quyết định đầu tư vào
doanh nghiệp. Đó là thẩm định tỉ lệ rủi ro, vốn rút để tái đầu tư, mức độ lợi nhuận…
Trên thực tế ở Việt Nam, các quỹ đầu tư mạo hiểm chấp nhận tỉ lệ rủi ro thấp nên
thường t ìm đến với các doanh nghiệp đã có tên tuổi và uy tín trên thị trường.
Bước 2: Thực hiện đầu tư, rót vốn. Sau khi ký hợp đồng hợp tác, các quỹ đầu
tư mạo hiểm tiến hành đầu tư, rót vốn vào doanh nghiệp. Quá trình rót vốn chia làm
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 18
5 giai đoạn, 3 giai đoạn đầu có mức độ rủi ro cao hơn 2 giai đoạn sau. Không chỉ rót
vốn, quỹ còn hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh như xây
dựng năng lực, mở thị trường, tạo thương hiệu…
5 giai đoạn rót vốn :
Tài trợ vốn mồi/ươm tạo (seed financing): Giúp doanh nghiệp để phát triển ý
tưởng sáng tạo.
Tài trợ khởi động (st art-up financing): Giúp phát triển sản phẩm và hoạt động
tiếp thị khởi đầu.
Tài trợ giai đoạn đầu (first stage financing): Giúp doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá và tung ra thị trường.
Tài trợ mở rộng sản xuất (expansion financing): Giúp doanh nghiệp mở rộng
sản xuất, t hị trường, nâng cấp sản phẩm, xây dựng cơ cấu sở hữu hợp lý…
Tài trợ tăng tốc: Giúp doanh nghiệp thâm nhập sâu vào t hị trường, tăng tốc
hoạt động kinh doanh, tạo sản phẩm mới…
Bước 3: Kết thúc đầu tư, hay thu hồi vốn. Các khoản đầu tư được thu hồi qua
4 kênh chính là: Chứng khoán bán cho công chúng lần đầu, bán cổ phần cho nhà
đầu tư khác, bán lại cổ phần cho doanh nghiệp và bán doanh nghiệp cho doanh
nghiệp khác.
4.2. Vốn mạo hiểm
4.2.1 Vốn mạo hiểm là gì?
Vốn đầu tư mạo hiểm là một trong 4 loại vốn đầu tư trực tiếp được dùng để đầu tư vào các
công ty có sản phẩm hoặc nguồn thu nhập tiềm năng, nhưng chưa hoặc đang triển khai và thường
các công ty này là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bỏ vốn ra, các nhà đầu tư mạo hiểm đồng thời
thực hiện việc hỗ trợ điều hành các công ty này.
Có một định nghĩa về vốn mạo hiểm được chấp nhận rộng rãi là:
Vốn mạo hiểm là khoản đầu tư do những tổ chức chuyên môn hóa thực hiện tới những hãng
tăng trưởng cao, rủi ro cao và thường là có công nghệ cao đang cần vốn cổ phần để tài trợ cho phát
triển sản phẩm hoặc tăng trưởng. Vốn mạo hiểm được cung cấp dưới nhiều hình thức khác nhau,
trong đó điển hình nổi bật là việc tài trợ thông qua quỹ đầu tư mạo hiểm. Về bản chất, đó là một
quỹ đầu tư nhưng mục tiêu hoạt động của họ là nhắm vào những dự án có độ rủi ro cao nhằm tìm
kiếm những khoản lợi nhuận cao hơn mức thông thường. Tham gia vào quá trình này có 3 đối
tượng chủ yếu: nhà đầu tư – người bỏ vốn nhưng không trực tiếp quyết định đầu tư; nhà tư bản
mạo hiểm – người đứng ra huy động vốn, quản lý nó và trực tiếp quyết định nên đầu tư vào đâu
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 19
nhằm mục đích sinh lợi tối đa; còn lại chính là các đối tượng nhận đầu tư: những công ty trẻ, những
dự án về sản phẩm dịch vụ công nghệ mới đầy tiềm năng…
4.2.2 Những ưu thế của vốn mạo hiểm so với các nguồn vốn khác
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có nhu cầu vốn. Việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng dưới bất
kỳ hình thức nào là điều khó khăn. Yêu cầu về tài sản đảm bảo cũng như các quy định trong thẩm
định khác đã không tạo cơ hội cho các công ty. Có 4 điểm chính tạo nên khoảng cách giữa ngân
hàng với các doanh nghiệp: tài sản thế chấp, ấn tượng không tốt do nhận định, quy mô nhỏ gắn liền
với rủi ro, lãi suất thực tiền vay là khá cao. Từ đó, doanh nghiệp khởi sự thường hướng đến nguồn
vốn thay thế từ các quỹ mạo hiểm. Điều này cũng không hàm ý rằng tất cả doanh nghiệp cần vốn
nào đều có thể tiếp cận vốn mạo hiểm.
Công ty nhận vốn còn nhận được sự tư vấn ở cấp chiến lược hướng dẫn họ bước sang giai
đoạn tăng trưởng kế tiếp. Với vị trí trong Hội đồng quản trị, bằng kinh nghiệm và năng lực của
mình, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm có thể tác động tốt tới sự phát triển công ty. Đây là
một thế mạnh rất lớn bởi lẽ những công ty này còn rất “trẻ” trong công tác quản lý điều hành.
Thậm chí người sáng lập công ty vẫn bị truất phế khỏi vị trí quản lý vì họ không có hoặc xét thấy
không đủ năng lực để thực hiện công việc quản lý điều hành.
Hình thức đầu tư mạo hiểm là nắm giữ cổ phần, tham gia chia sẽ thành công nếu công ty
phát đạt, song cũng gánh chịu rủi ro nếu thất bại. Chính điều này đảm bảo rằng những khuyến
khích đối với các nhà đầu tư và các doanh nhân khởi nghiệp là thống nhất với nhau.
