Các qui định về giao dịch dân sự nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu nói riêng có một ý nghĩa, vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý an toàn cho sự phát triển các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Thông qua việc nghiên cứu về sự đổi mới trong điều chỉnh pháp luật về hợp đồng trong BLDS năm 2005 với các phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận phù hợp thì mong rằng sẽ có những bổ sung, sửa đổi những qui định về pháp luật để phù hợp hơn với sự phát triển ngày càng nhanh của nước ta.
9 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2989 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Môn xây dựng văn bản: Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………………………...
1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ………………………………………………………...
1
1. Tính khả thi trong văn bản pháp luật ……………………………………...
1
2. Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật:………...
1
2.1. Nội dung văn bản pháp luật phù hợp với đường lối chính sách của Đảng, với lợi ích của các bên liên quan ……………………………………….
1
2.2. Nội dung văn bản phù hợp với thực trạng quy luật vận động của đời sống xã hội ………………………………………………………………………
2
2.2.1. Phù hợp với thực trạng các yếu tố thuộc cơ sở vật chất trong xã hội …..
3
2.2.2 Phù hợp với thực trạng nguồn nhân lực, đối tượng tác động của văn bản
3
2.2.3. Phù hợp với thực trạng ý thức xã hội, đặc biệt các quy phạm đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán trong xã hội …………………………………….
4
2.2.4. Phù hợp với quy luật vận động của đời sống xã hội, tác động vào những quan hệ xã hội theo đúng những khuynh hướng vận động nội tại, mang tính tất yếu của chúng ……………………………………………………
4
2.3. Nội dung văn bản pháp luật phù hợp với pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới ………………………………………………………..
5
2.4. Văn bản pháp luật phải được đảm bảo về kỹ thuật pháp lý ……………
6
2.5. Đảm bảo quá trình tổ chức thực hiện văn bản pháp luật có hiệu quả …
7
KẾT THÚC VẤN ĐỀ …………………………………………………………..
7
ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn bản pháp luật với tư cách là phương tiện quan trọng để cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mà pháp luật trao cho, chỉ phát huy giá trị tích cực khi được ban hành có chất lượng cao. Một văn bản pháp luật không bảo đảm yêu cầu về chất lượng sẽ tác động lớn tới quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể hay Nhà nước là đối tượng điều chỉnh của văn bản đó. Để hoàn thiện hơn nữa việc xây dựng văn bản pháp luật thì tìm hiểu về các tiêu chí để đảm bảo tính khả thi của văn bản là điều cần thiết.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tính khả thi trong văn bản pháp luật:
“Khả thi” theo Từ điển Tiếng Việt có nghĩa là khả năng thực hiện. Như vậy, một dự án luật có tính khả thi là một dự án luật có khả năng thực hiện trên thực tế hay nói một cách khác là những quy định của dự án luật có khả năng đi vào cuộc sống mà không chỉ dừng lại trên giấy. Việc bảo đảm tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật là một yêu cầu rất quan trọng được đặt ra trong suốt quá trình xây dựng văn bản. Theo quy định của Luật ban hành VBQPPL thì trong giai đoạn soạn thảo dự án luật, cơ quan soạn thảo phải thực hiện rất nhiều hoạt động để bảo đảm chất lượng của dự án, đồng thời cơ quan thẩm định văn bản phải tiến hành thẩm định về tính khả thi của văn bản; trong giai đoạn dự án luật được chuyển sang các Ủy ban của Quốc hội để thẩm tra thì Ủy ban chủ trì thẩm tra phải tiến hành thẩm tra về tính khả thi của văn bản. Tất cả những quy định đó của Luật ban hành VBQPPL là nhằm đảm bảo cho dự án luật sau khi được Quốc hội thông qua sẽ có tính khả thi, có khả năng phát huy hiệu quả trong cuộc sống.
Tuy nhiên, khả thi chỉ là điều kiện “cần” của một văn bản pháp luật. Để văn bản đó được thực sự đi vào cuộc sống thì phải có cả điều kiện “đủ” đó là khâu tổ chức thực hiện. Nói một cách khác, để Luật thật sự đi vào cuộc sống thì ngoài yêu cầu về chất lượng của nội dung văn bản luật (là phải bảo đảm tính khả thi, phải phù hợp với thực tiễn khách quan), cũng cần phải tiến hành tốt việc tổ chức thi hành luật. Vậy, nếu khi nói đến tính “khả thi” của luật tức là chỉ nhằm tới “khả năng” thực hiện, thì hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp một dự án luật có tính khả thi nhưng không đi vào được cuộc sống do khâu tổ chức thực hiện (không tổ chức thực hiện hoặc tổ chức thực hiện không tốt).
Do đó, tính khả thi của văn bản pháp luật được hiểu là khả năng thực hiện trên thực tế của văn bản đó. Tính khả thi là một trong những yêu cầu về nội dung, mang lại chất lượng cao cho văn bản pháp luật nói chung, vì vậy, để một văn bản có khả năng thực hiện trên thực tế và dễ đi vào cuộc sống thì cần những điều kiện cụ thể, nhất định.
2. Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật:
2.1. Nội dung văn bản pháp luật phù hợp với đường lối chính sách của Đảng, với lợi ích của các bên liên quan.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện tiên quyết bảo đảm Nhà nước Việt Nam là Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Muốn dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, tạo điều kiện thực hiện, bảo vệ quyền con người; muốn đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng trở thành hiện thực trong cuộc sống xã hội thì sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa thành pháp luật. Với tư cách là phương tiện cơ bản của Nhà nước trong quản lý, các văn bản pháp luật phải có nội dung phù hợp với đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình thể chế hóa thành pháp luật hoặc trong việc tổ chức thực hiện trên thực tế các đường lối chính sách đó, có như vậy mới đảm bảo thực hiện có hiệu quả và mới bảo vệ hữu hiệu lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp thì vấn đề lợi ích luôn luôn rất phức tạp, ở một chừng mực nào đó vẫn tồn tại những mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai tầng khác nhau và khi đó nếu nội dung của văn bản phù hợp với lợi ích của giai tầng này thì sẽ có thể bất lợi cho giai tầng khác. Vì vậy, với bản chất xã hội của mình, Nhà nước là chủ thể duy nhất đại diện hợp pháp cho toàn xã hội và Nhà nước phải có nhiệm vụ xem xét để tạo ra sự hợp lý về lợi ích của tất cả các giai tầng trong xã hội thì mới có thể tạo ra sự ổn định, tạo ra tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Trong quá trình đó, cần xác định rõ những lợi ích nào là lợi ích chung, cơ bản phải bảo vệ, không thể dung hòa; những lợi ích nào là riêng hoặc thứ yếu, có thể dung hòa. Đối với những vấn đề cơ bản như: Vai trò lãnh đạo của Đảng định hướng phát triển, nền tảng tư tưởng của xã hội, quyền sở hữu của Nhà nước, quyền tự do dân chủ của công dân thì Nhà nước phải thiết lập, bảo vệ, còn đối với lợi ích riêng của một giai tầng nào đó đối lập với lợi ích của giai tầng khác thì Nhà nước cần có biện pháp dung hòa lợi ích của những giai tầng đó. Văn bản pháp luật sẽ được tự giác thực hiện và nhờ đó sẽ có khả năng tác động cao nhất khi có nội dung phù hợp với lợi ích của những bên hữu quan; trong trường hợp ngược lại thì khó có thể tránh khỏi sự lẩn tránh thực hiện, thậm chí chống đối lại sự tác động của Nhà nước, văn bản có hiệu lực thấp và muốn được thực hiện trong thực tế thì Nhà nước phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế.