4.2.3 Tác động của vốn mạo hiểm
- Lợi ích trực tiếp của việc tài trợ vốn mạo hiểm đối với nền kinh tế: Các
chương trình đầu tư vốn mạo hiểm nhìn chung quan trọng đối với nền kinh tế.
Chúng là các kênh tài trợ khác cho doanh nghiệp trong trường hợp không thể tiếp
xúc với nợ vay ngân hàng. Nói tóm lại, chúng giúp tạo ra công ăn việc làm, tập
trung vốn cho phát triển và mở rộng nền kinh tế, ứng dụng các công nghệ mới và
tăng cường tính cạnh tranh toàn cầu.
- Lợi ích trực tiếp của việc tài trợ vốn mạo hiểm đối với doanh nghiệp: cung
cấp nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp và thị trường đang hoạt động nhưng thiếu
vốn. Nó là một quá trình đóng vai trò chất xúc tác nhằm tăng cường khả năng hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn mạo hiểm còn mang lại khả năng chuyên
môn về quản lý, cụ thể hóa kế hoạch kinh doanh và thông tin, đây là điểm khác biệt
giữa vốn mạo hiểm và việc tài trợ vốn thông thường.
- Khả năng chuyên môn hóa về quản lý: Trước khi cung ứng vốn vào một dự
án của doanh nghiệp, một nhà đầu tư mạo hiểm đã dành nhiều thời gian và năng lực
nghiên cứu khả năng thành công của dự án; tham gia lập kế hoạch chiến lược, phân
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 20
tích thị trường, định giá rủi/ro lợi nhuận và tăng cường bổ sung vào công tác quản
lý.
- Kế hoạch kinh doanh: Quy trình tham gia vốn mạo hiểm cũng đảm bảo rằng
doanh nhân có suy nghĩ đúng đắn và kế hoạch của họ được xây dựng cụ thể với kế
hoạch kinh doanh được chuẩn bị đầy đủ rõ ràng.
- Thông tin: nhà đầu tư mạo hiểm giữ vai trò của người cung cấp thông tin
bằng những nỗ lực thu thập thông tin. Họ có khả năng tập hợp thông t in với chi phí
thấp hơn các nhà đầu tư khác.
- Danh t iếng: Vốn mạo hiểm cung cấp cho doanh nghiệp danh tiếng, uy tín,
những thứ được xem là một loại tài sản vô hình và rất có giá trị khi giao dịch với
khách hàng.
4.2.4 Các điều kiện thu hút được vốn mạo hiểm
- Đội ngũ lãnh đạo: Là những người nắm tỷ lệ sở hữu lớn, có tâm huyết với sự
phát triển của công ty. Họ phải là những người có năng lực , kinh nghiệm, được
chứng minh thông qua những thành tích trong việc điều hành công việc kinh doanh
của công ty
- Sản phẩm dịch vụ: Độc đáo, mang lại lợi ích cho khách hàng, có sự khác biệt
so với sản phẩm cùng loại, có triển vọng phát triển lâu dài trong tương lai... Đặc
biệt, sản phẩm dịch vụ phải được công nhận bản quyền, bằng phát minh sáng chế...
- Mô hình kinh doanh: Mô hình hiệu quả, tính toán rõ ràng được mức lợi
nhuận và hoạch định các chiến lược cho dịch vụ, sản phẩm của mình trong các giai
đoạn...
- Thị trường: Có kế hoạch thăm dò thị trường, xác định nhu cầu, mức tiêu thụ,
khách hàng tiềm năng và đối thủ cạnh tranh ... Từ đó xác định thị trường mục tiêu,
đề ra chiến lược vượt trội đối thủ, có phương hướng mở rộng thị trường trong tương
lai.
- Quản lý tài chính: Báo cáo tài chính minh bạch, các tính toán về lợi nhuận,
kế hoạch quản lý, sử dụng nguồn tài chính hiệu quả...
- Pháp lý: Chuẩn bị chu đáo về các điều khoản đầu tư giữa hai bên, tránh
những tranh chấp xảy ra như sự tham gia của chuyên gia quản lý quỹ đầu tư trong
hội đồng quản trị, tỷ lệ lợi nhuận...
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 21
4.2.5 Một số quỹ Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
- Dragon Capi tal (1994): Quỹ đầu tư của Anh này là quỹ lớn nhất và nhiều
kinh nghiệm nhất t ại Việt Nam,tổng tài sản lên tới 1,3 tỷ USD với 7 quỹ thành viên.
- Mekong Capital: Quỹ đầu tư chủ yếu vào các công ty tư nhân và công ty ở
giai đoạn đầu quá trình cố phần hóa, trong hoạt động xuất khẩu. Quỹ có 3 quỹ thành
viên là: Mekong Enterprise Fund (2001), Mekong Enterprise Fund II - vốn 50 triệu
USD (2006) và Azalea Fund (VAF) - vốn 100 triệu USD (2007)
- IDG Venture: Tập đoàn IDG Venture - Mỹ, đầu tư vào Việt Nam từ năm
2004. IDG dự tính đầu tư mạo hiểm 80-100 triệu U SD vào Việt Nam giai đoạn
2003-2010 trong lĩnh vực xuất bản ấn phẩm chuyên ngành, tổ chức các triển lãm hội
nghị trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT)
- Vina Capital: Vina Capital hiện có 4 quỹ đầu tư tại Việt Nam: Quỹ đầu tư cơ
sở hạ tầng (2007) , Vietnam Opportunity Fund (VOF), VinaLand (2006) và DFJ
Vina Capital L.P (2006) - với tổng vốn trên 1 tỷ USD. Vina Capit al chủ yếu đầu tư
vào các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, công nghệ thông t in,
viễn thông.