2.2. Nội dung văn bản phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội.
Sự phù hợp đó trước hết thể hiện trong tính kịp thời của văn bản pháp luật. Do các vấn đề phát sinh trong quản lý nhà nước rất đa dạng: có vấn đề đã phát sinh từ trước, đang được tác động bằng những văn bản pháp luật nhưng sự tác động chưa khoa học, kém hiệu quả (Ví dụ: Trong hoạt động Kiểm toán độc lập, Nghị định của Chính phủ về Kiểm toán độc lập mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế nhiều lần nhưng vẫn chưa toàn diện, trong khi rất nhiều lĩnh vực đã được điều chỉnh bằng luật như doanh nghiệp, đầu tư, kinh doanh bất động sản, kế toán, chứng khoán... tạo ra sự thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế, chưa tương xứng với vai trò, vị trí của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường); có vấn đề mới phát sinh mà chưa có văn bản nào tác động; có vấn đề tất yếu sẽ phát sinh và khi phát sinh cần được tác động ngay, nên việc chủ thể có thẩm quyền nắm bắt chính xác, kịp thời những vấn đề đó và ra văn bản pháp luật để giải quyết là cần thiết, là một tất yếu khách quan, đáp ứng đòi hỏi bức xúc của đời sống xã hội, kịp thời tác động tích cực vào các quan hệ xã hội (khả năng tác động cao); ngược lại, văn bản pháp luật được ban hành trên suy đoán chủ quan, duy ý chí, xa rời thực tiễn của chủ thể quản lý nhà nước thì khó có thể biến thành hiện thực (khả năng tác động thấp) vì thực tiễn không có nhu cầu được tác động bởi văn bản đó.
2.2.1. Phù hợp với thực trạng các yếu tố thuộc cơ sở vật chất trong xã hội.
Cơ sở vật chất của đời sống xã hội rất đa dạng, gồm: tài chính, nguyên liệu, vật liệu, tài nguyên, môi trường, đất đai, giao thông… là những điều kiện vật chất cần thiết cho việc thực hiện văn bản, nên nội dung văn bản phải phản ánh (trực tiếp hoặc gián tiếp) về thực trạng, phải phù hợp (không cao hoặc thấp hơn) thì mới đảm bảo tính khả thi; ngược lại, chính những yếu tố đó sẽ bị biến đổi trong những chừng mực nhất định khi có sự tác động của văn bản. Vì vậy, khi hình thành nội dung văn bản, chủ thể ban hành phải dựa trên cơ sở các điều kiện vật chất vốn có trong thực tiễn mà không thể chủ quan duy ý chí; phải chú ý tới khả năng, mang lại hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả kinh tế của chúng trong quá trình tác động, nếu không văn bản có thể rơi vào tình trạng không khả thi hoặc không có hiệu quả, thậm chí phản tác dụng và có thể gây ra những thiệt hại khó lường.
Ví dụ trong lĩnh vực đất đai, tranh chấp quyền sử dụng đất, khiếu nại hành vi hành chính, quyết định hành chính là một trong những nhóm quan hệ diễn ra thường xuyên, phức tạp, nhạy cảm, ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình an ninh, kinh tế, xã hội của mỗi địa phương. Hiện nay, Luật Đất đai năm 2003 quy định hòa giải tranh chấp đất đai là trình tự, thủ tục bắt buộc, quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp về quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về đất đai chưa chặt chẽ nên phần nào làm giảm đi tính hiệu quả của công tác này (Luật Đất đai năm 2003 không quy định biên bản hòa giải tranh chấp đất đai đó được các bên tranh chấp thống nhất có hiệu lực pháp luật hay không). Tranh chấp quyền sử dụng đất là một dạng tranh chấp đặc thù, liên quan đến các chính sách, pháp luật theo từng giai đoạn khác nhau và tính chất, đặc điểm của từng vụ việc, quan hệ tranh chấp đất đai tại các vùng miền khác nhau. Do đó, việc giải quyết phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và luôn đảm bảo tính khả thi trong thực tế. Qua nghiên cứu các vụ việc tranh chấp quyền sử dụng đất cho thấy, hầu như các căn cứ 3, 4, 5 của Điều 161 Nghị định 181/2004/NĐ-CP không được áp dụng trong quá trình giải quyết, vì nó không chứa đựng tính chất pháp lý rõ ràng và không đủ tính định lượng, để phục vụ cho việc xem xét, đánh giá khách quan, chính xác khi giải quyết các tranh chấp về đất đai. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, luôn gắn liền với chủ thể quản lý, sử dụng nhất định và cần phải tôn trọng quá trình quản lý, sử dụng.