Tại Việt Nam hiện nay đang phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm VC
(Venture Capital) . Mekong Cap ital và Vina Capital là 02 công ty quản lý quỹ VC
đang hướng tới những doanh nghiệp phần mềm, thương mại dịch vụ và chuỗi kinh
doanh. Điển hình là M ekong Capital (cụ thể là Mekong Enterprise Fund) đã đầu tư
vào công ty phần mềm Lạc Việt khoản 700.000USD vào tháng 10/2003, chiếm 30%
vốn chủ sở hữu còn Vina Capital đầu tư vào Phở 24 khoảng 4 triệu USD để phát
triển chuỗi cửa hàng vào tháng 9/2006. Cụ thể:
Doanh thu thuần năm 2008 của công ty Phần mềm Lạc Việt (hiện nay là
Công ty cổ phiếu tin học Lạc Việt) đạt 12,6 tr iệu đô-la Mỹ, tăng 30% so với năm
2006. Cho đến cuối năm 2008, LẠC VIỆT đã có khoảng 300 nhân viên ở 3 văn
phòng tại TP Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng. Doanh thu của Lạc Việt đã tăng
262% trong suốt thời gian Quỹ M ekong Enterprise đầu tư vào công ty.
Đối với Phở 24, so với tháng 6/2003 mới thành lập 1 cửa hàng đầu tiên thì
đến tháng 12/2009 tổng số cửa hàng là 80 (hơn 40 cửa hàng ở Tp. HCM ) với 15 cửa
hàng ở nước ngoài (Indonesia, Campuchia, Hàn Quốc, Philippines và Úc…). Mục
tiêu trong năm 2010 là mở cửa hàng tại Trung Quốc và Nhật bản, năm 2012 là đạt
200 cửa hàng.
Hiện nay, cả 2 công ty trên đều phát triển và đang trong giai đoạn tăng trưởng.
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 22
III. GIAI ĐOẠN TĂNG TRƯỞNG
1. Đặc điểm doanh nghiệp trong giai đoạn tăng trưởng
Nếu như ở giai đoạn khởi sự doanh nghiệp tìm mọi cách để thị trường chấp
nhận sản phẩm của mình thì ở giai đoạn tăng trưởng doanh nghiệp tìm cách để
giành thị phần, chiếm lĩnh thị phần sau khi thị trường đã chấp nhận sản phẩm của
mình.
Ở giai đoạn này, doanh nghiệp đã trải qua "những năm chập chững biết đi"
và nay phát triển thành một "đứa trẻ" thực sự. Lúc này doanh nghiệp đã thật sự hiện
hữu chứ không phải chỉ là kế hoạch kinh doanh mơ hồ không chắc chắn, cũng như
không còn là khái niệm về s ản phẩm, những ý tưởng kinh doanh giống như giai
đoạn khởi sự nữa. Các khoản doanh thu và khách hàng đang tăng lên điều đó đồng
nghĩa với sự xuất hiện của những thời cơ mới cũng như những thách thức mới. Lợi
nhuận tăng trưởng kéo theo t ính cạnh tranh cũng t ăng.
Trong giai đoạn này rủi ro kinh doanh có giảm so với giai đoạn khởi đầu.
Bởi vì lúc này sản phẩm của công ty đã được chứng minh và ít nhất đã có một số
khách hàng chấp nhận sản phẩm này, và hiện tại công ty cũng hiện hữu thật sự chứ
không chỉ là kế hoạch kinh doanh và khái niệm sản phẩm như trước đây.
Tuy nhiên, rủi ro kinh doanh vẫn còn cao trong suốt thời gian doanh số tăng
trưởng nhanh. Bởi vì giai đoạn chuyển từ khởi đầu sang tăng trưởng thì đòi hỏi
công ty phải thực hiện một s ố thay đổi trong kinh doanh như mở rộng đầu tư, mở
rộng thị phần và sự thay đổi này thì luôn bao hàm những rủi ro. Vì nếu không quản
lý thay đổi đúng nó có thể đưa đến một chiều hướng đi xuống trong thành quả
tương lai của doanh nghiệp.
Bất cứ sự chậm trễ nào cho việc đưa sản phẩm ra thị trường có thể tạo ra
nhiều tốn kém nếu đối thủ cạnh tranh đã xác lập thị trường trước mình.
Giai đoạn này dòng tiền vào sẽ mạnh hơn nhiều so với giai đoạn khởi sự.
Tuy nhiên, công ty sẽ đầu tư thêm nhiều cho các hoạt động phát triển thị trường và
mở rộng thị phần. Vì vậy, tỷ lệ chi trả cổ tức trong giai đoạn này vẫn rất thấp. Và tỷ
số giá thu nhập (P/E) cao vì thu nhập trên mỗi cổ phần sẽ rất thấp do doanh nghiệp
giữ lại để tái đầu tư. Tuy nhiên, điều này không làm các nhà đầu tư vốn cổ phần
mới quan tâm vì họ mong đợi chênh lệch tăng giá cổ phần do chuyển nhượng vốn.
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 23
2. Nghiên cứu mối tương quan nghịch giữa rủi ro kinh doanh và rủi ro tài
chính làm nền tảng cho việc hoạch định chiến lược tài chính
Giai đoạn t ăng trưởng là giai đoạn chuyển tiếp từ khởi sự đòi hỏi công ty
phải có những thay đổi phù hợp, mà thay đổi bao giờ cũng bao hàm yếu tố rủi ro, vì
nếu không quản lý và có những chính sách thích hợp thì nó có thể đưa đến một kết
quả đi xuống trong thành quả công ty. Sự thay đổi t a dễ dàng nhận thấy được nhất
trong giai đoạn này là ý đồ chiến lược của công ty. Khác với giai đoạn khởi sự,
công ty tập trung vào nghiên cứu, phát triển sản phẩm, dịch vụ, khai thác cơ hội thị
trường đã được nhận diện hoặc tạo ra cơ hội mới bằng sự thay đổi công nghệ, công
ty làm mọi cách để thị trường chấp nhận sản phẩm của mình. Ở giai đoạn này, tuy
doanh số bắt đầu tăng, dòng tiền mạnh hơn nhiều so với giai đoạn trước…nhưng rủi
ro kinh doanh vẫn còn cao, chính vì thế công ty phải dựa vào rủi ro t ài chính thấp
nghĩa là công ty vẫn nên dựa vào vốn cổ phần và không nên sử dụng nợ.
3. Chiến lược tài chính cho giai đoạn tăng trưởng của doanh nghiệp
Chiến luợc tài chính cho giai đoạn này thể h iện rõ sự kết hợp cho 3 quyết
định: Quyết định đầu tư, quyết định tài trợ, quyết định phân phối nhằm tối đa hóa
giá trị doanh nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng đến quyết định tài trợ.
Quyết định đầu tư
Doanh số của doanh nghiệp ở giai đoạn này đã cao hơn so với giai đoạn khởi
sự, từ đó phát sinh dòng tiền mạnh hơn nhiều so với giai đoạn trước nên doanh
nghiệp có thể sử dụng một ít vốn để đầu tư. Doanh nghiệp sẽ đầu tư thêm cho hoạt
động phát triển thị trường, tiếp thị, mở rộng thị phần, mở rộng mạng lưới chi nhánh,
đại lý cũng như các nhu cầu đầu tư cần t hiết khác để theo kịp mức độ hoạt động
ngày càng gia t ăng của doanh nghiệp.
Cần lưu ý là trong giai đoạn này đã có sự khác biệt giữa giai đoạn tăng
trưởng và giai đoạn khởi sự: ý đồ chiến lược của doanh nghiệp đã thay đổi: theo
suốt giai đoạn khởi sự, phần hết các doanh nghiệp đều tập trung vào các nghiên cứu
phát triển trong khi ở giai đoạn này thì lại đầu tư thêm nhiều cho hoạt động phát
triển thị trường và mở rộng thị phần, từ đó cho thấy giai đoạn này cần rất nhiều vốn
cho đầu tư.
Quyết định tài trợ
Từ giai đoạn khởi sự chuyển sang giai đoạn tăng trưởng: nhà đầu tư vốn mạo
hiểm rút đi nên cần có sự chuyển hóa vốn giữa nhà đầu tư mạo hiểm sang nhà đầu
tư vốn cổ phần mới. M ặc khác, giai đoạn này công ty cũng đã có đủ điều kiện niêm
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 24
yết trên thị trường chứng khoán và do vị thế của công ty đã được khẳng định trên thị
trường nên nhiều nhà đầu tư thông thường cũng có thể biết đến và thấy được triển
vọng t ăng trưởng của công ty.
Giai đoạn này mức độ rủi ro kinh doanh đã giảm bớt nhưng vẫn còn rất cao,
vì vậy chưa nên đưa nợ vào. Do đó, cầu trúc vốn tối ưu giai đoạn này là tài trợ hoàn
toàn bằng vốn cổ phần.
Nguồn tài trợ
Nguồn tài trợ thích hợp để giữ mức độ rủi ro tài chính thấp vẫn là nguồn vốn
cổ phần bằng cách phát hành chứng khoán ra công chúng.
Như đã đề cập ở phần trên, giai đoạn này là giai đoạn chuyển hóa từ nhà
đầu tư vốn mạo hiểm sang nhà đầu tư vốn cổ phần mới. Bởi vì các nhà đầu tư vốn
mạo hiểm ban đầu chỉ quan t âm đến việc đạt được lãi vốn và có thể t ái đầu tư vào
những doanh nghiệp mới khởi sự khác.
Vì vậy, phương thức t ài trợ sao cho rủi ro thấp đó là doanh nghiệp cần tìm
kiếm thêm các nhà đầu tư vốn cổ phần mới để thay thế cho các nhà đầu tư mạo
hiểm để những cổ đông này không chỉ mua lại toàn bộ các nguồn vốn mạo hiểm ban
đầu mà còn tiếp tục cung cấp vốn cho các nhu cầu trong thời kỳ tăng trưởng.
Những nhà đầu tư vốn cổ phần mới, họ đã thấy doanh nghiệp tồn tại thật sự,
sản phẩm đã được t hị trường chấp nhận nên họ sẵn lòng mua lại toàn bộ vốn mạo
hiểm ban đầu mà còn cung cấp nguồn vốn cần thiết cho doanh nghiệp trong suốt
thời kỳ tăng trưởng.
Chiến lược tài chính trong giai đoạn này tập trung vào chiến lược thu hút vốn
đầu tư, đảm bảo cho mục t iêu chiếm giữ , giành thị phần của doanh nghiệp.
Các hình thức thu hút vốn mới
Sử dụng thị trường vốn
- Các nhà đầu tư vốn mạo hiểm sẽ rút vốn ra khỏi giai đoạn tăng trưởng để
đầu tư vào các doanh nghiệp khởi sự khác. Như vậy, sẽ xuất hiện sự chuyển hóa
vốn giữa nhà đầu tư vốn mạo hiểm sang nhà đầu tư vốn cổ phần (VCP) mới. Do đó,
giai đoạn này doanh nghiệp có thể tìm kiếm các nhà đầu tư trên cơ sở rộng hơn
bằng việc phát hành cổ phiếu ra công chúng.
- Để đảm bảo việc phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu mà thu hút
được vốn, cần phải:
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 25
+ Duy trì niềm tin của Nhà đầu tư từ Bản cáo bạch do doanh nghiệp phát
hành trước khi phát hành cổ phiếu ban đầu, bằng cách có những quy định khống chế
việc đưa vào Bản cáo bạch những thông tin sai lệch về tiền sử doanh nghiệp hay dự
báo quá lạc quan về tương lai.