2.2.2 Phù hợp với thực trạng nguồn nhân lực, đối tượng tác động của văn bản.
Vì con người vừa là chủ thể hình thành nên văn bản pháp luật và tổ thực hiện văn bản đó trong thực tiễn lại vừa là đối tượng quản lý chịu sự chi phối tác động của văn bản, có nghĩa vụ thi hành văn bản, nên dù với tư cách nào thì con người cũng phải thực hiện các văn bản pháp luật theo yêu cầu của Nhà nước và muốn thực hiện tốt những hoạt động đó phải có đủ về số lượng và chất lượng nhân lực; nếu thiếu điều kiện về nhân lực thì sẽ không thể kịp thời ban hành văn bản và cũng không thể hiện thực hóa các quy định trong văn bản nhưng nếu sử dụng không hết nhân lực thì sẽ gây lãng phí, làm giảm sút hiệu lực của quản lý nhà nước. Nếu chỉ tiếp cận từ góc độ hẹp, xem xét vai trò của con người trong giai đoạn thực hiện văn bản pháp luật thì cũng có thể thấy rõ: số lượng và đặc biệt là trình độ nhận thức của những đối tượng quản lý có liên quan ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện văn bản pháp luật. Vì vậy, nếu nội dung của văn bản pháp luật phù hợp với trình độ nhận thức chung, với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức và của nhân dân thì sẽ góp phần tích cực trong việc tạo ra nhận thức, tâm lý tích cực đối với văn bản, mong muốn văn bản được thực hiện, tự giác, tối đa thực hiện và có đủ khả năng, trình độ cần thiết để thực hiện văn bản, ngược lại nếu không phù hợp thì có thể dẫn tới tình trạng những bên có liên quan cố ý lẩn tránh thực hiện nghĩa vụ, hoặc không đủ năng lực cần thiết để thực hiện văn bản.
2.2.3. Phù hợp với thực trạng ý thức xã hội, đặc biệt là các quy phạm đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán trong xã hội.
Vì muốn tác động vào các đối tượng quản lý, trước hết chủ thể có thẩm quyền phải sử dụng văn bản đề tác động tới nhận thức của các đối tượng có liên quan, qua đó mới điều chỉnh hành vi của họ, trong khi đó nhận thức của các đối tượng này bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau thuộc đời sống ý thức xã hội nên giữa ý thức xã hội với nội dung của các văn bản pháp luật có mối liên hệ mật thiết, có sự tác động qua lại rất sâu sắc. Nhà nước xây dựng văn bản để tác động và có thể tạo ra sự thay đổi từng bộ phận của ý thức xã hội, nhưng về nguyên tắc vẫn phải bảo vệ, phát triển và cao hơn nữa là phải tạo ra sự phù hợp với các quy phạm đạo đức, tôn giáo, những phong tục, tập quán trong xã hội, không trái với bản chất, mục tiêu của Nhà nước. Nếu tác động trái với các yếu tố khách quan của đời sống ý thức xã hội thì sẽ đẩy các bên có liên quan vào tình trạng phải cân nhắc, lựa chọn giữa pháp luật với các quy phạm khác khi thực hiện hành vi trong thực tiễn và khi các quy phạm khác được lựa chọn, pháp luật bị xâm hại hoặc khi Nhà nước tổ chức thực hiện triệt để các quy định không phù hợp thì tất yếu sẽ làm thay đổi, thậm chí loại bỏ một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có thể tạo ra những xáo trộn trong nhận thức, tình cảm của đối tượng quản lý theo khuynh hướng mà Nhà nước không dự kiến và cũng không mong muốn. Do đó, khi xác lập nội dụng văn bản pháp luật cần đặc biệt chú ý tới các yếu tố thuộc phạm trú ý thức xã hội để tạo ra sự phù hợp của nội dung văn bản pháp luật với những yếu tố đó thì mới bảo đảm được hiệu lực, hiệu quả tác động của văn bản.