+ Giám đốc phải chịu trách nhiệm cá nhân về các báo cáo sai lệch,
+ Các thông tin về tài chính trong quá khứ của công ty phải do một công ty
kiểm toán bên ngoài kiểm tra và báo cáo,
+ Công ty nên nhấn mạnh đến triển vọng t ăng truởng cao trong tương lai với
các nhà đầu tư tiềm năng.
+ Cho phép các cổ đông bán cổ phần nhanh và dễ dàng: phải có đầy đủ số
lượng cổ phần để cung ứng ra cho công chúng (tức là không bị giữ lại bởi các nhà
đầu tư không định bán ra, bất kể giá thị trường là bao nhiêu). Đ iều này cũng cố
niềm tin của nhà đầu tư rất lớn, nhờ vậy thu hút được nhiều nhà đầu tư mua cổ
phần.
- Để đảm bảo đúng các quy định trên, chi phí phát hành có mức khởi điểm
rất cao. Vì vậy, chi phí phát hành của một công ty nhỏ có t hể quá đắt đỏ nếu tính
theo tỷ lệ phần trăm của vốn cổ phần mới công ty huy động được. Tuy nhiên, phí
phát hành này được xem như phí gia nhập một lần vào các thị trường tài chính. Do
đó, nếu công ty phát hành một lượng sẽ ít tốn kém hơn - việc phát hành ra thị
trường 1 lần 1tỷ lợi hơn là 2 lần 500 triệu. Nhưng để việc phát hành cổ phiếu hiệu
quả, công ty nên xem xét thời điểm phù hợp.
- Chọn đúng thời điểm IPO - là đòn bẩy lớn nhất để đạt được thành công:
"Khi thực hiện công việc IPO, việc chuẩn bị không nghi ngờ gì chính là cốt lõi để
thành công cả trong trước mắt và lâu dài", theo Maria Pinelli, Giám Đốc bộ phận
phát triển chiến lược khu vực Châu Mỹ của Ernst & Young. "M ột phần trong công
việc chuẩn bị là hiểu thị trường sẽ phản ứng tốt trước những vấn đề gì để xác định
xem liệu công ty đã thực sự sẵn sàng hay chưa." (Tham khảo thêm phần phụ lục
“Công thức IPO thành công)
Phát hành đặc quyền
- Do ý đồ chủ yếu của giai đoạn này là gia tăng t hị phần cũng như phát triển
tổng quy mô thị trường, vì vậy nhu cầu vốn cho giai đoạn này là rất lớn, đặc b iệt là
VCP do khuy ến nghị trong giai đoạn này không nên sử dụng nợ.
- Với nhu cầu vốn lớn như vậy, việc giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư từ chính
sách chi trả cổ tức thấp vẫn không đáp ứng được, nên doanh nghiệp phát hành cổ
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 26
phần thêm bán ra bên ngoài để có thể thực hiện chiến lược t ăng vốn này, và giá phát
hành lần này phải thấp hơn giá thị trường, nếu phát hành với giá cao hơn thì nhà đầu
tư mới sáng suốt sẽ mua cổ phiếu trực tiếp trên thị trường chứng khoán, nếu bán
ngang giá cổ phiếu cũ thì sẽ không hấp dẫn được nhà đầu tư, và nếu bán cho cổ
đông mới với giá t hấp hơn thì s ẽ tước đoạt tiền của các cổ đông hiện tại. Vì vậy,
doanh nghiệp cho cổ đông hiện tại được quyền mua các cổ phần được chiết khấu
giảm giá này theo tỷ lệ cổ phần mà họ đang nắm giữ.
- Đây được gọi là “Các phát hành đặc quyền”, và thường mô tả bằng chú
thích là có thể mua được bao nhiêu cổ phần mới khi đang nắm giữ một số cổ phần
hiện hữu.
- Thí dụ phát hành một đặc quyền 1 cho 5 có nghĩa là: với 5 cổ phần hiện
hữu, cổ đông có quyền mua 1 cổ phần mới đang được cung ứng ra công chúng.
- Do cổ phần mới đang được phát hành với giá thấp hơn giá thị trường hiện
tại của các cổ phần hiện hữu, cổ đông hiện hữu được quy ền chọn nhận hay bán
quyền lại cho người khác. Công ty không thể buộc các cổ đông hiện tại mua thêm
bất kỳ cổ phần nào của công ty.
Ví dụ:
Một doanh nghiệp cổ phần có các thông số sau:
- Đã phát hành 10 triệu cổ phần.
- Mệnh giá là 10$.
- Giá thị trường là 50$, tức vốn hóa thị trường là 500 triệu USD.
- Thu nhập mỗi cổ phần hiện tại là 2,5$.
- Cổ tức mỗi cổ phần là 0,5$.
- doanh nghiệp phát hành một đặc quyền 1 cho 4 với giá 45$ mỗi cổ phần để huy động
112,5 triệu USD, không kể chi phí phát hành.
Phân tích:
- Doanh nghiệp đang được định vị như một doanh nghiệp tăng trưởng vì có
một tỷ số P/E là 20 (50$/2,5$). Các nhà đầu tư hiện tại đang mua cổ phần với kỳ
vọng tăng trưởng vốn: mức lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư là 80%, tức 2,0$ trong số
2,5$ thu nhập trên mỗi cổ phần EPS.
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 27
Sau khi có thông báo phát hành đặc quyền:
- Vị thế hiện tại của doanh nghiệp: 10 triệu cổ phiếu x 50$ => 500 triệu USD
- Phát hành đặc quyền (1 cho 4): 2,5 triệu cổ phiếu x 45$ => 112,5 triệu USD
- Vị thế sau p/hành đặc quyền: 12,5 triệu cổ phiếu x 49$ <= 612,5 triệu USD
- Cổ đông được quyền mua với giá: 45$
- Giá sau đặc quyền của tất cả cổ phần (các yếu tố khác bằng nhau): 49$
- Do đó, giá của đặc quyền sẽ lả: 4$
Tác động của phát hành đặc quyền đối với cổ đông lớn
- Các phương án lựa chọn cho người nắm giữ 1 triệu cổ phần (tức sở hữu
10% doanh nghiệp).
- Cổ đông này nhận được đặc quyền mua 250 ngàn cổ phần mới với giá 45$
và có 2 phương án để lựa chọn: nhận hoặc bán quyền này.
Nhận đặc quyền:
Đầu tư ban đầu : 1 triệu cổ phiếu x 50$ = 50,00 triệu USD.
Chi trả cho đặc quyền: 250 ngàn cổ phiếu x 45$ = 11,25 triệu USD.
Số cổ phần hiện đang nắm giữ: 1,25 triệu cổ phiếu
Nhưng sẽ có một đầu tư trị giá: 61,25 triệu USD
Nếu cổ phần tăng lên 49$, điều này đúng vì 1,25 triệu cổ phiếu x 49$ = 61,25 triệu
USD. Vì vậy không lỗ cũng không lời.
Bán đặc quyền:
Đầu tư ban đầu : 1 triệu cổ phiếu x 50$ = 50,00 triệu USD.
Thu từ bán đặc quyền: 250 ngàn cổ phiếu x 4$ = 1,00 triệu USD.
Còn lại một đầu tư ròng trị giá: 49 triệu USD
Điều này đúng nếu giá cổ phần tăng lên 49$ đúng như nó tăng. Vì vậy không lỗ cũng
không lời.
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 28
Chia nhỏ cổ phần
- Chia nhỏ cổ phần (cổ phiếu) là việc chia cổ phần ra nhiều phần nhỏ hơn
nữa. Đó là một hành động của một công ty làm t ăng số lượng cổ phiếu hiện đang
lưu hành (outstanding shares). Tuy nhiên mức vốn hóa của cổ phiếu (stock's market
capitaliz ation) vẫn không thay đổi. Các tỉ số phổ biến của việc phân chia là 2:1, 3:1,
3:2.
Ví dụ: Giả sử công ty A phát hành tổng cộng 1000 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu
có trị giá 10$. Công ty A quyết định chia cổ phiếu theo tỉ lệ 2:1 tức là 1 cổ phiếu sẽ
phân chia thành 2 cổ phiếu. Giá trị của 2 cổ phiếu bây giờ ngay bằng với một cổ
phiếu trước khi phân chia.
Trường hợp 1 Trường hợp 2
Số lượng cổ phiếu lưu động 1.000 2.000
Giá trị mỗi cổ phiếu 10 $ 5$
Tổng giá trị cổ phiếu lưu động 10.000$ 10.000$
Như vậy về cơ bản, tổng giá trị cổ phiếu trên thị trường cũng như của bạn là
không thay đổi. Vậy thì tại sao các công ty lại phân chia cổ phiếu, tại sao những
người lãnh đạo của các công ty lại coi đây là công cụ marketing mạnh mẽ nhất, hiệu
quả nhất?
Nguy ên nhân 1: Theo tâm lý của nhà đầu tư, khi phân chia cổ phiếu, công ty
có thể làm cho người giữ cổ phiếu cảm thấy giá trị của cổ phiếu họ giữ tăng lên mà
chỉ phải bỏ ra một khoản chi phí nhỏ.
Nguy ên nhân 2: Công ty quyết định phân chia cổ phiếu, vì giá cổ phiếu của
họ trên thị trường đã đạt t ới mức quá cao và vượt xa giá cổ phiếu của những công ty
tương tự.
Ví dụ, khi phát hành lần đầu, giá cổ phiếu là 20$. Sau một thời gian hoạt
động, giá cổ phiếu bây giờ là 200$ Vậy ta nên chia nhỏ cổ phiếu ra làm 4, nên bây
giờ giá cổ phiếu sẽ là 50$. Việc phân chia cổ phiếu là để thu hút những thêm các
nhà đầu tư nhỏ và trung bình. Nếu như trước khi phân chia, bạn có thể cảm thấy
10$/cổ phiếu là khá đắt, đó là nguyên nhân mà bạn mua không thật nhiều. Đến bây
giờ giá cổ phiếu chỉ còn 5$/cổ phiếu, bạn sẽ sẵn sàng hơn trong việc mua cổ phiếu
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 29
của A. Về phía công ty hành động này có tác dụng cắt nhỏ "miếng thịt lớn" ra để thị
trường có thể "tiêu hoá" một cách nhanh và dễ dàng.
Nguy ên nhân 3: Phân chia cổ phiếu là tăng sự ổn định về mặt giá cả cho cổ
phiếu. Nói chung, những nhà đầu tư lớn như các công ty, ngân hàng tránh giao dịch
cố phiếu của công ty mà tổng số cổ phiếu lưu động có số lượng thấp.
- Về mặt lý thuyết, việc chia nhỏ cổ phiếu không làm ảnh hưởng đến giá trị
doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc chia nhỏ cổ phiếu tạo tính thanh khoản cao nên cổ
phiếu được chuyển nhượng dễ dàng giúp doanh nghiệp dễ huy động được vốn đồng
thời chi phí phát hành rãi đều trên mỗi Cổ phần hơn.
Quyết định phân phối
Giai đoạn này đang cấu trúc vốn, doanh nghiệp cần rất nhiều vốn để cạnh
tranh và để phát triển, chiếm giữ thị phần nên chính sách chi trả cổ tức với tỉ lệ rất
thấp ở mức danh nghĩa đủ bù đắp tỷ lệ lạm phát cho nhà đầu tư.