2.2.4. Phù hợp với quy luật vận động của đời sống xã hội, tác động vào những quan hệ xã hội theo đúng những khuynh hướng vận động nội tại, mang tính tất yếu của chúng.
Nếu nội dung văn bản pháp luật phù hợp với những quy luật đó thì khả năng tác động của nó rất cao, chủ thể quản lý sẽ đạt được mục đích đã đặt ra. Ngược lại, khi nội dung văn bản không phù hợp quy luật thì văn bản có rất ít, thậm chí hoàn toàn không có khả năng tác động vào các quan hệ xã hội, văn bản trở nên vô nghĩa, không có tác dụng trên thực tế và nếu Nhà nước dùng sức mạnh cưỡng chế để tổ chức thực hiện những văn bản này thì có thể gây ra những hậu quả khó lường, vì vậy cần phát hiện để vận dụng các quy luật này vào việc hình thành nội dung văn bản, trên cơ sở các nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác – Lênin.
Với sự vận động không ngừng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, bổ sung thêm những loại hình kinh doanh mới (công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và quy định về nhóm công ty. Tuy nhiên, sau bốn năm ra đời, tình trạng “loạn hướng dẫn” ngay trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước đã khiến cho Luật Doanh nghiệp bị kêu ca, than phiền triền miên. Và cũng chỉ mới thực hiện được gần 2 năm thì Nghị định 139/2007/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật này cũng rơi vào tình trạng tương tự (nó vi phạm quyền tự do kinh doanh quá lớn). Vì vậy, chúng ta phải tập hợp các góp ý để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn Nghị định 139 trong thời gian tới.
2.3. Nội dung văn bản pháp luật phù hợp với pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế và mở rộng giao lưu hợp tác nhiều mặt với các nước, các tổ chức quốc tế như hiện nay, sự phù hợp này là cần thiết, đặc biệt là đối với những quy định về quản lý kinh tế, tuy nhiên cũng cần xác định rõ vấn đề nào có thể tiếp thu có thể chọn lọc để nội luật hóa, những vấn đề nào mang tính nguyên tác bất di bất dịch, không thể tiếp thu “nội hóa”, có như vậy mới có thể vừa tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, mở rộng quan hệ nhiều mặt với các nước vừa giữ vững lập trường, không bị chệch hướng phát triển đã lựa chọn và không làm mất bản sắc dân tộc.
Ví dụ trong Thông tư 40/2009/TT-BXD của Bộ Xây dựng ban hành ngày 9/12/2009 quy định về việc áp dụng tiêu chuẩn xây dựng của nước ngoài trong hoạt động xây dựng ở Việt Nam. Theo đó, tiêu chuẩn xây dựng nước ngoài được áp dụng trong hoạt động xây dựng theo nguyên tắc tự nguyện. Tiêu chuẩn xây dựng nước ngoài cũng phải phù hợp với các yêu cầu của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh xây dựng và các lĩnh vực khác có liên quan. Trong trường hợp chưa có Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, các tiêu chuẩn xây dựng nước ngoài phải phù hợp với yêu cầu được nêu trong các Tiêu chuẩn quốc gia bắt buộc áp dụng do các Bộ, ngành quy định. Điều kiện áp dụng tiêu chuẩn xây dựng nước ngoài được lựa chọn và áp dụng trong các hoạt động xây dựng ở Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện như: Phải là các tiêu chuẩn xây dựng của các quốc gia, các tổ chức quốc tế và tổ chức tiêu chuẩn khu vực và phải được người quyết định đầu tư xem xét, lựa chọn và chấp thuận trước khi lập hồ sơ thiết kế cơ sở trong dự án đầu tư xây dựng công trình. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn xây dựng nước ngoài đó phải đảm bảo tính đồng bộ, khả thi trong quá trình xây dựng và phải sử dụng các số liệu, dữ liệu đầu vào có liên quan đến điều kiện đặc thù của Việt Nam. Riêng các công trình xây dựng sử dụng vốn ngân sách Nhà nước bắt buộc phải áp dụng tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam, trường hợp đặc biệt áp dụng tiêu chuẩn xây dựng nước ngoài phải được các cơ quan chức năng chấp thuận.