Các thông số chiến lược tài chính
Dựa trên những phân tích trên có thể rút ra được bảng tổng kết các thông số
chiến lược tài chính đối với doanh nghiệp trong giai đoạn tăng trưởng như sau:
Mô hình tổng thể của giai đoạn TĂNG TRƯỞNG
Rủi ro kinh doanh Rất cao
Rủi ro tài chính Rất thấp
Nguồn tài trợ Các nhà đầu tư vốn cổ phần tăng trưởng
Chính sách cổ tức Tỷ lệ trả danh nghĩa
Triển vọng tăng trưởng trong tương lai Cao
Tỷ số giá thu nhập (P/E) Cao
Thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) Thấp
Giá cổ phần Tăng nhưng dễ biến động
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 30
4. Tình huống nghiên cứu: phân tích tăng trưởng của Cty cổ phiếu Vàng bạc Đá quý
Phú Nhuận (PNJ)
Với mã chứng khoán là PNJ đã trở thành cổ phiếu đầu tiên của doanh nghiệp ngành vàng
được niêm yết trên sàn chứng khoán vào tháng 5/2009.
Các chỉ tiêu qua các năm:
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008
9 tháng đầu năm
2009
Vốn CSH 300.000.000.000 300.000.000.000 400.000.000.000
Mệnh giá 100.000 10.000 10.000
Giá TTrường 650.000 45.000 54.000
Số cổ phiếu 3.000.000 30.000.000 40.000.000
EPS 38,216.7 4,185.3 5,012.5
P/E 17 10.75 10.77
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008
9 tháng đầu
năm 2009
Doanh thu 2,359.51 4,204.24 10,906.80
LN sau thuế 114.38 125.56 200.5
Chi trả cổ tức 63.35 78 60.732
Tỷ lệ chi trả cổ tức 55% 62% 30,3%
Nợ phải trả/ Tổng nguồn vốn 31.71% 42.60% 43.72%
Vốn CSH/ Tổng nguồn vốn 68.29% 57.40% 56.28%
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 31
Từ số liệu trên ta thấy:
Tỷ số giá thu nhập (P/E) của công ty khá cao chứng tỏ các cổ đông của công ty kỳ vọng
vào khả năng tăng trưởng của công ty.
Năm 2009, công ty đã tiến hành chi trả cổ tức với tỷ lệ 30% cho thấy công ty giữ lại
70% lợi nhuận để phát triển.
Vốn cổ phần vẫn là nguồn tài trợ chủ yếu
Hiện nay, Cty chiếm 6%thị phần trên thị trường (Cty SJC chiếm 82%thị phần thị trường).
Cty đã có nhiều hoạt động để mở rộng mạng lưới bán lẻ (hơn 100 cửa hàng); các hoạt động tiếp thị
để mở rộng thị phần và tăng doanh thu.
Tách nhỏ cổ phiếu:
Tháng 11/2008, công ty đã điều chỉnh mệnh giá từ 100,000 đồng thành 10,000 đồng. Đây
là một bước tạo điều kiện để cổ phiếu của công ty dễ tiếp cận hơn và để công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán.
Phát hành cổ phiếu thưởng:
Ngày 19/10/2009, Cty đã phát hành thêm 9.999.921cổ phiếu PNJ tương ứng giá trị niêm
yết theo mệnh giá hơn 99,9 tỷ đồng được đưa vào giao dịch tại HOSE
Đây là số cổ phiếu phát hành thưởng cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ của PNJ từ
300 tỷ đồng l lên đến 400 tỷ đồng
Những biểu hiện trên thể hiện Cty PNJ đang trong giai đoạn tăng trưởng.
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 32
KẾT LUẬN
Một bản nhạc hay đồng nghĩa với việc các nốt nhạc được sắp xếp theo một
trình tự hợp lý. Trong đầu tư kinh doanh cũng vậy, mọi hoạt động sẽ được phối hợp
nhịp nhàng, hài hòa và t hành công sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu bạn biết sắp xếp các
yếu tố tài chính phù hợp với từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp.
Các giai đoạn của chu trình nhịp sống doanh nghiệp chắc chắn sẽ không xảy
ra theo trình tự. Một doanh nghiệp mới được thành lập nhưng chuyển từ giai đoạn
khởi sự đến t an rã rất nhanh. Họ không trụ nổi với thị trường. Số khác có thể không
tiến đến giai đoạn sung mãn mà chỉ dừng ở giai đoạn tăng trưởng. Thành công rực
rỡ hay thất bại thảm hại trong kinh doanh là tuỳ thuộc vào t ài năng của chủ doanh
nghiệp, họ có thể thích nghi với các thay đổi của chu trình nhịp sống doanh nghiệp
hay không.
Không có một chiến lược chung thích hợp cho tất cả các doanh nghiệp.
Nhà quản lý phải biết xây dựng chiến lược tài chính thích hợp cho từ ng giai đoạn
phát triển của doanh nghiệp và các doanh nghiệp khác nhau ở cùng 1 giai đoạn có
những cách t hức ứng phó với sự thay đổi khác nhau, đó chính là tài năng của nhà
quản lý.
Điều các nhà quản lý nên làm là tập trung và áp dụng các biện pháp nhằm
giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn. Và những biện pháp này sẽ có t ác
động đến doanh nghiệp sau này. Hiểu được việc áp dụng những giai đoạn nào trong
chu trình kinh doanh là thích hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước được bất kỳ
thách thức nào phía trước và đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn.
Trong giai đoạn khởi sự do rủi ro kinh doanh là rất cao, nguồn vốn thích hợp
nhất trong giai đoạn này là vốn cổ phần. Tốt nhất là vốn mạo hiểm. Chính sách cổ
tức thích hợp trong giai đoạn này là giữ lợi nhuận t ái đầu tư.
Trong giai đoạn tăng trưởng, rủi ro kinh doanh vẫn còn cao, nguồn vốn thích
hợp trong giai đoạn này vẫn là vốn cổ phần. Trong giai đoạn này doanh nghiệp đã
tính đến chiến lược phát hành cổ phần ra công chúng bằng các phát hành đặc quy ền.
Chính sách cổ tức thích hợp vẫn là chi trả danh nghĩa do triển vọng tăng trưởng
tương lai cao và do đó kéo theo tỷ số giá thu nhập P/E cũng tăng lên. Giá cổ phần
trong giai đoạn này tăng nhưng rất dễ biến động.
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 33
PHỤ LỤC
E&Y phân tích những thông tin công bố về 110 công ty của M ỹ đã IPO từ
đầu năm 2006 đến giữa 2007 và ngay lập tức đạt đủ tiêu chuẩn để đưa vào danh
sách công ty được sử dụng để tính chỉ số Russell 2000, đây là một kỉ lục trong năm
2007.
“Tuổi đời” của công ty và CEO
Chỉ 11% trong số những công ty được phân tích tiến hành IPO sau 2 năm
đầu hoạt động, trong khi năm trung bình thành lập là 1998. Điều này trái ngược với
những gì xảy ra đối với các công ty dotcom vào cuối những năm 1990, khi hầu hết
những công ty vừa mới thành lập, kinh nghiệm còn non nớt đã ngay lập tức "chân
ướt chân ráo" IPO. Hầu như họ đều phải chịu kết cục đổ vỡ, đè trĩu lên vai các nhà
đầu tư những khoản lỗ nặng nề. Đây chính cũng chính là khoảng t hời gian xảy ra
Bong bóng dotcom (dotcom - các công ty thương mại điện tử ở M ỹ) lần thứ nhất
được báo chí nhắc đến rất nhiều.
Không ngạc nhiên khi những công ty trưởng thành đều lớn hơn những công
ty mới thành lập rất nhiều. Những nghiên cứu về các công ty thành lập trước năm
1995 cho thấy doanh thu hàng năm trung bình là 703 triệu USD khi tiến hành IPO,
so với 190 triệu USD của các công ty thành lập từ năm 1995 trở đi.
Cũng theo nghiên cứu, mặc dù những công ty mới thường đạt được tốc độ
tăng trưởng rất nhanh, nhưng "tuổi t ác" lại có xu hướng giúp giảm bớt rủi ro hoạt
động kém hiệu quả. Trong số những công ty thành lập từ năm 1995 trở đi, mức giá
giao dịch 90 ngày sau IPO giảm tới t ới 52%, nhưng giá chứng khoán của những
công ty trưởng thành hơn không giảm quá 20,5%.
Phân tích về CEO của 110 công ty này, nghiên cứu tìm ra rằng chỉ 2% trong
số đó là phụ nữ. Tuổi đời trung bình của các CEO ở cả công ty ở nửa trên và nửa
dưới bảng danh sách là từ 50 - 54. Nhưng 13 phần trăm số CEO ở các công ty xếp
hạng nửa trên là dưới 40, trong khi số lượng này ở các công ty xếp hạng dưới là 8%.
Các hoạt động trên toàn cầu
Trong số 110 công ty được nghiên cứu, có tới 39 phần trăm có các hoạt động
trên toàn cầu, điều này dường như đóng góp nhiều hơn vào hoạt động của công ty
thời kì hậu IPO. Tính cho đến thời điểm 30/6/2007, trong số 43 phần trăm các vụ
IPO thành công đưa công ty vào danh sách dẫn đầu của chỉ số Russell 2000 (Là một
chỉ số của thị trường chứng khoán dùng để đo khả năng hoạt động của 2000 công ty
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 34
có giá trị vốn hóa t hị trường nhỏ nhất trong số 3000 công ty của chỉ số Russell 3000.
Chỉ số Russell 2000 có chức năng là chuẩn đ ánh giá cho những cổ phiếu có giá trị vốn
hóa thị trường nhỏ trên thị trường chứng khoán Mỹ), cả 43 phần trăm công ty đều có
hoạt động trên toàn cầu.
Cổ đông là tổ chức
Các nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng thành công của các vụ IPO dường
như cũng có mối liên hệ rất thú vị với cổ đông là tổ chức. Trong khi chỉ 30% trong
số các công ty được nghiên cứu có trên 80 nhà đầu tư tổ chức, thì 38 phần trăm
những công ty xếp hạng trên đều có và chỉ 24% các công ty xếp ở nửa sau có. Hơn
3/4 trong tổng số các công ty có ít hơn 40 cổ đông t ổ chức tụt lại phía sau trong
danh sách các công ty của chỉ số Russell 2000.
Thành công và học vấn
Nghiên cứu tìm ra mối liên hệ giữa học vấn và hoạt động hiệu quả. Trong số
các công ty hoạt động tốt, có 71 phần trăm CEO có bằng cấp cao hơn bằng cử nhân,
so với 61 phần trăm ở các công ty hoạt động kém hơn.
Thành công với lương và thưởng của CEO
Một mối liên hệ thú vị nữa giữa thành công của IPO và khoản trả cho CEO.
Ernst & Young tìm ra rằng 66% trong số các công ty xếp hạng trên của danh sách
Russell 2000 trả cho CEO từ 1 triệu đôla trở lên. Chỉ 48% trong số các công ty xếp
ở nửa dưới làm việc đó.
Và trong khi chỉ 2 phần trăm những công ty xếp hạng trên trả mức lương
thấp hơn 500 000 USD, thì 17 phần trăm trong tổng số các công ty xếp hạng ở nửa
dưới làm việc này.
Chương 32: Hoạch định chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự và tăng trưởng
Nhóm 8 – Cao học K19 – Ngân hàng đêm 2 Trang 35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Trần Ngọc Thơ (2007), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, NXB Thống kê
2. Th.S Ngô Kim Phượng (2009), Phân tích tài chính doanh nghiệp, NXB Đại học quốc
gia Tp.HCM
3. Website:
4. Website:
5. Website:
6. Website:
7. Website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong32_chien_luoc_tai_chinh_cho_giai_doan_khoi_su_va_tang_truong_0234.pdf