Trong qui định tại khoản 2 Điều 9 dự thảo Luật Công đoàn hiện nay về việc áp dụng điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác với qui định này thì áp dụng theo qui định của điều ước quốc tế đó. Việt Nam là thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO. Hiện tại, Việt Nam chưa phê chuẩn Công ước 87 về quyền tự do hiệp hội, nếu áp dụng theo Công ước thì sẽ dẫn đến tình trạng đa công đoàn. Nên vấn đề này cần được xem xét lại.
2.4. Văn bản pháp luật phải được đảm bảo về kỹ thuật pháp lý:
Đây là những hoạt động đảm bảo mang tính kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn trong quá trình soạn thảo văn bản.
Trong các yếu tố thuộc kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật thì việc sử dụng ngôn ngữ có tác động trực tiếp và khá sâu sắc tới tính khả thi của văn bản. Vì ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt ý chí của cơ quan ban hành văn bản nên sự thể hiện ý chí đó có được rõ ràng, chặt chẽ, chính xác hay không là phụ thuộc vào kỹ năng của người soạn thảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. Văn bản được coi là có kỹ thuật pháp lý bảo đảm khi đáp ứng được những yêu cầu ngôn ngữ sau:
- Ngôn ngữ trong văn bản là ngôn ngữ viết: Từ sử dụng trong văn bản phải được lựa chọn kỹ càng, chính xác, câu đủ thành phần ngữ pháp; các giai đoạn phải được liên kết, sắp xếp logic, chặt chẽ tạo sự hoàn chỉnh về nội dung và hình thức của văn bản.
- Ngôn ngữ là ngôn ngữ Tiếng Việt, đây là yêu cầu bắt buộc đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý hơn so với ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số.
- Ngôn ngữ được Nhà nước sử dụng. Ngôn ngữ trong văn bản là ngôn ngữ Tiếng Việt nhưng có sự chuẩn mực cao hơn Tiếng Việt thông dụng thể hiện qua bốn yêu cầu: đảm bảo tính nghiêm túc, chính xác, phổ biến và thống nhất.
Ví dụ, trong Quyết định số 64/QĐ-UBND của UBND TP.Hồ Chí Minh, ban hành ngày 31/7/2009 "Về phê duyệt quy hoạch kinh doanh nông sản, thực phẩm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh" có sử dụng cụm từ “cửa hàng văn minh tiện lợi”, gây ra nhiều tranh cãi. Cục Kiểm tra VBQPPL đã có Công văn số 102/KtrVB gửi UBND TP.HCM, đề nghị "sớm tổ chức thực hiện việc tự kiểm tra, xử lý đối với những nội dung chưa rừ ràng, thiếu tính khả thi". Theo Công văn 102 của Cục Kiểm tra VBQPPL, hiện nay khái niệm và tiêu chí đối với "cửa hàng văn minh tiện lợi" chưa được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật hiện hành nào. Chính vì vậy, việc đưa ra một khái niệm chưa được pháp luật quy định và không được giải thích trong Quyết định 64 sẽ dẫn đến tình trạng không thống nhất trong cách hiểu về khái niệm này, từ đó dẫn đến việc thực hiện quy định này gặp khó khăn, không thống nhất và ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của các chủ thể đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Đặc biệt là các chủ thể (hộ gia đình, cá nhân kinh doanh) đã có giấy phép hoặc đủ các điều kiện kinh doanh và các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm để kinh doanh các mặt hàng này nhưng hiện tại không kinh doanh tại các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại như quy định tại Quyết định số 64/NĐ-UBND.
Bên cạnh đó, việc phân chia sắp xếp văn bản thành những đề mục nhỏ hơn, cho phù hợp với việc đánh số đặt tên, đặt nhan đề cho các đề mục đó; việc xác lập cơ cấu hình thức của văn bản cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới logic, sự hoàn thiện của văn bản, ảnh hưởng tới tâm lý, tình cảm của đối tượng quản lý và vì vậy cũng gián tiếp ảnh hưởng tới hiệu lực thực tế của văn bản pháp luật. Ta có thể lựa chọn ba phương pháp trình bày: đi từ vấn đề khái quát đến cụ thể; từ nội dung quan trọng đến ít quan trọng hoặc theo trình tự diễn biến vấn đề.
2.5. Đảm bảo quá trình tổ chức thực hiện văn bản pháp luật có hiệu quả:
Đây là một yêu cầu quan trọng để một văn bản pháp luật, đặc biệt là VBQPPL có khả năng được thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
Trước hết là việc thực hiện pháp luật: Công tác tuyên tuyền, phổ biến pháp luật là khâu quan trọng đầu tiên, không thể thiếu của quá trình thực hiện pháp luật. Sau khi văn bản pháp luật ban hành nêu không được tuyên truyền, phổ biến tới cán bộ và nhân dân để nắm được nội dung, tinh thần các quy định pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật thì pháp luật khó đi vào cuộc sống dù quy định của pháp luật có tốt đẹp tới đâu. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật là cầu nối để truyền tải pháp luật vào cuộc sống, là mắt xích quan trọng của sự tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật mang tính bề nổi thì công tác giáo dục pháp luật mang tính bề sâu, nhằm trang bị cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là cán bộ công chức nhà nước tri thức pháp luật, biết sử dụng pháp luật vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và xã hội. Như vậy, cả ba hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đều là những yếu tố quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật trên thực tế.
Điều kiện để thực hiện pháp luật tốt là sự nhận thức một cách thống nhất trong Bộ máy Nhà nước và toàn xã hội. Do đó, cần giải thích pháp luật để nhân dân nói chung, cán bộ nhà nước nói riêng nhân thức pháp luật một cáh tchống nhất, từ đó thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả. Hoạt động giải thích pháp luật phải được tiến hành thường xuyên trong suốt quá trình xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật.
Việc thực hiện pháp luật không chỉ có phổ biến, tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật mà còn phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; xử lí kịp thời nghiêm minh và nhanh chóng mọi hành vi vi phạm pháp luật. Cần kết hợp việc kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước và đặc biệt là của nhân dân với việc thực hiện pháp luật. Phát huy hơn nữa vai trò giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động cơ quan bảo vệ pháp luật. Đồng thời huy động sức mạnh toàn dân trong cuộc đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Có thể nói việc đáp ứng các điều kiện trên đối với một văn bản pháp luật là đòi hỏi tất yếu để văn bản được thực hiện trên thực tế, đảm bảo chất lượng văn bản pháp luật nói chung.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Văn bản có tính khả thi cao khi các quy định của văn bản không chỉ có tính cưỡng chế với người dân mà người dân cũng phải thấy rằng sự cưỡng chế đó là hợp lý, “hợp lòng dân” và vì lợi ích chung mà pháp luật cần có để tạo ra các chuẩn mực chung áp dụng cho mọi người. Các quy định “hợp lòng dân” là các quy định mà đa số người dân thấy hợp lý, không phải là chỉ phục vụ cho một nhóm lợi ích nhất định. Do đó muốn có các quy định có tính khả thi cao, người soạn thảo cần có bước tiến hành đánh giá, nghiên cứu về thực tế cuộc sống và cần phải có ước tính các điều kiện để bảo đảm tính khả thi của từng quy định. Có thể nói, các điều kiện này được đảm bảo, được xem xét kĩ lưỡng sẽ là cơ sở nhất định cho văn bản ban hành có tính khả thi cao và chất lượng tốt.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật xây dựng văn bản pháp luật, Nxb. CAND, HÀ Nội,2008.
2. Học viện Hành Chính - Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Giáo trình kĩ thuật xây dựng và soạn thảo văn bản quản lý nhà nước.
3. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
4. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân năm 2004.
5. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam Hiện nay. Luận văn thạc sĩ luật học 2003, Đoàn Thị Tố Uyên.
6. Trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
7. Một số trang web:
http:// www.chinhphi.vn
http:// www.congbao.gov.vn
http:// www.thongtinphapluat.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bt học kì môn xây dựng văn bản về Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật.docx